Một trong những nguyên nhân làm cho thực trạng sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái ở các gia đình nông thôn khá phổ biến chính là do thói quen giáo dục con cái của cha mẹ, thậm chi cha mẹ có ít hoặc không có những kĩ năng cần thiết trong giáo dục con cái, xử lý khéo léo các lỗi mà con cái gây ra. Chính vì thế khi gặp các tình huống này không ít cha mẹ tỏ ra lúng túng, do vậy các biện pháp bạo lực đã được nghĩ đến đầu tiên khi con cái mắc lỗi. Do vậy một trong những giải pháp quan trọng để giảm các biện pháp giáo dục bạo lực đồng thời nâng cao những biện pháp giáo dục đúng đắn, khoa học là nâng cao nhận thức và trang bị kỹ năng xử lí tình huống cho các bậc phụ huynh.
85 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2780 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác xã hội với giáo dục con cái trong các gia đình nông thôn hiện nay (Trường hợp nghiên cứu tại xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề mặt thể xác khá đa dạng, đó là: Thâm tím, chảy máu, sưng u, gãy tay gãy chân và các tổn thương khác. Cho dù đó là những tổn thương ở mức độ nào thì các bậc cha mẹ ở nông cũng đã vô tình vi phạm các điều luật về trẻ em. Đây cũng là một trong những nguyên nhân xuất phát từ trình độ hạn chế của các bậc cha mẹ. Trong các trường hợp tổn thương về thể xác ta thấy tỷ lệ các em bị thâm tím là cao nhất 75%, tỷ lệ các em bị chảy máu chiếm 15%, tỷ lệ các em bị sưng u chiếm 20%, tỷ lệ các em bị gãy chân gãy tay chiếm tỷ lệ 0,5%, và tỷ lệ các em bị các tổn thương khác chiếm 3%. Chúng ta hãy tự mình đặt ra câu hỏi với nhưng trẻ em đang trong độ tuổi, đang bước vào giai đoạn có những chuyển biến, những thay đổi quan trọng cả về tâm và sinh lý mà đã bị những trận đòn, những hình phạt để lại những hậu quả đáng thương như vậy. Thì liệu các em có thể phát triển được toàn diện, phát triển bình thường như những đứa trẻ khác được hay không? Điều đó là rất khó, bởi những tổn thương ấy, với những lứa tuổi như vậy các em sẽ nghĩ gì? Tất nhiên hình tượng tốt đẹp về các bậc làm cha làm mẹ sẽ không còn nguyên vẹn nữa, nó sẽ bị giảm đi phần nào đấy. Mặt kkhác những tổn thương ấy còn ảnh hưởng mãi về sau này, khi các em chính là những bậc làm cha làm mẹ. Từ những tổn thương về mặt thể xác chắc chắn sẽ kéo theo là những tổn thương về mặt tinh thần.
2. Những hậu quả về mặt tinh thần
Chúng ta biết rằng nguyên nhân dẫn đến việc cha mẹ phải sử dụng bạo lực khi giáo dục con cái là do xuất phát từ những xung đột giữa bố mẹ và con cái. Mà phần lớn là do cha mẹ chưa hiểu được tâm sinh lý của con mình trong giai đoạn này. Điều này khiến các em có cảm giác lo sợ, thiếu tự tin khi phải đối mặt với bố mẹ mình. Khi bị tổn thương về mặt thể xác thì tâm lý của các em cũng sẽ bị ảnh hưởng. Tất nhiên trong số những trường hợp ấy sẽ có những đứa trẻ quên đi nhanh chóng, nhưng có nhiều đứa trẻ đó lại là những vết hằn tâm lý khó quên hoặc không bao giờ quên ở tuổi niên thiếu. Ông bà thường nói “trẻ cậy cha già cậy con”. Điều này có nghĩa rằng con cái là của để dành, là bảo bối của cha mẹ. Nhưng lúc trẻ cha mẹ giáo dục quá thiên về biện pháp giáo dục mang tính chất bạo lực thì giá trị của những bảo bối ấy sẽ giảm đi rất nhiều do đã bị tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần. Khi các em lớn lên và trở thành những bậc làm cha làm mẹ thì có nhiều em sẽ áp dụng phương pháp giáo dục ấy đối với con cái của mình, vì các yếu tố sinh học có sự di truyền từ đời này qua đời khác. Trong gia đình cha mẹ thường là những tấm gương để con cái noi theo, nhưng khi giáo dục cha mẹ quá lạm dụng các biện pháp mang tính bạo lực thì hình ảnh của tấm gương sáng trong tâm trí của các em sẽ không còn được nguyên vẹn nữa. Các em sẽ mãi mãi “ấn tượng” về những hành vi ấy của cha mẹ. Ấn tượng ấy là nỗi sợ hãi, là cảm giác lo lắng, không có chỗ dựa, thiếu tin tưởng và mất hình tượng về các bậc làm cha làm mẹ, nhất là trong giai đoạn có những biến đổi quan trọng như ở lứa tuổi 11 đến 15. Khi chúng tôi khảo sát trong số 30 mẫu nghiên cứu là trẻ em thì kết quả thu được có tới 85% trong số ấy trả lời là rất sợ khi bị cha mẹ sử dụng hình phạt. 10% cảm thấy bình thường,còn 5% cho là không có gì phải sợ.Tỷ lệ này được thể hiện rõ qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ thể hiện mức độ sợ hãi khi bị cha mẹ giáo dục bằng biện pháp bạo lực
Chúng ta cũng biết mục đích của cha mẹ khi sử dụng các biện pháp giáo dục mang tích bạo lực là mong muốn con cái nghe theo lời dạy dỗ của họ. Và biểu hiện của sự sợ hãi cũng chính là biểu hiện của thái độ nghe lời cha mẹ của các em.Nhưng theo khảo sát ta lại thấy tỷ lệ các em sợ hãi chiếm tới 85%. Như vậy có thể nói đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến các bậc làm cha làm mẹ tăng cường các hành vi giáo dục con cái bằng bạo lực. Cha mẹ thấy các biện pháp giáo dục của mình có hiệu quả tức thời nên đã có ý định duy trì và phát huy phương pháp ấy. Chính vì những hành vi như vậy mà các bậc làm cha làm mẹ đã vô tình kéo xa khoảng cách giữa mình và con cái. Ở lứa tuổi từ 11 đến 15 đang có những biến đổi quan trọng, các em đang có nhiều băn khoăn, thắc mắc, lo lắng về những thay đổi về sinh lý của mình. Có thể những lo lắng ấy làm các em thiếu tự tin, không tập trung được vào việc học tập, nhiều khi đạt kết quả không như mong muốn. Và chính những lúc như vậy các em đã làm phật lòng cha mẹ, khi cha mẹ phải sử dụng hành vi bạo lực khi giáo dục. Nhưng người lớn đâu biết rằng lúc này là lúc các em cần có sự đồng cảm, cần được quan tâm, cần được giải quyết những thắc mắc về những thay đổi trên cơ thể mình. Thế mà cha mẹ vô tình lãng quên hoặc không biết, không quan tâm khiến cho các em luôn có tâm lý bất an, không tin tưởng, không có chỗ dựa. Đồng nghĩa với việc các em không biết tâm tư cùng ai, chia sẻ cùng ai, các em có thái độ khép mình, thiếu tự tin khi giao tiếp và luôn có xu hướng đề phòng với những người xung quanh.
Như vậy qua khảo sát và nghiên cứu thực tế ta thấy hậu quả để lại của các biện pháp giáo dục con cái mang tính chất lực là rất lớn cả về thể xác và tinh thần.Rõ ràng hậu quả để lại là rất nghiêm trọng, nó ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của các em, đến quá trình xã hội hóa, mặt khác còn tác động đến nhận thức hành vi, hơn thế nữa nó còn ảnh hưởng đến tính cách, nhân cách sau này của các em. Ảnh hưởng của các biện pháp giáo dục ấy không chỉ diễn ra ngày một ngày hai là kết thúc, mà nó kéo dài và duy trì trong suốt quá trình lớn lên, quá trình xã hội hóa của các em.
Thông qua các nội dung đã nghiên cứu, mà cụ thể là thông qua thực trạng của phương pháp giáo dục con cái tại địa bàn nghiên cứu, qua các hình thức giáo dục, các yếu tố tác động cũng như hậu quả để lại của các biện pháp giáo dục con cái chúng ta thấy rằng:
Mặc dù ở nông thôn, điều kiện kinh tế chưa phát triển, trình độ của các bậc làm cha làm mẹ còn nhiều hạn chế. Nhưng thông qua kết quả mà người nghiên cứu thu thập được từ mẫu nghiên cứu, người nghiên cứu thấy rằng phần lớn các bậc cha mẹ thuộc diện điều tra đều nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục con cái mình trên các lĩnh vực sau: Giáo dục đạo đức, giá trị truyền thống; giáo dục tri thức, kinh nghiệm sống; giáo dục và định hướng nghề nghiệp; giáo dục và định hướng hôn nhân. Đây cũng chính là các nội dung giáo dục mà chức năng giáo dục của gia đình cần phải thực hiện, hầu hết các bậc cha mẹ ở nông thôn đều nhận thức được là với các nội dung giáo dục ấy thì họ cần phải giáo dục những gì cho con em mình. Song không phải tất cả họ đều nhận thức được như nhau, do trình độ của mỗi người một khác nên những gì mà họ biết về các nội dung giáo dục cũng không hoàn toàn như nhau.
Cũng tương tự như vậy thì phương pháp giáo dục của họ với con cái mình cũng khác nhau, qua tìm hiểu nghiên cứu chúng ta nhận thấy các phương pháp giáo dục của các bậc cha mẹ là khá đa dạng: Có những phương pháp được thực hiện khá khoa học, đúng đắn, bên cạnh đó lại có những gia đình quá nuông chiều con cái; đáng chú ý hơn là tỷ lệ các bậc cha mẹ sử dụng các biện pháp mang tính chất bạo lực để giáo dục con cái mình là khá nhiều. Những biện pháp như vậy thường được các bậc cha mẹ sử dụng khi con cái họ mắc lỗi.
Nhiều bậc cha mẹ không nhận thấy những biến đổi về tâm sinh lý của con mình trong giai đoạn từ 11 đến 15 tuổi, nên họ cứ ngang nhiên sử dụng bạo lực với con mình khi chúng mắc lỗi. Khi sử dụng bạo lực để giáo dục các con thì hình thức mà họ sử dụng cũng khác nhau: nào là chử mắng, nào là răn đe, chì chiết đe dọa, cấm không cho ra khỏi nhà, đánh đòn, bạt tai… Những hành động như vậy chịu tác động của nhiều yếu tố như: nghề nghiệp của cha mẹ, tuổi tác, trình độ học vấn, giới tính, điều kiện kinh tế gia đình và các yếu tố tác động khác nữa… Cho dù họ là ai, những yếu tố nào tác động tới các hành vi sử dụng bạo lực của cha mẹ trong giáo dục con cái thì cũng không tránh được những hậu quả nghiêm trọng cả về thể xác và tinh thần như đã phân tích ở trên.
Vậy trước một thực trạng khá phức tạp về các phương pháp giáo dục con cái trong các gia đình nông thôn nói chung và các gia đình trên địa bàn nghiên cứu nói riêng, chúng ta cần có những giải pháp như thế nào. Những giải pháp ấy đã đưa ra và được thực hiện như thế nào, chúng ta sẽ đi nghiên cứu tiếp.
V. Một số giải pháp nhằm điều chỉnh những phương pháp giáo dục thiếu khoa học, đồng thời phát huy vai trò của gia đình nông thôn trong giáo dục con cái:
Trước hết chúng ta nhận thấy là giáo dục trong gia đình đóng một vai trò và có một ý nghĩa tô lớn đối với việc hình thành nên nhân cách gốc của mỗi thành viên ngay từ khi còn nhỏ. Dù ở bất cứ thời đại nào, trong môi trường xã hội nào thì việc giáo dục con người cũng phải xuất phát từ môi trường giáo dục gia đình. Vì giáo dục gia đình có ảnh hưởng lâu dài, toàn diện và sâu sắc đối với các cá nhân trong suốt cuộc đời của họ. Nhưng có một sự thật là không phải gia đình nào cũng thực hiện được chức năng giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Ngày nay vấn đề giáo dục con cái trong gia đình đang có nhiều bất cập, nhất là ở các gia đình nông thôn, do điều kiện kinh tế xã hội còn hạn chế, trình độ nhận thức của các bậc cha mẹ chưa cao nên phương pháp giáo dục con cái của họ nhiều lúc và trong nhiều trường hợp chưa hợp lý. Vậy để điều chỉnh những phương pháp giáo dục thiếu khoa học, đồng thời phát huy vai trò của các gia đình nông thôn trong việc giáo dục con cái cần xây dựng một số giải pháp sau:
1. Nâng cao khả năng giáo dục và tự giáo dục của mọi thành viên trong gia đình.
Muốn nâng cao được khả năng giáo dục và tự giáo dục trong gia đình thì chúng ta cần xác định được đối tượng giáo dục trong gia đình. Thực tế thì đối tượng giáo dục trong gia đình không phải mình trẻ em, không phải mình con cái mà còn có cả các bậc làm cha làm mẹ nữa. Giáo dục gia đình đối với trẻ em là một quá trình xã hội hóa diễn ra trên hai mặt:
Trẻ em được học hỏi ở các bậc cha mẹ những kỹ năng, tri thức, kinh nghiệm sống, các giá trị đạo đức, chuẩn mực truyền thống… học hỏi để trở thành con người có nhân cách, để trở thành con người xã hội, để có thể tự chủ và phát huy vai trò, năng lực của mình trong xã hội, trong cuộc sống. Cha mẹ trong gia đình lại đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của trẻ em, bằng việc cha mẹ bảo lưu, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống để răn dạy con cháu thông qua các hành vi mang tính chất nêu gương.
Trẻ em thông qua học hỏi từ nhiều kênh thông tin, có khả năng nắm bắt nhanh nhạy hơn, những giá trị mới cũng góp phần vào quá trình hoàn thiện và ổn định nhân cách của các bậc cha mẹ. Trong quá trình ấy các bậc cha mẹ không thể không luôn luôn tự giáo dục, phải luôn luôn “học để dạy” . Ngày nay trong các gia đình (nhất là ở nông thôn) các bậc cha mẹ phải học để dạy thông qua nhiều con đường khác nhau, nhiều phương pháp, nhiều con đường và thông qua nhiều kênh thông tin. Một điều bất cập là các bậc cha mẹ ngày nay (đặc biệt là các bậc cha mẹ ở nông thôn) thiếu kiến thức, thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm, thời gian và lòng kiên nhẫn, cũng như chưa hiểu đúng về các nội dung và các phương pháp giáo dục con cái. Mỗi thành viên trong gia đình, cho dù đó là cha mẹ hay con cái đều luôn luôn tự giáo dục về kiến thức, kinh nghiệm sông, tình cảm… Không chỉ đối với các thành viên trong gia đình mà còn đối với dòng họ, làng xã… Đó là sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ các con về lòng: Nhân; Hiếu; Nghĩa; Trí; Dũng; Lễ; Tín đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Giáo dục con về lòng nhân ái, tương trợ, qua tâm giúp đỡ, quan tâm về nhau… Mặt khác phải dạy dỗ con cái chúng ta cũng như bản thân mỗi người tinh thần tự giáo dục suốt đời mình, biến hiểu biết tri thức thành tư tưởng, đạo đức và lối sống văn hóa: Từ suy nghĩ đến hành động, từ tình cảm đến ứng xử… phải có văn hóa để làm sao có ích cho dân, cho nước và cho bản thân.
2. Giải pháp thứ hai là phải xây dựng kỷ cương gia đình
Dù ở nông thôn hay đô thị, là đồng bằng hay miền núi, miền Bắc hay miền Nam thì trong công cuộc đổi mới hiện nay, để phát huy vai trò giáo dục đối với con cái mọi gia đình đều phải xây dựng kỷ cương, gia phong nếp nhà. Muốn cho gia đình được tồn tại và phát triển tốt đẹp thì ta phải xây dựng được một kỷ cương tốt, phải có tôn ti trật tự, phải có trên có dưới… Trong gia đình phải có người lãnh đạo, mọi người trong gia đình phải tôn trọng lẫn nhau, phải biết lắng nghe, người lãnh đạo phải giải quyết các vấn đề một cách thấu tình đạt lý. Các thế hệ trong gia đình phải hòa thuận, có nề nếp, biết quan tâm chia sẻ lẫn nhau mọi lúc mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh khác nhau, nhất là trẻ em, nếu được sống trong gia đình có nề nếp có kỷ cương thì chắc chắn con cái cũng sẽ noi gương theo ông bà, cha mẹ để sống tốt, biết nghe lời, chăm chỉ học tập và ngoan ngoãn mà không cần cha mẹ phải răn dạy nhiều. Ngược lại, nếu những gia đình không xây dựng được kỷ cương, nếp nhà, do hoàn cảnh chi phối, điều kiện kinh tế tác động mà họ không giữ được nét đẹp của gia đình, dòng họ mình thì chắc chắn việc giáo dục con cái sẽ hết sức khó khăn, những gia đình như vậy buộc phải làm lại, xây dựng lại từ đầu.
Bên cạnh giải pháp nhằm điều chỉnh và phát huy vai trò giáo trong gia đình nông thôn thì chúng ta cũng nên đưa lên giải pháp kết hợp giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
Chúng ta biết rằng gia đình đóng vai trò rất quan trọng và ý nghĩa to lớn trong quá trình giáo dục nhân cách (đặc biệt là trong việc hình thành nhân cách gốc) của con người. Song giáo dục con người không phải là công việc riêng của gia đình mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Sự kết hợp giữa giáo dcụ gia đình, nhà trường và xã hội là một giải pháp để phát huy vai trò của giáo dục gia đình trong việc hình thành nhân cách con người.
Gia đình và nhà trường chính là hai thiết chế xã hội khác nhau, hai môi trường giáo dục khác nhau. Mỗi thiết chế có một vị trí và vai trò nhất định trong quá trình giáo dục nhân cách cho con người. Giáo dục trong gia đình thường dựa trên các mối quan hệ ruột thịt, con cái thường lấy cha mẹ, ông bà làm gương để học hỏi. Cha mẹ thường giáo dục con mình xuất phát từ tình yêu thương, từ sự cảm hóa tự nhiên… Giáo dục gia đình mang tính cá biệt rõ rệt dựa trên cơ sở cuộc sống tự nhiên cởi mở trong gia đình, mang tính linh hoạt, thiết thực trên cơ sở thống nhất lợi ích giữa người dạy và người học.
Còn giáo dục nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt. Nó giáo dục con người bằng cách cung cấp cho con người một hệ thống tri thức và kỹ năng, nhất là phương pháp tư duy mang tính hệ thống. Song có một thực tế ta thấy là giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa có được sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ, khoa học trong quá trình giáo dục con người. Vì vậy mà thế mạnh của mỗi thiết chế chưa được phát huy và kịp thời bổ sung cho nhau trong quá trình giáo dục trẻ em, đặc biệt là ở nông thôn. Về phía nhà trường chỉ quan tâm chú ý tới việc giáo dục, truyền đạt, cung cấp cho các em những kiến thức từ sách vở mà xem nhẹ giáo dục đạo đức, phẩm chất, tư cách… Như vậy giáo dục nhà trường chỉ chú ý tới cái chung mà quên đi cái cá biệt, chưa đi sâu vào việc tìm hiểu động viên, giúp đỡ kịp thời tới các em. Ở nông thôn phần lớn các gia đình đều gặp hoàn cảnh khó khăn như: con cái nhiều, thu nhập thấp, trình độ học vấn và nhận thức của nhiều cha mẹ còn hạn chế. Mặt khác thời gian để họ quan tâm đến con cái cũng không được nhiều, chính vì vậy mà đã dẫn tới hiện tượng trẻ em bỏ học mà nhà trường không rõ nguyên nhân, việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường cũng chưa được chặt chẽ. Các bậc cha mẹ hầu như quan tâm khi gửi con cái vào các trường mà không cần biết chất lượng giảng dạy, nội dung giảng dạy và con cái họ tiếp thu được những cái gì. Họ không cần quan tâm hoặc do nhiều điều kiện tác động mà họ ít quan tâm tới việc học hành của con cái. Để các em có thể phát triển tốt được cả về đạo đức, phẩm chất, cũng như hoàn thiện về mặt tri thức thì cần có sự phối kết hợp giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Ba môi trường giáo dục này phải có sự thống nhất với nhau, tránh sự tách rời, mâu thuẫn hoặc ỷ lại lẫn nhau. Có một điều mà chúng ta phải công nhận là trong mối quan hệ ấy thì giáo dục gia đình luôn phải đóng vai trò chủ động tích cực, vì đó là moi trường quan trọng trong việc hình thành nhân cách gốc.
Bên cạnh giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường thì môi trường giáo dục xã hội cũng giữ vai trò không kếm phần quan trọng. Mà môi trường giáo dục xã hội được thể hiện ở vai trò giáo dục của các tổ chức xã hội, các đoàn thể như đoàn thanh niên, đội thiếu niên, hội phụ nữ, hội nông dân… Các tổ chức này có nhiều đóng góp trong quá trình giáo dục đạo đức, nếp sống, ý thức, tính tổ chức kỷ luật và phát huy mạnh mẽ các năng lực cá nhân cho trẻ em. Song có một thực tế là ngày nay vai trò của các tổ chức, các bộ phận này đang giảm dần. Đặc biệt là ở nông thôn vai trò giáo dục của các tổ chức trên lại tỏ ra kém hiệu quả, trẻ em ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động Đoàn, Đội do điều kiện, do cách hoạt động tự phát, thiếu định hướng. Công tác tổ chức lại lỏng lẻo, mang tính hình thức, nội dung còn nghèo, chưa phong phú, chưa đáp ứng được mong đợi, thị hiếu của các em. Các tổ chức khác của địa phương còn thiếu quan tâm, thiếu trách nhiệm trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ. Do vậy để phát huy tốt vai trò của các tổ chức xã hội ở địa phương cần cải thiện nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục để phù hợp với thị hiếu, đáp ứng được nhu cầu của các em, từ đó mà giúp các em có điều kiện phát triển toàn diện hơn.
CHƯƠNG III: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI GIÁO DỤC CON CÁI TRONG CÁC GIA ĐÌNH TẠI XÃ VĨNH AN, HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA
“Chúng ta đã biết công tác xã hội là một dịch vụ đã chuyên môn hóa, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến con người nhằm thỏa mãn các nhu cầu căn bản của những cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội; mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai trò xã hội của chính mình”.
Qua đó thấy rằng công tác xã hội như một khoa học, một nghề nghiệp phi lợi nhuận. Sự giúp đỡ của công tác xã hội không mang ý nghĩa ban ơn, trả ơn hoặc bất kỳ một sự báo đáp nào. Đối tượng phục vụ của nghành nghề này chủ yếu nhằm vào những cá nhân, nhóm hay cộng đồng yếu thế để duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Nhưng mục tiêu cơ bản của công tác xã hội không chỉ nhằm vào việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ mà là vì lợi ích, vì sự ổn định và tiến bộ của toàn xã hội. Công tác xã hội không trực tiếp tạo ra tiền bạc và của cải, nhưng nó góp phần xây móng, đắp nền cho sự phát triển xã hội. Và việc thể hiện vai trò công tác xã hội với phương pháp giáo dục trong các gia đình cũng góp phần không nhỏ vào sự phồn thịnh và phát triển của gia đình nói riêng và xã hội nói chung.
Trước hết trong quá trình nghiên cứu người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn, chưng cầu ý kiến từ 30 mẫu nghiên cứu là trẻ em và nhận thấy hầu hết trẻ em chưa nhận thức được những hành vi nào là những hành vi vi phạm tới thể chất, những hành vi nào là thiếu trách nhiệm, thiếu phẩm chất đối với trẻ em. Vì vậy người nghiên cứu tiến hành tuyên truyền để các em biết rõ hơn về các hành vi không đúng với các điều luật về trẻ em. Trong quá trình thuyết trình người nghiên cứu có đưa ra một số nội dung của các điều luật liên quan đến trẻ em (kèm theo ở phần phụ lục).
I. Vai trò của công tác xã hội với trẻ em (với con cái):
Công tác xã hội với trẻ em đòi hỏi những nhân viên công tác xã hội phải nhận thức sâu sắc thực trạng đời sống của trẻ em hiện nay, đặc biệt là những nỗi đau của chúng bởi sự lạm dụng, ngược đãi của người lớn. Các hình thức đối xử ấy đã từng xảy ra trong mỗi gia đình, trong cộng đồng trước đây và ngày càng thêm trầm trọng, tinh vi trong một xã hội phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường. Chúng ta có thể nhận thấy những hành vi đối xử thiếu trách nhiệm, thiếu phẩm chất đối với trẻ em thường có đó là:
1. Ngược đãi trẻ em:
Đó là tất cả những thái độ, những hành vi làm tổn hại đến sự tự trọng của đứa trẻ, làm hại đến thân thể, sức khỏe và tâm lý của trẻ qua hành động mắng chửi, xỉ nhục, bỏ mặc, thậm chí dùng vũ lực (đánh đập, bạt tai) để trừng phạt, răn đe, dạy dỗ con trẻ. Trong đề tài của mình người nghiên cứu cũng đã chứng minh điều đó thông qua các hành vi, phương pháp giáo dục của một số gia đình nông thôn, các bậc cha mẹ giáo dục con cái khi con cái mắc lỗi). Và thật đáng lo ngại bởi cách giáo dục ấy không chỉ diễn ra trong gia đình mà còn diễn ra trong lớp học, thậm chí ngay trên đường phố…
2. Lạm dụng sức lao động của trẻ em:
Bằng các hình thức lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc, người lớn bắt ép trẻ em phải lao động sớm, lao động cực nhọc không phù hợp với sức khỏe, tuổi tác, thời gian lao động thì kéo dài… Thậm tệ hơn họ còn sử dụng lao động trẻ em vào các hành vi vi phạm pháp luật như: Buôn bán, vận chuyển ma túy, rồi cưỡng đoạt, trộm cắp…
3. Trẻ em bị lạm dụng tình dục:
Những kẻ vô lương tâm đã biến trẻ em thành những “đồ chơi” bằng xác thịt, mãi dâm trẻ em ở tuổi vị thnàh niên, trẻ em bị người xấu hãm hiếp, trẻ em bị đầu độc bằng các loại văn hóa đồi trụy, độc hại…
4. Trẻ em bị buôn bán:
Chúng ta đã biết buôn bán phụ nữ và trẻ em đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội nhức nhối trong giai đoạn hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn diễn ra trên thế giới. Mục đích của việc buôn bán người không chỉ nhằm vào nhu cầu tình dục mà còn nhằm vào sự bóc lột lao động rẻ mạt, một hình thức bóc lột “nô lệ” trá hình trong xã hội hiện đại.
Qua đây ta thấy thế hệ tương lai của đất nước, những mầm non tương lai đang bị đối xử bất công, đang bị hành hạ, ngược đãi. Đây cũng là một sự thật đau lòng cần có sự lên tiến của cộng đồng, của các nhân viên công tác xã hội.
Trong nghiên cứu “Công tác xã hội với phương pháp giáo dục con cái trong các gia đình nông thôn hiện nay” người nghiên cứu cũng đã chỉ ra được một phần nào đấy của sự đối xử bất công, đối xử không đúng chuẩn mực của người lớn. Mà điều này đã thể hiện rất rõ trong phương pháp giáo dục của các bậc làm cha làm mẹ khi con cái mắc lỗi. Các bậc cha mẹ chỉ biết nghĩ bằng cách nào để con họ nghe lời nhanh nhất mà đâu có quan tâm đến những tổn thương về tinh thần và thể xác do các hành vi của họ gây ra là không hề nhỏ. Mặt khác qua điều tra, nghiên cứu, phỏng vấn người nghiên cứu cũng nhận thấy hầu hết các bậc cha mẹ trong mẫu nghiên cứu đều chưa hiểu hết về các chức năng của gia đình, về tầm quan trọng của gia đình. Đặc biệt người nghiên cứu đã nhận thấy các bậc cha mẹ không quan tâm hoặc không biết những thay đổi về tâm sinh lý của các em trong giai đoạn từ 11 đến 15 tuổi
Vì vậy người nghiên cứu đã tiến hành tổ chức tuyên truyền, giới thiệu cho các bậc cha mẹ biết tầm quan trọng của gia đình và sự phát triển của trẻ em, thông qua đó cũng đưa ra các điều luật về “chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em” để người lớn tiếp thu. Qua đó mà họ thay đổi hành vi và phương pháp giáo dục giúp trẻ em phát triển một cách tốt nhất.
II. Công tác xã hội với gia đình trong việc giáo dục con cái:
Trước hết chúng ta cũng phải nhận thấy và xác định một cách đúng đắn vai trò của gia đình trong xã hội, trong các thời đại và mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong bất kỳ một xã hội nào, một giai đoạn nào của lịch sử loài người gia đình luôn là tâm điểm của xã hội. Gia đình không chỉ được chú ý như một “tế bào của xã hội” mà còn được xem xét như một thiết chế xã hội, một hệ thống phức tạp của sự chức năng hóa con người về mặt xã hội. Và với tư cách một nhóm xã hội đặc biệt, gia đình luôn đòi hỏi được quan tâm, được đối xử bình đẳng cả về phương diện tự nhiên và phương diện xã hội. Với ý nghĩa đó gia đình cũng được xem như là một đối tượng của công tác xã hội.
Ngoài ra chúng ta cũng biết rằng gia đình hiện nay đã và đang trải qua nhiều biến đổi từ quy mô gia đình, từ các vai trò chức năng cho đến sự phân công lao động trong gia đình… Sự biến đổi đó đã mang lại nhiều yếu tố tích cực phù hợp với quy luật biến đổi kinh tế xã hội nói chung, nhưng nó cũng kéo theo những hệ quả tiêu cực trong quá trình chuyển đổi từ hình mẫu gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại. Và các gia đình thuộc mẫu nghiên cứu trong đề tài “công tác xã hội với phương pháp giáo dục con cái trong các gia đình nông thôn hiện nay” cũng thuộc những gia đình đã chuyển từ truyền thống sang hiện đại, do vậy trong gia đình có nhiều bấp cập xảy ra cần nhà công tác xã hội quan tâm. Một trong những vấn đề ấy là phương pháp giáo dục con cái của nhiều gia đình, nhiều bậc làm cha làm mẹ còn chưa đúng đắn, chưa hợp lý, chưa khoa học. Nhiều bậc cha mẹ đã sử dụng những biện pháp giáo dục mang tính chất bạo lực, do đó đã để lại những tổn thương về thể xác cũng như về tinh thần, làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của các em nhỏ, nhất là các em đang trong độ tuổi có nhiều chuyển biến về tâm sinh lý như ở lứa tuổi từ 11 đến 15. Vậy nhà công tác xã hội cần thể hiện vai trò của mình trong lĩnh vực này như thế nào?
Nhà công tác xã hội sẽ thể hiện vai trò của mình bằng cách tổ chức một buổi thuyết trình (thông qua họp dân) để trao đổi với các bậc cha mẹ thông qua các nội dung sau đây:
1. Tầm quan trọng của gia đình:
Nói về tầm quan trọng của gia đình thì chúng ta thường đề cập trước hết đến những chức năng của gia đình. Trong số rất nhiều chức năng ta thường nhắc tới bốn chức năng cơ bản đó là:
- Chức năng kinh tế
Cần giải thích để cha mẹ biết rằng gia đình thể hiện chức năng kinh tế của mình bằng cách lao động sản xuất, đảm bảo nguồn sinh sống cho các thành viên. Tùy theo trình độ phát triển của xã hội, gia đình có thể là đơn vị kinh tế cơ sở, hoạt động chủ động và tự chủ, hoặc gia đình vẫn làm kinh tế nhưng không hoạt động như một đơn vị độc lập tự chủ. Trong điều kiện nào gia đình cũng phải đảm bảo cho các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của các thành viên được thỏa mãn, thông qua đó gia đình cũng trở thành một đơn vị tiêu dùng, mà những yêu cầu đa dạng ngày càng phát triển của nó lại là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển sản xuất của xã hội.
- Tiếp theo là chức năng tái sản xuất ra con người
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng là tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra chính bản thân con người. Việc sản xuất ra con người một mặt đáo ứng yêu cầu của xã hội, mặt khác đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của chính thành viên gia đình, niềm vui và hạnh phúc của các cặp vợ chồng, con cái ngày càng trở thành nguồn tình cảm không có tính chất vụ lợi cho tương lai. Có nghĩa là trong nhiều trường hợp nhiều gia đình ta thấy sợi dây để gắn kết tình cảm của cha mẹ chính là con cái.
- Có một chức năng cũng khá quan trọng là chức năng bảo vệ, chăm sóc người ốm, người già, trẻ em của các gia đình. Mặc dù ngày nay các dịch vụ y tế có nhiều thay đổi và phát triển nhưng chức năng này vẫn luôn chiếm một vị trí khá quan trọng và cần thiết cho cuộc sống của các thành viên. Bởi vì đây không chỉ là vấn đề tâm lý tình cảm, đặc biệt là với người già trẻ em, họ cần sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng cả về vật chất và tinh thần của những người thân trong gia đình.
- Một trong số những chức năng rất quan trọng mà người nghiên cứu muốn đề cập tới nhiều trong đề tài của mình và cũng thông qua đây muốn giúp các bậc cha mẹ hiểu một cách sâu sắc, đúng đắn về chức năng này, đó là chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Mặc dù nhà trường, các tổ chức xã hội, các tổ chức đoàn thể quần chúng có sự hỗ trợ, nhưng không thể thay thế được. Việc hình thành nên nhân cách gốc của mỗi con người xuất phát từ môi trười gia đình, trong đó cha mẹ là người trực tiếp dạy dỗ, giáo dục con em mình ngày từ khi còn nhỏ. Mặt khác việc hoàn thiện củng cố nhân cách con người ở tuổi trưởng thành và khi về già cũng do tác động của đời sống, sinh hoạt, văn hóa gia đình.
Gia đình có chức năng đảm bảo sự cân bằng tâm lý, thỏa mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên, gia đình ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong xã hội hiện tại. Để củng cố sự bền vững của gia đình, giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái (kể cả trong sự hòa hợp tình dục giữa vợ chồng), trong xã hội hiện đại độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộc vào sự ràng buộc các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, ông bà. Nó ngày càng bị chi phối bởi các mối quan hệ tình cảm, tình yêu giữa đôi vợ chồng (đó là sự hòa hợp tình cảm, tâm lý, tình dục). Sự đảm bảo yêu cầu và hạnh phúc, tự do dân chủ của mỗi cá nhân trong cuộc sống chung. Vì vậy chức năng tình cảm và giáo dục con cái trở nên hết sức quan trọng.
2. Thuyết trình về đặc điểm của trẻ em trong giai đoạn từ 11 đến 15 tuổi:
Sở dĩ nhiều bậc cha mẹ có biện pháp giáo dục con cái mang tính chất bạo lực là do cha mẹ không hiểu được, hoặc chưa hiểu sâu sắc về quá trình phát triển tâm sinh lý của con cái mình. Do vậy nhà nghiên cứu muốn thông qua buổi thuyết trình để giúp họ hiểu được phần nào đấy quá trình phát triển của con mình.
Trước hết ta thấy các em ở độ tuổi từ 11 đến 15 đang có nhiều biến đổi. Kể cả các em trai và các em gái đều có những sự thay đổi và biến đổi mà theo các em là bất thường. Nhưng theo khoa học đó là những biến đổi rất bình thường và tự nhiên của tuổi dậy thì. Ở các em trai có hiện tượng xuất tinh trùng, mặt thường nổi mụn trứng cá, các bộ phận trên cơ thể đều phát triển hơn. Về tâm lý các em thích thể hiện hơn, có xu hướng quan tâm, để ý tới các bạn nữ xinh đẹp, mặt khác các em lại có sự hiếu động, tò mò trong các hoạt động, rấ muốn được cha mẹ mình quan tâm chia sẻ. Còn các em nữ có hiện tượng kinh nguyệt, các bộ phận trên cơ thể cũng có nhiều biến đổi khá quan trọng, mà nhiều em nữ cảm thấy lo lắng vì những thay đổi ấy, các em thường tìm những chỗ kín để chăm sóc bản thân, để theo dõi những thay đổi của mình. Lúc này các em có tâm trạng lo lắng, nhiều lúc bất an, rất cần sự quan tâm chia sẻ của người lớn, nhất là của người mẹ. Nhưng các bậc cha mẹ ở nông thôn do điều kiện kinh tế gia đình, thời gian bận rộn với công việc, hơn nữa sự hiểu biết của cha mẹ còn nhiều hạn chế, do vậy mà không quan tâm sâu sắc tới con cái được, nhiều khi các em cảm thấy mình cô đơn, lạc lõng lo lắng mà không biết chia sẻ cùng ai. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi mắc lỗi của các em, khi các em mắc lỗi thì cha mẹ lại giáo dục bằng những biện pháp mang tính chất bạo lực làm ảnh hưởng xấu đến cả tinh thần và thể xác của các em. Cha mẹ đâu biết rằng họ chính là một phần nguyên nhân của các hành vi mắc lỗi ấy.
Thuyết trình về những tổn thương về thể xác và tinh thần:
- Về thể xác:
Giải thích để cha mẹ hiểu rằng, hành vi gây thương tích cho trẻ em (dù dưới hình thức nào, dù nặng hay nhẹ) đều là những hành động vi phạm các điều luật về trẻ em. Mặt khác khi cha mẹ giáo dục con bằng bạo lực sẽ để lại trên cơ thể các em những tổn thương về thể xác như: Bầm tím, sưng u, chảy máu, thậm chí gãy chân gãy tay…( ở phần thực trạng đã trình bày). Như vậy sẽ làm cho các em không thể phát triển bình thường như những đứa trẻ khác được. Nghiêm trọng hơn là từ những tổn thương về thể xác sẽ để lại những tổn thương về tinh thần.
- Tổn thương về mặt tinh thần:
Khi bị sử dụng hình phạt như vậy, với lứa tuổi nhạy cảm như ở lứa tuổi từ 11 đến 15 các em sẽ có tâm lý lo âu, sợ hãi từ đó xa lánh cha mẹ, hình tượng tốt đẹp về người cha người mẹ không được nguyên vẹn, tròn đầy nữa. Từ sự lo âu sợ hãi ấy các em cảm thấy mình như bị cô lập, không biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn cùng ai. Như thế thì những tổn thương về thể xác kết hợp với những tổn thương về tinh thần liệu các em có phát triển như những đứa trẻ bình thường được hay không? Chắc chắn là không được, khi ấy cha mẹ có muốn con mình được như con người ta cũng đâu có được, đây là những vấn đề, những thay đổi do những tổn thương về tinh thần và thể xác do những hành vi giáo dục không đúng đắn của các bậc cha mẹ gây ra.
III. Công tác xã hội với các đoàn thể, chính quyền địa phương:
Bên cạnh việc thể hiện vai trò của nhà công tác xã hội với trẻ em và với gia đình thì người nghiên cứu cần thể hiện được tầm quan trọng của mình với các đoàn thể, với chính quyền địa phương. Bằng việc nhà nghiên cứu đề xuất với chính quyền địa phương đưa thêm các hoạt động liên quan vào các kế hoạch hay các chương trình hành động của địa phương như: Trong các buổi họp dân có nói thêm về vấn đề gia đình, bà mẹ, trẻ em; hoặc hàng tháng có tổ chức các lớp tập huấn về phương pháp giáo dục con cái; có thể đưa thêm các câu chuyện, tổ chức các buổi ngoại khóa ở nhà trường cho các em học sinh hiểu rõ hơn về bổn phận của mình, về vai trò trách nhiệm của các bậc làm cha làm mẹ.
Mặt khác nhà nghiên cứu còn tuyên truyền, vận động để các bậc cha mẹ tham gia các lớp tập huấn về phương pháp giáo dục con cái, về tầm quan trọng của gia đình.
Ngoài ra người nghiên cứu còn đề xuất với chính quyền địa phương, các ban ngành liên quan có những biện pháp tích cực để gia đình có cơ hội tăng thu nhập, tạo vviệc làm thêm (ngoài thời vụ) giúp phát triển kinh tế, từ đó các gia đình sẽ có điều kiện hơn để chăm sóc, nuôi dưỡng con cái giúp các em phát triển tốt hơn cả về thể lực và trí tuệ.
IV. Công tác xã hội với việc xây dựng giải pháp giáo dục mới.
Thông qua việc nghiên cứu tài liệu, thông qua quá trình học tập, nắm bắt các thông tin đại chúng, người nghiên cứu đã tiến hành xây dựng, sắp xếp một số biện pháp giáo dục có khoa học, đưa len chính quyền địa phương, đề nghị họ đưa vào các hoạt động một cách thích hợp, hiệu quả nhất, các biện pháp đó bao gồm:
Biện pháp nêu gương
Biện pháp xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng gia đình ông bà mẫu mực con cháu hiếu thảo, xây dựng xã hội văn hóa
Kết hợp giữa giáo dục gia đình – nhà trường – xã hội
Biện pháp khích lệ.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua kết quả nghiên cứu chúng ta có thể thấy rằng mặc dù địa bàn nghiên cứu (xã Vĩnh An huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa) điều kiện kinh tế chưa được phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa - xã hội với trung tâm huyện còn khó khăn. Nhưng nhìn chung chính quyền địa phương, các ban ngành và các cấp lãnh đạo cùng nhân dân đã có những cố gắng, những quyết tâm cao để mang lại những kết quả nhất định trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị - xã hội. Tỷ lệ các gia đình văn hóa trên địa bàn đã tăng đáng kể, đồng thời cũng có thêm các làng văn hóa được hình thành mỗi năm.
Khi đi sâu vào tìm hiểu mức độ nhận thức, hiểu biết của các bậc làm cha làm mẹ về vấn đề phương pháp giáo dục con cái chúng ta thấy hầu hết các bậc phụ huynh trong diện nghiên cứu đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục con cái trong gia đình. Các bậc cha mẹ đã nhận thấy cần phải giáo dục con cái mình ở bốn nội dung cơ bản: Giáo dục đạo đức, giá trị, chuẩn mực truyền thống; Giáo dục tri thức, kinh nghiệm sống; Giáo dục định hướng nghề nghiệp; Giáo dục định hướng hôn nhân. Đây là những nội dung rất cơ bản, rất cần thiết mà giáo dục gia đình cần phải làm được và các bậc cha mẹ cũng nhận thức được điều ấy. Song khi thực hiện chức năng giáo dục con cái trong gia đình thì họ lại có những cách thức, phương pháp khác nhau. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái bằng phương pháp đúng đắn, khoa học, từ đó mang lại những kết quả như mong muốn, nhưng tỷ lệ này còn chưa cao. Vì thực tế nhiều bậc cha mẹ còn giáo dục con cái bằng những biện pháp thiếu khoa học, những biện pháp mang tính chất bạo lực. Để lại những hậu quả xấu về thể xác cũng như về tinh thần, làm cản trở sự phát triển bình thường và toàn diện của các em. Sở dĩ các bậc cha mẹ có nhiều biện pháp giáo dục khác nhau như vậy là do có những yếu tố tác động như: Yếu tố về trình độ nhận thức, học vấn của cha mẹ; Yếu tố nghề nghiệp; Độ tuổi; Đặc điểm giới tính; Điều kiện kinh tế gia đình và một số yếu tố khác.
Điều kiện kinh tế ở nông thôn còn nhiều khó khăn, hơn nữa trình độ nhận thức của các bậc làm cha làm mẹ còn hạn chế, bởi vậy họ không lường trước được những hậu quả do những hành vi giáo dục thiếu khoa học của họ để lại. Họ đâu biết rằng ngoài những tổn thương về mặt thể xác, các em còn có những tổn thương lớn về mặt tinh thần. Đặc biệt là với lứa tuổi đang có nhiều biến đổi về tâm sinh lý như ở lứa tuổi từ 11 – 15. Do bị cha mẹ quát mắng, chì triết, đánh đập… mà các em cảm thấy bị tổn thương, có cảm giác lo lắng, sợ hãi, từ đó có thể xa lánh cha mẹ, các em sống khép mình không biết chia sẻ tâm tư nguyện vọng cùng ai. Và như vậy đồng nghĩa với việc các em khó có thể phát triển bình thường như những đứa trẻ khác.
Nếu như ở vùng nông thôn nào cũng sảy ra những hiện tượng như vậy với trẻ em thì xã hội của chúng ta sẽ ra sao? Thế hệ tương lai của đất nước cần được chăm sóc, cần được giáo dục và đối xử công bằng, các em cần có những điều kiện môi trường phát triển lành mạnh, có như vậy các em mới sớm trở thành những người có ích cho xã hội góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Để đảm bảo cho một thế hệ mầm non được phát triển tốt cả về trí lực và thể lực. Thì ngay từ hôm nay mỗi chúng ta hãy hành động, hãy thể hiện vai trò trách nhiệm của mình đối với thế hệ trẻ em. Nhất là gia đình và cộng đồng hãy tạo cho các em một môi trường tốt nhất, lành mạnh nhất để các em có điều kiện cơ hội phát triển toàn diện mình hơn.
Mỗi chúng ta hãy bắt tay vào hành động vì một thế giới ngày mai, vì tương lai, vì sự phồn thịnh của dân tộc Việt Nam.
2. Khuyến Nghị:
2.1. Một số khuyến nghị về xây dựng thể chế pháp luật:
2.1.1. Tăng cường pháp chế nhà nước trong mọi mặt của đời sống:
Trước hết là nâng cao hiệu quả tính pháp lý của các bộ luật quan trọng liên quan trực tiếp đến gia đình và trẻ em. Trong đó các bộ “luật hôn nhân và gia đình”, “luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”, “luật bảo vệ sức khỏe nhân dân”, “bộ luật lao động”.
Khuyến nghị với nhà nước ban hành kèm theo các bộ luật những quy định thật cụ thể về việc cưỡng chế, thi hành đối với tất cả những đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của các bộ luật trên.
Ví dụ: Đối với luật hôn nhân và gia đình: Để đảm bảo trẻ em ngay từ trước khi sinh ra được bảo vệ, chăm sóc chu đáo bởi chính bố mẹ của chúng, các văn bản luật nên quy định bắc buộc thanh niên nam nữ phải qua những lớp tư vấn tri thức làm cha làm mẹ. Coi đó như một điều kiện tiên quyết về mặt pháp lý, chỉ khi được chính quyền công nhận sự kết hôn.
Để đảm bảo quyền lợi của trẻ em trong các gia đình chỉ có bố hoặc mẹ do bố mẹ ly hôn hoặc con ngoài giá thú… Các quy định dưới luật phải thể hiện đầy đủ các điều kiện bắt buộc về trợ cấp nuôi con đối với các đối tượng liên quan.
Đối với luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, hiệu lực của luật phải được thể hiện bằng các quy định cưỡng chế, thi hành ở các mức độ cụ thể và áp dụng đối với tất cả các đối tượng điều chỉnh trong bộ luật bao gồm các cơ quan nhà nước, tập thể, gia đình, cá nhân và có một số cơ chế kiểm tra sử lý việc vi phạm luật. Các văn bản dưới luật cần quy định cho phép thành lập hội đồng giám sát trẻ em ở các cấp, các trung tâm tư vấn hoặc các dịch vụ tư vấn tòa án gia đình để giúp lên tiếng kịp thời bảo vệ những quyền lợi chính đáng của trẻ em khi bị bất cứ đối tượng nào vi phạm.
Trong các bộ luật liên quan đến gia đình và trẻ em cũng như các văn bản pháp lý thi hành các bộ luật đó cần tái khẳng định rõ ràng những giá trị truyền thống trong gia đình và cộng đồng mang tính nhân văn cao còn phù hợp với xã hội, đồng thời khẳng định những giá trị xã hội mới trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như: Tôn trọng các quyền của trẻ em, vai trò tham gia tích cực của trẻ em trong đời sống gia đình và ngoài xã hội. Những giá trị mới đó không chỉ thể hiện tính ưu việt, văn minh của chế độ mà nó cho tính khoa học cao của các văn bản pháp luật nhà nước.
Chính phủ ban hành văn bản thể chế hóa về mặt nhà nước, cơ chế phối hợp:
Trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể, trường học, các lực lượng xã hội và gia đình trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em tại địa phương; Ban hành văn bản quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, các lực lượng xã hội và gia đình trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xã cho công tác này; Ban hành kịp thời một số chính sách khuyến khích các bậc cha mẹ thực hiện tốt các quyền trẻ em, tôn vinh các gia đình có nhiều thành tích trong việc giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Chính phủ cần có quy định rõ chức danh quản lý nhà nước làm công tác xã hội về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được hưởng chế độ phụ cấp như các cán bộ chủ chốt khác của xã, đồng thời quy đinh rõ các hình thức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ những cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách và tình nguyện tham gia công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em từ trung ương đến xã. Cùng với những quy định trên, chính phủ cũng đồng thời đề ra các mức độ xử lý hành chính nhà nước đối với các cơ quan đơn vị, cá nhân cố tình vi phạm các quy định đó nhằm đảm bảo tính chất pháp lý và hiệu lực điều hành của nhà nước.
. Một số khuyến nghị về chính sách đối với gia đình và cộng đồng địa phương:
2.2.1. Chính sách đối với gia đình
Mọi chính sách của Nhà nước khi xây dựng, ban hành phải làm sao đảm bảo được sự củng cố bền vững gia đình thông qua việc gia đình thực hiện những chức năng tự nhiên của chính nó, có sự trợ giúp của xã hôi.
Ví dụ: Trong việc thực hiện chức năng kinh tế: Chủ trương xóa đói giảm nghèo của Nhà nước nên theo hướng giúp các gia đình có vốn và kiến thức để thực hiện chức năng làm kinh tế. Tạo điều kiện cho các gia đình nghèo có việc làm và có thu nhập. Nghiêm cấm chính quyền địa phương tăng các khoản thu ngoài các quy định của nhà nước đối với gia đình nghèo. Các chính sách đối với gia đình và cộng đồng nói chung cần nhằm vào mục tiêu số một là phát triển kinh tế gia đình. Chỉ khi nào kinh tế gia đình được đảm bảo thì gia đình mới đảm bảo được các chức năng nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Trong các chính sách phát triển kinh tế gia đình, trước hết là nhà nước cần chú ý đến công ăn việc làm và thu nhập của các bà mẹ. Nhiều nghiên cứu khảo sát và thực tiễn cho thất, khi bà mẹ có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định thì rất có lợi cho những đứa con của họ. Lý do là các bà mẹ có xu hướng dành thu nhập của mình cho con cái hơn các ông bố. Nhiều nghiên cứu cũng đã kết luận tỷ lệ phần trăm của thu nhập gia đình do người mẹ kiếm ra tỷ lệ thuận với các chỉ số về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em.
Chính sách cần quy định khuyến khích nam giới tham gia tích cực và hỗ trợ vợ trông nom, dạy dỗ con cái. Thực hiện công bằng trong khuôn khổ pháp lý các quyền lợi về kinh tế trong hôn nhân và trách nhiệm với con cái.
2.2.2. Chính sách đối với cộng đồng địa phương:
Đã có thời kỳ người ta chỉ nhấn mạnh đến gia đình, đến nhà trường mà xem nhẹ cộng đồng xã hội trong việc thể hiện các vai trò, chức năng với trẻ em. Đây đã là một sai lầm mắc phải trong quá khứ, cần nhớ rằng gia đình là tế bào của xã hội và xã, phường là đơn vị tổ chức cơ sở trong hệ thống hành chính quốc gia. Mọi chính sách kinh tế xã hội tác động đến gia đình và trẻ em đều được triển khai ở cơ sở thông qua cộng đồng dân cư xã phường.
Đã có nhiều chính sách lấy đối tượng tác động chủ yếu và trực tiếp là gia đình như: Luật hôn nhân và gia đình, chính sách kinh tế gia đình, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, nhưng chưa có một chính sách riêng tác động trực tiếp đến gia đình trong lĩnh vực chăm sóc giáo dục trẻ em. Ở mức độ nào đó chưa có một chính sách coi cộng đồng dân cư cơ sở, phường xã là đối tượng khu biệt và toàn vẹn trong quá trình hoạch định giáo dục chăm sóc trẻ em.
Điều trên đã làm tính thích ứng của chính sách bị hạn chế, hiệu quả của chính sách bị giảm thiểu. Do vậy khi xây dựng các chính sách kinh tế xã hội ở bình diện quốc gia cũng như ở cấp địa phương, mục tiêu chăm sóc và giáo dục trẻ em phải được coi là những ưu tiên có chất chiến lược. Dù nhà nước và các dịch vụ phúc lợi, hỗ trợ đắc lực có hiệu quả cho gia đình trong lĩnh vực này thì cộng đồng vẫn có một vị trí vai trò rất quan trọng. Điều đó thể hiện rất rõ ở thái độ, tình cảm, tinh thần và hành động của cộng đồng trong môi trường có gia đình và trẻ em. Sự đoàn kết cộng đồng, tinh thần cộng đồng sẽ tạo ra một mạng lưới an toàn cho gia đình và trẻ em, ngay cả khi thiếu sự hỗ trợ của nhà nước. Vì vậy khi xây dựng và ban hành các chính sách xã hội liên quan đến gia đình và trẻ em, bên cạnh những nội dung văn hóa mới, nhà nước nên khuyến khích khôi phục các hình thức “liên gia tương hỗ”, đề cao ý thức “tự tôn gia phong, gia đạo” của các tộc họ, phường xã… đặc biệt trong việc giáo dục chăm sóc trẻ em.
Nhà nước cũng cần khuyến khích xây dựng tình cảm cộng đồng thông qua các tổ chức, các hội đồng tự quản ở cơ sở.
Ví dụ: Thành lập các tiểu ban về trẻ em để giúp đỡ các đối tượng cần quan tâm, để phát hiện và ngăn ngừa sớm những vấn đề này sinh đối với trẻ em, khuyến khích cộng đồng đứng ra giải quyết các vấn đề trẻ em tại cộng đồng. Triệt để phát huy các cơ chế truyền thống và mạng lưới hỗ trợ hiện có bên trong cộng đông hơn là những hình thức và thái độ ngoại nhập xa lạ.
Tăng cường, cải thiện đa dạng hóa nội dung chương trình trên các phương tiện thông tin đại chúng và định hướng dư luận xã hôi, phát động toàn dân tham gia giáo dục kiến thức, kỹ năng và thái độ cho các bậc cha mẹ “học để dạy”, để tiến kịp với tư duy thời đại và yêu cầu xã hội trong giai đoạn mới.
Cần thiết phải có những chính sách cấp vi mô nhằm khuyến khích, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống ở gia đình và địa phương, phát động các phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới, ông bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo…
Tăng cường hợp tác giữa giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường và xã hội, kịp thời ngăn chặn tệ nạn xã hội ngay từ khi là mầm mống. Tổ chức đa dạng hóa các hoạt động của gia đình và cộng đồng, có nhiều nội dung giáo dục không chỉ đối với các bậc cha mẹ mà quan trọng hơn là đối với thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó chính quyền địa phương cần có sự quan tâm hơn nữa với phương pháp giáo dục con cái trong các gia đình bằng cách: một mặt nâng cao trình độ nhận thức các dấu hiệu của hành vi giáo dục mang tính bạo lực. Mặt khác có biện pháp chế tài tạm thời theo quy định của địa phương đối với các hành vi sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái đã để lại những hậu quả nặng nề đối với trẻ em. Tùy vào mức độ của hành vi bạo lực mà có biện pháp áp dụng cho phù hợp, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cha mẹ về hậu quả mà hành vi của mình có thể gây ra cho con cái. Tổ chức lồng ghép các sinh hoạt của các tổ chức xã hội như hội phụ nữ, hội nông dân, hội người cao tuổi… với việc nâng cao kỹ năng làm cha mẹ. Chính quyền địa phương cần phải tạo ra và định hướng dư luận xã hội ở địa phương để gây sức ép lên hành vi giáo dục con cái mang tính bạo lực của cha mẹ. Bởi ở nông thôn sức ép từ phía cộng đồng, đặc biệt là sức ép từ dư luận xã hội là một sức mạnh có thể thay đổi hành vi của cá nhân.
Một số khuyến nghị với các bậc cha mẹ:
Cần phải cân nhắc kĩ lưỡng khi sử dụng biện pháp giáo dục con cái, nhất là khi con cái mắc lỗi. Cần phải giáo dục đúng người, đúng lúc, đúng tội và tuyệt đối không sử dụng các biện pháp giáo dục quá mạnh tay gây ra những tổn thương nghiêm trọng.
Cần có biện pháp để thay đổi nhận thức của cha mẹ, từ đó để các bậc cha mẹ thấy rằng giáo dục con cái không phải chỉ là quyền của cha mẹ mà đó còn là trách nhiệm của cha mẹ do xã hội trao cho, bản thân cha mẹ phải là tấm gương mẫu mực cho con cái noi theo. Trong các mối quan hệ xã hội, giao tiếp ứng xử, phong cách sinh hoạt cử chỉ lời nói bao gồm cả với con cái, cha mẹ cần có những chuẩn mực trong hành vi của mình. Hơn nữa trong giai đoạn này con cái luôn coi cha mẹ là những hình mẫu, là tấm gương sáng cho con cái noi theo.
Một trong những nguyên nhân làm cho thực trạng sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái ở các gia đình nông thôn khá phổ biến chính là do thói quen giáo dục con cái của cha mẹ, thậm chi cha mẹ có ít hoặc không có những kĩ năng cần thiết trong giáo dục con cái, xử lý khéo léo các lỗi mà con cái gây ra. Chính vì thế khi gặp các tình huống này không ít cha mẹ tỏ ra lúng túng, do vậy các biện pháp bạo lực đã được nghĩ đến đầu tiên khi con cái mắc lỗi. Do vậy một trong những giải pháp quan trọng để giảm các biện pháp giáo dục bạo lực đồng thời nâng cao những biện pháp giáo dục đúng đắn, khoa học là nâng cao nhận thức và trang bị kỹ năng xử lí tình huống cho các bậc phụ huynh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Chí An, năm 1999, Nhập môn công tác xã hội cá nhân, Nxb Đại Học Mở Bán Công TP. Hồ Chí Minh.
Ngô Thị Ngọc Anh, Hoàng Thị Tây Ninh, Phòng ngừa hành vi sai lệch ở vị thành niên từ góc độ giáo dục gia đình, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 3 năm 2004.
Võ Thị Cúc, năm 1997, Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Tống Văn Chung, năm 2001, Xã hội học nông thôn, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
GS.TS Phạm Tất Dong, năm 2001, Gia đình và cộng đồng với sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Nxb Hà Nội.
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, năm 2001, Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Lê Tiến Hùng, Quyền uy của cha mẹ trong giáo dục gia đình, Tạp chí gia đình và trẻ em, số 2 năm 2002.
Nguyễn Sĩ Liêm, Suy nghĩ về nội dung và phương pháp giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay, Tạp chí khoa học về phụ nữ số 1/2001.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Mai Quỳnh Nam, năm 2004, Trẻ em gia đình xã hội, Nxb Chính trị quốc gia.
Vũ Thị Nho, năm 1999, Tâm lý học phát triển, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Oanh, năm 1998, Công tác xã hội đại cương, Nxb giáo dục.
Nguyễn Linh Khiếu, Vai trò của giáo dục gia đình trong phòng ngừa tệ nạn xã hội, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 3 năm 2002.
Lê Văn Phú, năm 2004, Công tác xã hội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Phạm văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, năm 2001, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
GS Lê Thi, Gia đình và vấn đề xã hội hóa của trẻ em, xây dựng nhân cách con người, Tạp chí khoa học về phụ nữ số 2 năm 2001.
GS Lê Thi, Vai trò của người cha và người mẹ trong việc nuôi dạy con cái, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 1 năm 2003.
GS Lê Thi, năm 1997, Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb phụ nữ, Hà Nội.
Đoàn Việt, Cha mẹ ở nông thôn với việc sử dụng bạo lực trong giáo dục con, Tạp chí khoa học về phụ nữ số 2 năm 2005.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kltn_le_thi_phuong_1885.doc