Cơ sở lý luận cho việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài

I. Cơ sở lý luận cho việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài. 1. Khái niệm và bản chất công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài. 2. Khái niệm bản án, quyết định của tòa án nước ngoài theo pháp luật VN. 3.Sự cần thiết của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. 4. Cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. II. Thực trạng của việc công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. III. Giải pháp

doc18 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3084 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận cho việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định của tòa án nước ngoài cho thấy bản chất của của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài là việc Nhà nước thừa nhận hiệu lực pháp lý của bản án, quyết định của tòa án nước ngoài trên lãnh thổ của quốc gia mình, thừa nhận sự phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên đương sự trong bản án, quyết định này giống như bản án, quyết định của của toàn án nước mình tuyên. Công nhận và cho thi hành bản án quyết định của tòa án nước ngoài là một giai đoạn của tố tụng dân sự quốc tế. Bởi trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bên cạnh việc giải quyết các tranh chấp dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường và đưa ra bản án quyết định dân sự hợp pháp, thì cần có hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài nữa. Do đó, việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài chính là giai đoạn được tiếp nối của tố tụng dân sự thông thường 2. Khái niệm bản án, quyết định của tòa án nước ngoài theo pháp luật VN. Về khái niệm bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, điều 1 PL công nhạn và thi hành tại VN bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài quy định:.. Theo khoản 1 điều 342 BL TTDS năm 2004, bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của tòa án nước ngoài và bản án quyết định khác của tòa án nước ngoài mà theo pháp luật VN nó đc coi là bản án quyết định dân sự. Theo 2 khái niệm trên ta có thể xác định được đối tượng, phạm vi của việc công nhận và cho thi hành tại việt nam các bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài bao gồm các bản án, quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án quyết định hình sự, hành chính và cuối cùng là bản án khác do pháp luật quy định. 3.Sự cần thiết của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Xét về bản chất một bản án, Một mặt, nó là phán quyết của cơ quan công quyền nên mang tính chất công (public); mặt khác, nó nhằm giảI quyết quyền lợi giữa các bên đương sự, vì vậy mang tính chất tư (private). CHính Vì bản án là phán quyết của cơ quan công quyền nên chỉ có hiệu lực pháp lý trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Nguyên tắc chủ quyền quốc gia không cho phép một bản án của Toà án nước ngoài có hiệu lực trực tiếp trên quốc gia mình. Ngoài ra, các quốc gia cũng e dè về tính công minh; về cơ sở quyền tài phán, thủ tục tố tụng và cách thức Toà án nước ngoài xét xử vụ việc. Bên cạnh đó tính chất tư của Bản án nhằm giải quyết quyền lợi của các bên đương sự do đó nó đòi hỏi việc công nhận và thi hành tại một quốc gia khác. Hơn nữa, việc công nhận tránh được việc xét xử trùng lắp (cùng một sự việc, giữa cùng các đương sự) giữa các Toà án , giảm tốn kém cho việc xét xử và tránh xảy ra việc tranh chấp không có hồi kết thúc. Trong sự hợp tác quốc tế mở rộng giữa Việt Nam và thế giới hiện nay, sự công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại VN trg những đkiện phù hợp là hết sức cần thiết và có ý nghĩa kte, chính trị và pháp lý rất quan trọng. Có thể thấy điều này qua một số phân tích sau: + Trước tiên nếu không thực hiện công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài thì có nguy cơ lợi ích chính đáng của các bên không được bảo vệ, những hành vi vi phạm pháp luật không làm phát sinh hậu quả bất lợi cho các chủ thể thực hiện hành vi đó. Sự bất an toàn về pháp lý này sẽ kìm hãm các quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài phát triển. Bên cạnh đó việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài còn góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng tự nguyện giữa các cá nhân và pháp nhân của các quốc gia. + Trong khi đó việc Công nhân thi hành bản án nước ngoài sẽ bảo vệ lợi ích của bên thắng kiện dựa trên cơ sở sự công bằng cho bên thắng kiện, bởi vì sẽ thật bất công khi buộc bên thẳng kiện phải khởi đầu lại quá trình xét xử vụ việc đó lần nữa mà lần này có thể sẽ khó khăn khi họ phải taaph hợp tại vaath chứng, nhân chứng mà đôi khi ko thể tâp hợp lại đc. Công nhận …còn tạo ra môi trg pháp lý ổn định và dự đoán đc, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế. Bởi Sự phát triển của của thương mại quốc tế luôn đi kèm với tranh chấp tuhwong mại gia tăng. Các nhà kinh doanh đều chỉ quan tâm deens sự an toàn và dự đoán đc trg các giao dịch thương mại quốc tế. các quốc gia có thể nhận thức rằng nếu họ muốn xúc tiến thương mại quốc tế họ cần đáp ưng mong đợi này của nhà kinh doanh. +… cũng Sẽ hạn chế chi phí tư pháp của quốc gia được yêu cầu công nhận và chi phí của các bên tranh chấp. Bởi nếu 1 bản án nước ngoài ko đc công nhận vụ việc sẽ phải xem xét lại, điều này gây tốn kém và thêm công việc cho tòa án của nc đc yêu cầu công nhân, tốn kém cho các bên tranh chấp và hây trì hoãn việc kết thúc vụ tranh chấp. + Việc công nhận còn Giúp tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp. Bởi việc…sẽ tránh đc tình huống khi luật của của quốc gia A dẫn chiếu đến quyền tài phá của quốc gia B nhưng sau đó quốc gia A lại từ chối việc công nhận và cho thi hành bản án đó cuả toàn án nc ngaoi vì thiếu cơ sở pháp lý vì dụ như ko có DƯQT mà luật quốc gia cũng ko quy định. - Còn xét trên phương diện chính trị, việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài có ý nghĩa quan trọng, nó sẽ thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác và xây dựng giữa nước ta với các quốc gia hữu quan. Rõ ràng trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau trong đó có vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án được tuyên tại lãnh thổ quốc gia này ở quốc gia khác. Nếu như một quốc gia nào đó từ chối công nhận và cho thi hành trong mọi trường hợp thì lợi ích của cá nhân và pháp nhân đó không thể được bảo vệ trong trường hợp tương tự ở quốc gia khác vì các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Và như vậy ánh hưởng ko nhỏ đến qua hệ bang giao giữa các các quốc gia thực hiện chính sách đó với quốc gia nước ngoài trên. Không những vậy, Sự công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài ở các quốc gia khác khẳng định chủ quyền và vị trí của quốc gia đó trên đời sống quốc tế. Các quốc gia cần bảo vệ lợi ích không chỉ của các cá nhân, pháp nhân quốc gia mình mà còn cả lợi ích của các cá nhân và pháp nhân nước ngoài. Điều này rõ ràng thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia. công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài góp phần thực hiện chủ trương của Nhà nước ta – thực hiện quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới. Việc ban hành các văn bản pháp luật, tham gia các ĐƯQT, hiệp định tương trợ tư pháp về vđề này của nc ta trg tgian qua là việc làm thiết thực tạo tâm lý an toàn cho các nhà kinh doanh trên thế giới trong quan hệ với doanh nghiệp VN và cũng làm hài lòng các quốc gia muốn bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà kinh doanh, công dân nước họ. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là phù hợp với xu hướng văn minh tiến bộ trên thế giới hiện nay. Do đó chính sách này sẽ được ủng hộ rộng rãi trên thế giới. - Còn xét trên phương diện kinh tế, sự công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ kinh té giữa nước ta với các quốc gia hữu quan phát triển. Bởi vì, về nguyên tắc các quốc gia phải tạo các điều kiện thuận lợi sau” + Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh + Có môi trường pháp lý thuận lợi đảm bảo cho việc cạnh tranh đó. + có cơ chế giải quyết tranh chấp thuận lợi + có biện pháp bảo đảm cho các ản án quyết định của tòa án, trọng tài được công nhận và thực thi một cách có hiệu quả. Như vậy, việc công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài là một trong những điều kiện rất quan trọng để thúc đẩy sự hợp tác kinh tế. Bên cạnh đó, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoà có ý nghĩa quan trọng trg phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại VN sẽ làm giảm bớt sự đầu tư, giảm bớt cơ hội tham gia quan hệ kinh tế với nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam dưới các hình thức khác nhau vì lo ngại rằng trong t/h có tranh chấp phát sinh và đc giải quyết bằng tòa án nước ngoài mà bên thua kiện là VN và tài sản liên quan đến tranh chấp ở VN. Điều đó sẽ làm giảm bớt hào hứng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Vn và cơ hội tham gia các hợp đồng kte với thương nhân nước ngoài của thương nhân Vn cũng giảm xuống. Ngoài ra việc bảo vệ lợi ích của cá nhân, pháp nhân nước ngoài cũng chính là việc bảo vệ lợi ích kinh tế của cá nhân và pháp nhân nước nước ta. Thể hiện: nó thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa cá nhân, pháp nhân nc ta với cá nhân, pháp nhân nc ngoài. Đó cũng là cơ sở khác công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ta tại nước ngoài, theo đó sẽ đảm bảo quyền lợi cho CD VN. - Cuối cùng, trên phương diện pháp luật: việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài góp phần khắc phục những khiếm khuyết của pháp luật điều chỉnh những quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài 4. Cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Xuất phát từ sự cần thiết của việc công nhận và cho thi hành tại việt Nam bản án quyết định dân sự có yếu tố nước ngoài, ngày 17/6/1993 UBTVQH đã ban hành pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt nam bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 29/8/1989, Nghị định số 117/CP về án phí, lệ phí Tòa án trong đó có quy định về mức lệ phí mà người giữ đơn yêu cầu công nhận bản án quyết định của tòa án nước ngoài phải nộng và một số các văn bản quy phạm khác có liên quan do các bộ ban ngành hữu quan ban hành để hướng dẫn thi hành các pháp lệnh đó. Sau một thời gian thực hiện, nhằm đáp ứng của công cuộc hội nhập vào khu vực và cả thế giới, ngày 15/6/04 BLTTDS ra đời, trong có vấn đề công nhận và cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài được quy định cụ thể tại phần thứ 6 bao gồm các chương 26,27,28 của bộ luật. SỰ ra đời của BLTTDS với việc bổ sung nguyên tắc có đi có lại vào việc công nhận và cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nc ngoài là những bước tiến mới, là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề tạo cơ sở pháp lý cho việc công nhận và cho thi hành, những quy định trong BL TTDS đã góp phần khắc phục những hạn chế trong pháp lệnh công nhận và các văn bản hướng dẫn trước đây, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động công nhận và cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Bên cạnh những văn bản PL trg nước, nhà nước ta còn quan tâm đến việc ký kết các ĐƯQT và trực tiếp nhất là các hiệp định tương trợ tư pháp đó có quy định về vấn đề công nhận, thi hành bản án của hai nước mà VN ký với các quốc gia như: Tiệp Khắc (ngày 12/10/1982) ngày nay cả Czeck và Slovak đều thừa kế Hiệp định này; với Cu ba ngày 30/11/1984); với Hungary ngày 18/1/1985; với Bulgaria ngày 3/10/1986 với Balan ngày 23/3/1993; với Nga ngày 25/8/1998; với lào ngày 6/7/1998, với Tquoc ngày 19/10/1998; với pháp (24/2/1998); Ukraine 6/4/2000; Mông cổ 7/4/2000; Belarus 14/9/2000…và mới đây là việc tham gia đàm phán cong ước quốc tế đa phương The Hague về công nhận bản án nước ngoài… II. Thực trạng của việc công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. 1. Thực trạng pháp luật: Thứ nhất, Các quy định về công nhận và thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài được ghi nhận trong cả các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia. Những quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước nước ngoài tại việt Nam. Cụ thể: Trước hết, Việt Nam đã tham gia Công ước về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài ngày 10/6.1958 (Công ước NewYork năm 1958) – Các quy định về Việc công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài theo công ước này hiện nay được hầu hết các nước áp dụng. Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà nước ta ký thời gian gần đây (Hiệp định với Nga, Trung Quốc, Pháp) cũng quy định đối với việc công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài thực hiện theo các quy định của Công ước này. Nội dung Công ước New York quy định các nước thành viên phải công nhận các phán quyết Trọng tài được đưa ra ngoài lãnh thổ của họ và các phán quyết không được coi là phán quyết trong nước của các nước thành viên. Các phán quyết Trọng tài nước ngoài sẽ được thi hành như những quyết định của Toà án địa phương và hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành phán quyết. Tiếp theo là việc tham gia Các Hiệp định song phương về  tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước về lính vực công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết với 14 nước Hiệp định song phương về tương trợ tư pháp, bao gồm: Liên bang Nga, Séc, Xlôvakia, Ba Lan, Hungari, Bungari, CuBa, CHDCND Lào, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Ucraina, Belarut, Pháp, Mông Cổ. Tất cả các Hiệp định song phương này đều có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Ngoài ra các ĐƯQT song phương khác như lãnh sự, thương mại con nuôi cũng đóng vai trò quan trọng trg giải quyết quan hệ tố tụng nói chung và vấn đền công nhận, cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài nói riêng. Ví dụ như trog HĐ hợp tác về nuôi con nuôi giữa VN và CH pháp được ký ngày 15/12/1999 cũng đã quy định về việc công nhận các quyết định cụ thể, như theo điều 15 của HĐ này quy định “ quyết định về nuôi con nuôi của cơ quan có thẩm quyền của mỗi nước có hiệu lực trên lãnh thổ nước ký kết kia…Việc công nhận quyết định về nuôi con nôi bao gồm cả sự công nhận đầy đủ các hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật của nước ký kết ra quyết định” Tiếp theo nữa phải kể đến là việc ghi nhận việc cong nhận và cho thì hành ại VN bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài theo Pháp luật trong nước. Vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài hiện đã được điều chỉnh trong Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Bộ luật đã luật hoá hai Pháp lệnh trước đây điều chỉnh về vấn đề này là Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 17/4/1993 và Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14/9/1995. Bên cạnh đó Phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng dân sự “Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài” với 31 điều (từ Điều 342 đến Điều 373) quy định một cách chi tiết không chỉ về thủ tục, trình tự xét công nhận và cho thi hành mà cả các quy định mang tính nguyên tắc cơ bản của việc công nhận và cho thi hành. Thứ hai, Nhìn chung các hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước với nhau đều có nội dung tương tự và không khác nhiều so với các ĐƯQT đa phương trên thế giới về vđề này. Tuy nhiên, về thể thức công nhận, trình tự thủ tục, nguyên tắc điều kiện công nhận và từ chối công nhận ở các ĐƯQT song phương được quy định một cách đầy đủ, chi tiết hơn và có tính đến mối quan hệ thân thiện giữa các nước và thông lệ quốc tế. Những nội dung cơ bản trong các hiệp định tương trợ rư pháp về vấn đề này bao gồm những ý sau: a/ Phạm vi công nhận và thi hành: các bản án, quyết định của nước ngoài được công nhận và cho thi hành bao gồm: bản án, quyết định dân sự; phần dân sự trong bản án hình sự; các quyết định của Trọng tài thương mại. Đặc biệt trong một số các Hiệp định tương trợ tư pháp ký với các nước còn phân biệt các bản án, quyết định dân sự có tính chất tài sản và bản án, quyết định không mang tính chất tài sản trong việc công nhận và cho thi hành. Điều 51 Hiệp định với Nga quy định đối với các bản án, quyết định dân sự không mang tính tài sản của Bên ký kết này được công nhận trên lãnh thổ của Bên ký kết kia mà không phải qua một thủ tục đặc biệt nào. Như vậy, ở đây có thể hiểu việc Toà án xem xét công nhận và cho thi hành chủ yếu đặt ra đối với các bản án, quyết định có tính chất tài sản và trong tương lai sẽ phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành nếu người phải thi hành án không tự nguyệnthi hành. b/ Điều kiện công nhận và thi hành: các Hiệp định đều quy định rất cụ thể các điều kiện đặt ra đối với một bản án, quyết định để có thể được công nhận và cho thi hành. Tựu chung lại có 3 điều kiện chính: Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật trên lãnh thổ nước tuyên bản án, quyết định đó. Thứ hai, bản án, quyết định được cơ quan có thẩm quyền tuyên. Thứ ba, các thủ tục tố tụng (liên quan đến luật hình thức) phải được đảm bảo. c/ Đơn yêu cầu: việc công nhận và cho thi hành chỉ đặt ra khi có yêu cầu. Các nước sẽ chỉ đặt ra việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài tại nước mình nếu có yêu cầu của đương sự có liên quan hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước đã ra bản án, quyết định đó. Theo các Hiệp định tương trợ tư pháp, đơn yêu cầu có thể gửi qua hai kênh: - Qua kênh ngoại giao hoặc qua cơ quan tư pháp có thẩm quyền: theo đó, các cơ quan tư pháp đã tuyên bản án, quyết định có thể trực tiếp hoặc thông qua cơ quan trung ương chuyển đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành cho cơ quan  có thẩm quyền của Bên ký kết kia. (Hiệp định tương trợ tư pháp với Hungary, Bunggary…). - Các đương sự trực tiếp gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành. d/ Thủ tục xem xét đơn công nhận và thi hành: tất cả các Hiệp định đều quy định Toà án là cơ quan xem xét và ra quyết định công nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài. Ở đây, Toà án không xem xét lại nội dung bản án, quyết định. Thẩm quyền tài phán của Toà án, trọng tài đã tuyên bản án, quyết định được tôn trọng và bảo đảm. Thủ tục công nhận chỉ nhằm xem xét tính khánh quan của quá trình ra bản án, quyết định đó. e/ Các vấn đề về thi hành bản án, quyết định: Các Hiệp định tương trợ tư pháp chủ yếu chỉ đề cập đến trình tự, thủ tục, điều kiện công nhận và thi hành bản án, quyết định của các Bên ký kết. Tuy vậy, một phần quan trọng không kém là khi đã được công nhận và cho thi hành thì cơ chế để thi hành như thế nào? Hầu hết các Hiệp định chỉ quy định việc chuyển tiền và tài sản thi hành bản án, quyết định ra nước ngoài. Các nội dung liên quan đến việc cưỡng chế thi hành bản án, quyết định được hiểu là do pháp luật của nước thi hành bản án, quyết định đó quy định. Thứ 3, VN tham gia các ĐƯQT về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, tuy nhiên việc tham gia này được tiến hành trên cơ sở đảm bảo phù hợp với điều kiện cũng như quy định của pháp luật VN, cụ thể khi tham gia Công ước NewYork năm 1958, Nhà nước ta đã tuyên bố 3 điểm bảo lưu: 1/ Chỉ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các quốc gia thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước ngoài tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại. 2/ Chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại. 3/ Mọi sự giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Thứ tư, các quy định trong pháp luật quốc gia về vấn đề này được quy định trên cơ sở phù hợp với các điều ước quốc tế và hiệp đinh tương TP mà VN tham gia, nhưng cụ thể hơn, chi tiết hơn và phù hợp với điều điện thực tế của VN. Những quy định đó đã góp phần thuận lợi cho thực hiện việc công nhận và cho thì hành các bản án…tránh được các xung đột pháp luật, cũng như giải quyết được nhiều xung đột đảm bảo quyền lợi của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài. Những nội dung cơ bản về các quy định của pháp luật trong nước về vấn đề ày sẽ làm rõ điều này: *.Pháp luật trong nước quy định cụ thể Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành. Ngay tại Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Theo đó thì Toà án Việt Nam  xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài theo 2  nguyên tắc cơ bản: - Thứ nhất,dựa trên cơ sở điều ước quốc tế: “a) Bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này;” (Điểm a, Khoản 1 Điều 343 BLTTDS); “Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc của Trọng tài của nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này.” (Khoản 2 Điều 343 BLTTDS). - Thứ hai, dựa trên nguyên tắc có đi có lại: “Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng có thể được Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó. (Khoản 3, Điều 343 BLTTDS). Đây là nguyên tắc mới đối với việc công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Toà án nước ngoài. Trước đây, nguyên tắc có đi có lại mới chỉ đặt ra cho việc công nhận và cho thi hành các quyết định dân sự của Trọng tài nước ngoài. * Về thủ tục và trình tự  xem đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài cũng được quy định cụ thể tại 10 điều chương 27 BLTTDS 2004. Theo đó trình tự này gồm các bước sau: Bước 1. Xét đơn yêu cầu Theo quy định tại Điều 350 BLTTDS thì Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối trong việc tiếp nhận các hồ sơ giấy tờ yêu cầu công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài sau đó kiểm tra tính hợp pháp, hợp thức của các giấy tờ, hồ sơ, chuyển hồ sơ đến Toà án có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết đơn yêu cầu, đơn kháng cáo. Trong đơn yêu cầu phải ghi rõ họ tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của người đc thi hành, người đại diện hợp pháp của người đó, họ tên, địa chỉ, nơi cư trú, nơi làm việc của người phải thi hành, nêu người đc thi hành là cơ quan tổ chức thì phải ghi rõ đầy đủ tên, địa chỉ trụ sở chính của cơ quan đó.Việc nhận đơn chỉ được tiến hành trong trường hợp người phải thi hành đang cư trú hoặc làm việc tại Việt Nam, hay người đó có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam vào thời điểm  gửi đơn. Bước 2: Chuyển Hồ sơ cho tòa án. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận đơn yêu cầu và các giấy tờ hợp lệ kèm theo, Bộ Tư pháp phải chuyển đơn cho Toà án có thẩm quyền. Về thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, theo quy định tại Điều 352 BLTTDS là Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành. Bước ba, thụ lý hồ sơ: Trg 3 ngày làm việc từ ngày nhận đc hồ sơ do Bộ tư pháp chuyển đến tòa án có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho VKS cùng cấp biết. Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành, nếu Toà án thấy có vấn đề gì chưa rõ trong bản án, quyết định của Toà án , thì Toà án có quyền yêu cầu Toà án, trọng tài đã ra bản án, quyết định đó giải thích, Và Bộ tư pháp sẽ trả lời lại cho Tòa sau 7 ngày kể từ ngày nhận đc đơn yêu cầu giải thích. Bước 4. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu: Sau 4 tháng kể từ ngày thụ lý, Toà án phải ra quyết định mở phiên toà xét đơn yêu cầu nếu không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ. Trong giai đoạn này ngoài việc xem xét, nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Toà án còn phải tiến hành một số công việc khác như: xác minh về nơi cư trú của người phải thi hành, tài sản liên quan đến việc thi hành. Bước 5. Phiên họp Xét đơn yêu cầu Theo quy định tại Điều 355 BLTTDS, việc xét đơn yêu cầu đc tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng gồm ba thẩm phán tiến hành, trong đó có một thẩm phán do chánh án chỉ định làm chủ toạ. Trong phiên họp phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp, người có nghĩa vụ phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó.. Trường hợp kiểm sát viên vắng mặt, thì phải hoãn phiên toà. Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau khi xem xét đơn và các giấy tờ kèm theo, nghe ý kiến của người triệu tập, của kiểm sát viên, Hội đồng xét đơn yêu cầu thảo luận và quyết định (theo đa số) công nhận và cho thi hành hoặc quyết định không công nhận bản án, quyết định của nước ngoài. Sau phiên toà sơ thẩm, quyền kháng cáo của đương sự được đảm bảo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các đơn kháng cáo, kháng nghị sẽ được Toà án nhân dân tối cao xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Điểm đặc biệt lưu ý là theo quy định tại Khoản 4 Điều 355 BTTDS là khi xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam không được xét xử lại vụ kiện mà chỉ xem xét xem các thủ tục về mặt tố tụng của việc tuyên bản án,quyết định đó có đảm bảo không so với quy định của PL VN và ĐƯQT mà VN ký kết hoặc gia nhập có liên quan để ra quyết định (chỉ xem xét các quy định của luật hình thức mà không xem xét các quy định của luật nội dung). Bước 6. Gửi quyết định của TA: Ngay sau khi ra quyết định công nhận hoặc ko công nhận bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, Tòa án gửi cho các các đương sự và VKS cùng cấp quyết định đó, nếu đương sự ở nước ngoài thì quyết định đc gửi thông qua bộ tư pháp. Bước 7. THi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định công nhận và cho thi hành tại VN có hiệu lực pháp luật, Tòa án đã tuyên bản án, quyết định đó phải chuyển giao bản án cho cơ quan thi hành bản án cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm để thi hành. Việc thi hành phải tuân theo PL VN về thi hành bản án, quyết định dân sự. * Về thủ tục không công nhận. Thủ tục không công nhận bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại VN đc quy định tại chương 28 với 4 điều về cơ bản là giống trình tự, thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận, thi hành bản án quyết định dân sự của TA nc ngoài như đã trình bày ở trên. Theo Điều 356. Những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là: 1. Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định đó. 2. Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên toà của Toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ. 3. Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam. 4. Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án Việt Nam hoặc của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận hoặc trước khi cơ quan xét xử của nước ngoài thụ lý vụ án, Toà án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ án đó. 5. Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có Toà án đã ra bản án, quyết định dân sự đó hoặc theo pháp luật Việt Nam. 6. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Thứ năm, CÁc quy định của pháp luật trong nước về vấn đề này luôn được bổ sung và sửa đổi để hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thực tiễn và pháp luật quốc tế, góp phần quan trọng trong việc thực thi tốt hơn vấn đề này. SỰ ghi nhận nguyên tắc có đi có lại trg BLTTDS là một biểu hiện của sự không ngừng hoàn thiện pháp luật trong nước. Vì Theo Pháp lệnh 1993 và Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 24/07/1993 của Bộ TƯ pháp, Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh 1993 thì việc công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài chỉ áp dụng đối với những nước có ký Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, trong đó có quy định vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của mỗi nước .Nhưng thực tế các bản án, quyết định ly hôn có nhu cầu công nhận tại Việt Nam lại đến từ những nước không có hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch đã đưa nguyên tắc có đi có lại vào như là giải pháp cho vấn đề thực tiễn đặt ra . Theo thủ tục của Nghị định 83 thì đối với các trường hợp bản án, quyết định ly hôn của các nước chưa có hiệp định tương trợ tư pháp với nước ta, Bộ TƯ pháp sẽ quyết định áp dụng nguyên tắc có đi có lại đối với từng trường hợp cụ thể Thứ sáu.các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của toà án nứoc vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục, đó là: Về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại, mặc dù đã đựơc bổ sung, quy định cụ thể trong BLTTDS, Tuy nhiên, trên thực tiễn còn vướng mắc do pháp luật chưa định ra được thẩm quyền, trình tự cũng như thủ tục cho việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Một điểm Điểm đặc biệt lưu ý nữa là theo quy định tại Khoản 4 Điều 355 BTTDS là khi xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam không được xét xử lại vụ kiện mà chỉ xem xét xem các thủ tục về mặt tố tụng của việc tuyên bản án,quyết định đó có đảm bảo không so với quy định của PL VN và ĐƯQT mà VN ký kết hoặc gia nhập có liên quan để ra quyết định (chỉ xem xét các quy định của luật hình thức mà không xem xét các quy định của luật nội dung). Tuy nhiên, Hiện nay, khi xét đơn yêu cầu ở một số vụ việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài, một số Hội đồng xét đơn yêu cầu đã  xem xét luôn lại nội dung vụ kiện đó. Lỗi thường hay gặp phải là Hội đồng xét đơn yêu cầu so sánh việc áp dụng luật của nước ngoài với pháp luật trong nước, để xem lại nội dung vụ kiện có đúng với pháp luật của Việt Nam hay không, sau đó mới ra quyết định công nhận và cho thi hành hay không công nhận. Bên cạnh đó Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài theo pháp luật hiện này cũng còn lỏng lẻo. Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối, trực tiếp tiếp nhận hồ sơ từ đương sự, thu lệ phí và có trách nhiệm như là “cầu nối” giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước với cá nhân, tổ chức yêu cầu thi hành án (phần lớn là ở nước ngoài). Tuy vậy, khi các Toà án tiến hành thụ lý đơn cũng như trong quá trình xét xử, có một thực tế là các Toà án hoàn toàn không có thông báo cũng như báo cáo Bộ Tư pháp về các hoạt động của mình, dẫn đến việc Bộ Tư pháp hoàn toàn bị động trước các vấn đề mà cá nhân, tổ chức nước ngoài hỏi hoặc yêu cầu. Về hướng dẫn giải quyết các vụ việc này, Toà án nhân dân tối cao hiện nay cũng chưa quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng mỗi toà án giải quyết theo một kiểu, không nhất quán và gây tâm lý không tốt cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Mặc dù như phân tích ở trên, việc ghi nhận nguyên tắc có đi có lại là một sự đổi mới, hoàn thiện của PL VN, tuy nhiên, trong một số trường hợp việc ghi nhận nguyên tắc có đi có lại này dường như không phải là một giải pháp hữu hiệu. Bởi đối với bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước được áp dụng nguyên tắc có đi có lại, thì bất kể Toà án những nước này dựa trên cơ sở quyền tài phán gì miễn không thuộc những vụ việc thuộc quyền tài phán riêng biệt của Việt Nam nói trên đều có thể được công nhận.Như vậy, có trường hợp Toà án những nước này dựa trên những quyền tài phán “cắt cổ” (exorbitant jurisdiction) thì những bản án đó vẫn có thể được công nhận. Những quyền tài phán được cho là “cắt cổ” là những quyền tài phán được pháp luật quốc gia quy định cho Toà án nước đó những quyền xét xử “rộng rãi”, dẫn đến có những vụ việc được thụ lý xét xử nhưng có rất ít hoặc không có liên quan gì đến nước có Toà án xét xử (chursthich1). điều đó dẫn tới khả năng là Khi có sự việc pháp lý xảy ra đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài, nguyên đơn thường tận dụng các quy định trong luật quốc gia của các nước về các quyền tài phán rộng rãi đó để lựa chọn Toà án có lợi cho mình nhất (đó là những thuận lợi về mặt địa lý, sự quen thuộc và những ưu thế đối với luật tố tụng và cả luật nội dung được áp dụng…) và bất lợi cho bị đơn nhất (đó là sự khó khăn khi phải hầu kiện ở nơI xa xôi và đôi khi không thể hầu kiện được, xa lạ và bất lợi về luật tố tụng, khó khăn trong việc thu thập chứng minh chứng cứ…). Việc công nhận những bản án được xét xử như vậy có thể gây thiệt hại cho lợi ích của bị đơn hoặc đương sự. Bởi vậy nếu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những mục tiêu của tư pháp quốc tế thì rõ ràng nguyên tắc có đi có lại chưa phảI là giải pháp. Ngoài ra, trong thủ tục Thủ tục không công nhân mặc dù đã thích hợp với các bản án không có yêu cầu thi hành của các nước có ký kết hiệp định tương trợ tư pháp có quy định về công nhận và cho thi hành bản án quyết định của trg tài nc ngoài. Nhưng sẽ ko phù hợp với các nước ko ký hiệp định với VN về vđề này. Thể hiện: + Trường hợp một chủ thể nộp đơn yêu cầu không công nhận bản án nước ngoài tại VN, mà nước đó lại ko ký hiệp định với VN. Khi đó PLVN có công nhận với bản án đó ko 2. Thực tiễn hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài: * Chế định về việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài được đề cập trong các hiệp định tương trợ tư pháp từ năm 1980 (hiệp định tương trợ tư pháp được kýkết với CHDC Đức năm 1980) và ghi nhận trong pháp luật trong nước từ năm 1993 (với pháp lệnh công nhận và cho thi hành các bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài năm 1993). Tuy nhiên qua hơn 20 năm tồn tại chế định đó, do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định việc thực hiện vấn đề đó chỉ mới phát sinh vào những năm gần đây. * Xuất phát từ bản chất của quan hệ do bản án, quyết định dân sự điều chỉnh có thể phân ra thành hai loại: Việc công nhận và cho thi hành các bản án quyết định của toà án nước ngoài không mang tính chất tài sản. và Việc công nhận và cho thi hành các bản án quyết định của toà án nước ngoài mang tính chất tài sản. Mỗi lĩnh vực lại có thực tiễn thực hiện khác nhau. Cụ thể. * Với con số 200 nước và cũng lãnh thổ, VN khó mà ký được hết ký hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề công nhận và cho thi hành với tất cả các nước, Điều đó dẫn tới trường hợp trong cùng một bản án, quyết định dân sự được tòa án của hai nước đều có thẩm quyền xét xử.hay còn gọi là hiện tượng đa phán quyết. Vụ diễn viên Lý Hương giành quyền nuôi con là một trường hợp như vậy, trong vụ việc này, do giữa VN và Mỹ chưa ký kết bất cứ hiệp định tương trợ tư pháp nào về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài nên tòa án của hai nước đều…đúng, : Theo án sơ thẩm của TAND TPHCM, luật sư của ông Tony Lam cũng lưu ý việc ông có xuất trình cho tòa một án lệnh của tòa án gia đình tại tiểu bang New York với nội dung tạm thời giao quyền giám hộ cháu Princess Lam cho ông Tony Lam. Về án lệnh của tòa án gia đình ở Mỹ, do chưa được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, lại được ban hành sau khi TAND TPHCM thụ lý đơn xin ly hôn của cô Hương nên không được chấp nhận. Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Đoàn luật sư TPHCM, cho biết căn cứ khoản 2 Điều 405, 410 Bộ luật Tố tụng dân sự, khi có đơn xin ly hôn của cô Hương là công dân Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc TAND TPHCM. Như vậy Bản án tòa tuyên giao cháu Princess Lam cho mẹ nuôi cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đứng trên khía cạnh khác, thì do cháu Princess Lam mang quốc tịch Mỹ nên bản án của tòa án gia đình tiểu bang New York ra lệnh giao tạm thời cho cha cháu là đúng theo pháp luật của Mỹ. Như vậy, có thể thấy Đã có hai phán quyết với nội dung trái ngược nhau – một của tòa án Việt Nam và một của tòa án Mỹ liên quan đến tranh chấp quyền nuôi con của cặp vợ chồng này. Hiện tượng Đa phán quyết này sẽ gây ra những khó khăn cho việc thi hành bản án, quyết định dân sự cũng như bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự. Bởi lẽ, về nguyên tắc, bản án, quyết định dân sự của tòa án nước nào thì chỉ có hiệu lực trên lãnh thổ nước đó và hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của tòa án các nước là ngang nhau, không thể loại trừ nhau. Vụ việc cũng đặt ra một vấn đề hết sức thực tế hiện nay là các đương sự thường bỏ qua thủ tục rất quan trọng trong vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài là đề nghị cơ quan tư pháp (thông qua Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao) công nhận và cho thi hành bản án tại quốc gia thứ hai. Cũng có thể thấy điều này qua vụ việc của diễn vien lý hương dành quyền nuôi con. Theo đó Do Lý Hương chưa bao giờ gửi đơn đề nghị Bộ Tư pháp hỗ trợ cho công nhận và thi hành bản án của Việt Nam tại Mỹ nên đã gặp khó khăn trong giải quyết vụ án. Bởi Thông thường việc thực hiện hoạt động công nhận và ho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại VN theo nguyên tắc “có đi, có lại”. nước nào đã thụ lý trước thì giải quyết vụ án. Quốc gia còn lại sẽ xem xét, công nhận bản án đó. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào việc yêu cầu của đương sự. DO đó Nếu do thiếu hiểu biết pháp luật, đương sự không yêu cầu hoặc yêu cầu quá muộn thì bản án không được công nhận và đương sự có thể trở thành người vi phạm pháp luật quốc gia thứ hai (như trường hợp Lý Hương). Thực tiễn thực hiện cho thấy việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo Nghị định 83 là nguyên tắc mở, hay nói cách khác chỉ là hình thức. Bởi Thực tiễn việc xem xét áp dụng nguyên tắc này cho thấy, không có yêu cầu phải có sự công nhận hoặc cam kết công nhận bản án, quyết định ly hôn của Toà án Việt Nam ở nước có bản án, quyết định ly hôn được yêu cầu công nhận ở Việt Nam, mà chỉ cần một số điều kiện: Ví dụ như đối với vụ việc xin ly hôn thì điều kiện đó là vụ việc không thuộc them quyền xét xử riêng biệt của Toà án Việt Nam; không có đơn yêu cầu không công nhận; căn cứ theo điều 83, 84, 85 của Nghị định 83, Bộ Tư pháp thấy đủ điều kiện để ghi chú vào sổ sự thay đổi hộ tịch (Ghi nhận từ khảo sát các hồ sơ xin ghi chú ly hôn theo Nghị Định 83 tại Sở Tư pháp TPHCM – Theo tạp chí nghiên cứu lập pháp số 8/2004). Và Trên thực tế, nhiều bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của các nước úc, Mỹ, Canada, Thuỵ Điển, NaUy, Đài Loan đã được Việt Nam ghi chú theo thủ tục trên. Trong khi đó thực chất việc ghi chú ly hôn – cũng chính là một hình thức công nhận bản án, quyết định ly hôn - là việc đáp ứng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự mà nhà nước không thể từ chối được. Trong nhiều trường hợp, yêu cầu thi hành án dân sự nước ngoài thường liên quan đến tài sản. Biện pháp thông dụng để thi hành án về tài sản là cho phép chuyển tiền hoặc tài sản của bên phải thi hành án ra khỏi lãnh thổ của nước đó. Trong trường hợp bên phải thi hành là công dân Việt Nam đang cư trú tại Việt Nam hoặc pháp nhân (tổ chức) Việt Nam có trụ sở tại Việt Nam, thì biện pháp thi hành án ở đây là Nhà nước Việt Nam đảm bảo việc chuyển ra ngoài lãnh thổ Việt Nam số tiền hoặc tài sản của bên phải thi hành đó cho bên được thi hành là người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài hoặc cho pháp nhân nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài.  Về vấn đề nêu trên, mặc dù pháp luật nước ta đã có quy định, song nhận thức của các cơ quan nhà nước, cán bộ thực thi pháp luật, đặc biệt của đại bộ phận nhân dân không thống nhất. Nhiều người cho rằng, nếu Nhà nước cho phép (thậm chí cưỡng chế) chuyển tiền của công dân (pháp nhân) Việt Nam ra nước ngoài để thi hành án, tức là chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của người nước ngoài mà không chú ý bảo vệ quyền lợi về tài sản của công dân (pháp nhân) Việt Nam. Có thể nói, do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng bao cấp, nên lâu nay nhiều người vẫn quen với tâm lý được nhận hơn là phải trả. Cho nên trên thực tế, trong thập kỷ 80 và 90, có nhiều bản án, quyết định của Toà án nước ngoài được gửi đến Việt Nam yêu cầu công dân Việt Nam (chủ yếu là đàn ông) thi hành quyết định về cấp dưỡng nuôi con, song chưa có một vụ nào được thi hành. Thậm chí có người còn cho rằng, việc không phải chuyển ra nước ngoài tiền và tài sản của công dân Việt Nam, là phù hợp với nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, công dân và pháp nhân Việt Nam. Đây là một sự nhận thức sai lầm, xuất phát từ tư tưởng “hại người lợi mình”, ích kỷ, cần xem xét lại. Điều nguy hại hơn là nhiều Thẩm phán của Toà án nhân dân cũng cùng một nhận thức như vậy. Vì thế nên đến nay, hầu như chưa có một hoạt động chuyển tiền và tài sản nào từ Việt Nam ra nước ngoài để thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài theo các quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam. Giải pháp Việt Nam hiện đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở rộng quan hệ đối ngoại phục vụ mục tiêu hội nhập quốc tế, do đó việc xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài cần theo hướng tạo ra những điều kiện pháp luật thuận lợi nhằm đảm bảo quyền lợi của bên yêu cầu công nhận và cho thi hành (là người nước ngoài cũng như công dân của mình), qua đó góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia và cùng có lợi. Trên cơ sở đó, hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới chắc chắn sẽ có phát sinh nhiều vụ việc đòi hỏi phải có sự thay đổi cả về mặt quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội. 2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trước tiên cần lựa chọn một phương thức hợp lý để thực hiện vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời gian sớm nhất. Có thể thấy Việc đàm phán một công ước đa phương về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn do những khác biệt giữa hệ thống pháp luật của các nước, việc sửa đổi luật quốc gia để tạo thêm cơ hội công nhận và cho thi hành bản án nước ngoài sẽ là bước khả thi nhằm rút ngắn những khác biệt trong luật của các quốc gia từ đó có thể làm cho việc đàm phán ký kết các công ước đa phương dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia các hiệp định song phương có vẻ dễ dàng hơn việc đàm phán các công ước đa phương về vấn đề này; tuy nhiên VN có thể tiếp tục ký các hiệp định song phương về vấn đề công nhận bản án nhưng với số lượng 200 quốc gia và vũng lãnh thổ như hiện nay thì tốn rất nhiều thời gian và chi phí. Do đó Để đổi mới và hoàn thiện hoạt động này trong hoàn cảnh của nước ta hiện nay, điều cần thiết là phải nghiên cứu và áp dụng có chọn lọc các quy tắc riêng biệt của tư pháp quốc tế, phù hợp với pháp luật và thực tiễn của ta, hoàn thiện hệ thống pháp luật nước. Trong thời gian qua, điều này đã được xem xét vận dụng trong quá trình xây dựng phần thứ bảy của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, chương XI của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Luật Thương mại, Bộ Luật Tố tụng dân sự, luật tương trợ TP 2007. Tuy nhiên, để các quy định này đi vào cuộc sống đòi hỏi các văn bản hướng dẫn cũng phải được ban hành một cách kịp thời và đồng bộ. Đặc biệt, cần sớm ban hành các nghị định hướng dẫn nhằm giải quyết hàng loạt vấn đề có liên quan đến hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài hiện nay như: áp dụng nguyên tắc có đi có lại, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, uỷ thác tư pháp… Bên cạnh đó, trong nội dung của mỗi văn bản pháp luật trong nước về vấn đề này cũng cần có sự sửa đổi cho phù hợp hơn. CỤ thể: Như đã phân tích ở trên, việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong một số trường hợp là không hợp lý nên Việc điều chỉnh vấn đề công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án và Trọng tài nước ngoài không nên dựa trên nguyên tắc có đi có lại mà bằng những điều kiện hợp lý quy định trong luật quốc gia không đi trái với chủ quyền quốc gia. Bởi, chính việc quy định các điều kiện cho việc công nhận đó là đã thể hiện chủ quyền của quốc gia rồi. Ngoài ra, việc quy định các điều kiện công nhận và thi hành bản án một cách hợp lý từ đó tạo khả năng công nhận và thi hành bản án của Toà án nước ngoài mà không cần quy định áp dụng nguyên tắc có đi có lại sẽ là một bằng chứng khách quan để những nước vẫn còn áp dụng nguyên tắc có đi có lại tạo cơ hội công nhận và thi hành bản án, quyết định của Toà án Việt Nam. 2.2. Nhận thức đúng đắn về  bảo vệ  quyền và lợi ích của Nhà nước, công dân, pháp nhân Việt Nam trong quan hệ đối ngoại. Như đã phân tích ở trên do xuất phát từ nhận thức việc buộc CD VN phải chuyển tiền ra nước ngoài để thi hành án dân sự là không bảo vệ quyền lợi của CDVN nên có rất nhiều bản án, quyết định dân sự về vấn đề này không được công nhận và cho thi hành cho nên cần thống nhất nhận thức lại về thế nào là bảo vệ  quyền và lợi ích của Nhà nước, công dân, pháp nhân Việt Nam trong quan hệ đối ngoại. Trong việc bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, công dân và pháp nhân Việt Nam, không có nghĩa là viện ra mọi lý do để cố tình từ chối, lẩn tránh thi hành quyết định về tài sản trong bản án, quyết định của nước ngoài. Cần nghĩ đến cái lớn hơn, tức là phải đặt lợi ích của quốc gia, của Nhà nước lên trên lợi ích của một cá nhân con người cụ thể. Nói cách khác, không thể chỉ vì tâm lý “sợ mất” tiền, tài sản của cá nhân (pháp nhân) mà làm ảnh hưởng đến vị thế, danh dự và uy tín của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế. Các cơ quan nhà nước, nhất là Toà án nhân dân, không thể lấy lý do này để vin cớ là “bảo vệ lợi ích” của công dân Việt Nam. Như thế, vô hình chung, càng tiếp tay cho sự vi phạm và bất chấp pháp luật. Đó là chưa kể sau nhiều lần từ chối công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án và Trọng tài nước ngoài, thì uy tín, danh dự của Toà án Việt Nam cũng bị giảm sút đối với dư luận quốc tế. Đây thực sự là điều quá bất lợi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu thu hút ngày càng nhiều đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.  2.3. Thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, trung thực, cùng có lợi.    Đây là nguyên tắc quan trọng, làm căn cứ pháp lý cho quá trình bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài. Chúng ta đều biết, theo công pháp quốc tế, các quốc gia đều bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế. Bình đẳng về chủ quyền là cơ sở cho sự tồn tại của các cam kết hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực và cùng có lợi. Cho nên khi một quốc gia sẵn sàng cho thi hành trên lãnh thổ của mình bản án của Toà án nước kia, thì nước kia cũng sẽ đảm bảo cho thi hành trên lãnh thổ của mình bản án của Toà án nước ngoài đó, trên nguyên tắc có đi có lại, cùng có lợi. Bảo vệ quyền lợi công dân là trách nhiệm của mỗi nhà nước. Cho nên, việc quốc gia này đảm bảo bản án, quyết định dân sự  của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài, cũng tức là đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ quốc gia kia hoàn thành trách nhiệm đối với công dân của họ. Qua đó lại càng củng cố quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi nước. Thông qua việc nghiêm chỉnh thi hành bản án, quyết định của nước ngoài, kể cả việc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, càng củng cố và nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật quốc gia và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước cũng như góp phần giáo dục công dân thực hiện nếp sống tôn trọng và tuân thủ pháp luật, để từ đó ngăn ngừa và hạn chế các tranh chấp, rủi ro trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại nhất là trong các giao dịch có yếu tố nước ngoài./. * Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, chuyên môn thực hiện hoạt động này: Tr 110 . . CHú thích 1. , ví dụ: Điều 14 của Bộ luật Dân sự Pháp – điều 3 Công ước Brusseles 1968 về quyền tài phán và việc thi hành bản án trong những vấn đề dân sự thương mại- cho phép Toà án Pháp có quyền tài phán chung không hạn chế đối với bất kỳ bị đơn nào nếu trong vụ việc đó nguyên đơn mang quốc tịch Pháp, bất kể nguyên nhân của vụ kiện xảy ra ở đâu. Trong Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Pháp có quy định điều kiện để công nhận bản án của tòa án của nước ký kết, trong đó điều kiện về quyền tài phán của tòa án nước yêu cầu công nhận sẽ theo quy định của nước được yêu cầu công nhận, do đó hạn chế tác dụng của Điều 14, Bộ luật Dân sự Pháp hoặc Điều 23, Bộ luật Tố tụng dân sự Đức (Zilvilprozessordnung 1877, xem Điều 3 Công ước Brusseles 1968 về quyền tài phán và việc thi hành bản án trong những vấn đề dân sự thương mại) quy định quyền tài phán không hạn chế của Toà án Đức nếu có sự hiện diện của bất kỳ tài sản nào của bị đơn ở Đức (tài sản đó có thể là một đôi dép hoặc một cây dù bỏ quên ở khách sạn); hoặc ở Anh, Toà án có quyền thụ lý vụ án nếu giấy thông báo về việc khởi kiện được chuyển hợp lệ đến bị đơn ngay lúc bị đơn có mặt ở Anh bất kể trong bao lâu (ở đây bất kỳ nguyên đơn là người nước nào và vụ việc xảy ra bất kể ở đâu); những nước khác như Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan…đều có quy định những quyền tài phán được cho là “cắt cổ”- điều 3 Công ước Brusseles 1968 về quyền tài phán và việc thi hành bản án trong những vấn đề dân sự thương mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI Cơ sở lý luận cho việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài.doc
Luận văn liên quan