Công nhân và cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại VIệt Nam

Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại VN là xu thế tất yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay. Thông qua việc này quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân các nước trên lãnh thổ của nhau được các quốc gia tôn trọng và bảo vệ. Không những thế công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của TANN cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực mở cửa quan hệ quốc tế. Việc giải quyết thoả đáng vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN sẽ là nhân tố tạo niềm tin, sự an tâm, ổn định cho các đối tác nước ngoài khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình với đối tác VN. Điều này cũng sẽ góp phần tạo môi trường để giao lưu dân sự phát triển lành mạnh. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề này vẫn còn khá nhiều vướng mắc, bất cập về mặt pháp luật thực định cũng như thực tiễn thi hành. Do vậy, cần phải tháo gỡ nhanh chóng những vướng mắc này nhằm xây dựng một hành lang pháp lý thông thoáng, góp phần thúc đẩy phát triển các quan hệ với nước ngoài, tại điều kiện cho VN trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7159 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Công nhân và cho thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại VIệt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại hiện nay, không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập mà không quan hệ, giao lưu, hợp tác với các quốc gia khác. Do đó, quan hệ hợp tác quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của mỗi quốc gia. Ở VN, Quá trình hội nhập đã đem lại những cơ hội phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, cũng như rất nhiều thách thức mới, nhiều quan hệ mới phát sinh. Nhưng cùng với việc mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế của nước ta, đã và đang xuất hiện ngày một nhiều các vụ việc tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động mà một bên đương sự là công dân, pháp nhân Việt Nam. Nhiều vụ án đã được toà án nước ngoài giải quyết và gửi bản an, quyết định đến Việt Nam kèm theo đơn yêu cầu công nhân và thi hành tại nước ta các bản án, quyết định đó. Hiện nay, việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động tương trợ tư pháp, một thủ tục đặc biệt của hoạt động tố tụng dân sự quốc tế. Thực tiễn hiện nay cho thấy, số lượng các bản án, quyết định của TANN cần được công nhận và thi hành tại Vn ngày càng tăng, điều đó dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia để thoả thuận công nhận và thi hành tại lãnh thổ của nhau các bản án, quyết định của TANN là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Tuy nhiên đây là một vấn đề còn khá mới mẻ, nên thời gian qua, việc thi hành các quy định này đã phát sinh một số vướng mắc, cả về mặt quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thi hành. Chính vì lý do này em đã chọn đề tài: “Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam”để nghiên cứu. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH dân sự CỦA TANN tại Việt Nam Khái niệm công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN Bản án, quyết định dân sự của TANN Khái niệm bản án, quyết định dân sự của TANN Bản án dân sự của Toà án nước ngoài là kết quả giải quyết tranh chấp bằng phương thức tư pháp do cơ quan tư pháp nước ngoài thực hiện. Trong tố tụng dân sự quốc tế, bản án, quyết định dân sự của TANN được hiểu là phán quyết của cơ quan tư pháp nước ngoài đối với một tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Hoặc “là phần phán quyết của TANN nếu như nó được xem xét bởi một quốc gia khác không ban hành quyết định đó Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tại khoản 1 Điều 342 BLTTDS quy định: “bản án, quyết định dân sự của TANN là bản án, quyết định dân sự về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định dân sự hình sự, hành chính của TANN và quyết định dân sự khác của TANN mà theo pháp luật Việt Nam được coi là bản án, quyết định dân sự.” Phân loại bản án, quyết định dân sự của TANN: có thể bao gồm nhiều loại khác nhau tuỳ vào tiêu chí phân loại: + Căn cứ vào nội dung của phán quyết của TANN có thể chia thành các loại phán quyết về dân sự, phán quyết về hôn nhân và gia đình, thương mại… + Căn cứ vào tính chất cần phải thi hành của phán quyết thì được chia thành hai loại: phán quyết chỉ cần công nhân mà không thi hành và phán quyết cần công nhân và thi hành; + Căn cứ vào tính chất tài sản của phán quyết, phán quyết của TANN được chia thành hai loại: phán quyết mang tính chất tài sản và phán quyết không mang tính chất tài sản. Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN Công nhân và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN là hành vi của có quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia thừa nhận giá trị (hiệu lực) pháp lý của bản án,quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của một quốc gia khác và làm cho nó có hiệu lực thi hành trên thực tế tại lãnh thổ quốc gia đó Đặc điểm của pháp luật công nhân và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam Pháp luật về cộng nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN vừa là một chế định của pháp luật TTDS vừa là một chế định về tương trợ tư pháp. Do đó, chế định này vừa mang những đặc điểm của luật TTDS vừa mang đặc điểm của TPQT. Bên cạnh đó nó còn có những đặc điểm đặc thù đó là: việc công nhân và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN chỉ được đặt ra sau khi bản án, quyết định dân sự đó đã có hiệu lực pháp luật trừ trường hợp đặc biệt, bản án, quyết định dân sự cần được thi hành ngay mới được xem xét cho thi hành khi bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật đó là đối với những vụ kiện về cấp dưỡng hoặc quyền thăm nom người chưa thành niên (khoản 3 Đ21 HĐTTTP Việt Nam và Pháp). việc công nhận bản án, quyết định dân sự của TANN là một thủ tục xem xét, quyết định trao hiệu lực thi hành tại một quốc gia nào đó cho bản án, quyết định dân sự được yêu cầu, vì vậy để bản án có hiệu lực tại một quốc gia khác thì nó phải chịu sự kiểm tra của Toà án có thẩm quyền của quốc gia đó theo những trình tự, thủ tục nhất định. Thủ tục này sẽ phải tuân thủ những quy định trong ĐƯQT, nếu không có ĐƯQT thì phải tuân thủ những quy định trong pháp luật quốc gia nơi có bản án, quyết định dân sự được yêu cầu công nhận và thi hành. Việc công nhân và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN không chỉ đặt ra khi bên phải thi hành bản án, quyết định dân sự đó không tự nguyện thi hành mà còn được đặt ra đối với những trường hợp được sự yêu cầu không công nhận và chỉ thi hành bản án quyết định dân sự đó. việc áp dụng pháp luật TT của quốc gia nơi bản án, quyết định dân sự cần được công nhân và thi hành theo hướng không được đặt ra các điều kiện năng hơn hoắc các chi phí cao hơn với việc thi hành bản án, quyết định dân sự trong nước. Các quy định này thể hiện nguyên tắc công bằng, không phân biệt đối xử giữa các quốc gia với nhau. bản án, quyết định dân sự của TANN nếu được công nhân và thi hành tại một quốc gia nào đó thì nó có giá trì chứng cứ và chứng minh tại quốc gia đó. Ý nghĩa của việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài Ý nghĩa quan trọng nhất của việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài là nó đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định sân sự, đã được cơ quan tài phán nước ngoài tuyên cũng như đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án cũng như tránh tình trạng về cũng một vụ việc nhưng lại bị xét xử hai lần. Ngoài ý nghĩa trên thì việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN còn cũng có ý nghĩa quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, pháp lý. Về chính trị, công nhân và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN sẽ thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia. Sự công nhân và thi hành bản án, quyết định của TANN cũng thể hiện sự tôn trọng, thiện chí của quốc gia này đối với quốc gia khác, thể hiện chính sách bảo hộ quyền lợi ích hợp pháp không chỉ của các cá nhân, tổ chức nước mình mà còn cả lợi ích của các cá nhân, tổ chức nước ngoài.Ý nghĩa trong lĩnh vực này còn thể hiện quyền tài phán độc lập của một quốc gia , không một quốc gia, một tổ chức quốc tế nào có thể ép buộc một quốc gia hai tổ chức quốc tế khác công nhận và thi hành bản án, quyết định TA nước mình. Về phương diện kinh tế, việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng, các bên cùng có lợi, sẽ hạn chế các hành vi thoả thuân, vi phạm hợp đồng, tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc công nhân và thi hành bản án quyết định dân sự của TANN còn là cơ sở để TA có thẩm quyền của các quốc gia khác công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của TA nước mình trên nguyên tắc có đi có lại. Mặt khác công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN cũng làm giảm chi phí tố tụng, thủ tục tố tụng để thực thi các bản án, quyết định dân sự của TANN. Về phương diện pháp lý, công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN là một giai đoạn của quá trình tố tụng nếu các phán quyết của TANN không được thực thi thì kết quả ở giai đoạn trước đó sẽ không còn ý nghĩa.Không những thế, việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại một quốc gia góp phần khắc phục các lỗ hổng của pháp luật quốc gia về vấn đề này, pháp luật giữa các quốc gia có cơ hội được so sánh trực tiếp với nhau, từ đó có những sơ hở của pháp luật các quốc gia được củng cố, đảm bảo cho pháp luật quốc gia có tính hệ thống. Đây còn là một căn cứ pháp luật quan trọng để xác định thẩm quyền giải quyết của TA đối với các yêu cầu giải quyết khi có vụ việc của đương sự (được quy định cụ thể tại ĐIều 413 BLTTDS). PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG NHÂN VÀ THI HÀNH BẢN ÁN QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TANN Nguyên tắc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự cảu TANN tại Việt Nam Nguyên tắc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam được quy định tại Điều 343 BLTTDS, bao gồm: Toà án Việt Nam chỉ xem xét công nhân và cho thi hành tại Việt Nam bản án quyết định dân sự của TANN trong các trường hợp sau: + Bản án, quyết định dân sự của TANN mà Việt Nam và nước đó đã kí kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này; + Bản án, quyết định dân sự của TANN được pháp luật Việt Nam quy định công nhân và cho thi hành. Nguyên tắc có đi có lại. khoản 3 Điều 343 BLTTDS: “Bản án quyết định dân sự của TANN cũng có thể được TA Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại VIệt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không cần đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải lý kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó”. Bản án, quyết định dân sự của TANN chỉ được thi hành tại Việt Nam khi được TA Việt Nam công nhận và cho thi hành (khoản 4 ĐIều 343 BLTTDS) Nguyên tắc “đương nhiên công nhận bản án, quyết định dân sự không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam” (khoản 5 Điều 343 BLTTDS). Theo đó, bản án, quyết định dân sự của TANN không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầy không công nhận thì đương nhiên được công nhận tại Việt Nam theo điều ươc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập Toà án Việt Nam chỉ xem xét không công nhận bản án, quyết định dân sự của TANN không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam khi có đơn yêu cầu không công nhân (khoản 6 Điều 343 BLTTDS) Bản án, quyết định dân sự của TANN sẽ không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và trật tự công cộng. Nguyên tắc quyền miễn trừ của quốc gia Tuy nhiên, có những bản án, quyết định dân sự của TANN mặc dù đáp ứng được các yêu cầu trên nhưng vẫn bị toà án Việt Nam không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trong các trường hợp sau: Bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của nước có toà án đã ra bản án, quyết định đó; Người phải thi hành án hoặc người đại diện hợp pháp của người đó vắng mặt tại phiên toà của toà án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ; Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của toàn án Việt Nam; Về cung một vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đang có hiệu lực pháp luật của toà án Việt Nam, hoặc của toà án nước ngoài đã được toà án Việt Nam công nhân; hoặc trước khi có quan xét xử của nước ngoài thị lý vụ án, toà án Việt Nam đã thụ lý và đang xem xét vụ án đó; Đã hết thời hiệu thi hành án theo quy định của pháp luật của nước có toà án đã ra bản án, quyết định đó hoặc theo quy định của pháp pháp luật Việt Nam; Việc công nhân và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Thẩm quyền của TA việt Nam Thẩm quyền theo cấp xét xử: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về công nhân và thi hành tại Việt Nam các bản án, quyết định dân sự của TANN (Đ34 BLTTDS) Thẩm quyền về lãnh thổ: TA nơi người phải thi hành án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của TANN cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN có thẩm quyền giải quyết yeu cầu công nhân và cho thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của TANN (điểm d khoản 2 Điều 35 BLTTDS) Đối với yêu cầu không công nhân và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của TANN, thì TA nơi người gửi đơn cư trú làm việc nếu gửi người gửi đơn là cá nhân hoặc nươi có trụ sở nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự , hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của TANN (điểm đ khoản 2 Điều 35). Quyền yêu cầu công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam Quyền yêu cầu công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam được quy định tại Điều 344 BLTTDS. Theo đó: + Người có quyền yêu cầu TA công nhận bản án, quyết định dân sự của TANN là người được thi hành, người đại diện hợp pháp của họ. + Người có quyền yêu cầu TA không công nhận bản án, quyết định dân sự của TANN không có yêu cầu thi hành án tại Việt Nam là đương sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Đối với quyền gửi đơn yêu cầu TA Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt nam bản án, quyết định dân sự của TANN chỉ được chấp nhận nếu: + Cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam; + Tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN có tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn yêu cầu. Quyền yêu cầu này cũng được đảm bảo bằng quyền kháng cáo của chính đương sự hoặc quyền kháng nghị của VKS theo quy định tại ĐIều 345 BLTTDS. Thủ tục công nhân và cho thi hành bản án quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam. Nộp đơn yêu cầu Về nguyên tắc. những bản án, quyết định dân sự của TANN kể chỉ được TA Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam khi có đơn yêu cầu của những chủ thể có quyền yêu cầu. Theo quy định tại Điều 344 BLTTDS, chủ thể có quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của TANN là người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ, nếu người phải thi hành là cá nhân cu trú, làm viêc tại Việt Nam hoặc là cơ quan, tổ chức có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN có tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn yêu cầu. Theo Điều 350 BLTTDS người yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nan bản án, quyết định dân sự của TANN phải làm đơn gửi đến Bộ tư pháp Việt Nam. Đơn yêu cầu phải có nội dung quy định tai khoản 1 Điều luật này. Theo đó cùng với đơn, người nộp đơn phải gửi kèm các giấy tờ, tài liệu được quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan thì kèm theo đơn yêu cầu, người gửi đơn phải gửi: Bản sao hợp pháp bản án, quyết định của toà án nước ngoài; Văn bản xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết hiệu lực thi hành và cần được thi hành tại VIệt Nam, trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những điểm này; Văn bản xác nhận việc đã gửi cho người phải thi hành bản sao bán án, quyết định đó. Trường hợp người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó vắng mặt tại phiên toà của TANN thì phải có văn bản xác nhận người đó đã được triệu tập hợp lệ Đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng nhận hợp pháp. Thụ lý đơn yêu cầu Saukhi nhận được đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Bộ tư pháp kiểm tra, lập hồ sơ và gửi đến TAND cấp tỉnh có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu và các giấy tờ, tài liệu đó. Khi nhận được hồ sơ do Bộ tư pháp chuyển sang, TA phải tiên hành kiểm tra lại hồ sơ để xem xet thụ lý. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, TA phải tiến hành thụ lý nếu thấy thuộc thẩm quyền của mình. Đòng thời, TA phải thông báo cho viện kiểm sát cũng cấp biết về việc xác nhận được hồ sơ và thụ lý hồ sơ đó. Trong thời gian chuẩn bị xét đơn yêu cầu, TA có quyền yêu cầu người gửi đơn, TANN đã ra bản án, quyết định dân sự giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ (khoản 2 Điều 353 BLTTDS) Chuẩn bị xét đơn yêu cầu Theo quy định tại ĐIều 354 BLTTDS thì trong thời hạn bốn tháng kể từ ngày thụ lý tùy từng trường hợp mà TA có thể ra một trong các quyết định sau: đình chỉ việc xét đơn yêu cầu hoặc mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Phiên họp xét đơn yêu cầu Điều 355 BLTTDS thì phiên họp xét đơn yêu cầu bao gồm: Hồi đồng gồm 3 thẩm phán tiến hành trong đó một người do chánh án chỉ định làm chủ tọa; Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia, trường hợp vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa; Người có nghĩa vụ phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó (trừ trường hợp họ yêu cầu TA xét đơn vắng mặt không có lý do chính đáng) Sau khi xem xét đơn và các giấy tờ kèm theo, nghe ý kiến của người triệu tập, của kiểm sát viên, Hội đồng xét đơn yêu cầu thảo luận và quyết định theo đa số công nhận và cho thi hành hoặc quyết định không công nhận bản án, quyết định của TANN. Đặc điểm lư ý là theo quy định tại khoản 4 Điều 355 BLTTDS là khi xet đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết đinh dân sự của TANN, TA Việt Nam không được xem xét lại vụ kiện mà chỉ xem xét các thủ tục về mặt tó tụng của việc tòa tuyên án, quyết định đó có đảm bảo không. 5. Thủ tục xét đơn yêu cầu không công nhận và thi hành tại Việt Nam các bản án, quyết định dân sự của TANN không có yêu cầu thi hành tại VIệt Nam Thời hạn gửi đơn và thụ lý đơn không yêu cầu công nhận bản án, quyết định dân sự của TANN là ba mươi ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định dân sự của TANN mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam, đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền gửi đơn yêu cầu TA VN không công nhận bản án, quyết định dân sự đó đến Bộ tư pháp Việt Nam. Trường hợp người làm đơn chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà không thể gửi đơn đúng thời hạn thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn gửi đơn. Nộp đơn yêu cầu không công nhận Theo quy định tại khoản 2 Điều 344 BLTTDS thì đương sự, người có quyền lợi ích liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền gửi đơn yêu cầu TA Việt Nam không công nhận bản án quyết định dân sự của TANN không có yêu cầu thi hành tại VN. Đơn phải có nội dung quy định tại khoản 1 Điều 361 BLTTDS Thụ lý đơn yêu cầu không công nhận. Sauk hi nhận được đơn yêu cầu và các giấy tờ tài liệu kèm theo, Bộ tư pháp sẽ kiểm tra tính hợp pháp của các giấy tờ, lập hồ sơ và gửi đến TAND cấp tỉnh có thẩm quyền. Khi nhận được hồ sơ, TA sẽ tiến hành kiểm tra xem xét vào sổ thụ lý. Xét đơn yêu cầu không công nhận. Thủ tục này được tiến hành qua hai bước Chuẩn bị xét đơn yêu cầu cũng đuwocj thực hiện như thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận bản án, quyết định của TANN Mở phiên tòa xét đơn yêu cầu. Khi xét đơn, hội đồng xét đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài có quyền ra một trong các quyết định sau: không công nhận bản án, quyết định dân sự của TANN hoặc bác đơn yêu cầu không công nhận. 6. Lệ phí Tại Điều 349 BLTTDS: “Người gửi đơn yêu cầu Tòa án Việt Nam Công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của TANN, quyết định của trọng tài nươc s ngoài phải nộp một khoản lệ phí theo quy định của PL VN”. Theo quy định này thì người gửi đơn yêu cầu phải nộp khoản lệ phí theo quy định. Mà theo quy định tại Điều 43 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/ 2009 và danh mục mức án phí, lệ phí tòa án kèm theo thì mức lệ phí yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam là: cá nhân thường trú tại Việt Nam, cơ quan, tổ chức có trụ sở chính tại Việt Nam là 2.000.000 đồng; cá nhân không thường trú tại Việt Nam, cơ quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam là 4.000.000 đồng; người kháng cáo quyết định của Tòa án là 200.000 đồng III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TANN TẠI VIÊT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài Việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này đó là: Các quy định của pháp luật hiện này vẫn còn nhiều thiếu xót, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện. Cơ chế phối hợp giữa các có quan hữu quan trong thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN theo pháp luật hiện nay vẫn còn lỏng lẻo. a. Các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều thiếu xót, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện Vướng mắc trong việc thực hiện một số nguyên tắc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN - Về nguyên tắc có đi có lại. Trong nhiều trường hợp, nếu áp dụng một cách cứng nhắc nó sẽ hạn chế, ảnh hưởng ngay chính đến quyền lợi chính đáng của công dân nước áp dụng nguyên tắc này. Vì nếu một nước đơn phương không áp dụng chế độ có đi có lại hoặc hạn chế quyền lợi của công dân một nước khác thì nước có công dân bị hạn chế quyền lợi sẽ áp dụng biện pháp trả đũa bằng cách hạn chế ngay quyền lợi tương tự đối với công dân của nước kia. Mặt khác, nguyên tắc này đà được BLTTDS 2004, nhưng nguyên tắc này vẫn chưa được có quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể về nội dung, điều kiện và có chế áp dụng. Luật tương trọ tư pháp năm 2008 đã quy định Bộ ngoại gia có nhiệm vụ công bố danh sách các nước có áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” với Việt Nam nhưng việc này là tương đối khó khăn cần có sự phối hợp của nhiều có quan như Bộ ngoài giao, Bộ tư pháp, TA, Bộ công an… Vướng mắc nhất trong việc công nhân và cho thi hành bản án quyết định của TANN tại VN là quy định TA VN chỉ xem xét yêu cầu dựa trên có cở ĐƯQT hoặc nguyên tắc có đi có lại (điều 343). Nguyên nhân chính là đến nay chưa có danh mục thống kê các nước ký HĐTTTP hay áp dụng nguyên tắc có đi có lại với VN - Nguyên tắc đương nhiên công nhận bản án, quyết định dân sự không có yêu cầu thi hành tại VN về vấn đề này, cung như chưa có hướng dẫn về trình tự, thủ tục căn cứ áp dụng nguyên tắc có đi có lại - Nguyên tắc không được trái với trật tự cộng cộn, trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Hiện nay, vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào nói về nội hạm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” nhưng thông qua Hiếp Phap và các Luật chuyên ngành thì ta có thể biệt được những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Nhưng một vướng mắc gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN tại Việt Nam là nội hàm của khái niệm “trật tự công công” cũng chưa có cách hiểu thống nhất trong khi đó, mỗi địa phương,mỗi vùng miền khác nhau lại có các phong tục tập quán, lối sống, cách sinh hoạt riêng. Chính vì vậy, trong quá trình xem xét mỗi tòa lại có những cách hiểu khác nhau về trật tự công cộng. Về thẩm quyền Tòa án Theo quy định tại Điều 34 BLTTDS thì TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyế các yêu cầu về công nhận và thi hành tại Việt Nam các bản án, quyết định của TANN. Và theo quy định tại điển d, đ, e khoản 2 Điều 35 BLTTDS thì đối với yêu cầu cong nhận và thi hành bản án, quyết đinnhj của TANN thì người yêu cầu có thể yêu cầu TA nơi người phải thi hành cư trú, làm việc (nếu là cá nhâ) hoặc nơi có trụ sở (nếu là tổ chức) hoặc nơi có tài sản. Nhưng thực tế cho thấy người phải thi hành án có thể ó nhiêu ftaif sản ở nhiều nơi khác nhau hoặc cư trú, làm việc ở nhiều nơi khác nhau. Do đó, quy định chung chung như vậy dẫn tới việc Bộ Tư pháp khó xác định được TA có thẩm quyền giải quyết yêu cầu. Và đối với yêu cầu công nhận và thi hành mà tài sản của người phải thi hành có ở nhiều nơi khác nhau thì các TA nơi có tài sản đó có được cùng thụ lý giải quyết yêu cầu đó hay không? Tất cả những vướng mắc trên rát cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn giải thích để việc áp dụng các quy định này được thống nhất. Về thủ tục công nhân và thi hành tai Việt Nam bản án, quyết định dân sự của TANN Theo quy định tại khoản 2 Điều 353 BLTTDS: “trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến, TA có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho Viện kiển sat cùng cấp biết”. Quy định này là chưa rõ rang, rất dễ gây hiểu nhầm rằng Tòa án phải tiến hành thụ lý mà không được quyền từ chối thụ lý. Chính vì vậy cần phải sửa quy định này theo hướng, TA có thẩm quyền có trách nhiệm thụ lý nếu hồ sơ do Bộ tư pháp chuyển đến đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật và có quyền từ chối nếu chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của pháp luật. Vấn đề thu phí và lệ phí Mặc dù đã có quy đinh về mức lệ phí mà người gửi đơn yêu cầu công nhận và chi thi hành bản án, quyết định của TANN tại Việt Nam phải nộp nhưng BLTTDS và các văn bản liên quan đặc biệt là Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/ 2009 về án phí, lệ phí tòa án lại có quy định mức lệ phí khác nhau cụ thể: đối với cá nhân thường trú tại Việt Nam, cơ quan, tổ chức có trụ sở chính tại Việt Nam là 2.000.000 đồng; còn cá nhân không thường trú tại Việt Nam, cơ quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam là 4.000.000 đồng. Mặc dù mức lệ phí này là không cao nhưng việc quy định chênh lệnh giữa hai nhóm đôi tượng này cũng phần nào thể thiện sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể vi phạm nguyên tắc cơ bản của TPQT đó là nguyên tắc bình đằng và nguyên tắc không phân biệt đối xử. Hay một thiếu sót nữa hiện nay về vấn đề này là có nhiều trường hợp vụ việc bị đình chỉ hay tạm đình chỉ hay khi đương sự bị TA trả lại đơn yêu cầu thì việc xử lý lệ phí như thế nào thì PL vẫn chưa có các quy định rõ ràng. Như vậy các quy định trong BLTTDS cũng như các văn bản hướng dẫn về vấn đề này chưa tạo đủ cơ sở pháp lý để các TA vận dụng để xử lý tiền tạm ứng lệ phí trong các trường hợp trả lại đơn hay đình chỉ thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN tại Việt Nam. Cho đến nay, trường hợp nào thì được hoàn trả lệ phí, trường hợp nào thì không được hoàn trả vẫn chưa có quy định cụ thể rõ rang. b. Về hoạt động, trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện, xây dựng và áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN tại VN Hiện nay, hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng và hoàn thiện và áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN tại VN còn chồng chéo, sự phối hợp chưa đồng bộ, chưa tạo được sự thống nhất cho cả hệ thống, không phát huy hết vai trò của từng cơ quan trong hệ thống có quan nhà nước. Đặc biệt, đối với các cơ quan trực tiếp áp dụng pháp luật, TAND tỉnh, thành phố trược thuộc trung ương là cơ quan trực tiếp giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN nhưng hiện nay có không ít TA vi phạm trong vấn đề này. Đó là khi xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án quyết định dân sự của TANN có TA còn xem xét lại cả nội dung vụ án dân sự đó, điều này là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 355 BLTTDS. Toà án VN chỉ xem xét xem các thủ tục về mặt tố tụng của việc tuyên bản án, quyết định đó có đảm bảo không hay nói cách khác TA VN chỉ xem xét các quy định của luật hình thức mà không xem xét các quy định của luật nội dung. Lộc thường gặp là Hội đồng xét đơn yêu cầu so sánh việc việc áp dụng luật nước ngoài với pháp luật trong nước, để xem xét lại nội dung vụ kiện có đúng với pháp luật của VN hay không, sau đó mới ra quyết định công nhận và cho thi hành hay không công nhận. Việc này ảnh hưởng về thời gian, sử đúng đắc khi công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN tại nước ta Bất cập về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của TANN. Việc phối hợp giữa các cơ quan trong lĩnh vực này hiện nay cũng còn lỏng lẻo. Bộ tư pháp là cơ quan đầu mối, trực tiếp nhận hồ sơ từ đương sự, thu lệ phí và có trách nhiệm như là cầu nối giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước và cá nhân, tổ chức yêu cầu thi hành án. Tuy vậy, khi TA tiến hành thụ lý đơn cũng như trong quá trình xét xử, có một thực tế là các TA hoàn toàn không có thông báo cũng như báo cáo Bộ tư pháp về hoạt động của mình, dẫn đến việc Bộ tư pháp hoàn toàn bị động trước các vấn đề mà cá nhân, tổ chức nước ngoài hỏi hoặc yêu cầu. Về hướng giải quyết các vụ việc này, TANDTC hiện nay cũng chưa quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng mỗi toà án giải quyết theo một kiểu, không nhất quán và gây tâm lý không tốt cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài. 2. Kiến nghị hoàn thiện * Sửa đổi, bổ sung, ký kết các ĐƯQT mới đồng thời tiếp tục việc nội luật hoá các ĐƯQT về công nhận và cho thi hành tại VN bản án, quyết định dân sự của TANN Đẩy mạnh việc ký kết các ĐƯQT mới về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của TANN.Trong quá trình công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự của TANN tại Việt Nam gặp nhiều vướng mắc chủ yếu là do VN và nước có bản án chưa có điều ước quốc tế liên quan quy định về vấn đề này. Do đó thực tiễn đặt ra nhu cầu phải tiến hành kí kết các Điều ước quốc tế so phương, đa phương nhằm công nhận các bản án, quyết định của nhau cung như giải quyết vấn đề xung đột thẩm quyền giải quyết của TA. Hiện nay. VN đã quan hệ với khoản 165 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và 500 tổ chức phi chính phủ. Sự đa phương hoá các quan hệ quốc tế làm phong phú đa dạng thêm các quan hệ xã hội trên nhiều lĩnh vực. Nhưng trong lĩnh vực công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN, số lượng các ĐƯQT mà VN tham gia lý kết chưa nhiều. Hiện trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về dân sự, có 15 ĐƯQT song phương VN ký với các quốc gia con số này là quá ít. NHư vậy đển bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của đương sự nước ngoài cũng như chính công dân nước mình Việt Nam cần đàm phám ký kết thê nhiều các ĐƯQT hơn nữa tạo cơ sở pháp lý hữu hiện để TA giải quyết các yêu cầu chính đáng của đương sự. Tiếp tục nội luật hoá các ĐƯQT mà VN là thành viên về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN. ĐƯQT mà VN là thành viên với các cam kết quốc tế của VN được ưu tiên áp dụng so với pháp luật trong nước đặc biệt là khi có sự khác nhau giữa ĐƯQT mà VN là thành viên với pháp luật trong nước. Tuy nhiên trên thực tế, các cơ quan nhà nước của VN chưa có thói quen áp dụng trực tiếp các ĐƯQT mà chỉ áp dụng các quy phạm pháp luật trong nước mặc dù các quy phạm này mâu thuẫn với quy định trong các ĐƯQT mà VN là thành viên. Chính vì vậy, việc nội luật hoá toàn bộ hay một phần nội dung của ĐƯQT mà không nhất thiết phải thực hiện các thủ tục chuyển hoá ĐƯQT bằng việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, kéo dài và tốn kém mà chỉ cần ra quyết định thừa nhận toàn bộ hay một phần của ĐƯQT và hệ quả của nó là nội dung ĐƯQT trở thành bộ phận của hệ thóng pháp luật quốc gia, được thực hiện, dẫn chiếu áp dụng như các quy định của pháp luật quốc gia. Chế định công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN trong BLTTDS cần phải được cụ thể hoá hơn nữa về các nguyên tắc công nhận và thi hành bản án, quyết định của TANN, trình tự, thủ tục bước đi trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự. Bên cạnh đó các văn bản hướng dẫn cũng phải được ban hành một cách kịp thời và và đồng bộ. Các nguyên tắc công nhận và thi hành cần phải có sự hướng dẫn giải thích cụ thể của cơ quan chức năng để đảm bảo việc thống nhất áp dụng PL trong giải quyết yêu càu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN. Tránh quy định chung chung như hiện nay, dẫn đến trong quá trình giải quyết yêu cầu của đương sự, mỗi toà địa phương có những cách hiểu khác nhau, áp dụng khác nhau. Cần xây dựng những quy định để bổ sung một số điều của BLTTDS trong đó có vấn đề lệ phí, đặc biệt là quy định về việc xử lý lệ phí trong các trường hợp vụ việc bị đình chỉ hay tạm đình chỉ hay khi đương sự bị TA trả lại đơn yêu cầu từ đó tạo hành lang pháp lý cần thiết đẻ TA có thể tiến hành xử lý tiền lệ phí công nhận và cho thi hành mà đương sự đã nộp. Đề cao trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc triển khai các giải pháp xây dựng và áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự của TANN tại VN + Đối với cơ quan lập pháp cần đưa chwong trình sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS vào chương trình xây dựng pháp luật của QH, giao cho các cơ quan liên quan của CP, Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao phối hợp với TANDTC, VKSNDTC tổng lết thực tiễn áp dụng các quy định của PL về vấn đề này cũng như công tác thực hiện ĐƯQT và các HĐTTTP về vấn đề này để tìm ra những khó khăn vướng mắc và giải pháp khắc phục sao cho phù hợp với thực tiễn thi hành tại VN Hoàn thiện hệ thống pháp luật Bỏ điều kiện chỉ xem xét yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TA NN dựa trên cơ sở điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi có lại Nhận thức đúng đắn về bảo vệ quyền và lợi ích của NN , công dân, pháp nhân VN trong quan hệ đối ngoại. Trong việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại VN thì bên được thi hành án thường là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài; còn bên phải thi hành án thường là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam. Do đó, vấn đề đặt ra trước nhất ở đây là hiểu và vận dụng như thế nào nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyềnlợi của NN, công dân và pháp nhân VN trong việc thi hành án nước ngoài. Việc này không có nghĩa là việc ra mọi lý do để cố tình từ chối, lẩn tránh thi hành quyết định về tài sản trong bản án, quyết định của TANN. Cần nghĩ đến cải lớn hơn, tức là phải đặt lợi ích của quốc gia, của NN lên trên lợi ích của một cá nhân con người cụ thể. Hay nói cách khác, không thể chỉ vì tâm lýn “sợ mất” tiền, tài sản của cá nhân (pháp nhân) mà làm ảnh hưởng đến vị thế, danh dự và uy tín của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trên trường quốc tế. Đề cao trách nhiệm của có quan nhà nước trong việc triển khai các giải pháp xây dựng và áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của TANN Các cơ quan có thẩm quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đối với các cơ quan này cần đưa ra chương trình sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS vào chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. Quốc hội cần sớm chỉ đạo các cơ quan chức năng được giao thực hiện việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS và các văn bản pháp luật liên quan để trình QH sốm xem xét và thông qua. Quốc hội cần giao cho các cơ quan hữu quan như CP, bộ tư pháp, Bộ Ngoại giao trong việc kiểm tra lại việc đề xuất ký kết, gia nhập các ĐƯQT các HĐTTTP về vấn đề này, quyết định của TANN, phối hợp với VKSNDTC, TANDTC tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN để tìm ra những điểm chưa hợp lý và khắc phục nó. Các cơ quan thực thi pháp luật liên quan như TANDTC, VKSNDTC, BTP, BNG… phải tổng lết công tác thực hiện các ĐƯQT và các hiệp định tương trợ tư pháp về vần đề này và những bấ cập để có phương án đề xuất sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tiễn thi hành tại VN và hoàn thiện các văn bản pháp luật của VN cho phù hợp với các văn bản quốc tế mà VN đã ký kết hoặc gia nhập. Cơ quan có thẩm quyền trực tiếp áp dụng pháp luật.TANDTC và các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan trực tiếp giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi hành hoặc không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại VN cần phải tổng kết thực tiễn thực hiện giải quyết việc công nhận và cho thi hành bản án quyết định của TANN để từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, giúp các cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật đánh giá đúng hiện trạng của pháp luật Vn về vấn đề này. VKSNDTC cần phối hợp với TANDTC và các cơ quan liên quan trong công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong lĩnh vực này. Bộ tư pháp cần nghiên cứu tổng kết việc áp dụng các quy định của BLTTDS trong phạm vi những nhiệm vụ của mình được giao, cũng như việc tổng lết công tác áp dụng pháp luật từ các hiệp định tương trợ tư pháp và các công ước quố tế mà Vn đã ký kết hoặc gia nhập. Bộ ngoại giao phải ra soát lại những nươc sthường xuyên có hợp tác quốc tế với VN trong lĩnh vực tư pháp, những nước có quan hệ thân thiện với VN và những nước có nhiều công dân VN đang làm ăn, sinh sống hoặc học tập, công tác tại đó…để thông báo chính thức với các cơ quan tư pháp của VN về việc áp dụng nguyên tắc :có đi có lại” trong quan hệ quốc tế. Các cơ quan trực tiếp giải quyết yêu cầu cần rút ra kinh nghiệm, trực tiếp phát hiện được những vướng mắc trong quy định của pháp luật vì vậy TA phải tổng kết được thực tiễn việc giải quyết công nhận và cho thi hành và từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật, giúp có cơ quan soạn thảo băn bản pháp luật đánh giá đúng hiện trạng của PL VN hiện nay về vấn đề này. Các có quan hữu quan như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, TANDTC. VKSNDTC… cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc nghiên cứu, đề ra phương án cho CP và QH trong việc ký kết các HDTTTP, gia nhập các ĐƯQT về vấn đề này. VKSNDTC cần phải đẩy mạnh vai trò của mình hơn trong viêc giám sát, hướng dẫn áp dụng thống nhất PL trong lĩnh vực này. Bộ tư pháp càn nghiên cứu, tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định về vấn đề này từ đó đưa ra những đề xuất với CP, QH sửa đổi, bổ sung những điểm chưa hợp lý của pháp luật. Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ TA và cán bộ thi hành án trong lĩnh vực này đặc biệt là trình độ tiếng anh. KẾT LUẬN Công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại VN là xu thế tất yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay. Thông qua việc này quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân các nước trên lãnh thổ của nhau được các quốc gia tôn trọng và bảo vệ. Không những thế công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của TANN cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực mở cửa quan hệ quốc tế. Việc giải quyết thoả đáng vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN sẽ là nhân tố tạo niềm tin, sự an tâm, ổn định cho các đối tác nước ngoài khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình với đối tác VN. Điều này cũng sẽ góp phần tạo môi trường để giao lưu dân sự phát triển lành mạnh. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề này vẫn còn khá nhiều vướng mắc, bất cập về mặt pháp luật thực định cũng như thực tiễn thi hành. Do vậy, cần phải tháo gỡ nhanh chóng những vướng mắc này nhằm xây dựng một hành lang pháp lý thông thoáng, góp phần thúc đẩy phát triển các quan hệ với nước ngoài, tại điều kiện cho VN trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Trường đại học Luật Hà Nội.Giáo trình luật tư pháp quốc tế. NXB Công an nhân dân. Hà Nội – 2010; 2. Trần Thị Huyền Thương. Vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Khóa luận tốt nghiệp. Giáo viên hướng dẫn: ThS. Lưu Thị Kim Dung. Hà Nội – 2011; 3. Mai Thị Mỹ Hạnh. Vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Khóa luận tốt nghiệp. Giáo viên hướng dẫn: Thầy Hỗ Văn Phú. Hà Nội – 2011; 4. Trần Thị Thảo. Một số vấn đề pháp lý cơ bản về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam. Khóa luận tốt nghiệp. Người hướng dẫn : TS. Bùi Xuân Nhự. Hà Nội – 2011 5. Viện Khoa học xét xử tòa án nhân dân tối cao. Chuyên đề nghiên cứu khoa học: Những vấn đề lý luận về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông nhân và cho thi hành ban an, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại VIệt Nam.doc