Chính quyền địa phương ở Việt Nam có vai trò hai mặt. Một mặt, với tư cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên lãnh thổ địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân địa phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2850 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được thành lập ra để làm gì, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC THÀNH LẬP RA ĐỂ LÀM GÌ
Nhà nước không nên tập trung tất cả quyền lực của mình vào tay Chính phủ trung ương . Bởi lẽ, nhà nước thực hiện quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng an ninh…Có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm và đưa ra những giải pháp phù hợp để thực hiện song không phải bất cứ vấn đề nào Chính phủ trung ương cũng có đủ khả năng và điều kiện thực tiễn để giải quyết. Các nhà quản lý trung ương không thể trực tiếp chỉ huy trọn vẹn các công việc nhà nước trên phạm vi toàn lãnh thổ; vì thế không thỏa mãn được những nhu cầu của nhân dân cũng như việc thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước. Do đó, cần có đại diện của chính quyền trung ương trên địa bàn lãnh thổ đó thay mặt cho nhà nước quản lý trong phạm vi địa phương mình. Vì vậy sự cần thiết phải thành lập cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là một tất yếu khách quan.
KHÁI QUÁT CHUNG
Một số khái niệm cơ bản
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực, trên các đơn vị hành chính lãnh thổ nhất định theo quy định của pháp luật.
Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là một bộ phận của bộ máy nhà nước, có chức năng quản lý hành chính trong đơn vị lãnh thổ là địa phương mình theo quy định pháp luật.
Khái niệm chính quyền địa phương là khái niệm phái sinh từ khái niệm hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Khái niệm này được sử dụng khá phổ biến trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nước. Là một khái niệm được sử dụng nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống thực tế xã hội, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối quan hệ và cơ chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành. Xuất phát từ góc độ nghiên cứu lý luận, từ góc độ thực tiễn hay cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà thực tiễn và quản lý tập trung vào 3 quan niệm như sau:
Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đóng trên địa bàn địa phương.
Chính quyền địa phương gồm hai phân hệ cơ quan – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân).
Chính quyền địa phương bao gồm 4 phân hệ cơ quan tương ứng với 4 phân hệ cơ quan nhà nước tối cao ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân các cấp) và cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân các cấp).
Trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, khái niệm chính quyền địa phương được sử dụng để chỉ tổ chức và hoạt động của hai cơ quan là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) ngày 18 tháng 6 năm 1997 tại phần III, mục 4 về tiếp tục cải cách hành chính nhà nước đối với chính quyền địa phương chỉ đề cập tới việc kiện toàn củng cố Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp và hướng cải cách tổ chức và hoạt động của hai cơ quan này mà không đề cập tới các cơ quan nhà nước khác trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở 3 cấp tương ứng đối với các đơn vị hành chính sau đây:
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh).
Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện).
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Chính quyền địa phương một đơn vị hành chính lãnh thổ có đủ ba yếu tố:
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra.
UBND do HĐND bầu ra và là cơ quan chấp hành của HĐND.
Có ngân sách địa phương.
Cơ sở hình thành chính quyền địa phương
Việc quản lý ở địa phương đã từ xa xưa nhà nước nào cũng phải tiến hành. Bởi một lẽ thông thường rằng, không một chính phủ của một là nước nào chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình ở một chỗ, nơi toạ ngự của các cơ quan Nhà nước trung ương. Vì vậy bất cứ chế độ chính trị nào cũng phải lo việc quản lý địa phương. Đây không phải là vấn đề dễ giải quyết vì biên giới thích hợp cho một hoạt động này thì lại ít khi đồng nhất, lại thích hợp cho một loại hoạt động khác. Một thị trấn lớn được cung cấp nước từ chỗ này, nhưng lại được thoát nước lại từ ở những chỗ kia. Hệ thống giao thông nối liền các vùng trong một thị xã với nhau và với các vùng phụ cận theo một kế hoạch, hoàn toàn khác với các vùng phục vụ cho việc giáo dục và đào tạo, cũng như các vùng phòng và chống tội phạm.
Nếu mỗi chức năng của chính quyền xét về phương diện địa dư được phóng chiếu trên một tấm bản đồ tương ứng với những những nhu cầu riêng của chức năng đó, và đặt chúng chồng lên nhau, thì sẽ cho chúng ta một kết quả, không một cái nào chồng khít lên một cái nào cả.
Vì vậy ta hiểu rằng địa phương là yếu tố cấu thành lên nhà nước , chính quyền địa phương là đơn vị cấu thành lên nhà nước . Đồng thời để thực hiện các hoạt động quản lý của mình nhà nước tiến hành phân chia thành các địa phương để thực hiện hoặc là giúp để thực hiện tốt công tác quản lý của nhà nước. Trong lịch sử tư tưởng – chính trị của thế giới và mỗi quốc gia đã có nhiều bàn luận về công việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước . việc tổ chức bộ máy nhà nước không những được diễn ra ở cấp trung ương mà còn ở các cấp độ địa phương. Do vậy sự ra đời của cơ quan hành chính địa phương mang tính chất khách quan. Đó là sự đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển quốc gia. Nhà nước có nhiều vấn đề cần quan tâm, chú ý. Nhiều vấn đề địa phương chính phủ trung ương không có điều kiện thực tiễn để giải quyết.
Trước hết, trong thực tế, các nhà chức trách hành chính trung ương không thể nào trực tiếp chỉ huy trọn vẹn tất cả các công việc nhà nước trên phạm vi toàn lãnh thổ được, vì thế,cần có đại diện của chính quyền trung ương tại địa bàn lãnh thổ đó.
Hai là , việc thành lập chính quyền địa phương ở trung ương không thể đủ sức để cáng đáng hết cả thay các công việc trong cả một quốc gia, không thể quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó thành lập nên chính quyền địa phương cũng là để giảm gánh nặng cho chính quyền trung ương, giảm bớt các công việc cho chính quyền trung ương để họ tập trung vào những vấn đề vĩ mô của quốc gia.
Ba là, mỗi một địa phương đều có những đặc điểm riêng về địa lý, về kinh tế , xã hội, về truyền thống văn hóa, phong tục tập quán…. Vì thế chính quyền trung ương không thể nào hiểu và thỏa mãn được đầy đủ các nhu cầu của từng địa phương được. để gần dân hơn, tìm hiểu và thỏa mãn tốt nhu cầu của dân cũng như thực hiện tốt hơn chức năng quản lý nhà nước, cần phải có chính quyền thay mặt nhà nước ở địa phương.
Thứ tư, thành lập chính quyền địa phương còn là công cụ để thực hiện và triển khai các quyết định của cơ quan QLHCNN ở Trung ương.
Mặt khác thành lập chính quyền địa phương còn là tạo điều kiện để địa phương tự bảo vệ quyền lợi của mình, tôn trọng các địa điểm đặc thù của từng địa phương.
Lịch sử hình thành và phát triển của CQĐP ở nước ta có thể phân thành 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn có những nét đặc thù riêng:
Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1960. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình xây dựng chính quyền sau khi nước ta giành độc lập. Trong giai đoạn này, đã có sự phân biệt tương đối rạch ròi giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị; cấp huyện là cấp trung gian, không có HĐND; vai trò của UBHC được đề cao, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ.
Giai đoạn thứ hai: Từ 1960 đến 1980, là giai đoạn có khá nhiều nét đặc biệt trong tổ chức và hoạt động của CQĐP để bảo đảm song song hai nhiệm vụ: vừa xây dựng kinh tế, xây dựng nhà nước XHCN ở miền Bắc, vừa thực hiện công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Tổ chức và hoạt động của chính quyền thể hiện rõ nguyên tắc tập quyền XHCN; pháp luật đề cao vai trò của HĐND; cơ cấu tổ chức có xu hướng tăng mạnh so với trước đây; không có sự phân biệt chính quyền đô thị và nông thôn, nhưng ở các khu vực miền núi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống được thành lập các khu tự trị.
Giai đoạn thứ ba: Từ 1980 đến 1992, là giai đoạn tiến hành xây dựng CNXH trong cả nước. Đặc trưng của giai đoạn này là việc tổ chức và hoạt động của CQĐP theo mô hình của Liên xô (cũ); chỉ các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra mới được thừa nhận là cơ quan quyền lực nhà nước; triệt để tuân thủ nguyên tắc tập quyền XHCN; tổ chức chính quyền ở các cấp cơ bản giống nhau... Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên CQĐP giai đoạn này không được phát huy, dân chủ trở nên hình thức. Tổ chức và hoạt động của CQĐP đều rập khuôn theo chính Quyền trung ương.
Giai đoạn thứ tư: Từ 1992 đến nay. Với sự nhận thức mới bộ máy nhà nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN nên các cấp CQĐP đã chủ động, sáng tạo hơn, phát huy dân chủ nhiều hơn trong tổ chức và hoạt động. HĐND các cấp có Thường trực, các ban chuyên môn và bước đầu có sự khác biệt về thẩm quyền giữa các cấp chính quyền ở địa phương. Tuy nhiên, việc phân cấp vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để; không có sự phân biệt giữa chính quyền ở đô thị và nông thôn…
Như vậy, qua các giai đoạn phát triển, mô hình tổ chức và hoạt động của CQĐP ở nước ta mang những đặc trưng riêng.
Thực tiễn cũng đã chỉ ra được những điểm hợp lý, những bài học kinh nghiệm rất có giá trị cho quá trình nghiên cứu, xây dựng một mô hình tổ chức CQĐP hoạt động có hiệu lực, hiệu quả trong thời gian tới.
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH Ở ĐỊA PHƯƠNG.
Thế giới
Trong lịch sử tư tưởng chính trị của thế giới chính quyền địa phương có vị trí như sau:
So với bộ máy chính quyền trung ương ,bộ máy chính quyền địa phương không những chiếm tỷ trọng rất lớn cả về con người lẫn việc thu tri ngân khố nhà nước, chính quyền địa phương bao giờ cũng sát nhân dân hơn có điêu kiện phục vụ trưc tiếp nhân dân một cách tốt hơn.
VAI TRÒ :
- Tao điều kiện để nhân dân địa phương tự quyết những vẫn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương.
- Giảm bơt gánh nặng của chính quyền trung ương,tạo điều kiện để chính quyền trung ương tập trung sức lưc và thời gian vào giải quyết những công việc vĩ mô.
- Để tôn trong quyền lơi của địa phương trong các chính sách quết định của nhà nước .
CHỨC NĂNG:
Đó là những chức trách và nhiệm vụ mà chính quyền địa phương đảm nhiệm trong phạm vi do hiến pháp và pháp luật quy định theo nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội.
Chức năng chủ yếu của chính quyền địa phương là các vẫn đề có tính chất đáp ứng các nhu cầu nội bộ và cộng đồng dân cư như:giáo dục ,văn hóa y tế ,an ninh trật tự khu dân cư ,an toàn xã hội với mục đích nâng cao chất lượng đời sống cư dân địa phương về mọi mặt.
Nhìn chung chức năng chính quyền địa phương ở các quốc gia trên thế giới đều tập chung ở ba mảng chức năng lớn:y tế và an toàn xã hội chức năng phúc lợi xã hội và chức năng bảo vệ. Tùy thuộc vào thể chế của mỗi quốc gia mà quy định cho chính quyền địa phương cụ thể như sau:
Chấp hành hiến pháp ,luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
Quyết định những chính sách và biện pháp nhằm xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ,an ninh quốc phòng ở địa phương trong phạm vi thẩm quyền.
Tổ chức thực hiện và quản lý những nhiệm vụ về xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ,y tế văn hóa giáo dục ở địa phương đảm bảo ổn định và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương .
Giữ gìn trật tự, ổn dịnh về an ninh,chính trị trật tự an toàn xã hội.
Đảm bảo về an ninh và quốc phòng ở địa phương .
Quản lý về địa giới về đơn vị hành chính lãnh thổ
Quản lý và tổ chức thực hiện việc cung cấp các dịch vụ công cộng phục vụ cho nhu cầu và quyền lợi hợp pháp của nhân dân địa phương.
Việt nam
Chính quyền địa phương ở Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước và mang tính thống nhất. Cơ cấu tổ chức của nó gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập trên cơ sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật (Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Bầu cử... ) nhằm quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tại địa phương trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở sự kết hợp hài hoà lợi ích của nhân dân địa phương với lợi ích của nhà nước.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phan công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp và tự pháp.
Chính quyền địa phương được thành lập đặt dưới sự lãnh đạo và phục tùng tuyệt đối của chính quyền trung ương. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương dựa trên cơ sở pháp luật được phân cấp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Chính quyền địa phương ở nước ta được tổ chức thành ba cấp:
Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh.
Cấp xã, phường, thị trấn.
Ở mổi cấp đều có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong đó:
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Căn cứ vào hiếp pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên hội đồng nhân dân ra nghị quyết về:
Các biện pháp bảo đảm thi hành hiếp pháp và pháp luật ở địa phương.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách.
Các biện pháp ổn định và nân cao đời sống của nhân dân
Hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó cho, làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước.
Quốc phòng an ninh ở địa phương.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương của nước ta bao gồm: UBND ở ba cấp và các cơ quan chuyên môn của UBND.
UBND ở mỗi cấp do HĐND bầu ra, là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân.
Hiện nay, tính đến ngày 15/6/2011 cả nước có 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, 698 đơn vị hành chính cấp huyện và 11.112 đơn vị hành chính cấp xã.
Như vậy, trước hết chính quyền địa phương của nước ta là một bộ phận hợp thành, gắn bó hữu cơ của chính quyền Nhà nước thống nhất, là hình thức pháp lý thông qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương.
Hai là không phải mọi cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động ở địa phương, giải quyết các vấn đề phát sinh ở địa phương đều nằm trong cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương.
Ba là, các cơ quan chính quyền địa phương về nguyên tắc phải do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, hoặc được thành lập trên cơ sở của các cơ quan đại diện của nhân dân ở địa phương theo qui định của pháp luật.
MỤC ĐÍCH THÀNH LẬP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thành lập các cơ quan nhà nước ở địa phương nhằm mục đích:
Để triển khai thực hiện các quyết định của các CQNN ở trung ương.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên lãnh thổ địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam.
Thực tế là trung ương và cấp trên không thể nắm, không thể quản được địa phương. Còn địa phương và cấp dưới cũng không có được quyền chủ động, phát huy sự sáng tạo, năng động trong việc giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc của mình nên phải "xé rào" như một số địa phương đã làm trong thời gian vừa qua. Cần nghiên cứu để giải quyết triệt để vấn đề này.
Tạo điều kiện để nhân dân địa phương tự quyết những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương
Chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân địa phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Giảm bớt gánh nặng của chính quyền trung ương tạo điều kiện để chính quyền trung ương tập trung sức lực và thời gian và giải quyết những công việc vĩ mô.
Phạm vi, đối tượng bảo đảm quyền công dân của chính quyền địa phương rất rộng so với các cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa phương do có những công dân cả đời không có quan hệ gì với các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhưng để thực hiện quyền của mình (chứng thực, công chứng; đăng ký, thị thực v.v…) thì lại phải thực hiện tại các cơ quan hành chính địa phương thông qua các hoạt động ban hành văn bản áp dụng và tổ chức thực
Hiện trên thực tế.
Để tôn trọng quyền lợi của địa phương trong các chính sách quyết định của nhà nước.
Mục đích hoạt động của chính quyền địa phương là nhằm tạo ra những điều kiện tiên quyết để quyền công dân được thực hiện và thực hiện có hiệu quả, còn mục đích hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật là nhằm bảo vệ và khôi phục lại các quyền công dân khi có tranh chấp hoặc đã bị xâm hại. Do đó, xác định vai trò, vị trí của các cơ quan chính quyền địa phương, là nhằm bảo đảm cho các thiết chế này thực hiện đúng phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm, mà trước hết là trách nhiệm trong việc quyết định và giải quyết các công việc ở địa phương, bảo đảm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ sở tiền đề vật chất cho việc thực hiện quyền công dân ở địa phương.
Quá trình phát triển công nghiệp hoá gắn với đô thị hoá hiện nay đòi hỏi quản lý địa phương phải có sự thay đổi nhất định khi mà thị trấn, thị xã, thành phố ngày càng giữ vai quan trọng về cơ sở hành chính lẫn tiềm năng kinh tế, văn hoá- xã hội (nhất là các nước có nền kinh tế chuyển đổi), còn nông thôn đang dần trở thành những tổ hợp về kinh tế công nông nghiệp và dịch vụ.
Thực tế, theo Hiến pháp, pháp luật của nhà nước và dựa trên nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đặc thù của mỗi quốc gia qua các thời kỳ mà chính quyền địa phương ở các quốc gia có sự khác biệt. Tuy nhiên, tựu chung lại dù có hình thành, phát triển theo mô hình nào, cơ cấu tổ chức ra sao, hoạt động như thế nào thì chính quyền địa phương cũng vẫn phải hoàn thành một cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và quản lý đất nước, phát triển các nguồn lực quốc gia tại địa phương đồng thời cải thiện môi trường, đảm bảo công bằng và ổn định xã hội, hoàn thành trách nhiệm mà nhà nước và nhân dân đã giao phó.
ĐÁNH GIÁ
Như vậy việc thành lập cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm:
Một mặt nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước.
mặt khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của chính quyền trung ương, tăng cường kỷ luật, kỷ cương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở từng địa phương phát triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương trong một nhà nước thống nhất.
Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những cơ hội tốt hơn để người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước các cấp.
Tăng cường hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ công cho nhân dân thông qua việc ủy quyền cho chính quyền địa phương thực thi chức năng cung cấp dịch vụ công, từ đó hạn chế sự quan liêu và trì trệ của các cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan trung ương.
Tạo điều kiện để nâng cao chất lượng của những dịch vụ công được cung cấp cho người dân dựa trên trách nhiệm giải trình và sự nhạy cảm trong việc nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của dân chúng của chính quyền địa phương.
Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu chính xác điều kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư… của chính quyền địa phương, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có những chính sách đúng đắn cho việc phát triển đó, phát huy được thế mạnh của mỗi địa phương.
Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực giải quyết các công việc của các cơ quan chính quyền địa phương.
Cho phép đại điện đa dạng hơn về chính trị và sự tham gia của các nhóm lợi ích như văn hóa, chính trị, tôn giáo, sắc tộc khác nhau… vào quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước liên quan đến các vấn đề của mỗi địa phương.
Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia thông qua việc cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và hiệu quả hơn các chương trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền nhà nước ở địa phương thuộc các cấp khác nhau.
Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội… mới nảy sinh, từ đó có được những chương trình, hoạt động quản lý nhà nước có tính sáng tạo hơn đối với mỗi địa phương.
Chính quyền địa phương ở Việt Nam có vai trò hai mặt. Một mặt, với tư cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính quyền địa phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ quản lý trên lãnh thổ địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do nhân dân địa phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên..
Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
C. KẾT LUẬN
Như vậy từ những đánh giá trên đây ta có thể thấy việc thành lập chính quyền địa phương là điều tất yếu ngay từ thời kỳ phong kiến chính quyền địa phương đã được thành lập để nhằm phục vụ cho chính quyền triều đình.
Ngày nay chính quyền ĐP được lập ra để thay mặt nhà nước quản lý địa phương trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội tại những địa phương đó, kiểm soát hoạt động của địa phương, triển khai các kế hoạch, chính sách của đảng và nhà nước, bảo đảm an ninh quốc phòng tại địa phương đó trực tiếp nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_quan_hanh_chinh_nha_nuoc_o_dia_phuong_thanh_lap_de_lam_gi_4439.doc