Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU I. Tổng quan pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam II. Cơ sở ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 1. Cơ sở lý luận 1.1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về chính sách cơ bản trong vấn đề về thuế 1.2. Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 của Chính phủ 1.3. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến cam kết quốc tế 1.4. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định khác của pháp luật hiện hành 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Những kết quả đạt được của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 2.2. Hạn chế của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2856 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mục Trang MỤC LỤC 01 LỜI MỞ ĐẦU 02 Nội dung chính I. Tổng quan pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam 03 II. Cơ sở ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 04 1. Cơ sở lý luận 04 1.1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về chính sách cơ bản trong vấn đề về thuế 04 1.2. Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 của Chính phủ 04 1.3. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến cam kết quốc tế 05 1.4. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định khác của pháp luật hiện hành 05 2. Cơ sở thực tiễn 06 2.1. Những kết quả đạt được của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 06 2.2. Hạn chế của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 08 KẾT LUẬN 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 ---&--- LỜI MỞ ĐẦU Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật về thuế nhìn chung còn khá non trẻ và đi sau các nước trên thế giới một khoảng cách rất dài. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước, hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về thuế nói riêng đã được chú trọng xây dựng, từng bước hoàn thiện; góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, động viên mọi nguồn lực tài chính vào ngân sách nhà nước. Mặc dù qua nhiều lần sửa đổi nhưng Luật hiện hành vẫn còn một số hạn chế nhất định cần được khắc phục kịp thời. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong quá trình cải cách hệ thống pháp luật về thuế, cần sửa đổi Luật để bao quát hết các đối tượng nộp thuế; các khoản thu nhập chịu thuế; đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong căn cứ tính thuế và đáp ứng kịp thời những yêu cầu thực tiễn đặt ra… Với sự cần thiết trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế hiện hành, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm – một trong những đạo luật quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến sự thu hút cho môi trường đầu tư của một quốc gia đã được Quốc hội nước ta thông qua vào năm 2008. Qua bài viết sau đây, chúng tôi sẽ phân tích, đánh giá những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 để góp phần nhìn nhận hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong điều kiện phát triển, hội nhập kinh tế. Bài viết của chúng tôi ngoài các phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo thì nội dung chính bao gồm: I. Tổng quan pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam; II. Cơ sở của việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. I. TỔNG QUAN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Có thể nhận thấy rằng pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) Có thể hiểu một cách khái quát, thuế TNDN là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của các cơ sở kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. được hình thành và phát triển từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Trước năm 1990 có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức chỉ được áp dung cho kinh tế ngoài quốc doanh Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, TS. Phạm Thị Giang Thu (Chủ biên), NXB.CAND, năm 2008, trang 187; đối với doanh nghiệp quốc doanh thì áp dụng chế độ trích nộp lợi nhuận. . Sau năm 1990, nước ta thực hiện công cuộc cải cách căn bản chính sách thuế và ban hành Luật thuế lợi tức mới để áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày 10/05/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế TNDN (có hiệu lực từ ngày 01/01/1999) thay thế cho Luật Thuế lợi tức nhằm khắc phục những nhược điểm cơ bản (như tên gọi chưa phản ánh đầy đủ nội dung kinh tế của loại thuế này, phạm vi điều chỉnh còn hạn hẹp…) và để thực hiện các mục tiêu và yêu cầu hội nhập, phù hợp định hướng cải cách hệ thống chính sách thuế. Sau 4 năm thực hiện, Luật Thuế TNDN 1997 đã đạt được những thành công (góp phần khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư; điều tiết được hầu hết khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh,…) cũng như bộc lộ những hạn chế (một số khoản chi phí chưa được quy định hay chưa phù hợp với thực tiễn, vẫn có quy định khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,…). Để khắc phục một số nhược điểm của Luật Thuế TNDN 1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế TNDN 2003 vào ngày 17/06/2003, có hiệu lực vào ngày 01/01/2004 bao gồm 8 chương với 32 điều. Đến năm 2008, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế TNDN mới thay thế Luật Thế TNDN 2003 (sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2009) thể hiện một bước tiến mới trong cải cách pháp luật thuế với những thay đổi căn bản và quan trọng. Việc ban hành Luật Thuế TNDN mới này đã góp phần củng cố chính sách về thuế của nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển hiện nay. II. CƠ SỞ BAN HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 2008 1. Cơ sở lý luận 1.1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Điều 4 Hiến pháp 1992 ghi nhận Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải được cụ thể hóa để áp dụng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ chính sách cơ bản trong vấn đề về thuế: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh”.Quán triệt quan điểm chỉ đạo này, cần sửa đổi Luật Thuế TNDN đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu sau: - Tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; - Thực hiện giảm mức thuế suất chung theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 để khuyến khích doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh; - Sắp xếp ưu đãi thuế, bảo đảm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư có chọn lọc, tác động tích cực đến phân bổ nguồn lực phát triển địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và lĩnh vực mũi nhọn đặc biệt quan trọng; bảo đảm chính sách rõ ràng, minh bạch, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 1.2. Chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 của Chính phủ Theo Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 ngày 06/12/2004 thì pháp luật về thuế TNDN cần được hoàn thiện “theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh”. Đây cũng là cơ sở lý luận của việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. 1.3. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Kể từ thời điểm ban hành Luật Thuế TNDN 2003 đến nay, Việt Nam đã tham gia nhiều cam kết quốc tế ở cấp Chính phủ có liên quan đến thuế TNDN như: xác định nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài để bảo đảm quyền thu thuế của Việt Nam, và quy định về tránh đánh thuế hai lần,... Qua tổng kết, đánh giá cho thấy trong thời gian vừa qua các cam kết này đã được thực hiện ổn định và đi vào cuộc sống, nhưng chưa được thể hiện rõ trong Luật Thuế TNDN. Vì vậy, cần phải đưa các nội dung cam kết này vào Luật Thuế TNDN để đảm bảo tính minh bạch và pháp lý cao hơn. 1.4. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải phù hợp với các quy định khác của pháp luật hiện hành Luật thuế TNDN không tồn tại độc lập mà nằm trong thể thống nhất-hệ thống pháp luật, vì vậy, nó phải phù hợp với các quy định khác của pháp luật hiện hành. Sự ra đời của Luật Thuế thu nhập cá nhân (có hiệu lực từ 01/01/2009 ) dẫn tới một sự thay đổi lớn về đối tượng nộp thuế TNDN. Theo quy định của Luật này kể từ ngày 01/01/2009 thì các đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh mà theo quy định của luật thuế TNDN 2003 phải nộp thuế TNDN sẽ không phải nộp thuế TNDN nữa mà chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân. Quốc hội khoá XI thông qua Luật quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ 01/07/2007, trong đó các nội dung về đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của thuế TNDN được thống nhất quy định tại Luật này. Như vậy sự ra đời của hai văn bản này kéo theo nhiều sự thay đổi liên quan đến các quy định về thuế TNDN vì vậy để tránh trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật chúng ta cần phải xây dựng Luật Thuế TNDN mới thay thế cho Luật Thuế TNDN 2003 trên cơ sở thống nhất với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật. 2. Cơ sở thực tiễn Luật Thuế TNDN 2003 thay thế luật Thuế TNDN nghiệp 1997 được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 06 năm 2003, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004, tính đến năm 2008 Luật này cũng đã được thực thi 4 năm. Tổng kết đánh giá sau 4 năm thực hiện cho thấy Luật Thuế TNDN 2003 đã thu được nhiều kết quả tốt, đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội mới của đất nước, luật này cũng đã bộc lộ những hạn chế và khiếm khuyết nhất định. Dưới đây là những hạn chế và kết quả đạt được trong quá trình thực thi Luật Thuế TNDN 2003 chứng tỏ sự cần thiết phải ban hành luật thuế TNDN 2008. 2.1. Những kết quả đạt được của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 2.1.1. Luật Thuế TNDN 2003 đã có tác động tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh Điều 10 Luật Thuế TNDN 2003 quy đinh: thuế suất đối với cơ sở kinh doanh là 28 %. Theo đó, Luật Thuế TNDN 2003 đã hạ mức thuế từ 32% xuống 28% đồng thời bỏ thu thuế bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước; bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (3%, 5%, 7%) đối với nhà đầu tư nước ngoài để chuyển từ mức thuế TNDN 25% sang áp dụng chung mức thuế 28% như các doanh nghiệp trong nước. Việc điều chỉnh giảm mức thuế đối với doanh nghiệp trong nước không chỉ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mới thành lập mà còn tạo thêm tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp đang hoạt động (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước) đổi mới thiết bị, bổ sung vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo số liệu thống kê năm 2006, chỉ tính riêng 45 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, vốn kinh doanh đã được tích luỹ, bổ sung thêm gần 5.300 tỷ đồng, quỹ đầu tư phát triển tăng gần 13.000 tỷ đồng và quỹ dự phòng tài chính để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tăng khoảng 2.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Luật Thuế TNDN cũng áp dụng chung một chính sách ưu đãi trên cơ sở chọn mức ưu đãi thuế cao nhất trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thực tiễn thi hành các quy định nói trên của Luật đã thực sự tạo ra một sân chơi bình đẳng, khắc phục sự khác biệt đối xử trong ưu đãi đầu tư, thúc đẩy đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài cùng phát triển, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cao trong những năm vừa qua. 2.1.2. Luật Thuế TNDN 2003 góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước Trong giai đoạn 2004 – 2007, số thu thuế TNDN (không kể thu từ dầu khí) đạt mức bình quân trên 30 ngàn tỷ đồng/năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm gần 17%. Với kết quả này, Luật Thuế TNDN đã góp phần bảo đảm nguồn thu quan trọng của NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng về đầu tư phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng của đất nước. Như vậy, mặc dù đã hạ mức thuế và áp dụng các mức ưu đãi cao nhưng số thu ngân sách nhà nước về thuế TNDN vẫn bảo đảm tăng trưởng do có tác động cải thiện môi trường đầu tư, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều phát triển về số lượng, quy mô và hiệu quả kinh doanh, mức thuế hợp lý tác động đến việc tự giác sự tuân thủ tốt hơn,... 2.1.3. Luật thuế TNDN 2003 thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý thuế và ưu đãi đầu tư Theo điều 11, 12 và 13 Luật Thuế TNDN 2003 về trách nhiệm của cơ sở kinh doanh, về trách nhiệm kê khai thuế, nộp thuế và quyết toán thuế thì doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của số liệu đã kê khai thay cho cơ chế cơ quan thuế tính thuế, thông báo thuế, quyết toán thuế. Việc ban hành và thực thi Luật Thuế TNDN 2003 đã đánh dấu một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thuế và đầu tư, ở đây trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc lựa chọn, xác định điều kiện và mức ưu đãi thuế được đề cao mà không cần giấy phép, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư giống như cơ chế quản lý thuế mang nặng tính thủ tục hành chính “xin cho” trước đây. Nhờ đó mà cơ quan thuế không còn phải nặng về công việc sự vụ mà có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát để giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như công tác xử lý vi phạm pháp luật về thuế. 2.2. Hạn chế của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 2.2.1. Về mức thuế suất 28% Thuế TNDN điều chỉnh thu nhập của doanh nghiệp, nó không những tác động đến môi trường kinh doanh trong nước mà còn ảnh hưởng đến việc cạnh tranh quốc tế về thu hút đầu tư nước ngoài, vì thế việc quy định mức thuế suất đối với thuế TNDN tại một quốc gia không những phải dựa trên các tiềm lực cũng như điều kiện của chính quốc gia đó mà còn phải xem xét cả những quy định của các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, cân nhắc sao cho vừa đảm bảo được nguồn thu ngân sách nhà nước vừa đảm bảo được tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Luật Thuế TNDN 2003 ra đời trong bối cảnh hầu hết các nước trong khu vực đều đang duy trì mức thuế tương đối cao như: Malaysia 32 %, Thái Lan 30 %, Philipin 35 %, Indonesia 30 % và Trung Quốc 33 %, trong bối cảnh đó việc nước ta quy định mức thuế suất TNDN là 28 % là tương đối hợp lý và phù hợp. Tuy nhiên, sau 4 năm áp dụng, tình hình Việt Nam và thế giới đều đã có nhiều thay đổi lớn, đặc biệt phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ và rộng khắp của xu hướng toàn cầu hóa, điều này khiến cho sự cạnh tranh giữa các quốc gia trong việc thu hút đầu tư trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Rõ ràng mức thuế suất mà các quốc gia quy định làm ảnh hưởng không nhỏ tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư, vì thế các quốc gia đều phải cân nhắc kỹ lưỡng và đưa ra mức thuế suất “hấp dẫn” nhất trong chừng mực có thể để thu hút đầu tư. Hiện nay, nhằm thực hiện ưu đãi đầu tư hầu như các quốc gia đều đã và đang trên đà giảm thuế suất TNDN, Singapore đã quyết định hạ thuế suất thuế TNDN từ 20 % xuống còn 19 %; Philipin giảm từ 35 % xuống 30 %, và Quốc vụ viện Trung quốc cũng đã quyết định giảm mức thuế suất thuế TNDN từ 33% xuống còn 25%. Việt Nam chúng ta với mức thuế suất 28 % theo quy định của Luật Thuế TNDN 2003 liệu có đảm bảo được yếu tố cạnh tranh trong thu hút đầu tư hay không? Có thể thấy rõ với mức thuế suất 28 % sức hút mà chúng ta tạo ra đối với các nhà đẩu tư chưa thật sự đủ “hấp dẫn” các nhà đầu tư và chưa đủ mạnh để cạnh tranh với “sức hút” của các quốc gia khác, cho nên cần phải cân nhắc để giảm mức thuế suất 28 % này sao cho phù hợp hơn với tình hình hiện nay (theo quy định của Luật Thuế TNDN 2008 thì mức thuế suất là 25%). 2.2.2. Các quy định về căn cứ tính thuế Luật Thuế TNDN 2003 quy định cả chi phí được trừ và chi phí không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Cách quy định này là phù hợp với thực tiễn khi ban hành vì có thể giúp cho doanh nghiệp đối chiếu để tự kê khai. Tuy nhiên, qua thực hiện ngày càng phát sinh nhiều vướng mắc, gây khó khăn, làm hạn chế quyền chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh. Nền kinh tế đang vận động, chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực, phát sinh nhiều khoản chi mới mà quy định hiện hành chưa bao quát được hết dẫn đến việc hiểu và vận dụng khác nhau giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước (thuế, thanh tra, kiểm toán), tạo cơ hội để sinh ra cơ chế “xin – cho” trong quá trình thực hiện. Để khắc phục hạn chế này, bảo đảm rõ ràng, tạo thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế một cách có hiệu quả, cần thiết sửa đổi theo hướng: quy định điều kiện để xác định khoản chi được trừ, liệt kê cụ thể các khoản không được trừ; những khoản không được liệt kê thì đương nhiên doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập. Tại thời điểm đầu năm 2003, hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất của doanh nghiệp phát sinh lãi rất lớn do giá đầu ra tăng cao theo quy hoạch trong khi đất được giao tính thu tiền sử dụng đất theo mức giá thấp, vì vậy để điều tiết hợp lý, kịp thời đối với thu nhập này, Luật Thuế TNDN có quy định thu thuế bổ sung đối với thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, để khuyến khích phát triển bất động sản, hạn chế quy hoạch “treo”, bỏ đất trống,… Luật Thuế TNDN cũng đã quy định ưu đãi đối với bất động sản. Tuy nhiên, kể từ năm 2005, thực hiện quy định của Luật Đất đai, các trường hợp được giao đất để kinh doanh bất động sản như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư nhà để chuyển nhượng đều phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất hoặc nộp theo giá đất do Ủy ban nhân dân (UBND) địa phương quy định (giá đất đối với từng loại đường phố do UBND quy định phải được điều chỉnh hàng năm). Do thay đổi về cơ chế xác định giá đất theo giá thị trường, chính sách thu đối với đất đai đã điều tiết được các khoản lợi nhuận tăng do chênh lệch giá đất và giảm bớt lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, không cần thiết phải duy trì việc thu bổ sung đối với lợi nhuận từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh bất động sản đang chuyển sang theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp chuyển quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất dễ chuyển thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất sang thu nhập kinh doanh tài sản trên đất để tránh thuế TNDN bổ sung và được hưởng ưu đãi. Vì vậy, cần bãi bỏ việc thu thuế bổ sung đối với thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất và áp dụng chính sách thuế chung đối với thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất và thu nhập từ kinh doanh bất động sản. 2.2.3. Về các quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Luật Thuế TNDN 2003 có quy định về vấn đề ưu đãi thuế bao gồm: quy định về mức thuế suất ưu đãi, quy định về các trường hợp được miễn giảm thế cho các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư theo chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, chế độ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam có phạm vi áp dụng khá rộng và phức tạp với nhiều trường hợp được hưởng ưu đãi thuế với những thời hạn và mức độ ưu đãi khác nhau. Chương IV Luật Thuế TNDN 2003 về miễn, giảm thuế TNDN quy định có 3 thuế suất ưu đãi là 10 %, 15 % và 20 % cùng với nhiều mức thời gian miễn, giảm thuế (tối đa là 4 năm miễn và 9 năm giảm 50%). Để được hưởng các ưu đãi này, Luật quy định nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi, vừa căn cứ vào địa bàn đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư. Thực tế, qua thời gian thực hiện, những quy định về ưu đãi thuế của Luật Thuế TNDN dẫn đến tình trạng ưu đãi dàn trải và phức tạp do đó chưa thực sự đáp ứng được ý nghĩa thực sự của một chế độ “ưu đãi”, chưa thực sự phát huy được vai trò khuyến khích đầu tư của nó ví dụ như mục tiêu thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn còn chưa đạt được. Có thể thấy sự dàn trải trong chính sách ưu đãi về thuế TNDN theo luật Thuế TNDN 2003 qua sự thống kê sau đây: theo tiêu chí ngành nghề, lĩnh vực thì có tới 90% số lượng ngành kinh tế cấp II và 33% ngành kinh tế cấp III được hưởng ưu đãi thuế. Theo tiêu chí địa bàn thì có tới 32% địa phương thuộc diện ưu đãi và 24% số địa phương thuộc diện đặc biệt ưu đãi. Bên cạnh đó, còn có 154 Khu công nghiệp, Khu chế xuất, 10 Khu kinh tế, 23 Khu kinh tế cửa khẩu do Trung ương thành lập (bình quân mỗi tỉnh có 3 Khu) và hàng trăm khu công nghiệp nhỏ và vừa, cụm công nghiệp do địa phương thành lập (chưa kể các điểm công nghiệp) cũng thuộc diện ưu đãi. Theo số liệu thống kê năm 2007, tổng số doanh nghiệp được hưởng ưu đãi chiếm tới 70% tổng số doanh nghiệp đang kê khai, nộp thuế TNDN. Quả thực chính sách ưu đãi này không hề có sự tập trung vào một số đối tượng được ưu đãi nhất định mà đa số các ngành nghề đều được ưu đãi, đa số các địa bàn đều được ưu đãi cho nên không tập trung hướng các nhà đầu tư vào các ngành nghề và địa phương thực sự cần thu hút đầu tư. Ưu đãi thuế TNDN phải có mục tiêu rõ ràng, minh bạch, đảm bảo cho nhà đầu tư có thể dự đoán được chi phí và lợi ích mang lại. Nên điều tiết thuế TNDN theo hướng không cần ưu đãi nhiều, chỉ tập trung cho một số ngành mũi nhọn, vùng đặc biệt khó khăn để giảm bớt chi phí cho nhà đầu tư, coi trọng tính hiệu quả của chính sách thuế. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện cho thấy có nhiều dự án đầu tư theo nhiều hạng mục, ngành nghề, địa bàn khác nhau nên việc xác định điều kiện ưu đãi, mức ưu đãi, số thuế TNDN rất phức tạp, doanh nghiệp khó xác định đúng mức ưu đãi thuế TNDN được hưởng. Qua tổng kết đánh giá, có không ít doanh nghiệp được hưởng ưu đãi theo nhiều trường hợp khác nhau như: ưu đãi do mới thành lập, ưu đãi theo đầu tư mở rộng, ưu đãi do đáp ứng tỷ lệ xuất khẩu, ưu đãi do sử dụng lao động nữ, ưu đãi sử dụng lao động là người tàn tật, ưu đãi do thực hiện các hợp đồng dịch vụ kỹ thuật phục vụ nông nghiệp… Ví dụ như, tại tỉnh Đồng Nai, có doanh nghiệp trong năm 2006 được hưởng ưu đãi về thuế TNDN theo 4 trường hợp (ưu đãi mới thành lập, ưu đãi theo đầu tư mở rộng, ưu đãi do đáp ứng tỷ lệ xuất khẩu, ưu đãi do sử dụng lao động nữ) dẫn đến doanh nghiệp gặp nhiều lúng túng trong việc tự xác định ưu đãi miễn, giảm. Số liệu thống kê năm 2007 cho thấy trong số những vướng mắc về thuế TNDN được gửi đến cơ quan thuế thì vướng mắc về ưu đãi thuế TNDN đã chiếm tới 25%. Bên cạnh đó, thực tế quản lý cho thấy các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, tập trung chủ yếu vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất hoặc những địa bàn thuận lợi (TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Vĩnh Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh). Như vậy, phát sinh vấn đề phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, việc thu hút đầu tư vào các địa bàn khó khăn không đạt được mục tiêu đề ra do các địa bàn thuận lợi cũng được ưu đãi theo tiêu chí ngành nghề. Như đã phân tích ở phần trên, thuế TNDN thường được các nước sử dụng làm công cụ để thu hút đầu tư. Qua tham khảo các nước trong khu vực cho thấy xu hướng gần đây của các nước trong chính sách ưu đãi thuế TNDN là chuyển từ ưu đãi theo ngành sang ưu đãi theo diện rộng, khuyến khích tổng thể nền kinh tế bằng chính sách điều tiết thuế TNDN hợp lý mà không cần ưu đãi nhiều (chỉ tập trung cho một số rất ít ngành mũi nhọn và vùng đặc biệt khó khăn để giảm bớt chi phí cho nhà đầu tư) Ví dụ: Trung Quốc bên cạnh việc hạ thuế suất thuế TNDN từ 33% xuống còn 25% thì đã xoá bỏ (theo lộ trình 5 năm) hầu hết các ưu đãi thuế, kể cả ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trước đây. Đối với lĩnh vực, Trung Quốc chỉ còn ưu tiên cho doanh nghiệp có công nghệ cao đồng thời là công nghệ mới; đối với địa bàn Trung Quốc chỉ có ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng tự trị và khó khăn ở phía Tây. . Thực tiễn nước ta trong thời gian vừa qua cũng như kinh nghiệm của các nước như đã nêu ở phần trên cho thấy: mặc dù chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam có mức ưu đãi hấp dẫn hơn so với nhiều nước nhưng nếu như không sửa đổi để thu hút đầu tư có lựa chọn thì hiệu quả thu hút đầu tư trong nước cũng như nước ngoài để khuyến khích phát triển nền kinh tế sẽ rất khó có thể đạt được theo định hướng của Nhà nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc hưởng ưu đãi đầu tư và thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tư nộp cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi các quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đảm bảo tránh phức tạp và dàn trải theo hướng: Có cơ chế ưu đãi minh bạch, thiết thực, phù hợp với xu thế chung về cải cách thuế của các nước trên thế giới; chuyển từ ưu đãi theo diện hẹp (miễn, giảm thuế) sang cơ chế hạ mức thuế suất phổ thông xuống thấp hơn mức 28% hiện hành) để khuyến khích cả nền kinh tế, đồng thời sắp xếp lại ưu đãi (miễn, giảm thuế) tập trung vào một số lĩnh vực mũi nhọn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2.2.4. Quy định về nơi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp Tại thời điểm ban hành Luật Thuế TNDN 2003, khi đó mô hình kinh doanh chưa phát triển với quy mô rộng khắp như bây giờ, thông thường thì trụ sở điều hành cũng như nơi kinh doanh đều ở trên một địa bàn nhất định, cho nên Luật quản lý thuế quy định về việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là nộp tại nơi đóng trụ sở chính điều này rất thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc hoạch toán. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các mô hình kinh doanh đều mở rộng về mặt địa lý, nghĩa là không phải chỉ một trụ sở kinh doanh ở nơi có trụ sở chính nữa mà các cơ sở kinh doanh được phân bố ở rất nhiều nơi thuộc nhiều dịa phương khác nhau. Đứng về phía chính quyền địa phương nơi có các cơ sở kinh doanh nhưng trụ sợ chính của nó lại ở một nơi khác thì quả thực không công bằng với các địa phương này, vì thuế chỉ đóng ở nơi có trụ sở chính cho nên dĩ nhiên các địa phương này không có quyền thu thuế, trong khi đó địa phương này vẫn phải đảm bảo cung cấp đủ các dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh cũng như nhiều dịch vụ khác đảm bảo cuộc sống cho công nhân của các cơ sở kinh doanh này. Thực chất, nộp thuế là nghĩa vụ của doanh nghiệp, nhưng quản lý thu thuế không chỉ liên quan đến nghĩa vụ thu thuế mà còn liên quan đến quản lý nguồn thu từ thuế phân bổ cho các địa phương. Do đó việc sửa đổi Luật Thuế TNDN sao cho điều hòa được giữa lợi ích của địa phương nơi có trụ sở chính của công ty và địa phương nơi có các cơ sở tiến hành hoạt động kinh doanh của công ty đó sẽ giúp cho việc quản lý ngân sách nhà nước mới thật sự hiệu quả. 2.2.5. Quy định về thuế đối với tổ chức hoạt động có thu nhập không chia Hiện nay, ở nước ta đã có các tổ chức thuộc Hội khuyến nông, Hội khuyến học, Hội người cao tuổi, Hội bảo trợ người tàn tật... và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam (Hội đồng Anh, Cộng đồng Pháp ngữ, Trung tâm giáo dục của Hội đồng Bộ trưởng các nước ASEAN,...). Đây là các tổ chức có tham gia tích cực vào một số lĩnh vực của đời sống xã hội, cung cấp một số dịch vụ công mang tính tự nguyện, từ thiện (đào tạo, tư vấn đời sống, pháp luật, hoạt động giao lưu, phát triển văn hoá, nghiên cứu khoa học...). Thu nhập từ hoạt động của các tổ chức này được sử dụng cho mục đích, tôn chỉ được pháp luật thừa nhận như nêu trên, mà không phân chia. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước thường có những quy định đặc thù về thu nhập chịu thuế, chi phí được trừ khi tính thuế TNDN của các tổ chức này có khác với quy định áp dụng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa có sự phân biệt giữa doanh nghiệp với các tổ chức này nên phần nào đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển các hoạt động này. Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng những kinh nghiệm của các nước, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của nước ta để quy định trong Luật thuế TNDN là một việc làm cần thiết để góp phần hoàn thiện Luật Thuế TNDN cũng như hoạt động của các tổ chức này nói chung. KẾT LUẬN 1. Có thể nhận thấy rằng với việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 đã góp phần hoàn thiện khung pháp luật thuế, cải thiện môi trường đầu tư theo hướng mở rộng hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tạo cơ sở vững chắc cho việc bổ sung nguồn ngân sách nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 có nhiều thay đổi căn bản với Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003 đã thể hiện được đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với chế độ thuế hiện nay, đẩy mạnh quá trình hội nhập của đất nước. 2. Các cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu và phân tích trong bài viết trên đây là những cơ sở rất thiết thực, đúng đắn và có nhiều ý nghĩa lớn. Trong điều kiện môi trường kinh doanh có nhiều biến động như hiện nay, cùng với sự ra đời của nhiều hình thức kinh doanh mới đã tạo ra nhiều thách thức cho hệ thống pháp luật nước ta mà pháp luật thuế là một trong những khu vực mang nhiều tính đặc thù nhất. Việc đánh giá những cơ sở ban hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 là một việc làm cần thiết để xem xét lại sự thay đổi cũng như nội dung của Luật này, góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật thuế. Hy vọng, khi đi vào cuộc sống (có hiệu lực vào ngày 01/01/2009), Luật này sẽ đáp ứng được những mong đợi của tầng lớp nhân dân trong xã hội./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. 2. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, TS. Phạm Thị Giang Thu (Chủ biên), NXB. CAND, Hà Nội, 2008. 3. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2003. 4. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. 5. Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007. 6. Luật Quản lý thuế 2006. 7. Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/12/2004 phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. 8. Tờ trình Chính phủ về Dự án sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Bộ Tài chính. 9. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến vào dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, Báo Nhân dân, ngày 27/03/2008. 10. Phiên họp thứ 7 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII, 11. Hoàn thiện luật thuế thu nhập doanh nghiệp, -----*-----

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008.doc
Luận văn liên quan