Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC
Công nghiệp hóa 1
Một số khái niệm về vấn đề công nghiệp hóa 1Những đặc điểm chủ yếu của quá trình công nghiệp hóa 1Vai trò của công nghiệp hóa trong thời đại ngày nay 2Kinh tế tri thức 3
Một số khái niệm về tri thức và kinh tế tri thức 3Đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức 4Vai trò của kinh tế dựa vào tri thức trong thời đại ngày nay 5Phát triển công nghiệp hóa gắn liền với kinh tế tri thức tại Việt Nam 6
Chương 2:
NHỮNG THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Sơ lược về công nghiệp hóa ở Việt Nam trong giai đoạn trước đổi mới 8Thực trạng phát triển công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 9
Những con số cụ thể 9Đánh giá chung về thực trạng phát triển công nghiệp hóa và kinh tế ở Việt Nam 13
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Mục tiêu phát triển công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam từ nay đến năm 2020 14Những giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam từ nay đến năm 2020 16
Đối với công nghiệp hóa 16Đối với kinh tế tri thức 17
KẾT LUẬN 20
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6744 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và công nghệ mới nhất.[1, trang 91]
Những đặc điểm chủ yếu của quá trình công nghiệp hóa:
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hóa những ngành có điều kiện nhảy vọt.
Hai là, công nghiệp hóa nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa là tất yếu đối với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của công nghiệp hóa có thể khác nhau. Ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Ba là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hóa hiện nay khác với công nghiệp hóa trong thời kỳ trước đổi mới. Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung - hành chính, bao cấp, công nghiệp hóa được thực hiện theo kế hoạch, theo mệnh lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa. Nhưng công nghiệp hóa không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết là các quy luật thị trường.
Bốn là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, vì thế mở cửa kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu đối với đất nước ta.
Vai trò của công nghiệp hóa trong thời đại ngày nay:
Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Công nghiệp hóa chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng xuất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, củng cố và phát triển khối liên minh công - nông - trí, tăng cường sức mạnh và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Công nghiệp hóa tạo điều kiện vật chất xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý, tạo tiền đề cho sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội.
Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hóa kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế tri thức:
Một số khái niệm về tri thức và kinh tế tri thức:
Tri thức là hình thái đặc biệt quan trọng của ý thức xã hội. Đó là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức, quá trình đi sâu vào bản chất của thế giới.[5, trang 7]
Xuyên suốt tiến trình phát triển của nhân loại, tri thức là yếu tố cấu thành nền tảng của xã hội và là cái phân biệt ranh giới giữa các trình độ phát triển khác nhau. Do đó, tri thức có vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội, tri thức nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội và là động lực của xã hội. Xã hội phong kiến phương Đông rất xem trọng tri thức, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Từ những năm 70 của thế kỷ trước, tiến bộ khoa học kỹ thuật dần trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của kinh tế, đã có nhiều cách nói về nền kinh tế tương lai. Ông Z.K.Bazinki gọi đó là “thời đại kỹ thuật điện tử”, Daniel Bell gọi là “thời đại hậu công nghiệp”…
Khái niệm kinh tế tri thức ra đời từ năm 1995 do tổ chức OPCD nêu ra: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy nhiên, khái niệm trên gây ra sự hiểu nhầm dẫn đến một số nước quá tập trung vào phát triển công nghệ cao mà không quan tâm đầy đủ đến ứng dụng tri thức vào tất cả các lĩnh vực kinh tế.
Năm 2000, OECD và APEC đã điều chỉnh lại: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.[4, trang 11]
Đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức:
Kinh tế tri thức phát triển trên cơ sở tri thức, trí lực và sự đầu tư vốn vô hình nên nó có những đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Hai là, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng gia tăng các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức: ngành công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, nghiên cứu phát triển công nghệ…
Ba là, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện khắp cả nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.
Bốn là, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên với mọi người và phát triển con người thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Năm là, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Vai trò của kinh tế dựa vào tri thức trong thời đại ngày nay:
Thời đại của kinh tế tri thức
Nhìn lại lịch sử phát triển kinh lâu dài của nhân loại ta có thể khẳng định “Phi trí bất hưng”, năng lực phát minh và canh tân chính là nhân tố làm nên sự phát triển của con người. Trên cơ sở phân tích nền tảng đại công nghiệp máy móc của sức sản xuất tư bản, Karl Marx đã chỉ ra khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp. Ông nhận xét
“Thiên nhiên không chế tạo máy móc… tất cả những cái đó là những cơ quan của bộ óc con người, do con người tạo ra, đều là sức mạnh vật hóa của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.[6, phần II]
Tri thức mang tính xã hội, do vậy nó thuộc về ai có khả năng biết và sử dụng nó. Trong Báo cáo trình đại hội đồng Liên Hiệp Quốc năm 2000, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thừa nhận: “Tri thức là của chung nhân loại không thể bị chiếm hữu riêng được”.
Sự sáng tạo ra tri thức diễn ra với tốc độ nhanh, quy mô lớn cộng với việc sử dụng kiến thức khoa học - công nghệ vào sản xuất đã trở thành nhu cầu tương đối thường nhật của xã hội, việc sử lý và chuyển giao kiến thức nhanh chóng, rộng khắp nhờ vào sự phát triển vượt bậc của hệ thống công cụ hiện đại, trong đó công nghệ thông tin có vai trò quyết định. Đó là những dấu hiệu rõ rệt khẳng định vai trò của kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức như một lực lượng sản xuất, chắc chắn sẽ có tác động mạnh mẽ đến kiến trúc thượng tầng của xã hội, đến quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, và sẽ dẫn đến những biến động to lớn trong xã hội loài người.[7, trang 49]
Như vậy, kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Công nghệ mới trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng xã hội. Muốn như vậy phải làm chủ được tri thức, biết vận dụng tri thức mới để đảm bảo phát triển bền vững.
Hiện nay, các nước phát triển đang có nhiều lợi thế về nắm bắt tri thức, từ đó chi phối nền kinh tế thế giới. Khoảng cách về thông tin tri thức, sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các nước, thậm chí giữa các nhóm người trong cùng một nước đang gia tăng nhanh chóng. Nhưng chính kinh tế tri thức là chiếc chìa khóa vàng để các nước đang phát triển vươn lên bằng trí tuệ của mình để tránh tụt hậu và bắt kịp xu hướng phát triển chung của toàn cầu.
Phát triển công nghiệp hóa gắn liền với kinh tế tri thức tại Việt Nam
Ngay từ khi khởi thảo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng trong điều kiện thế giới đang tiến nhanh vào giai đoạn mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và qua tình hình thực tế ở nước ta, càng thấy rõ sự bức bách phải làm cho khoa học kỹ thuật thật sự trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Qua các kỳ đại hội, vấn đề này càng được nhấn mạnh, cụ thể ở đại hội Đảng lần thứ IX xác định: Phát triển khoa học công nghệ cùng với phát triển giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.[1, trang 89]
Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định
Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.[2, trang 87]
Trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ những bước đi của quá trình công nghiệp hóa, đòi hỏi những nước đi sau như Việt Nam phải thực hiện đồng thời cả hai quá trình: vừa xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vừa phải phát triển kinh tế tri thức. Một mặt, phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản, mặt khác, phải phát triển những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao.
Là một nước đi sau, có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, có lợi thế về nguồn nhân lực, Việt Nam có điều kiện học tập và trau dồi vốn tri thức, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước đi trước trong khu vực và trên trường quốc tế như Singapore, các nước công nghiệp mới NICs…
Nói tóm lại, kinh tế tri thức là thời cơ mà chúng ta dứt khoát phải tận dụng để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa mang tính đặc thù của Việt Nam, tăng cường năng lực nội sinh, chủ động hội nhập quốc tế là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của công nghiệp hóa rút ngắn dựa vào tri thức ở Việt Nam.
Chương 2:
NHỮNG THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Sơ lược về công nghiệp hóa ở Việt Nam trong giai đoạn trước đổi mới:
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Đảng và nhân dân ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng và thống nhất đất nước, đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa
Bước đầu đạt một số thành tựu quan trọng: hoàn thành kế hoạch 5 năm trong vòng 4 năm 3 tháng,… Đặc biệt chú trọng phát triển công nghiệp nặng, trong khi đất nước ta vừa mới giành được độc lập là một mục tiêu quá sức, thêm vào đó tình trạng nhân công thiếu tay nghề, không được đào tạo, không tạo được sức bậc cho nền kinh tế.
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng còn nhiều bất cập, hàng sản xuất năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, do tâm lý ỷ lại của công nhân. Nền kinh tế èo uột do thiếu mất động cơ lợi ích.
Quản lý lỏng lẻo, một số đảng viên thoái hóa đạo đức, tham nhũng, tiêu cực, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Công nghệ cao hầu như không phát triển, nền kinh tế dựa vào viện trợ và vay nợ.
Thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thiết lập chế độ tem phiếu, bao cấp, ngăn sông cấm chợ,… thêm vào đó nước ta bị cấm vận kéo dài nên nền kinh tế rơi vào suy thoái trầm trọng.
Nhận thấy tình hình đất nước đang bên bờ vực thẳm, Đại hội Đảng năm 1986 quyết định đưa đất nước ta vào giai đoạn mới: đổi mới.
Thực trạng phát triển công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới:
Những con số cụ thể:
Trong gần hai thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành quả rất đáng mừng, nhất là tốc độ tăng trưởng cao, tạo nền tảng quan trọng sự phát triển kinh tế tri thức cũng như công nghiệp hóa, thể hiện ở các mặt sau:
Về cơ cấu kinh tế, bước đầu đã hình thành một số ngành công nghiệp có tính chất chủ lực, tạo tiền đề cho phát triển nhanh nền kinh tế với tốc độ cao. Chỉ tính trong 10 năm, sản lượng dầu thô tăng gấp 6,1 lần, điện gấp 3 lần, thép cán gấp 14 lần…Xuất hiện một số ngành mới sử dụng công nghệ tiên tiến, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm như lắp ráp ô tô, chế tạo đèn hình ti vi, có giá trị xuất khẩu.
Hình ảnh một khu chế xuất
Về kết cấu hạ tầng cơ sở, hệ thống giao thông vận tải được mở rộng, các trục giao thông liên vùng đã cơ bản nâng cấp; cải tạo nâng cấp nhiều cảng biển, cả nước hiện có 92 cảng, tổng chiều dài là 24.000m cầu tầu, hơn 3,2 triệu m2 kho bãi; mở rộng sân bay quốc tế ở cả ba miền, cả nước có 52 sân bay với nhiều máy bay hiện đại như Boeing 767, 777… và các đường bay trực tiếp sang châu Âu, Hoa Kỳ, các nước châu Á…
Đến năm 2002, cả nước có khoảng 5,7 triệu thuê bao điện thoại cố định, 19 triệu thuê bao di động, 92% số xã có điện thoại; số hộ sử dụng điện lưới quốc gia tăng từ 58,6% năm 1990 lên 77% năm 2001, đạt 100% số xã vùng nông thôn các tỉnh đồng bằng sông Hồng có điện.
Về mặt giáo dục, đã hình thành được đội ngũ lao động có tri thức, một số lĩnh vực đạt trình độ quốc tế, số lao động có trình độ đại học cao đẳng tăng gấp 2,3 lần năm 1989.
Về quan hệ quốc tế, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 14; gia nhập OPEC, WTO, ký hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ… đã có quan hệ trao đổi thương mại với hơn 60 quốc gia trên thế giới.
Bước đầu hình thành những ngành sản phẩm có ý nghĩa chủ lực, năng lực cạnh tranh ngày càng rõ nét; việc chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm được xác định để phát triển công nghiệp và các ngành dịch vụ, các vùng kinh tế trọng điểm và các thành phố lớn. Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương …
Thế nhưng hiệu quả kinh tế, chất lượng tăng trưởng còn rất thấp, nhiều vấn đề bức xúc về xã hội chưa được giải quyết, đang tiềm ẩn nguy cơ phát triển không bền vững.
Nền kinh tế nước ta đang còn là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động tay chân, năng suất thấp, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn chiếm trên 70%, tỷ lệ nguồn nhân lực lao động có trình độ cao còn rất thấp, chỉ có 5% lao động có trình độ đại học, trên 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chỉ có 1,5% lực lượng lao động được qua đào tạo.
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do vốn với tỷ lệ là 64%, TFP chỉ đóng góp có 19%. Cơ cấu kinh tế vẫn còn nặng về nông nghiệp và khai thác tài nguyên, thuộc loại cơ cấu kinh tế kém hiệu quả của các nước đang phát triển. Năm 2006 trong GDP tỷ lệ nông nghiệp còn chiếm đến 20,36%, công nghiệp 41,56%, dịch vụ chỉ 38,08%. Trong khi đó, tính bình quân trên toàn thế giới năm 1998, tỷ lệ nông nghiệp là 5%, công nghiệp 34%, dịch vụ 61%.
Sức cạnh tranh còn thấp, đầu tư kém hiệu quả. Theo đánh giá của WB, năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2001 xếp thứ 62, năm 2002 xếp thứ 60 trong 80 nước tham gia xếp hạng. Hệ số ICOR trong những năm gần đây lên đến 5,1; có xu hướng là nền kinh tế vay mượn. Giá thành một số sản phẩm còn cao, không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, chẳng hạn, giá xi măng sản xuất trong nước cao gấp 1,2 - 1,3 lần giá xi măng quốc tế; các ngành sản xuất giấy, da giầy, công nghiệp chế biến,… mẫu mã kém, thấp thua so các nước khác.
Giá trị xuất khẩu tuy khá cao nhưng kém hiệu quả. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản ít qua chế biến và nguyên liệu thô dẫn đến sản lượng nông sản tăng mạnh nhưng doanh thu xuất khẩu nông sản giảm. Năng suất một số cây trồng còn thấp, ví dụ: lúa đạt 55,3 tạ/ha (Trung Quốc: 62,5 tạ/ha, Hàn Quốc: 62 tạ/ha), ngô đạt 31,1 tạ/ha (Trung Quốc: 54 tạ/ha, Úc: 80 tạ/ha). Tỷ lệ sản phẩm chế biến chỉ chiếm 24%, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch lớn: lúa 13 - 15%, rau quả 25 - 30%, lương thực 13 %, đường thủ công 30-40 %...
Bảng 2 - Số liệu về hệ thống đổi mới
Các chỉ số
G7
Hàn Quốc
Trung Quốc
Malai-xia
Thái Lan
Inđônêxia
Việt Nam
FDI/GDP, %
-
0,67
4,09
5,53
4,08
1,71
7,17
Chỉ số tđ công nghệ
-
0,67
0,3
0,4
0,34
0,3
0,2
TM CNchế biến/GDP%
33,9
56,0
36,1
166,0
81,5
83,2
24,3
Cán bộ R&D /1 vạndân
35
16
6,5
4
5
6
6
Tạp chí KH/ 1 vạn dân
6,15
4,6
2,11
2,65
1,94
1,15
0,6
CN cao/SP chế biến,%
22,1
32
17
59
32
59
-
Tổng chi R&D/GDP,%
2,27
2,82
0,66
0,24
0,13
0,22
0,4
Bảng 3 - Số liệu về nguồn nhân lực
Các chỉ số
G7
Hàn Quốc
Trung Quốc
Malaixia
Thái Lan
Inđônêxia
Việt Nam
Tỷ lệ biết chữ, %
99,0
97,6
83,5
87,0
95,3
95,0
93,1
Tỷ lệ đi học Trung học, %
109
100
62
98
88
77
61
Tỷ lệ đi học ĐH,CĐ, %
59,6
66
6
11
30
28
11
Số SV ĐH, CĐ/1 vạn dân
2096
2981
404
Bảng 4 - Số liệu về chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông
Các chỉ số so sánh
G7
Hàn Quốc
Trung Quốc
Malaixia
Thái Lan
Inđônêxia
Việt Nam
Số ĐThoại/1nghìn dân
7,2
6,94
5,15
6.02
4,87
4,8
3,3
Số TV /1 nghìn dân
6,48
5,89
5,68
5,16
5,67
4,7
5,21
Số báo chí/1 nghìn dân
5,48
5, 97
-
5,06
4,14
4,37
1,39
Số PC/ 1 nghìn dân
5,7
5,2
2,5
4,23
3,12
2,83
2,19
Số internet host/1nghìn dân
5,97
4,62
0,52
3,35
2,29
1,17
0,52
Chỉ số sẵn sàng điện tử
4,88
3,1
4,29
3,53
3,27
2,42
Nguồn WB (2001)
Chỉ số phát triển kinh tế tri thức theo phương pháp đánh giá của WB là 1,9 rất thấp so với các nước trong khu vực. Lượng truy cập mạng viễn thông và Internet của Việt Nam còn thấp so với khu vực và thế giới. Mạng viễn thông đường trục và liên tỉnh, mạng viễn thông quốc tế… tuy đã được mở rộng nhưng giá cả còn khá cao so với thu nhập của người dân. Phần lớn các thuê bao Internet tập trung chính tại các thành phố, tốc độ và chất lượng mạng còn rất thấp, trang web tiếng Việt còn ít, không hấp dẫn. Công nghiệp phần cứng chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng kim ngạch thị trường công nghệ thông tin của Việt Nam nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở lắp ráp máy tính sử dụng các linh kiện nhập khẩu nước ngoài, hầu như không có hoạt động nghiên cứu, sản xuất khác.
Tỷ trọng nhóm ngành công nghệ cao của nước ta ước khoảng 20%, trong khi đó Thái Lan là 31%, Singapore 73%, Malaysia 51%, theo tiêu chí để đạt trình độ nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải 60%. Tốc độ đổi mới công nghệ của cả nước đạt khoảng 10%, so với các nước tiên tiến trên thế giới là rất thấp. Trong công nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp tự động hóa chỉ chiếm khoảng 1,9%, bán tự động là 19,6%, cơ khí hóa 26,6%, bán cơ khí hóa 35,7%, thủ công 16,2%.
Đánh giá chung về thực trạng phát triển công nghiệp hóa và kinh tế ở Việt Nam:
Những số liệu trên nói lên rằng, nền kinh tế nước ta chưa thật sự dựa vào tri thức, chưa phát huy được tiềm năng trí tuệ con người Việt Nam, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, tính ưu việt của chế độ chính trị xã hội. Đáng lo ngại hơn là khoảng cách so với các nước xung quanh trong hơn một thập kỷ qua không rút ngắn được mà còn có xu hướng doãng ra. Thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay là trình độ chung về hiện đại hóa nông nghiệp còn thấp, thiếu công nghệ hiện đại, năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tương đối thấp, công nghiệp và dịch vụ tuy đã hình thành nhưng còn nhiều bất cập.
Là nước đi sau, Việt Nam còn gặp phải bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ luật lệ quốc tế… Bên cạnh đó, ta phải đối mặt với tình trạng tài nguyên và môi trường ngày một xuống cấp, dân số và việc làm ngày một gay gắt.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có những thuận lợi bước đầu như: vị trí địa lý nằm ở trung tâm Đông Nam Á, nguồn lao động dồi dào, nhân công thấp, siêng năng, tiếp thu nhanh các công nghệ hiện đại, đây là lợi thế cạnh tranh vô cùng to lớn trong thời đại công nghiệp hóa tiến tới xây dựng kinh tế tri thức.
Xác định rõ tình hình đất nước Đảng và nhân dân ta quyết tâm thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [1, trang 86]
Chương 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
Mục tiêu phát triển công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam từ nay đến năm 2020:
Kinh tế tri thức là chiếc chìa khóa vàng để phát triển công nghiệp hóa.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của giai đoạn 2006 - 2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; tăng cường an ninh quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người. Đến năm 2010, GDP gấp hơn 2,1 lần so với năm 2000. Trong năm 2006 - 2010, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5 - 8 %/năm, phấn đấu đạt trên 8 %/năm. [2, trang 76]
Theo tinh thần đó, đến năm 2020, nền kinh tế tri thức sẽ bắt đầu hình thành ở Việt Nam. Khi đó, GDP đầu người chỉ khoảng 16.000 - 20.000 USD, nhưng trình độ của nền sản xuất là tiên tiến: khoảng 50% GDP là do tri thức tạo ra, khoảng 1/3 lực lượng lao động là công nhân tri thức, trình độ công nghệ hiện đại, năng suất lao động cao, tốc độ tăng trưởng cao, có nền văn hóa phát triển với nhiều bản sắc dân tộc; đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân không ngừng cải thiện, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, không có sự cách biệt quá xa về giàu nghèo. [9, phần 4]
Cụ thể như sau:
Về cơ cấu kinh tế, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt 90% trở lên, trong đó tỷ trọng công nghiệp đạt khoảng 40 - 50% GDP, tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 10% trở xuống.
Về hội nhập kinh tế quốc tế, đạt trình độ cao, tăng xuất khẩu gấp 2-3 lần hội nhập với thị trường thế giới về nhiều lĩnh vực.
Về trình độ hiện đại hóa, năng suất lao động xã hội đạt khoảng 10.000 USD/lao động/năm; áp dụng công nghệ hiện đại khoảng 60%, tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70 - 75%; tỷ trọng lao động có trình độ cao đạt khoảng 30%, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và quản lý kinh tế (100% công sở và doanh nghiệp sử dụng công nghệ thông tin).
Về mức sống và văn hóa xã hội, chỉ số HDI đạt nhóm 30-40, tỷ lệ lao động được đào tạo đạt trên 70%, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong phạm vi cả nước, tuổi thọ bình quân là 75, nhà ở đô thị đạt trên 20m/người, cả nước không còn hộ nghèo, hệ số GINI nhỏ hơn 0,4.
Về thể chế, chính sách, môi trường kinh doanh: Hệ thống đổi mới quốc gia được xác lập, hoạt động hữu hiệu, thúc đẩy mọi hoạt động của xã hội theo hướng sáng tạo. Mạng lưới này bao gồm hệ thống sáng tạo tri thức, hệ thống truyền bá và ứng dụng tri thức; các hệ thống này liên kết chặt chẽ với nhau, hoạt động nhịp nhàng, thúc đẩy sự sản sinh ra nhiều tri thức, nhân nhanh vốn tri thức, biến tri thức thành giá trị, bảo đảm cho thị trường hoạt động thật sự có hiệu quả và nền kinh tế quốc gia hội nhập vững vàng vào quá trình toàn cầu hóa.
Về giáo dục, trình độ học vấn trung bình của lực lượng lao động đạt trên lớp 12, tỷ lệ học theo chế độ học tập suốt đời đạt ít nhất 1/3. Số sinh viên bậc cao đẳng và đại học đạt 1500 - 2000 người trên một vạn dân.
Về năng lực khoa học công nghệ: theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới, làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô. Ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các công nghệ trên, đặc biệt là công nghiệp công nghệ thông tin có tốc độ tăng trưởng 35 %/năm, đảm bảo máy tính cá nhân thương hiệu Việt Nam có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh, đáp ứng 90% nhu cầu nội địa và bước đầu xuất khẩu. Đặt ra mục tiêu đến năm 2010, ngành công nghiệp phần mền Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 35 - 40%/năm, tổng doanh thu từ phần mềm và dịch vụ đạt trên 800 triệu USD/năm, xây dựng được trên 10 doanh nghiệp phần mềm có quy mô nhân lực trên 1000 người và 200 doanh nghiệp phần mềm có quy mô nhân lực trên 100 người.
Những giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam từ nay đến năm 2020:
Đối với công nghiệp hóa:
Về nông nghiệp và nông thôn, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn và đổi mới các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hóa các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật; làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này; đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của nông dân; nâng cao trình độ và đảm bảo tính đồng bộ các nguồn đào tạo nông thôn thông qua chính sách đào tạo và dạy nghề.
Về công nghiệp, cần nhanh chóng xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2020; cải thiện vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển công nghiệp hướng tới việc huy động hữu hiệu các nguồn lực và khai thác tốt các tiềm năng của đất nước; chú trọng phát huy lợi thế so sánh và dựa trên năng lực cạnh tranh của các ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; đặc biệt cần chú trọng đến việc huy động nguồn lực tiềm tàng của các loại hình doanh nghiệp.
Về dịch vụ, cần tiến hành cấp bách việc rà soát các ngành dịch vụ để đánh giá hiện trạng, năng lực cạnh tranh, tiềm năng và xu hướng phát triển của chúng, trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phát triển các ngành dịch vụ của Việt Nam từ nay đến năm 2020; tăng cường huy động các nguồn lực trong xã hội bằng cách mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân và nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh các ngành dịch vụ, giảm thiểu độc quyền nhà nước, tăng cạnh tranh trên thị trường; nhà nước cần có các chính sách trợ giúp thích hợp những doanh nghiệp mới tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ nhất là về phát triển nguồn nhân lực.
Đối với kinh tế tri thức:
Việt Nam đặt mục tiêu phát triển nhanh để rút ngắn khoảng cách với các nước xung quanh. Muốn vậy, một trong những biện pháp quan trọng là đẩy mạnh tiết kiệm, đầu tư để tích lũy tư bản, nhưng quan trọng hơn là ngay từ bây giờ phải nổ lực làm cho nền kinh tế phát triển có hiệu suất sơ bộ. Cụ thể như sau:
Một là, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tạo nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa dựa trên tri thức. Điều kiện để tạo được lợi thế cạnh tranh trong thời đại ngày nay là đầu tư phát triển nguồn nhân lực đi đôi với cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới hệ thống hành chính. Do đó, vai trò của giáo dục và đào tạo là cực kỳ quan trọng. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi, đầu đàn trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, quản lý kinh doanh, thực hiện việc đánh giá đúng và thù lao xứng đáng với kết quả lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức; xây dựng và thực hiện cơ chế đánh giá, tuyển chọn, và sử dụng hợp lý; thường xuyên giáo dục chính trị, đạo đức, không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ trí thức.
Có sử dụng tốt thì mới có giáo dục tốt
Có trọng dụng người tài thì mới có nhiều người tài.
Hồ Chí Minh
Hai là, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ, thiết lập hệ thống đổi mới quốc gia, nhằm tăng cường khả năng làm chủ các tri thức mới của thời đại, tăng cường khả năng sáng tạo và biến tri thức thành giá trị. Trước hết là đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh sôi động, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền; kiên quyết xóa bỏ tận gốc mọi hình thức biến tướng của cơ chế bao cấp, thúc đẩy sự hình thành thị trường công nghệ, khuyến khích sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học; có chính sách ưu đãi mạnh mẽ để thu hút đầu tư nước ngoài về lĩnh vực công nghệ cao; phát triển mạnh các dịch vụ tư vấn.
Ba là, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, đây là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới mọi lĩnh vực đi nhanh vào kinh tế tri thức. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực để đổi mới và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân truy cập thông tin, thực hiện hài hòa giữa việc kiểm soát với quyền tự do thông tin, giữ gìn và phát huy bản sác văn hóa dân tộc, khắc phục sự cách biệt về thông tin giữa các vùng.
Bốn là, đổi mới cơ chế chính sách, cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, là khâu đột phá đi vào kinh tế tri thức. Nhanh chóng hình thành, và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế tri thức định hướng xã hội chủ nghĩa, để có thể thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy mọi khả năng sáng tạo, tạo điều kiện cho mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát huy hết khả năng của mình đóng góp vào phát triển sản xuất. Tiến tới thực hiện chính phủ điện tử để cho bộ máy Nhà nước có hiệu lực hơn, nhanh nhạy hơn và có trách nhiệm hơn, để thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được sâu sắc và toàn diện hơn.
KẾT LUẬN
Ngày nay trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão, nhiều công nghệ mới ra đời, trong đó công nghệ thông tin phát triển rất nhanh, nó đã và sẽ tiếp tục giữ vai trò tổng hợp trong sự tác động của con người đối với quá trình sản xuất và các hoạt động khác, đồng thời nó cũng đóng vai trò chuyển đổi một thời đại phát triển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào tri thức. Và nền kinh tế dựa vào tri thức đến lượt nó lại mở đường cho các nền kinh tế đang phát triển, khả năng tiếp nhận công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin để cơ cấu lại nền kinh tế coi phát triển công nghệ thông tin là hướng ưu tiên hàng đầu để hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn thông qua các hoạt động tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, vốn và tri thức kinh doanh, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế đang mở ra nhiều cơ hội đối với các quốc gia, dân tộc trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, cũng đem lại không ít thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Chính vì thế, phát triển công nghiệp hóa gắn liền với kinh tế tri thức đã và đang, đưa Việt Nam tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, đó cũng là con đường ngắn nhất để ta có thể đi tắt, đón đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, như lời Bác Hồ căn dặn:
“Nước Việt Nam ta có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn công học tập của các cháu…”
DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, 2006
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, 2006
Đặng Hữu, Kinh tế tri thức - thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2004
Đặng Hữu, Phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, 2004
Lê Cao Đoàn, Kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện sự phát triển định hướng hiện đại, rút ngắn, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 2003
Mác-Ăngghen, Toàn tập, tập 46, Nxb Chính trị quốc gia, 2000
Ngô Qúy Tùng, Kinh tế tri thức - xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2001
Website Đảng Cộng Sản Việt Nam, Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế tri thức, ngày 25/11/2004, cập nhật lúc 16h29'
Website Việt Nam Net, Đến năm 2020: 50% GDP sẽ do kinh tế tri thức tạo ra, ngày 13/02/2004, cập nhật lúc 6h11'
Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê.
PHỤ LỤC
Một số tên viết tắt trong đề án:
APEC (Asia Pacific Economic Cooperation): Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương.
GDP (Gross Domestic Product ): Tổng sản phẩm quốc nội.
GINI: Hệ số dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
HDI (Human develop index): Chỉ số phát triển con người.
ICOR (Incremental Capital Output Ratio): Hệ số giá trị sản phẩm gia tăng.
OECD (Organization For Economic Cooperation and Development): Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế.
TFP (Total Factor Productivities) : Năng suất tổng hợp
WB (World Bank): Ngân hàng thế giới.
WTO(World Trade Organization): Tổ chức thương mại thế giới.
WB (World Bank): Ngân hàng thế giới.
Bức tranh toàn cảnh CNTT Việt Nam 2006
21/12/2006
Năm 2006 với những sự kiện CNTT lớn, có những tác động sâu sắc đến nền kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước đang sắp sửa đi qua. Giờ là lúc chúng ta cùng nhìn lại những sự kiện ấy, cùng ngắm lại toàn cảnh bức tranh CNTT Việt Nam 2006. Sau đây là 20 "nét bút" ấn tượng nhất trong "bức tranh" đa sắc ấy, 20 sự kiện CNTT tiêu biểu 2006, do các nhà báo thuộc CLB nhà báo CNTT Việt Nam bình chọn.
1. Bill Gates đến Việt Nam.
Ngày 22/4/2006, Bill Gates - Chủ tịch kiêm Kiến trúc sư trưởng Tập đoàn Phần mềm khổng lồ thế giới Microsoft đã có chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam, theo lời mời của Thủ tướng Phan Văn Khải. Cho dù chuyến thăm của nhà tỉ phú giàu nhất hành tinh chưa thể tạo ra những đột biến về đầu tư của Microsoft tại Việt Nam, song với tầm ảnh hưởng của Chủ tịch Bill Gates, đây được coi là sự kiện có tác động hết sức quan trọng tới sự phát triển của CNTT Việt Nam nói riêng và hình ảnh của Việt Nam trong con mắt cộng đồng thế giới nói chung.
2. Đầu tư của Intel vào Việt Nam - giấy phép 605 triệu USD và giấy phép tăng vốn lên 1 tỷ USD.
Ngày 28/2/2006, Intel - Tập đoàn sản xuất bộ vi xử lý hàng đầu thế giới – đã chính thức được Chính phủ Việt Nam trao giấy phép đầu tư xây dựng Dự án Nhà máy lắp ráp và kiểm thử chip (ATM) tại Khu Công nghệ Cao TP. HCM, với vốn đầu tư 605 triệu USD. Chỉ 9 tháng sau, Tập đoàn này đã quyết định mở rộng quy mô và nâng mức vốn đầu tư dự án lên 1 tỷ USD, đưa nhà máy ATM của Intel tại Việt Nam trở thành nhà máy lớn nhất trong hệ thống các cơ sở lắp ráp và kiểm định chip bán dẫn của Intel trên toàn cầu. Sự kiện này một lần nữa khẳng định: Việt Nam thực sự là một điểm đến hấp dẫn của cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài. Sự kiện đã gây một tiếng vang lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút sự quan tâm của giới đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư của Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao.
3. Thêm hai mạng di động CDMA 096 và 092 đi vào hoạt động.
Hai mạng di động CDMA là 096 của EVN Telecom và 092 của Hanoi Telecom đã cung cấp dịch vụ trong năm 2006. Thế nhưng, hai mạng di động này chưa thể tạo ra được “cú sốc thị trường” như mạng Viettel Mobile đã từng làm. Hết năm 2006, thị trường di động Việt Nam đã điểm đủ mặt 6 mạng di động, chia đều cho 2 công nghệ với 3 mạng di động sử dụng CDMA và 3 mạng di động sử dụng công nghệ GSM. Mạng 092 của Hanoi Telecom nhập cuộc khá muộn vào cuối năm với chương trình thử nghiệm “Một thế giới Free” - gần như miễn phí sử dụng cho người dùng trong giai đoạn thử nghiệm, hứa hẹn một sự sôi động mới cho thị trường thông tin di động vào cuối năm âm lịch 2006 và năm mới 2007.
4. Chính thức cho phép đăng ký tên miền cấp 2 .vn
Ngày 14/8, Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) chính thức cho phép tất cả các tổ chức trong và ngoài nước đều có thể đãng ký tên miền cấp 2 .vn. Ngay lập tức số người đến đãng ký tên miền cấp 2 .vn đã tăng đột biến. Tên miền cấp 2 .vn có ưu điểm ngắn gọn và dễ nhớ và là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thương mại của các doanh nghiệp và góp phần thúc đẩy việc phát triển Internet ở Việt Nam.
5. Thử nghiệm công nghệ WiMax.
Bộ BCVT đã cấp phép cho 4 doanh nghiệp là VNPT, Viettel, VTC và FPT được thử nghiệm công nghệ WiMax trong thời hạn 1 năm. Ngày 27/10/2006, VNPT và Intel đã chính thức khai trương dự án thử nghiệm dịch vụ mạng WiMAX tại Lào Cai. Ngày 11/12, Viettel cũng chính thức công bố đưa vào sử dụng thử nghiệm dịch vụ này cả tại 3 loại thiết bị đầu cuối:trong nhà, ngoài trời và di động. Theo Viettel, dự kiến với sự chấp thuận của Bộ BCVT, WiMax di động sẽ được cung cấp đến các đối tượng có nhu cầu vào giữa năm 2007 và mở rộng toàn thị trường vào cuối năm này. VTC cũng đã tiến hành thử nghiệm công nghệ này và dự kiến cung cấp dịch vụ cho khách hàng vào đầu năm 2007. Cả 3 doanh nghiệp VNPT, Viettel và VTC đều khẳng định đây là công nghệ hứa hẹn sự phát triển mạnh trong tương lai với xu hướng băng rộng không dây.
6. Microsoft bắt đầu “gặt hái tiền” tại Việt Nam.
Sau nhiều năm trơ mắt nhìn người khác sử dụng chùa phần mềm của mình tại Việt Nam, Microsoft đã có được những hợp đồng bản quyền phần mềm nặng “ký lô” đầu tiên như với Bộ Tài chính, Ngân hàng Ngoại thương VN, FPT, Ngân hàng Đầu tư và phát triển VN… Sự kiện Microsoft bắt đầu “gặt hái tiền” bản quyền phần mềm cũng trùng với thời điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp bắt đầu lo lắng và “lè lưỡi” khi nghĩ đến việc phải bỏ ra những khoản tiền rất lớn để mua bản quyền phần mềm của người khổng lồ Microsoft, còn các đại lý của Microsoft đã nhìn thấy những khoản hoa hồng “khá hời” từ việc bán các phần mềm của hãng phần mềm khổng lồ này.
7. Đại học FPT - Trường Đại học đầu tiên của một doanh nghiệp CNTT.
Đại học tư thục FPT đã chính thức được thành lập và bắt đầu tuyển sinh ngay năm học 2006 -2007 đi kèm với nhiều vụ “xé rào” rất... FPT. Ngay khi mới được ký quyết định thành lập, FPT đã công bố sẽ ký hợp đồng với tất cả sinh viên tốt nghiệp khoá I với mức lương từ 200 - 400 USD. Tiếp đó là việc FPT công bố mức học phí “động trời”: từ 2.200 -3.500 USD/năm và công bố tuyển sinh khi chưa “xin phép” Bộ Giáo dục và Đào tạo, rồi bị “tuýt còi”. Tuy nhiên, cuối cùng thì Đại học tư thục FPT cũng được phép tuyển 500 sinh viên trong khoá học đầu tiên.
8. Sự xuất hiện của hàng loạt virus “nội” gây nên hiệu ứng “sợ đường link” trên Yahoo Messenger, chodientu.com bị hack… đã làm nóng lên vấn đề bảo mật, an toàn an ninh mạng năm 2006.
Năm qua, cư dân mạng Việt Nam được chứng kiến "đại dịch" virus "nội" bùng phát. Khởi đầu từ vụ phát tán virus GaiXinh của một sinh viên Khoa Tin học Kinh tế (ĐH KTQD) đầu tháng 4/2006, cộng đồng sử dụng máy tính trong nước liên tiếp phải đối mặt với những vụ phát tán virus tiếp theo. Với phương thức phát tán virus mới tuy đơn giản nhưng lây lan cực nhanh là các đường link hiện trên các cửa sổ Yahoo Chat, một hiệu ứng “sợ đường link” đã loang ra trên khắp cộng đồng sử dụng Yahoo Messenger. Bên cạnh những vụ phát tán virus, sức nóng của vấn đề bảo mật, an toàn an ninh mạng tại Việt Nam ngày càng tăng với các sự kiện hacker tấn công, phá hoại các trang web. Trong đó, tiêu biểu là sự kiện website thương mại điện tử chodientu.com bị đánh sập bởi một hacker "kỳ cựu" nhưng có tuổi đời còn rất trẻ, hiện là sinh viên trường Genetic Đại học Bách Khoa Hà Nội. Kẻ tấn công chodientu.com đã bị phát hiện nhưng vấn đề phải xử lý thế nào cho đến nay vẫn còn là dấu hỏi…
9. Chất lượng các mạng di động bất ổn.
2006 là năm khách hàng của các mạng di động liên tục kêu ca về chất lượng các mạng di động như rớt cuộc gọi, tính cước sai, tin nhắn chậm hay thuê bao "chết" trong vùng phủ sóng… Trong khi đó, các mạng di động vẫn liên tục lao vào các cuộc chạy đua khuyến mại gây sốc để thu hút các thuê bao mới. Thậm chí các mạng di động khuyến mãi quá đà dẫn đến xu hướng tiêu dùng "mua SIM thay cho mua thẻ cào" để hưởng khuyến mại. Hệ quả của cuộc chạy đua này là số thuê bao ảo tăng vọt tới trên 50% số thuê bao phát triển được. Bộ BCVT đã tiến hành đo kiểm tra chất lượng các mạng di động trong năm 2006 và kết luận chất lượng các mạng di động suy giảm, đặc biệt là dịch vụ thoại. Bên cạnh đó Bộ BCVT cũng soạn thảo mẫu biểu báo cáo để tránh tình trạng các mạng di động khai vống thuê bao dẫn đến tình trạng thuê bao ảo.
10. ADSL hạ giá kỷ lục.
Năm 2006 đánh dấu sự bùng nổ khủng khiếp của dịch vụ ADSL đi kèm với sự phát triển chóng mặt của các trung tâm game online. Cùng với việc đầu tư cực lớn cho hạ tầng ADSL, các công ty cung cấp dịch vụ ADSL cũng đưa ra các chương trình khuyến mại thuộc diện “không tưởng” trong lịch sử ngành dịch vụ Internet của Việt Nam. Vào thời điểm gần cuối năm, Viettel gây choáng váng thị trường với việc cho khách hàng sử dụng ADSL “tẹt ga” chỉ với 30.000 đồng/tháng, tặng modem ADSL 2+... Trước đây khách hàng đăng ký mới ADSL phải mất hàng triệu đồng để lắp đặt, mua modem thì nay khi đăng ký mới còn được tặng thêm tiền lên tới cả triệu đồng.
11. VOIP tính cước theo block 6 + 1 và tính cước một vùng.
Ngay sau khi Viettel Telephone áp dụng phương thức tính cước 6 +1 cho toàn bộ dịch vụ VOIP (liên tỉnh và quốc tế), VNPT và Saigon Postel cũng công bố áp dụng tính cước 6+1 cho các khách hàng của mình. Hàng triệu khách hàng Việt Nam đã không còn phải trả tiền cho những gì họ không nói. Thêm vào đó, sau khi áp dụng tính cước 1 vùng, VNPT cũng giảm số vùng tính cước đối với dịch vụ VOIP trong nước xuống còn 2 vùng, Viettel Telephone thì áp dụng chỉ một vùng cước duy nhất cho VOIP trong nước.
12. Cú sốc của ngành game online Việt Nam.
Ngày 15/11/2006, một cú sốc đã xảy ra đối với ngành công nghiệp game online Việt Nam: Sở Bưu chính Viễn thông TP Hồ Chí Minh đã ra quyết định phạt tiền và đình chỉ đối với toàn bộ 13 game online đang cung cấp tại Việt Nam. Ngay sau khi quyết định được ban hành, không chỉ có 6 công ty cung cấp dịch vụ game online mà hàng triệu game thủ Việt Nam cũng rơi vào tình trạng choáng váng. Làn sóng bán đồ ảo với giá rẻ mạt đã nổ ra trong game ăn khách số 1 Việt Nam: “Võ Lâm Truyền Kỳ”. Tuy nhiên, có một điểm thú vị trong các quyết định xử phạt mà không có nhiều người được biết đến: Sở Bưu chính Viễn thông TP Hồ Chí Minh không chỉ xử phạt 3 công ty tại TP Hồ Chí Minh mà gửi quyết định xử phạt luôn 3 công ty có trụ sở chính tại Hà Nội.
13. Làn sóng viết blog của người nổi tiếng và cả những người bình thường sau khi viết blog cũng trở thành người nổi tiếng .
Năm 2006 đã chứng kiến sự bùng nổ của làn sóng viết blog - một dạng nhật ký cá nhân được viết trên mạng. Những người nổi tiếng cũng tham gia viết Blog trong khi đó, chính những người bình thường, nhờ viết Blog lại trở thành những người nổi tiếng trong cộng đồng dân cư mạng. Nhiều Blog đã thu hút được hàng triệu người truy cập và có Blog đạt được số lượt truy cập trong ngày tương đương với một tờ báo điện tử… Blog đã nhanh chóng trở thành một phần quan trọng trong đời sống ảo của cộng đồng dân cư mạng tại Việt Nam. Từ Blog, nhiều hoạt động có ích cho xã hội đã được phát động như quyên góp sách cho trẻ em nghèo, kêu gọi hiến máu nhân đạo…Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực, Blog cũng gây ra không ít những tình huống bi hài trong cộng đồng dân cư mạng. Khi vấn đề quản lý thông tin từ Blog còn được bỏ ngỏ, không ít những người đã lợi dụng Blog để "trưng" góc nhìn "bẩn" lên mạng, tuyên truyền văn hoá phẩm đồi truỵ, nói xấu cá nhân và không ít những Blog được trình bày phản cảm...
14. Viettel cung cấp các dịch vụ viễn thông tại Campuchia.
Ngày 25/5/2006, Bộ BCVT Campuchia đã cấp phép cho Viettel được phép cung cấp dịch vụ VoIP quốc tế tại thị trường Campuchia với thời hạn 35 năm. Tiếp theo đó, ngày 27/9/2006, Viettel đã chính thức cung cấp dịch vụ VoIP quốc tế tại Campuchia. Như vậy, với sự kiện này, Viettel đã trở thành doanh nghiệp viễn thông đầu tiên của Việt Nam đầu tư cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ tại thị trường nước ngoài. Ngày 29/11/2006, Bộ BCVT Campuchia đã cấp phép cho Viettel cung cấp 2 dịch vụ là di động và Internet tại thị trường nước này. Dự kiến trong năm 2007, Viettel sẽ triển khai cung cấp hai dịch vụ này tại thị trường Campuchia.
15. Thủ tướng chính phủ làm Trưởng ban chỉ đạo quốc gia về CNTT.
Ngày 9/8/2006, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 1046/QĐ-TTg về việc điều chỉnh phân công người đứng đầu một số tổ chức tư vấn, phối hợp liên ngành do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ làm Trưởng ban Ban Chỉ đạo Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa giai đoạn 2001 - 2005 (Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT) được thành lập theo Quyết định số 176/2002/QĐ-TTg ngày 3/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ). Trước đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm đã đảm nhận cương vị này. Đây là lần đầu tiên, người đứng đầu Chính phủ đảm nhận cương vị Trưởng ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT và rất có thể sẽ mang lại những đột phá phát triển mới, mạnh mẽ và hiệu quả hơn, cho ứng dụng và phát triển CNTT Việt Nam giai đoạn tới.
16. Nóng bỏng vấn đề bản quyền truyền hình bóng đá-hoa hậu.
Sự kiện FPT trúng thầu bản quyền truyền hình World Cup 2006, được độc quyền khai thác toàn bộ hình ảnh âm thanh và tín hiệu của World Cup 2006 tại Việt Nam đã gây ra một cú sốc và đã đẩy các đài truyền hình khác vào một thế tiến thoái lưỡng nan. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, không chỉ có các đài truyền hình khác (trừ VTV và HTV) mà cả các doanh nghiệp tại Việt Nam khi muốn khai thác các hình ảnh của World Cup 2006 đều phải mua bản quyền của FPT thì mới được tiến hành nếu không sẽ bị coi là bất hợp pháp và sẽ bị kiện ra tòa. Sau nhiều lần thương thảo, rốt cục FPT và VTV cũng đồng ý bán bản quyền truyền hình World Cup 2006 cho VTC vào giờ phút sát với ngày diễn ra World Cup. Cuộc chiến về bản quyền truyền hình lại bùng lên giữa VTV và VTC sau khi VTC tường thuật trực tiếp đêm chung kết hoa hậu Thế giới mà không mua bản quyền. Trong khi đó, VTV là đơn vị đã mua bản quyền tường thuật trực tiếp đêm chung kết Hoa hậu thế giới tại Ba Lan, thông qua nhà cung cấp TV Plus và nhà phân phối bản quyền đêm chung kết này trên toàn thế giới, Zeal TV. Hai sự kiện này cho thấy, cuộc chiến về bản quyền truyền hình đang là vấn đề nóng bỏng đặt ra đối với tất cả các đài truyền hình Việt Nam, nhưng nếu chấp nhận mua bản quyền truyền hình thì nhiều đài truyền hình sẽ “không chịu nổi nhiệt” bởi giá bản quyền luôn ở con số hàng triệu USD.
17. VTC và S-Fone cung cấp dịch vụ truyền hình trên điện thoại di động.
Ngày 10/11/2006, VTC đã ra mắt dịch vụ truyền hình di động dựa trên công nghệ DVH-B. Trong thời gian đầu, dịch vụ truyền hình di động của VTCMobile sẽ được phát sóng tại Hà Nội, Hải Phòng, TP. HCM và các vùng phụ cận với 8 kênh truyền hình. Hệ thống phát sóng truyền hình chuẩn DVH-B hoàn toàn độc lập với hệ thống sóng di động (GSM, CDMA) tại Việt Nam, nên khi sử dụng ĐTDĐ hỗ trợ công nghệ truyền hình DVH-B, khách hàng không bị phụ thuộc vào chất lượng sóng di động của các nhà cung cấp. Ngày 9/10/2006, S-Fone chính thức ra mắt dịch vụ xem phim, truyền hình, nghe nhạc, truy cập Internet trực tiếp trên điện thoại di động dựa trên công nghệ CDMA 2000 1x-EV-DO cho phép tốc độ truyền dữ liệu cao lên đến 2.4 Mb/1giây. Sự kiện VTC và S-Fone cung cấp dịch vụ truyền hình trên điện thoại di động thể hiện xu hướng hội tụ công nghệ viễn thông - truyền hình, một xu hướng được nhận định sẽ phát triển mạnh tại thị trường Việt Nam trong thời gian tới và đem đến nhiều giá trị sử dụng cho khách hàng.
18. VinaGame kiện FPT vì vi phạm bản quyền game online Võ Lâm Truyền Kỳ.
FPT – Công ty công nghệ thông tin số 1 Việt Nam nhưng lại không có được vị trí số1 trên thị trường gameonline. Vi phạm bản quyền (sử dụng hình ảnh trái phép) của game online Võ Lâm Truyền Kỳ nhưng lãnh đạo của FPT lại lớn tiếng: “Kiện chúng tôi đâu có dễ (?!)”. Ngay sau khi tuyên bố này được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, một làn sóng phản đối FPT vì thái độ ngang ngược (dù sai bét) đã dấy lên khắp nơi. Kết cục là FPT phải có văn bản xin lỗi VinaGame và hàng triệu game thủ của Võ Lâm Truyền Kỳ trên chính website MU Việt Nam - Xứng danh anh hùng.
19. Bộ Tài nguyên Môi trường đi tiên phong trong việc giao lưu trực tuyến với dân, mở ra một xu hướng giao lưu giữa Chính phủ với người dân.
Ngày 16/3/2006, lần đầu tiên, Bộ trưởng và 5 Thứ trưởng, lãnh đạo các Vụ, Cục, Thanh tra và một số đơn vị có liên quan thuộc Bộ TN&MT đã trực tiếp trả lời dân về các lĩnh vực liên quan đến tài nguyên đất, nước, môi trường, khí tượng thủy văn, khoáng sản..., qua trang thông tin điện tử của Bộ này ( Đây không chỉ là những tín hiệu đầu tiên trong nỗ lực xây dựng Chính phủ điện tử tại Việt Nam trong tương lai, mà còn tạo đà phát triển và mở rộng giao lưu, đối thoại giữa các cơ quan chính phủ với người dân, đưa Chính phủ tới gần dân hơn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.
20. Quốc hội chính thức thông qua Luật CNTT
Ngày 22/6, Quốc hội đã chính thức bấm nút thông qua Luật CNTT - đạo luật đầu tiên trong lĩnh vực CNTT. Đạo luật chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Sự kiện này một lần nữa khẳn định tầm quan trọng cũng như quyết tâm của Chính phủ trong việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT tại Việt Nam - một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Luật CNTT cũng tạo nền tảng và môi trường pháp lý để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp CNTT Việt Nam.
Nguồn: Kienthukinhte.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công nghiệp hóa và kinh tế tri thức ở Việt Nam- thực trạng và giải pháp.doc