Công nhận không tạo ra tư cách chủ thể luật quốc tế những nó tạo điều kiện cho quốc gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ nhất

Phần mở đầu B- Phần nội dung 1. Khái quát về công nhận quốc tế a) Khái niệm b) Các loại công nhận quốc tế c) Các hình thức công nhận quốc tế d) Các phương pháp công nhận quốc tế 2. Công nhận và quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia được công nhận 3. Vai trò của công nhận quốc tế đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ quốc tế C- Phần kết luận

doc7 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6808 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nhận không tạo ra tư cách chủ thể luật quốc tế những nó tạo điều kiện cho quốc gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Trong quan hệ quốc tế, việc tồn tại hành vi và thực tiễn công nhận quốc tế là tất yếu khách quan, do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vì lý do các quốc gia thường không cùng xuất hiện và không hoàn toàn đồng nhất về thể chế nhà nước. Sự xuất hiện chủ thể mới trong luật quốc tế ít nhiều đều có tác động nhất định đến tương quan của các mối quan hệ và liên kết quốc tế, dẫn đến những phản ứng khác nhau trong dư luận và sinh hoạt quốc tế. Những phản ứng quốc tế như vậy thường đưa đến những hệ quả pháp lý xác định, làm thay đổi hoặc củng cố thêm các mối quan hệ quốc tế đa dạng giữa các quốc gia. Mục đích của hành vi mang tính chất công nhận quốc tế nhằm khẳng định lại quan hệ của quốc gia công nhận đối với đường lối chính sách, chế độ chính trị, kinh tế…của bên được công nhận, hoặc nhằm thể hiện ý định của quốc gia công nhận muốn thiết lập quan hệ bình thường và ổn định trong nhiều lĩnh vực với bên được công nhận. Như vậy có thể thấy công nhận quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ quốc tế, việc tìm hiểu về công nhận quốc tế sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về địa vị pháp lý của các chủ thể trong đời sống quốc tế, từ đó so sánh với luật quốc gia. Phần nội dung Khái quát về công nhận quốc tế Khái niệm Sự xuất hiện và tồn tại trên trường quốc tế những quốc gia trẻ, mới giành độc lập và việc thành lập tại nhiều quốc gia những chính phủ mới có quy chế pháp lý hoàn toàn khác với quy chế pháp lý của chính phủ đã tồn tại trước đó trong cộng đồng quốc tế tất yếu sẽ gây nên những phản ứng khác nhau cho các quốc gia, các chính phủ khác. Trước các sự kiện trên các quốc gia, các chính phủ khác thường có những hành động nhất định nhằm thể hiện thái độ, phản ứng của mình, qua đó bày tỏ quan điểm của mình đối với sự kiện này. Đây là cơ sở đặt ra vấn đề công nhận trong luật quốc tế. Như vậy hành vi công nhận được đặt ra khi có sự xuất hiện của quốc gia mới hoặc người đại diện mới cho quốc gia trong những quan hệ quốc tế. Như vậy công nhận quốc tế là hành vi chính trị - pháp lý của quốc gia công nhận dựa trên nền tảng các động cơ nhất định ( mà chủ yếu là động cơ chính trị, kinh tế, quốc phòng) nhằm xác nhận sự tồn tại của thành viên mới trong cộng đồng quốc tế, khẳng định quan hệ của quốc gia công nhận đối với chính sách, chế độ chính trị, kinh tế của thành viên mới và thể hiện ý định muốn được thiết lập các quan hệ bình thường, ổn định với thành viên mới của cộng đồng quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế. Ví dụ: nền độc lập của Nam Ossetia và Abkhazia, hai khu vực ly khai khỏi Gruzia đã được Nga công nhận. Các loại công nhận quốc tế Công nhận quốc gia mới thành lập: Các quốc gia có thể thành lập theo các trường hợp sau: Thứ nhất, theo con đường cổ điển là một tập thể người hình thành một quốc gia mới một cách hòa bình do sự định cư của họ trên một lãnh thổ vô chủ hoặc lãnh thổ chưa có một tổ chức chính trị phù hợp. Như vậy, quốc gia hình thành theo con đường truyền thống là sự tập hợp dần dần của 4 yếu tố cấu thành quốc gia. Yếu tố quan trọng nhất để quốc gia được hình thành theo cách này là phải tồn tại lãnh thổ vô chủ. Tuy nhiên, hiện nay lãnh thổ vô chủ hầu như không còn tồn tại trong quan hệ quốc tế, vì bên cạnh lãnh thổ quốc gia (nơi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn), thì các lãnh thổ khác (bao gồm cả các hành tinh) cũng được cộng đồng quốc tế xác lập cho nó quy chế của lãnh thổ quốc tế - nơi các quốc gia không có quyền chiếm hữu và định đoạt, nhưng có quyền sử  Do đó, hiện nay quốc gia mới không còn được hình thành theo cách này. Thứ hai, quốc gia thành lập do hoạt động của các quốc gia đã hoặc đang tồn tại vào thời điểm đó với nhiều phương thức như: chia tách (Liên Xô cũ tách thành 15 quốc gia) hay hợp nhất quốc gia (VD: CHLB Đức được hợp nhất từ Đông Đức và Tây Đức)… Các quốc gia mới được thành lập theo cách này là những chủ thể mới của luật quốc tế ngay từ thời điểm thành lập, sự công nhận chỉ đóng vai trò tuyên bố sự tồn tại trên trường quốc tế của một quốc gia mới. Thứ ba, quốc gia mới thành lập do kết quả của cách mạng xã hội, trường hợp này khá phổ biến sau Đại chiến thế giới thứ hai. Khi công nhận một quốc gia mới thành lập, các quốc gia công nhận chỉ ra rằng thành viên mới của cộng đồng quốc tế là một thực thể có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ quốc tế cơ bản theo luật quốc tế. Công nhận chính phủ mới thành lập Công nhận chính phủ mới thành lập có nghĩa là công nhận người đại diện hợp pháp cho một quốc gia có chủ quyền trong sinh hoạt quốc tế chứ không phải công nhận chủ thể mới của luật quốc tế. Chính phủ mới xuất hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là chính phủ de jure (là kết quả về mặt pháp lý) và chính phủ de facto (hình thành chủ yếu do đảo chính). Tuy nhiên, việc công nhận chỉ đặt ra đối với chính phủ de facto vì: nó là chính phủ phi hiến, quốc gia khác muốn thiết lập quan hệ với chính phủ này phải tiến hành công nhận. Khác với công nhận quốc gia mới, để được công nhận, chính phủ mới thành lập phải thỏa mãn 3 điều kiện để chứng minh cho tính hữu hiệu của mình đó là: - Yếu tố không gian: chính phủ đó phải kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ quốc gia. - Yếu tố thời gian: Chính phủ đó phải có khả năng để duy trì quyền lực của mình trong một thời gian dài. - Chính phủ đó phải được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng Các hình thức công nhận quốc tế Công nhận de jure : công nhận chính thức ở mức độ đầy đủ nhất và trong phạm vi toàn diện nhất Công nhận de facto : công nhận thực tế nhưng ở mức không đầy đủ, hạn chế. Công nhận ad hoc: là hình thức công nhận đặc biệt chỉ phát sinh trong quan hệ giữa các bên trong một phạm vi nhất định, hoàn cảnh nhất định. VD: Năm 1976 Mỹ thực thi chính sách cấm vận đối với Việt nam, tuy nhiên trong thời gian này, Mỹ cũng tiến hành công nhận ad hoc với Việt nam bằng cách ký một loạt các hiệp định song phương liên quan đến vấn đề tìm kiếm hài cốt liệt sỹ Mỹ mất tích tại Việt nam.. Các phương pháp công nhận quốc tế Công nhận minh thị: được thể hiện rõ rang, bằng một hành vi cụ thể của quốc gia công nhận trong các văn bản chính thức. VD: Nga công khai tuyên bố công nhận độc lập của Nam Ossetia và Apkhazia Công nhận mặc thị : được thể hiện kín đáo mà phải dựa vào các quy phạm tập quán hay nguyên tắc suy diễn trong sinh hoạt quốc tế mới làm sang tỏ được ý định công nhận của bên công nhận. VD: - Hoa kỳ mặc nhiên công nhận Việt Nam DCCH khi ký kết Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nam. Công nhận và quyền năng chủ thể Luật quốc tế của quốc gia được công nhận Câu hỏi đặt ra là hành vi công nhận có tạo ra quyền chủ thể luật quốc tế của quốc gia được công nhận hay không? Liên quan đến vấn đề này, trong thực tiễn quan hệ quốc tế tồn tại một số các học thuyết với những quan điểm khác nhau. Trong đó nổi lên hai học thuyết đó là: Thuyết cấu thành: Thuyết cấu thành (hay còn gọi là thuyết sang lập ra chủ thể luật quốc tế) xuất hiện vào đầu thế kỷ 19. Nội dung cơ bản của thuyết này cho rằng hành vi công nhận sẽ tạo ra quyền năng chủ thể luật quốc tế cho quốc gia được công nhận. Theo đó, ngoài bốn yếu tố cấu thành quốc gia, quốc gia phải được các quốc gia khác công nhận mới có tư cách là chủ thể luật quốc tế. Hạn chế lớn nhất của thuyết này đó là gắn sự tồn tại của một quốc gia vào ý chí chủ quan của một quốc gia khác. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng về nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và do đó nó mâu thuẫn với nội dung của luật quốc tế hiện đại. Thuyết tuyên bố: Thuyết này được hình thành từ trào lưu chống lại thuyết cấu thành của các luật gia quốc tế tư sản. Nội dung của thuyết này cho thấy, hành vi công nhận không tạo ra quyền năng chủ thể luật quốc tế cho quốc gia được công nhận, mà hành vi công nhận chỉ có ý nghĩa như một tuyên bố về sự tồn tại của quốc gia mới trong quan hệ quốc tế. Học thuyết này được sử dụng và được thừa nhận phổ biến hơn thuyết cấu thành. Nhận xét: như vậy công nhận sự tồn tại của một quốc gia mới đối với tiến hành việc công nhận là hành vi pháp lý dựa trên chủ quyền quốc gia (là quyền của quốc gia). Pháp luật quốc tế không đặt ra nghĩa vụ phải công nhận quốc gia mới cho mỗi chủ thể luật quốc tế. Tiến hành các hành vi công nhận mang tính pháp lý, chính trị, quốc gia công nhận thường dựa trên những động cơ, mục đích nhất định nhằm thực hiện ý định, mong muốn thiết lập quan hệ bình thường và ổn định ở nhiều lĩnh vực khác nhau với quốc gia được công nhận. Và việc công nhận hay không công nhận của các quốc gia đối với quốc gia mới xuất hiện không làm ảnh hưởng đến tư cách quốc gia của thực thể đó. Tuy nhiên, hành vi công nhận của các quốc gia khác sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quốc gia được công nhận khi tham gia vào các quan hệ quốc tế. Vai trò của công nhận quốc tế đối với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ quốc tế - Công nhận không tạo ra chủ thể mới của LQT, nhưng việc công nhận là cơ sở để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ bình thường giữa các quốc gia. Việc các quốc gia công nhận sự tồn tại của một quốc gia, chính phủ mới là đã thể hiện ý định muốn được thiết lập quan hệ ổn định, bình thường với thành viên đó. - Tạo cho quốc gia mới có điều kiện để tham gia vào các quan hệ quốc tế: tham gia xây dựng LQT, tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế có liên quan đến mình. Về nguyên tắc, mọi quốc gia đều có quyền được tham gia vào các hội nghị và tổ chức quốc tế phổ cập không phụ thuộc vào sự công nhận của các quốc gia khác. Song sự công nhận chính thức có vai trò thúc đẩy việc thực hiện các quyền đó của quốc gia và ngược lại, việc tiến hành chính sách không công nhận quốc tế đôi khi lại gây khó khăn cho quốc gia không được công nhận muốn thực hiện quyền tham gia tổ chức quốc tế của mình. C ó thể thấy sau năm 1945, Việt Nam dân chủ cộng hòa trở thành một quốc gia độc lập và có đầy đủ quyền năng tham gia quan hệ quốc tế. Tuy nhiên do chưa được hầu hết các quốc gia công nhận nên khả năng thực hiện quyền năng chủ thể luật quốc tế của Việt Nam dân chủ cộng hòa bị hạn chế rất nhiều. Ví dụ việc tham gia liên hợp quốc. Việt Nam có nộp đơn yêu cầu. Tuy nhiên theo thủ tục thông qua các nghị quyết của liên hợp quốc là phải có 9/15 phiếu, nhưng Việt Nam bị ba quốc gia là Mỹ, Pháp và Trung Quốc bỏ phiếu phủ quyết với lý do các quốc gia này không công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia độc lập. Tuy nhiên đến năm 1977 do có sự công nhận của hầu hết các quốc gia này nên Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên hợp quốc. - Tạo điều kiện cho quốc gia mới phát triển về mọi mặt: kinh tế, xã hội... - Là cơ sở để giải quyết triệt để vấn đề quy chế pháp lý quốc gia. Nếu quốc gia không được công nhận sẽ gặp khó khăn khi tham gia quan hệ quốc tế (VD: không được hưởng quyền miễn trừ quốc gia). C- Phần kết luận Như vậy, sự công nhận trên cơ sở các quy phạm của pháp luật quốc tế đối với các quốc gia, chính phủ hoặc các đối tượng khác mới xuất hiện trong quan hệ quốc tế nhằm thiết lập với các đối tượng này các quan hệ khác nhau , nó đã tạo điều kiện cho quốc gia mới thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ, tham gia vào các quan hệ quốc tế một cách tốt nhất.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nhận không tạo ra tư cách chủ thể luật quốc tế những nó tạo điều kiện cho quốc gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ nhất.doc
Luận văn liên quan