Tính đến năm 2001, đến ¾ các thành viên của WTO là các nước đang phát triển và
các nước đang chuyển đổi, vì vậy WTO có quy định các nước này sẽ được hưởng
một số quyền ưu tiên và không phải thực hiện một số quy định của WTO. Ngoài
ra, WTO còn cho phép các nước này co giãn về thời gian áp dụng thực thi các quy
định của WTO.
Sau vòng đàm phán Uruway, các nước phát triển đã cam kết áp dụng chính sách
không thuế quan và không hạn ngạch với hầu hết hàng nhập khẩu từ các nước đang
phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. tuy nhiên vấn đề đang đặt ra là các nước
phát triển đang than phiền về việc nền kinh kế trong nước gặp nhiều khó khăn khi
bị cạnh tranh bởi các hàng hóa đến từ các nước đang phát triển, đặc biệt là trong
thời điể m nền kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2551 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công ty đa quốc gia – chủ thể đặc biệt trong Quan hệ quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có tính toàn cầu (nhưng vẫn có những chiến lược,chính sách thích ứng
với từng địa phương.
5) Hình thức hoạt động:
- Xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ.
- Cấp bản quyền cho các công ty nc ngoài để sx sản phẩm của mình.
- Chịu cạnh tranh của các đối thủ nc ngoài ngay tại thị trường nội địa.
- Gián tiếp chịu tác động các yếu tố rủi ro quốc tế thông quaa nhà cung cấp
và khách hàng.
6) Nguyên nhân hình thành công ty ĐQG
- Nhu cầu quốc tế hóa ngành sx & thị trường nhằm tránh nhiều hạn chế
thương mại, hạn ngạch, thuế nk từ các nước mua hàng.
- Nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh & những lợi thế so sánh của các nước sở
tại, thực hiện chuyển giao ngành công nghệ bậc cao
- Tìm kiếm lợi nhuận cao hơn, phân tán rủi ro, tránh bất ổn do ảnh hưởng
bởi chu kì kinh doanh khi sx ở 1quốc gia duy nhất.
- Sử dụng TNTN, nhân công rẻ tại chính quốc.
- Bảo vệ tính độc quyền dịch vụ , công nghệ hay bí quyết sx ở 1 ngành, k
mún chuyển giao cũng là lí do mở rộng đa phương sx.
7) Rủi ro
- Mua & bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu kì cung
cầu, cs vĩ mô…
- Chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính quyền địa phương thay đổi
chính sách, tỉ giá, lạm phát…
II. ĐQG- chủ thể đặc biệt trong QHKT
1) Nguyên nhân
- Do quy mô, hình thức tổ chức rộng lớn & phức tạp. K chịu quản lí riêng
của 1 tổ chức, quốc gia nhất định.
- Lợi ích to lớn cũng như những rủi ro tác động đến nền kt, chính trị, ổn định
quốc gia...
2) Tác động đến quốc gia cũng như đời sống quốc tế
a) Tích cực:
- Mở rộng quy mô, tính liên kết giữa các quốc gia -> thay đổi mqh.
- Thay đổi bộ mặt nền kt của quốc gia nơi nó hoạt động: tạo việc làm, thay
đổi chính sách về thuế,ưu đãi, cung cấp hàng hóa và dịch vụ trước đó k có, mang
vốn,công nghệ &kiến thức quản trị.
b) Tiêu cực: mặt có lợi đôi khi cũng chính là mặt có hại.
- Ảnh hưởng tới văn hóa (ăn uống, thời trang..).Vd: Mcdonals với gần
29000 nhà hàng tại hơn 120 quốc gia, bị cáo buộc là cổ xúy cho phong trào ăn
uống có hại.
- Tranh giành vốn đầu tư giữa các quốc gia ->bất ổn chính trị & mqh quốc tế
- Cạn kiệt TNTN
- Thường công nghệ được chuyển giao cho các nước hay bị lạc hậu ->thiệt
hại nhất định & phụ thuộc của nước được đầu tư vào ĐQG.
3) Hình thức mở rộng kinh doanh
- Thương mại QT: Xuất nhập khẩu
- Cấp phép sx: cung cấp công nghệ sx để hưởng lợi hay phí theo chu kì.
- Nhượng quyền thương mại: cung cấp chiến lược,hỗ trợ kt,đầu tư vốn.
- Liên doanh: đồng sở hữu & hoạt động với hơn 2 hãng.
- Thâu tóm: sát nhập hay mua lại hãng khác.
4) Mục tiêu: tối đa hóa giá trị cổ đông (ct nỗ lực mang lại lợi ích tốt nhất
cho cổ đông được thực hiện bởi gt cổ phiếu &cổ tức với 1 mức rủi ro vừa phải)
5) Chu kì sp: các hãng sx sp đáp ứng nhu cầu trong nc-> sx đáp ứng nhu
cầu nc ngoài->hãng thít lập chi nhánh ở nc ngoài để xác nhận sự có mặt & giảm
các chi phí( hoạt động kd của hãng tại nc ngoài sẽ giảm khi lợi thế cạnh tranh k
còn hay tăng mạnh khi hãng sx tạo ra ưu thế cạnh tranh với đối thủ)
6) Khác bịt quản trị tài chính của ct ĐQG và ct đơn thuần: 6 khác biệt
(hệ thống tiền tệ, thể chế chính trị và kinh tế, ngôn ngữ,văn hóa , vai trò của cp,
rủi ro chính trị)
Chuyên đề 2: Tác động của sự phân phối không đều các nguồn lực đến kinh tế
và quan hệ kinh tế mỗi quốc gia
I. Tổng quan nguồn lực
- Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài
sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường... ở cả trong
nước và nước ngoài có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc xây dựng và
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó là yếu tố đầu tiên của sản xuất.
- Nguồn lực không phải là bất biến. Nó thay đổi theo không gian và thời gian. Con
người có thể làm thay đổi nguồn lực theo hướng có lợi cho mình.
- Nguồn lực tồn tại không đồng đều, không đầy đủ là nền tảng để các quốc gia đi
vào nền kinh tế thế giới trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh, giúp các quốc gia xác
định vị trí của mình trong nền kinh tế thế giới.
II. Các nguồn lực
1. Điều kiện tự nhiên: vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc
Các nguồn lực chính bao gồm:gia.
- Vị trí địa lí sẽ tạo thuận lợi hay gây khó khăn trong việc trao đổi, tiếp cận hay
cùng phát triển giữa các vùng trong một nước hay giữa các quốc gia với nhau. Mặc
dù nó chưa phải là yếu tố quyết định để đất nước đó phát triển nhưng là điều kiện
tiền đề quan trọng, đặc biệt là khi đất nước mở cửa giao lưu với bên ngoài. Trong
xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, vị trí địa lý là một nguồn lực góp phần
định hướng có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế.
- Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tự nhiên của quá trình sản xuất. Đó là những
nguồn vật chất vừa phục vụ trực tiếp cho cuộc sống, vừa phục vụ cho phát triển
kinh tế. Sự giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên tạo lợi thế quan trọng cho
sự phát triển. Đó là điều kiện ưu đãi của tự nhiên và nhiều quốc gia trở nên khá
hơn nhờ những thuận lợi đó.
2. Dân cư và nguồn lao động
- Dân số là một nguồn lực quan trọng để phát triển nền kinh tế. Một quốc gia có
dân số đông, nguồn nhân lực dồi dào nếu biết khai thác thì sẽ tạo nên một động lực
to lớn cho sự phát triển. Đặc biệt khi tham gia vào phân công lao động khu vực và
quốc tế, nhân lực sẽ là một nguồn nội lực quan trọng, một điều kiện thuận lợi, một
lợi thế cần thiết. Tuy nhiên yếu tố quyết định là tính trí tuệ của lao động. Vì thế số
lượng và chất lượng lao động là nhân tố quan trọng cho các quốc gia.
3. Nguồn vốn
- Nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng nhưng không mang tính quyết định cho nền
kinh tế. Quốc gia cần phải biết tận dụng và sử dụng nguồn vốn hợp lý.
4. Chính sách của chính phủ:
Đây là nhân tố mang tính quyết định. Nếu có cơ chế chính sách tốt thì các nguồn
lực tài chính tiềm năng của quốc gia sẽ được huy động và khai thác tốt hơn. Nó
cũng tạo ra môi trường hoàn thiện thông qua các công cụ vĩ mô, tiền tệ, chứng
khoán, đưa ra chính sách đào tạo lao động, đảm bảo hòa bình an ninh để phát triển
kinh tế, hợp tác bên ngoài.
5. Một vài nhân tố khác: khoa học kĩ thuật, môi trường quốc tế, vai trò của các tổ
chức quốc tế.
III. Tác động sự phân phối không đều các nguồn lực
Sự phân phối nguồn lực giữa các quốc gia là không đồng đều do bản thân mỗi quốc
gia đã có sự khác nhau về vị trí địa lý, tài nguyên, lao động, cơ chế chính sách...
Điều này có nghĩa là các quốc gia khác nhau về nguồn lực kinh tế sẵn có. Vì thế nó
sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến kinh tế và quan hệ kinh tế mỗi quốc gia.
1. Tác động đến kinh tế
- Phân bố không đồng đều nguồn lực dẫn đến sự hình thành các trung tâm kinh tế ở
một số thành phố lớn trên cả nước. Đây là những đầu tàu góp phần thúc đẩy nền
kinh tế, tạo công ăn việc làm cho 1 bộ phận lao động lớn, làm chỗ dựa cho các
vùng lân cận.
- Các nước có thể phát huy lợi thế so sánh để phát triển kinh tế đối ngoại, sự phân
phối không đều nguồn lực sẽ tạo ra lợi thể cạnh tranh giữa các quốc gia với nhau.
- Tuy nhiên sự phân bổ không đều này sẽ gây ra sự mất cân bằng về kinh tế khiến
nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển không đồng đều, phân hóa giàu nghèo sẽ ngày
càng rõ rệt.
2. Tác động đến quan hệ kinh tế
- Việc phân bố nguồn lực không đồng đều giữa các quốc gia dẫn đến việc các nước
xích lại gần nhau nhằm mục đích hỗ trợ, hợp tác, nâng cao hiệu quả của các nguồn
lực. Các nước sẽ tập trung vào phát triển các ngành mà mình có lợi thế. Từ đó mà
cũng dẫn đến việc hình thành mối quan hệ kinh tế giữa các nước để trao đổi buôn
bán, phát triển ngoại thương.
- Thúc đẩy việc hình thành các khu vực kinh tế, các tổ chức nhằm tăng cường quan
hệ kinh tế giữa các nước, tạo thị trường chung, bảo vệ quyền lợi và nâng cao vị thế
của các thành viên trên trường quốc tế.
- Tuy nhiên sự phát triển không đồng đều làm phân hóa giàu nghèo giữa các nước.
Những nước nhỏ, thiếu nguồn lực sẽ phải phụ thuộc nhiều vào các nước lớn và
chịu sự chi phối về nhiều mặt kinh tế, xã hội, chính trị.
- Sự bất đồng giữa các quốc gia về phân chia nguồn lực cũng có thể dẫn đến những
xung đột, thậm chí là chiến tranh giữa các nước.
Chuyên đề 3: Nhân tố khoa học kĩ thuật (KHKT) tác động như thế nào đến nền
kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế (QHKTQT) của một quốc gia.
Khái niệm: Khoa học kỹ thuật là các ngành khoa học liên quan tới việc phát
triển kỹ thuật và thiết kế các sản phẩm trong đó có ứng dụng các kiến thức khoa
học tự nhiên.
Khoa học được thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau: là một hình thái
tổ chức xã hội, là công cụ nhận thức, là một lĩnh vực hoạt động xã hội
KH là một hệ thống chỉnh thể các tri thức của tiến trình lịch sử xã hội
Là quá trình hoạt động của con người để có được hệ thống tri thức về
thế giới với chức năng làm cho con người nắm được những quy luật
của hiện thực khách quan, ngày càng làm chủ được những điều kiện
sinh hoạt tự nhiên và xã hội
Kỹ thuật:
- Theo từ điển American Heritage Dictionary: là sự ứng dụng các
nguyên tắc khoa học vào thực tế để thiết kế, chế tạo và vận hành
các cấu trúc, máy móc, quá trình, hệ thống một cách kinh tế và
hiệu quả.
- Theo Ủy ban kiểm định HK: là lĩnh vực ở đó kiến thức về khoa
học tự nhiên và toán học được quyết định để phát triển các cách
thức khai thác một cách kinh tế các vật liệu và năng lượng thiên
nhiên vì lợi ích con người.
- Theo Count Rumfort: là sự ứng dụng của KH để phục vụ các nhu
cầu của cuộc sống.
KHKT đóng vai trò quan trọng và tích cực trong nền kinh tế và quan hệ kinh tế
quốc tế của một quốc gia.
Đối với kinh tế trong nước, KHKT góp phần tăng sức sản xuất trong nước nhờ cơ
khí hóa, tự đồng hóa. Sản phẩm làm ra nhiều hơn, rẻ hơn dẫn đến nhu cầu mở rộng
và tiêu thụ sản phẩm ra bên ngoài. Mặt khác, khi qui mô sản xuất lớn thì khối
lượng sản phẩm làm ra cũng tăng lên, do vậy, thị trường tiêu thụ cũng phải mở
rộng ra, không thể chỉ giới hạn trong phạm vi những thị trường truyền thống nữa.
Điều này sẽ xảy ra ở hàng loạt các nước, ở nhiều khu vực trên thế giới, tất yếu đặt
ra yêu cầu các nước phải xâm nhập thị trường của nhau, phải mở cửa cho
nhau. KHKT còn làm thay đổi cơ cấu kinh tế giữa các ngành, nó sinh ra các ngành
mới và làm biến mất các ngành cũ
Đối với kinh tế quốc tế KHKT giúp đẩy nhanh quá trình phân công lao động theo
hướng chuyên môn hóa. Trong điều kiện hiện nay, khi thế giới đang đi vào phát
triển theo chiều sâu thì phân công lao động ngày càng có tính chất quốc tế. Nói
cách khác, sự ràng buộc giữa các quốc gia càng trở nên chặt chẽ và rộng rãi hơn.
Ngày nay các quốc gia không chỉ trao đổi các sản phẩm đã hoàn thiện với nhau, mà
thậm chí còn trao đổi từng bộ phận sản phẩm cho nhau. Bởi vậy, mới có tình trạng
một loại hàng hoá có thể được sản xuất ở nhiều nước khác nhau, mỗi nơi một bộ
phận rồi lắp ráp lại... Chẳng hạn, để sản xuất máy bay Boing, có tới 650 công ty
của thế giới tham gia và được đặt ở hơn 30 nước. ôtô Ford cũng vậy, có 165 công
ty ở 20 nước tham gia sản xuất. Bên cạnh việc làm tăng sức cạnh tranh trên thế giới
KHKT còn giúp hình thành các nhóm nước. Sự phụ thuộc lẫn nhau tăng lên, phụ
thuộc đan xen quyền lợi giups duy trì hòa bình thế giới, bắt buộc các nước luôn
luôn sẵn sang thỏa hiệp.
Bên cạnh những mặt tích cực, KHKT còn làm tăng hố sau ngăn cách giữa giàu và
nghèo, nước phát triển và nước kém phát triển…Chính vì vậy ta cần có những biện
pháp quản lí thích hợp để làm sao sử dụng nó một cách hiệu quả, hợp lí nhất.
Chuyên đề số 4: các nhân tố chủ yếu tác động đến thương mại quốc tế
1, khoa học kỹ thuật:
-cơ khí hóa => tạo đà cho sản xuất phát triển
-tạo ra phương tiện vận chuyển => tác động trực tiếp đến thương mại
- cách mạng về phương tiện thong tin liên lạc
- phương tiện thanh toán
2, môi trường quốc tế:
*)hòa bình tạo ra môi trường thuận lợi, tạo ra lòng tin và ý muốn hợp tác giữa các nhà
nhập khẩu và xuất khẩu. Khi có chiến tranh => khủng hoảng
*)môi trường pháp lí: tạo điều kiện, đảm bảo
-pháp lí trên bình diện toàn cầu( quốc tế): WTO
- pháp lí trên bình diện khu vực(mậu dịch tự do, thương mại song phương)
3, các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực(liên chính phủ) => thực hiện liên kết kinh tế
quốc tế và khu vực( thương mại là đầu ra thậm chỉ là cả đầu vào của các yếu tố như hàng hóa, lao
động, vốn, kỹ thuật…)
4, công ty đa quốc gia
-là trao đổi trong nội bộ các công ty ->tăng theo nhịp độ đầu tư của nước ngoài
-thông qua việc trao đổi nội bộ hợp tác => chuyển giao công nghệ tác động
ngược trở lại quá trình sản xuất.
5, chính sách bảo hộ mậu dịch và chính sách tỉ giá
- 1 nước có tiềm năng xuất khẩu-> quan tâm đến chính sách tỉ giá
Eg: trung quốc luôn để tỉ giá của đồng NDT thấp hơn giá trị thực để xuất
khẩu hàng hóa
Chính sách bảo hộ mậu dịch
1, bảo hộ mậu dịch là tất cả các biện pháp do 1 nhà nước áp dụng nhằm bảo vệ sản xuất
trong nước trước sự xâm nhập của nước ngoài eg: dịch vụ, sản xuất vật chất…. Nằm trong
chính sách thương mại của 1 quốc gia- tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch luôn song hành
cùng nhau
-trong giai đoạn khủng hoảng: ưu tiên bảo hộ
2, các hình thức bảo hộ mậu dịch
a, thuế quan: là hình thức đánh thuế trực tiếp vào mặt hàng xuất khẩu đối với 1 quốc
gia
b, phi thuế quan
*) hạn chế định lượng-quota:mang tính mệnh lệnh(chủ quan, dễ tiêu cực). Chủ
yếu là quota nhập khẩu. Đây không phải là biện pháp áp dụng thường xuyên và không được quốc
tế công nhận.
*) hàng rào kĩ thuật: chủ yếu là của các nước phát triển, nền khoa học kỹ thuật
phát triển, kinh tế phát triển và các nước bị áp dụng là các nước đang phát triển
-> đây là hình thức “bắt nạt’ về công nghệ. Nếu như 1 quốc gia muốn bán được sản phẩm thì giá
thành phải thấp->chi phí thấp-> sử dụng công nghệ thấp
Hình thức này càng ngày càng trở nên tinh vi: WTO có nghị định riêng đẻ điều chỉnh
*) hạn chế xuất khẩu “tự nguyện”: thỏa thuận của các quốc gia có tầm ảnh
hưởng, thỏa hiệp giữa các quốc gia
biện pháp lâu dài, thường xuyên và triệt để là thuế quan
+, cái lớn: đánh thuế theo giá trị
+, cái nhỏ: đánh thuế theo số lượng
A, Thuế là phần trăm giá trị hàng hóa tại thời điểm mở tờ khai ở cửa khẩu
1,tác động của thuế
Khi có thuế - tăng sản xuất trong nước-> góp phần tạo ra công ăn việc làm, an sinh
xã hội -giảm nhập khẩu: có ý nghĩa khi cân bằng các cân thanh toán, đặc biệt là
khi quốc gia đang bị thâm hụt các cân thương mại
-giảm tiêu dùng->tích lũy vốn->đầu tư lại vào sản xuất
-tăng thu cho chính phủ- đặc biệt là với những chính phủ nghèo thì việc
thu thuế rất quan trọng=>có nhiều nguồn để đầu tư.
-phân phối lại thu nhập: từ người tiêu dùng đến nhà sản xuất.
*, đối với 1 nươc lớn( sản xuất và tiêu dùng lớn): 1 mặt hàng nào đó mà rớt giá=>
hình thành mặt bằng giá mới của thế giới.
=>>thuế là 1 cách bảo hộ cơ bản và lâu dài
B, bảo hộ thực tế và bảo hộ danh nghĩa
Nôm na như này nhé: bảo hộ danh nghĩa chính là viêc đánh thuế trực tiếp vào nguyên liệu nhập
khẩu(bán thành phẩm)- bảo hộ thực tế la viêc đánh thuế trực tiếp vào thành phẩm.
-có 3 tình huống: +thành phẩm và bán thành phẩm(phụ tùng) chiếm thuế suất như nhau
+bán thành phẩm chiếm thuế suất cao hơn trong giá trị gia tăng của thành
phẩm-> không quốc gia nào thực hiện
+ bán thành phẩm không chịu thuế hoặc thuế suất thấp hơn thành phẩm-
>nhiều quốc gia làm do bảo hộ thực tế lớn hơn bảo hộ danh nghĩa
-bảo hộ thực tế có ý nghĩa tạo công ăn việc làm
-biện pháp thuế là biện pháp hữu hiệu và được các quốc gia công nhận thừa nhận với nhau
và xu hướng ngày càng giảm.
Chuyên đề 5
Sự ra đời và bản chất của hệ thống tiền tệ BWS
I. Sự ra đời
Thứ nhất, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, so sánh lực lượng
thay đổi. Mỹ trở thành siêu cường về kinh tế và quân sự, trở
thành chủ nợ lớn, các nước khác bị thiệt hại nặng do chiến tranh,
điều quan trọng lúc bấy giờ là trên thế giới tồn tại song song hai
hệ thống đối nghịch nhau là TBCN và XHCN, từ đó nảy sinh nhu
cầu, và vai trò lãnh đạo của Mỹ được công nhận về cả kinh tế lẫn
quân sự, các nước TB sau chiến tranh bị tàn phá nặng nề cần có
một nước mạnh để khôi phục kinh tế, và Mỹ đáp ứng đầy đủ các
điều kiện.
Hơn nữa, Mỹ và các nc TB có một điểm tương đồng đó là chống
chủ nghĩa cộng sản. Như vậy các quốc gia này tập hợp lại với
nhau, một trật tự thế giới mới do mỹ quy định được hình thành,
do Mỹ cầm đầu và có cùng 1 mục tiêu chống CNCS
Thứ 2 là nhu cầu và ý đồ của các nước trong việc lập lại trật tự
thế giới, làm sao để tranh được chiến tranh, duy trì hòa bình (trừ
các cuộc chiến tranh cục bộ), từ cơ chế 3 cường (Anh, Mỹ, Liên
Xô) chuyển sang tứ cường sau chiến tranh (Anh, Pháp, Mỹ, Liên
Xô)
II. Bản chất
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định lấy đồng đô la Mỹ làm trụ cột
III. Đặc điểm (thể hiện bản chất)
Bản chất của hệ thống BW đc thể hiện của các đặc điểm chính:
- Tỷ giá hối đoái cố định
- Được tự so chuyển đổi qua vàng: 35USD/ounce
- Biên độ giao động +-1%
- Cơ chế giám sát chính sách tiền tệ IMF
Tất cả các đồng tiền nước khác neo vào đô la Mỹ theo biên độ
giao động là +-1% là điểm dở của BW
IV. Điều kiện tồn tại
- Nền kinh tế, sức mạnh kinh tế áp đặt của Mỹ
- Sự phụ thuộc nặng nề của các nước
- Lòng tin tuyệt đối vào Mỹ
V. Nguyên nhân sụp đổ
Lượng USD lưu thông ngoài Mỹ lớn hơn gấp nhiều lần dự trữ
vàng của Mỹ: Quy mô kinh tế toàn cầu tăng dần => nhu cầu USD
tăng lên, ít nhu cầu đổi USD ra vàng => FED in và phát hành
lượng tiền lớn gấp nhiều lần dự trữ vàng của Mỹ mà không sợ
lạm phát. Lượng USD này được xuất ào ạt ra nước ngoài nhằm
đem lại nguồn lợi về cho Mỹ + xu hướng bành trướng dự trữ USD
của các quốc gia khác
Nền kinh tế của các nước tư bản Tây Âu (Đức, Pháp,…) và Nhật
Bản dần phục hồi => tạo ra sự thay đổi trong so sánh lực lượng
=> các quốc gia hướng về lợi ích riêng của mình, không còn phụ
thuộc vào Mỹ như trước đây
Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam; chạy đua vũ trang, vũ trụ
với Liên Xô => thâm hụt cán cân thanh toán nặng nề
1. Sự suy giảm lòng tin vào đồng đôla
Các nền kinh tế của các nước Tây Âu và Nhật Bản phục hồi, dự
trữ USD của các nước này tăng lên => thâm hụt cán cân thanh
toán của Mỹ ngày càng trầm trọng => chính phủ Mỹ bộc lộ hết
khả năng thanh toán (chuyển đổi USD ra vàng với tỉ giá
35$/ounce) => USD dự đoán mất giá so với vàng => các NHTW
các nước mất lòng tin vào đồng đôla ồ ạt đòi đổi USD dự trữ ra
vàng
Nền kinh tế của Mỹ đối mặt với lạm phát và thâm hụt cán cân
thanh toán nặng nề (do in tiền phục vụ chiến tranh và viện trợ cho
các nước khác) => uy tín của đồng đôla giảm sút => các quốc gia
khác đòi đổi dự trữ USD ra vàng
Để tránh nguy cơ bị rỗng kho vàng và để có thể tự do phát hành
đôla không chịu ràng buộc của trữ lượng vàng đang giảm dần,
Mỹ ngừng chuyển đổi USD ra vàng theo tỉ giá chính thức => hệ
thống Bretton Woods sụp đổ
2. Các nước thành viên không tuân thủ cam kết vì lợi ích riêng
Về phía Mỹ: khi cán cân thanh toán mất cân đối, chính phủ Mỹ
không thể phá giá đồng USD đối với vàng được vì như vậy làm xói
mòn niềm tin vào toàn bộ hệ thống Bretton Woods. Nếu Mỹ phá
giá đồng đôla so với vàng thì ko cải thiện được sức cạnh tranh
thương mại quốc tế vì các nước khác vẫn duy trì tỉ giá cố định với
đồng USD => tăng cung ứng tiền => lạm phát + thâm hụt cán cân
thanh toán trầm trọng hơn
Đối với các nước có cán cân thanh toán thâm hụt: tỏ ra miễn
cưỡng khi phải phá giá đồng tiền của mình vì không chấp nhận
chính sách thiểu phát nền kinh tế.
Đối với các nước có cán cân thanh toán thặng dư (Đức, Nhật,
Thụy Sĩ….) cũng tỏ ra miễn cưỡng chấp nhận tăng giá đồng tiền
vì ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, thương mại.
Các nước thâm hụt cũng như thặng dư cán cân thanh toán
đều không sẵn sàng điều chỉnh tỉ giá để giữ giá USD như cam kết
vì lợi ích kinh tế riêng => Bretton Woods sụp đổ là tất yếu
VI. Tác động của sự sụp đổ
- Hệ thống Bretton Woods sụp đổ => thế giới đi vào hệ thống tỉ
giá hối đoái thả nối => Các nước có thể chủ động hơn trong việc
cân đối lại cán cân thanh toán
- Đồng tiền các quốc gia không còn phải giữ tỉ giá cố định so với
đồng USD nữa, tạo điều kiện cho các đồng tiền khác vươn lên,
giảm sự phụ thuộc vào kinh tế Mỹ => Thương mại quốc tế được
thúc đẩy hơn, phát triển kiên kết kinh tế khu vực (EEC)
Sự suy yếu của đồng USD và sự sụt giảm uy tín của Mỹ tạo điều
kiện để một số đồng tiền khác như đồng Yên, Nhân dân tệ và
Euro vươn lên trở thành đồng tiền trung tâm trong thương mại
quốc tế => giảm bớt sự phụ thuộc vào đồng USD
- Hệ thống tiền tệ dễ hỗn loạn sau một thời gian dài
Chuyên đề 6: Sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods
1. Quá trình hoạt động của Bretton Woods cho tới khi sụp đổ (1944 – 1973)
a. Giai đoạn từ cuối những năm 1940 đến năm 1950
Đây là giai đoạn Bretton Woods hoạt động bình thường và hiệu quả nhất.
Xét đến bối cảnh lịch sử thì đây là thời kì chiến tranh thế giới thứ 2 mới kết
thúc, nước Mỹ lúc này gần như là cường quốc duy nhất trên thế giới với việc
nắm giữ trong tay khoảng ¾ trữ lượng vàng của thế giới. Đồng đôla Mỹ có
giá trị ổn định, thậm chí còn quý hơn vàng. Trong khi đó các nước Tây Âu
lại bị thiệt hại nặng nề sau chiến tranh. Hệ thống tiền tệ Bretton Woods ra
đời lấy đồng đôla Mỹ làm trung tâm. Đây còn được biết đến với giai đoạn
“khát đôla”, nghĩa là đồng đôla được săn đón rất mạnh mẽ. Đơn giản là bởi
vì các nước Tây Âu muốn có đôla để mua bán hàng hóa cũng như trao đổi
với Mỹ. Chính giai đoạn này là giai đoạn mà Bretton Woods hoạt động hiệu
quả, bởi nhu cầu đối với đồng đôla là mạnh mẽ và Mỹ có khả năng chuyển
đổi đôla tự do ra vàng với giá 1USD tương đương với 35 ounce vàng.
b. Giai đoạn từ những năm 1950 đến những năm 1960
Trong khoảng thời gian này, tình hình bắt đầu xấu khi khi mà địa vị của
đồng đôla Mỹ đã bắt đầu suy yếu và đây chính là dấu hiệu suy sụp. Giai
đoạn trước đó các nước Tây Âu và Nhật Bản phải phụ thuộc nặng nề vào Mỹ
thì giai đoạn này, họ đã có sự phát triển vượt bậc và có sự độc lập nhất định.
Sản lượng sản xuất của Tây Âu tăng lên kéo theo việc tăng xuất khẩu, nghĩa
là họ nắm giữ trong tay một lượng đôla rất lớn. Số đôla trong tay nước ngoài
tăng lên rất nhanh. Năm 1949 số đôla trong tay nước ngoài chỉ là 8.645 triệu
đôla đã tăng lên thành 19.388 đôla trong năm 1959. Trong khi đó thì dự trữ
vàng của Mỹ ngày càng giảm. Chính từ đây nảy sinh ra sự hoài nghi đối với
đồng đôla Mỹ, khả năng chuyển đổi từ đôla ra vàng rõ ràng đã khó khăn.
c. Giai đoạn từ những năm 1960 đến đầu những năm 1970
Đây là thời kì hệ thống Bretton Woods suy yếu nặng nề rồi đi đến sụp đổ
hẳn. Năm 1960, dự trữ vàng của Mỹ chỉ còn lại 17.8 tỷ đôla Mỹ trong khi số
đôla trong tay các Ngân hàng TW và tư nhân nước ngoài đã lên tới 17.2 tỷ
đôla. Nếu kể cả số đôla nằm trong tay các quỹ tín dụng quốc tế thì tổng số
đôla trong tay nước ngoài lên tới tận 21.2 tỷ đôla. Kho vàng của Mỹ bị cạn
kiệt nhanh chóng, những cơn sốt vàng xuất hiện. Các quốc gia Tây Âu bắt
đầu chỉ trích hệ thống Bretton Woods, vào đặc quyền của đồng đôla. Mặc dù
Mỹ đã có những hành động cứu vãn tình hình, thậm chí là phá giá đồng đôla
nhưng không tránh khỏi được sự sụp đổ. Bỏ qua mọi nỗ lực, đến tháng
3/1973, hệ thống Bretton Woods đã đi đến hồi kết, một chế độ tỷ giá mới, tỷ
giá thả nổi đã được hình thành.
2. Những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods có thể có rất
nhiều, tuy nhiên trong nội dung bài viết chỉ để cập đến hai nguyên nhân
chính dẫn đến sự sụp đổ ấy. Có thể nói, ngay từ khi ra đời, Bretton Woods
đã chứa đựng trong nó nguy cơ sụp đổ. Việc không duy trì được những điều
kiện để tồn tại hay sự bất cập trong vị thế độc tôn của đồng đôla dẫn tới kết
cục tất yếu của hệ thống Bretton Woods.
Lý do thứ nhất phải kể đến lòng tin và sự phụ thuộc của các nước Tây Âu
cũng như Nhật Bản vào Mỹ đã thay đổi kể từ khi thế chiến II kết thúc cho
đến khi những dấu hiệu suy sụp của Bretton Woods xuất hiện vào đầu những
năm 1960. Khi Bretton Woods ra đời, nó có tác dụng là đưa ra một hệ thống
tiền tệ với tỷ giá cố định, đưa ra những nguyên tắc và quy định nhằm duy trì
sự ổn định trong các quan hệ tiền tệ thanh toán giữa các nước hội viên. Lúc
này, Mỹ với tư cách là nước thắng trận sau thế chiến II nắm giữ trong tay
một khối lượng tài sản khổng lồ. Trong khi đó, các nước Tây Âu và Nhật bị
thiệt hại nặng nề. Chính vì thế họ phải phụ thuộc vào Mỹ. Muốn mua bán
hàng hóa với Mỹ thì phải có đôla. Do vậy Bretton Woods hoạt động hiệu
quả. Nhưng sau này đến khoảng thập kỉ 50, các nước hồi phục dần dần và có
sự độc lập nhất định với Mỹ. Dự trữ đôla trong tay nước ngoài tăng lên
nhanh chóng trong khi Mỹ bị thâm hụt ngân sách do chi quá nhiều vào quân
sự, đặc biệt là cuộc chiến tranh Việt Nam. Cục diện lúc này đã thay đổi. Mỹ
không còn là siêu cường duy nhất. Thế giới bây giờ chứng kiến nhiều cường
quốc nổi lên. Vị trí độc tôn của Mỹ và của đồng đôla cũng dần bị sói mòn.
Niềm tin vào Mỹ không còn như trước nữa, đặc biệt là khi nguồn khả năng
quy đôla ra vàng của Mỹ giảm sút, hàng loạt cuộc săn vàng đã nổ ra. Thậm
chí một số quốc gia còn chỉ trích hệ thống Bretton Woods. Quan điểm trong
lòng khối tư bản chủ nghĩa bị phân hóa khi mà xu thế hòa hoãn, hòa bình
phát triển chiếm ưu thế. Mục tiêu chung chống cộng sản bị giảm sút nhiều.
Những điều kiện để Bretton Woods tồn tại bị lung lay.
Nguyên nhân thứ hai đó chính là do mâu thuẫn nằm trong lòng bản chất của
Bretton Woods. Như ta đã biết Bretton Woods hoạt động dựa trên tỉ giá cố
định là vàng được quy đổi tự do từ đô la với giá 1 đô tương ứng với
35ounce. Theo lý thuyết như vậy thì dự trữ vàng của Mỹ lúc nào cũng phải
đủ mạnh để có thể quy đổi đôla ra vàng và trữ lượng đôla trong tay nước
ngoài chỉ ở mức vừa phải để Mỹ còn có khả năng quy đổi. Nhưng thực tế đã
chứng minh điều ngược lại. Trữ lượng vàng của Mỹ bị giảm sút trong khi
nước ngoài này càng tích trữ nhiều đôla, nhiều tới mức Mỹ không còn khả
năng quy đổi thì sự sụp đổ cũng là điều tất yếu.
3. Tác động từ sự sụp đổ
- Hệ thống Bretton Woods sụp đổ, thế giới đi vào hệ thống tỉ giá hối đoái thả
nối. Các nước có thể chủ động hơn trong việc cân đối lại cán cân thanh toán.
Hệ thống Bretton Woods đã kéo dài cho tới năm 1971. Tại thời điểm đó, lạm
phát và thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ gia tăng đã làm suy giảm giá trị
đồng đôla. Người Hoa Kỳ cố thuyết phục Đức và Nhật Bản, là hai nước đều
có cán cân thanh toán thuận lợi, tăng giá trị các đồng tiền của họ. Nhưng các
quốc gia này miễn cưỡng chấp nhận bước đi này, vì việc tăng giá trị đồng
tiền của họ sẽ làm tăng giá hàng hóa của các nước đó và gây tổn hại đến xuất
khẩu của họ. Cuối cùng, Hoa Kỳ đã bỏ giá trị cố định của đồng đôla và cho
phép nó được thả nổi - tức là cho dao động đối với các đồng tiền khác. Đồng
đôla ngay lập tức hạ giá. Các nhà lãnh đạo thế giới tìm cách khôi phục lại hệ
thống Bretton Woods bằng một hiệp định có tên gọi Hiệp định Smithson
năm 1971, nhưng cố gắng này đã thất bại. Năm 1973, Hoa Kỳ và các quốc
gia khác đã chấp thuận cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi.[1]
- Hệ thống tiền tệ Quốc Tế hỗn loạn một thời gian dài sau khi hệ thống BWS
sụp đổ.
- Đồng tiền các quốc gia không còn phải giữ tỉ giá cố định so với đồng USD
nữa làm cho thương mại quốc tế được thúc đẩy hơn.
- Đa cực hóa tiền tệ thế giới, đẩy mạnh liên kết khu vực.Sự suy yếu của đồng
USD và sự sụt giảm uy tín của Mỹ tạo điều kiện để một số đồng tiền khác
như đồng Yên, Nhân dân tệ và Euro vươn lên trở thành đồng tiền trung tâm
trong thương mại quốc tế làm giảm bớt sự phụ thuộc vào đồng USD.
- Tổ chức tiền tệ Quốc Tế IMF và Ngân hàng Thế giới (WB) và hoạt động
một cách hiệu quả cho tới ngày nay.
Chuyên đề 6 : Sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton- Woods (BW)
Lời mở đầu ( giới thiệu)
Tiền đóng một vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế bởi nó là vật
trung gian trong trao đổi hàng hóa. Chính vì vậy mà ngày nay IMF đang cố
gắng làm hết khả năng của mình để duy trì đồng tiền trong một nền kinh tế
đầy biến động ngày nay. Nhưng quay lại thời gian chúng ta cùng tìm hiểu về
một hệ thống tiền tệ đã hoạt động tích cực trong một thời gian dài nhưng
cuối cùng vẫn sụp đổ . Đó là hệ thống tiền tệ Bretton- Woods.
Sự ra đời.
Ngay trước khi chiến tranh thế giới II kết thúc, các nước đồng minh đã bắt
đầu xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm thúc đẩy các quan hệ
thương mại va tiền tệ quốc tế. Năm 1944, một hội nghị tiền tệ quốc tế gồm
44 nước diễn ra ở Bretton Woods. Bang New Hampshire, Mỹ đã đưa ra một
loạt các biện pháp liên quan đến lĩn vực tài chính tiền tệ dẫn đến sự hình
thành hệ thống tiền tệ BW.
Bản chất.
1. Chế độ tỉ giá.
Tỷ giá hối đoái cố định trong ngắn hạn, có thể điều chỉnh trong những
trường hợp cụ thể. Theo quy định của IMF, mỗi đòng tiền quốc gia được ấn
định một tỷ giá cố định với Mĩ và được phép dao động trong biên độ +_ 1 %.
Giá đôla với vàng đã tạo lòng tin cho cả thế giới vì Mĩ vào thời điểm đó chiếm
70% dự trữ vàng của thế giới . Chính phủ Mĩ cam kết đổi đôla ra vàng không
hạn chế. Một cách gián tiếp, các quốc gia có thể hoàn toàn tin tưởng khi neo giá
đồng tiền nước mình với đồng đôla. Trong những trường hợp mất cân bằng
nghiêm trọng trong cán cân thang toán, các quốc gia có thể tiến hành phá giá
hay nâng giá đồng tiền với biên độ nhỏ hơn 10% trước khi IMF phải can thiệp.
2. Dự trữ quốc tế.
Muốn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, các quốc gia phải có một lượng dự trữ
quốc tế đủ lớn bằng vàng và ngoại tệ. Theo quy định của IMF , tổ chức này sẽ
giám sát và hỗ trợ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tiền tệ và thương mại. Để cho các
quan hệ thương mại ổn định, cần phải duy trì một hệ thống tỷ giá ổn định, hiệu
quả. Nhằm tránh việc các quốc gia thành viên thực hiện phá giá hoặc nâng giá
đồng tiền, IMF cung cấp cho các thàng viên một hạn mức tín dụng thường xuyên
để tài trợ cho thâm hụt cán cân thang toán. Hạn mức tín dụng phụ thuộc vào quy
mô của các nền kinh tế và tỷ trọng đóng góp của quốc gia đó cho IMF. Các quốc
gia đóng góp cho IMF theo tỷ lệ tài sản dự trước( chủ yếu là vàng) bằng đồng tiền
quốc gia. Khi gặp khó khăn, mỗi thành viên được rút 25% hạn mức trong lần đầu,
sau đó muốn rút them phải tuân thủ nghiêm ngặt các chính sách kinh tế mà IMF
đưa ra, có thể rút trong bốn lần, mỗi lần 25% hạn mức.
3. Khả năng chuyển đổi các đồng tiền.
Các quốc gia tham gia vào IMF và Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại ( GATT) phải cam kết chuyển đổi khôn ghạn chế đồng nội tệ đối với các giao
dịch trong cán cân vawngtx lai.
*Sự vận hành của BW( sụp đổ dần trong quá trình hoạt động)
Có 2 điều kiện tồn tại của BW quan trọng nhất đó là sức mạnh nền kinh tế
của Mĩ luôn luôn áp đặt vào nền kinh tế khác song song với đó là sự yếu thế của
các nước thành viên . Sau chiến tranh thế giới II , Mĩ là một cường quốc lớn mạnh
với trữ lượng vàng lớn nhất thế giới. Với sức mạnh kinh tế to lớn của Mĩ trên bình
diện thế giới và ưu thế tuyệt đối trong thế giới tư bản chủ nghĩa, đồng đôla Mĩ lúc
này được nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước tư bản, coi như phương tiện dự trữ
chính thức của mình. Mĩ nổi lên là nước xuất khẩu chính trong các nước tư bản và
tỏ ý luôn sẵn sang giúp đỡ các nước đồng minh. 30 tỉ USD là số tiền Mĩ đã đổ vào
châu Âu theo kế hoạch Marshall nhằm phục hồi các nước này. Và cũng đã có kết
quả rõ ràng . Điều này cũng làm gia tăng sức ảnh hưởng của đồng đôla trên thế
giới cũng như vai trò của Mĩ trong các nước tham gia hệ thống BW. Nhưng kèm
theo sự giúp đỡ của Mĩ còn có những sự áp đặt khác về mặt chính trị hoặc kinh tế
mà Mĩ đặt ra cùng với đó là lòng tin của các nước đó vào Mĩ cũng như đồng đôla
ngày càng tăng. Chính vì vậy lòng tin đó là điều kiện quan trọng thứ 2 để BW tồn
tại. Cũng chính vai trò là đầu tàu nên Mĩ có vai trò rất to lớn trong sự vận hành của
BW.
Thâm hụt ngân sách nhà nước và lạm phát ở Mĩ làm cho uy tín đồng đôla giảm.
Hơn nữa năm 1965, Mĩ sa lầy cuộc chiên tranh ở Việt Nam chi phí cho chiến tranh
quá nhiều. Cùng với đó là các cường quốc mới trỗi dậy cũng muốn khẳng định vị
thế và sức ảnh hưởng của mình. Sau đó, Tây Âu tự lập ra hệ thống tiền tệ châu Âu
do mất lòng tin vào Mĩ => mất lòng tin vào đồng đôla.
Nền kinh tế châu Âu phục hồi sau kế hoạch Marshall , cán cân thay toán bắt đầu có
dấu hiệu dịch chuyển theo hướng bất lợi cho Mĩ, áp lực chuyển đôla ra vàng ngày
càng tăng đối với Mĩ. Năm 1958, Mĩ bắt đầu càng có nhiều đôla dự trữ, mở đầu
thời kỳ bội thực đồng đôla.
Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán của Mĩ bắt đầu trở nên trầm trọng vào
những năm 1960 trong khi dự trữ đôla của các ngân hàng nước ngoài tiếp tục tăng,
lúc này dự trữ đôla của nước ngoài có giá trị gần bằng với trữ lượng vàng của Mĩ ,
điều đó có nghĩa là nếu tất cả các nước yêu cầu đổi đôla lấy vàng thì lượng đôla
lưu hành trong nước Mĩ sẽ không có giá trị. Chính sự thâm hụt đe dọa những
nguyên tắc sống còn của hệ thống BW : đôla tự do chuyển đổi ra vàng. Cùng với
đó là sự nổi lên của các đồng tiền như đồng mác Đức, đồng yên Nhật. Các nước
chuyển sang dự trữ những đồng tiền có tính cạnh tranh lớn trong thương mại quốc
tế này do mức thâm hụt của Mĩ ngày càng tăng và ngày 15/8/1971 , Mĩ phải tuyên
bố ngừng đổi đôla ra vàng và tiến hành phá giá đồng đôla. Chúng ta có thể thấy vai
trò đầu tàu của Mĩ nhưng Mĩ lại không chưa có biện pháp giải quyết triệt để khi
tình hình ngày càng xấu đi dẫn tới sự sụp đổ của BW=> ít có trách nhiệm với BW.
Kết luận
Từ sự sụp đổ của BW chúng ta nên thấy rõ vai trò của các cường quốc kinh
tế đặc biệt cần phải coi trọng luật pháp quốc tế về trách nhiệm của các quốc gia.
SỰ RA ĐỜI CỦA WTO
1. WTO là gì?
- Tổ chức thương mại thế giới WTO là diễn đàn thương lượng về mậu dịch
theo hướng tự do hóa thương mại lớn nhất toàn cầu với 153 thành viên
(đến 1/2010) và chiếm tới 95% giao dịch thương mại quốc tế.
- Tổ chức này được thành lập với mục tiêu thiết lập và duy trì một nền
thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch.
- Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất
hai năm một lần, là cơ quan đưa ra quyết định đối với mọi vấn đề của bất
kỳ hiệp định cụ thể nào. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại Hội đồng, tiến
hành các công việc hàng ngày của WTO trong thời gian giữa các Hội
nghị Bộ trưởng, thông qua ba cơ quan chức năng là: Đại Hội đồng, Cơ
quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát Chính sách
Thương mại (TPRB).
2. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT – tiền thân của
WTO
- Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai vẫn còn chưa kết thúc, các nước đã nghĩ
đến việc thiết lập các định chế chung về kinh tế để hỗ trợ công cuộc tái
thiết sau chiến tranh. Hội nghị Bretton Woods triệu tập ở bang New
Hampshire (Hoa Kỳ) năm 1944 nhằm mục đích này. Kết quả của Hội
nghị Bretton Woods là sự ra đời của 2 tổ chức tài chính: Ngân hàng Tái
thiết và Phát triển Quốc tế (nay gọi là Ngân hàng Thế giới - WB) và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF). Một tổ chức chung về thương mại cũng được đề
xuất thành lập với tên gọi Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO).
- Phạm vi đề ra cho ITO là khá lớn, bao trùm lên cả các vấn đề việc làm,
đầu tư, cạnh tranh, dịch vụ, vì thế việc đàm phán Hiến chương (hiểu cách
khác là Điều lệ) của ITO diễn ra khá lâu. Trong khi đó, vì mong muốn
sớm cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh công cuộc tái thiết sau chiến tranh,
năm 1946, một nhóm 23 nước đã đàm phán riêng rẽ và đạt được một số
ưu đãi thuế quan nhất định. Để ràng buộc những ưu đãi đã đạt được,
nhóm 23 nước này quyết định lấy một phần về chính sách thương mại
trong dự thảo Hiến chương ITO, biến nó thành Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT). GATT có hiệu lực từ 1/1/1948 như một
thoả thuận tạm thời trong khi chờ ITO được thành lập. Nhưng ITO không
ra đời: mặc dù Hiến chương ITO đã được thông qua tại Havana (Cuba)
tháng 3/1948, nhưng việc Quốc hội Hoa Kỳ trì hoãn không phê chuẩn
Hiến chương làm cho các nước khác cũng không phê chuẩn, dẫn đến ITO
không trở thành hiện thực. Do vậy, GATT trở thành cơ cấu đa phương
duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế cho đến khi WTO ra đời.
- Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp
to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương
mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước
khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày
1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia
nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn:
bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở
hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh
chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của
năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển
chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển
còn khoảng 15%.
3. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
- Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm
1980, đầu 1990, trước những biến chuyển của tình hình thương mại quốc
tế và sự phát triển của khoa học-kỹ thuật, GATT bắt đầu tỏ ra có những
bất cập, không theo kịp tình hình.
- Những bất cập của GATT
o Thứ nhất, những thành công của GATT trong việc giảm và ràng
buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một loạt các cuộc suy thoái
kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc đẩy các nước tạo ra các
loại hình bảo hộ phi quan thuế khác nhau để đối phó với hàng nhập
khẩu hoặc ký kết các thoả thuận song phương dàn xếp thị trường,
đồng thời làm nảy sinh nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới.
Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị
mà việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong
khi đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể
và sâu rộng đến các vấn đề này.
o Thứ hai, đến những năm 80, GATT đã không còn thích ứng với
thực tiễn thương mại thế giới. Khi GATT được thành lập năm
1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết thương mại hàng hoá hữu
hình. Từ đó tới nay, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng,
mở rộng sang cả các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng,
bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư
vấn... Các loại hình thương mại dịch vụ này, cùng với các vấn đề
trong đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành một bộ phận quan trọng
của thương mại quốc tế.
o Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá, GATT
còn có những lỗ hổng cần phải được cải thiện. Ví dụ, trong nông
nghiệp và hàng dệt may, các cố gắng tự do hoá thương mại đã
không đạt được thành công lớn. Kết quả là còn rất nhiều ngoại lệ
với các quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này.
o Thứ tư, về mặt cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp,
GATT cũng tỏ ra không thích ứng với tình hình thế giới. GATT
chỉ là một hiệp định, việc tham gia mang tính chất tuỳ ý. Thương
mại quốc tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức
thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc để đảm bảo thực thi
các hiệp định, quy định chung của thương mại quốc tế. Về hệ
thống giải quyết tranh chấp, GATT chưa có một cơ chế điều tiết
thủ tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra một thời gian biểu nhất định,
do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ bị bế tắc. Để
thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, rõ ràng
hệ thống này cần phải được đổi mới.
- Trước tình hình đó các bên tham gia GATT nhận thấy cần phải có nỗ lực
để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến
1994, Hiệp định GATT và các hiệp định phụ trợ của nó đã được các nước
thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi
trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết
định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT
1994. Một số hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như
Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với
GATT 1994, chúng tạo thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại
đa phương về Thương mại Hàng hoá. Vòng đàm phán Uruguay cũng
thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và
Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong những thành
công lớn nhất của vòng đàm phán lần này là, cuối Vòng đàm phán
Uruguay, các nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
- Sau khi WTO ra đời thì GATT vẫn tồn tại, với tư cách là 1 trong các văn
bản pháp lý của WTO. Nhưng GATT không phải là văn bản pháp lý duy
nhất, bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều văn bản khác như Hiệp định chung
về Thương mại Dịch vụ, Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, v.v.....
- GATT của thời kỳ WTO cũng có khác với GATT thuở ban đầu. Để phân
biệt, người ta gọi GATT ban đầu là GATT 1947, còn GATT của thời kỳ
WTO là GATT 1994 (theo thời gian thông qua văn bản này)
Không phân biệt đối xử
1. Nguyên tắc tối Huệ quốc:
* Nội dung: hành xử với các quốc gia khác nhau như nhau nếu nước A dành ưu đãi
a cho nước B, thì cũng phải dành ưu đãi a đó cho các nước C, D khác.
* Vị trí:
- Là điều 1 trong Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), áp
dụng cho các giao dịch hàng hóa
- Là điều 2 trong hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
- Là điều 4 trong hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
* Các ngoại lệ có thể có trong tối huệ quốc:
- Các quốc gia có thể thiết lập hiệp định tự do thương mại áp dụng cho các hàng
hóa được giao dịch trong nội khối và phân biệt đối xử với các loại hàng hóa bên
ngoài khối
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia đang phát triển tiếp cận thị trường
của họ
- Dựng nên những rào cản với các loại hàng hóa được xem xét như giao dịch
không công bằng từ những nước cụ thể
- Trong khu vực dịch vụ, các quốc gia được phép tiến hành phân biệt đối xử
nhưng chỉ trong những hoàn cảnh rất hạn chế và dưới những điều kiện khắt khe
của WTO
* VD: 1981, vụ kiện giữa Braxin và Tây Ban Nha về việc Tây Ban Nha định thuế
cho hạt cà phê chưa rang với các mức thuế khác nhau. Tây Ban Nha cho rằng do
xuất xứ của các loại cà phê này khác nhau được trồng và thu hoạch theo các
phương thức khác nhau. Nhưng vào thời điểm đó, GATT đã quyết định hành vi của
Tây Ban Nha là đi ngược lại nguyên tắc Tối huệ quốc bởi với người tiêu dùng, các
hạt cà phê chưa rang dù khác nhau nhưng cũng chỉ là một loại sản phẩm, do đó
Tây Ban Nha không có quyền trong việc miễn thuế hai loại và áp thuế cho ba loại
khác.
2. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia:
* Nội dung: hành xử với hành hóa của quốc gia khác như hàng hóa của quốc gia
mình, ít nhất là sau khi hàng nhập khẩu đã tham gia vào thị trường trong nước.
nguyên tắc này còn được áp dụng cho các dịch vụ, thương hiệu, bản quyền và độc
quyền trong và ngoài nước.
* Vị trí:
- Điều 3 của GATT
- Điều 17 của GATS
- Điều 3 của TRIPS
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ áp dụng khi sản phẩm, dịch vụ hay các sản phẩm
sở hữu trí tuệ tham gia vào thị trường trong nước nên việc đánh thuế vào hành
nhập khẩu không phải là hành vi đi ngược lại nguyên tắc đãi ngộ quốc gia dẫu cho
loại sản phẩm cùng loại của quốc gia nhập khẩu không phải chịu mức thuế tương
tự.
* VD: Mỹ kiện Thái Lan về việc Thái Lan đề ra những hạn ngạch và tăng thuế tiêu
thụ nội địa đánh vào thuốc là điếu nhập khẩu từ Mỹ. Phía Thái Lan cho rằng đây là
hành động bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng trong nước, nhưng những giải
thích này đã bị bác bỏ bởi thực chất hành vi của Thái Lan là để bảo hộ nền sản xuất
thuốc lá trong nước.
3. Nguyên tắc thương mại tự do hơn thông qua hoạt động đàm phán:
Trong nguyên tắc này, các quốc gia sẽ tiến hành giảm các hàng rào như thuế nhập
khẩu, các mặt hàng cấm nhập khẩu, hạn ngạch và trong quá trình mở rộng vấn đề,
còn bàn đến cắt giảm các thủ tục rườm rà và chính sách tỉ giá hối đoái.
Quá trình đàm phán để đạt được nguyên tắc thương mại tự do hơn đã trải qua 9
vòng đàm phán, kết quả của nó là đến giữa những năm 90 của thế kỉ 20, tỉ lệ thuế
nhập khẩu của các nước công nghiệp với các hàng hóa công nghiệp đã giảm mạnh
xuống còn dưới 4%.
VD: quá trình dỡ bỏ các loại hàng rào của Việt Nam khi tham gia vào luật chơi của
WTO.
Các quốc gia đang phát triển có thể được co giãn lộ trình để hạn chế tiến tới dỡ bỏ
các loại hàng rào này.
Nhưng trước đó, đến giữa những năm 80 của thế kỉ 20, các cuộc hội đàm đã đặt
vấn đề áp dụng hàng rào phi thuế quan lên hàng hóa nhập khẩu, và tiến tới áp dụng
cho cả dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Như vậy là một vấn đề khác được đặt ra khi các hàng rào thuế quan được lần lượt
dỡ bỏ thì các hàng rào phi thuế quan lại là chiêu bài của các nước phát triển để bảo
hộ nền sản xuất trong nước
VD: Mỹ với các loại hạn ngạch:
o Hạn ngạch thuế quan (Tarriff–rate quota): Là loại hạn ngạch không
hạn chế số lượng nhập khẩu mà quy định số lượng để phân biệt thuế.
Phần lượng trong hạn ngạch quy định sẽ có thuế nhập khẩu thấp, phần
lượng vượt hạn ngạch sẽ chịu thuế nhập khẩu cao. Các mặt hàng nông
sản khi vào thị trường Mỹ phải chịu hạn ngạch có thuế là: Sữa và kem
không đặc hoặc không đường hay các chất ngọt khác với chất béo
theo trong lượng từ 1% đến 6%; cá ngừ, bông vải, lúa mì, một số mặt
hàng nông sản theo Hiệp định Mỹ – Israel.
o Hạn ngạch tuyệt đối - hạn ngạch cứng (Absolute quota). Đây là hạn
ngạch giới hạn về lượng nhập khẩu; phần lượng vượt hạn ngạch
không được làm thủ tục hải quan vào Mỹ. Hàng nhập vượt quá số
lượng trong hạn ngạch phải tái xuất hoặc lưu kho chờ hạn ngạch năm
sau.
4. Nguyên tắc có thể dự đoán trước được thông qua các cam kết và sự minh
bạch:
Trong thương mại, đôi khi việc hứa sẽ không tăng một hàng rào thương mại cũng
quan trọng như việc giảm một hàng rào thương mại vậy. vì nó tạo ra cho các doanh
nghiệp một cái nhìn rõ ràng về các cơ hội trong tương lai. Lúc này, với sự ổn định
và có thể đoán định trước, đầu tư sẽ được kích thích, việc làm được tạo ra và người
tiêu dùng sẽ hưởng lợi do môi trường cạnh tranh mang lại: có nhiều lựa chọn hơn,
và giá cả thấp hơn.
Nhiệm vụ của hệ thống thương mại đa phương không chỉ tạo ra một môi trường ổn
định và dễ dự đoán mà phải cải thiện tính ổn định và dự đoán đó theo các cách
khác nhau:
- Hạn chế các hạn ngạch và biện pháp giới hạn hàng nhập khẩu bởi việc tạo ra
các hạn ngạch dễ dẫn đến các thủ tục rườm rà và những lời buộc tội theo
hình thức không chơi đẹp.
Một nhiệm vụ nữa của hệ thống thương mại đa phương là làm cho các loại luật
thương mại của các quốc gia rõ ràng và công chúng nhất đến mức có thể. Cụ thể là
nhiều hiệp định của WTO sẽ yêu cầu các chính phủ tiết lệ chính sách thương mại
của mình cũng như các tiến hành một cách rộng rãi với các quốc gia hoặc thông
báo cho WTO
VD: Việt Nam, khi gia nhập WTO, Việt Nam có các nghĩa vụ như sau:
1. Nghĩa vụ đăng tất cả các biện pháp thương mại: tất cả các loại luật, quy
đinh, nghị định, quyết định của tòa án và các quyết định hành chính…có tính
áp dụng chung phải được thông báo trước khi có hiệu lực hoặc trước khi thi
hành trên các trang điện tử hoặc tạp chí. Ngoại trừ một số trường hợp đặc
biệt. ngoài ra trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, VN phải đăng tải tất cả
danh sách các tổ chức chịu trách nhiệm và những thủ tục và điều kiện cấp
phép của mình
2. Nghĩa vụ lấy ý kiến của công chúng đối với các dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật: tất cả các văn bản quy phạm pháp luật và các biện pháp thực thi
có liên quan đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ
phải được đưa ra lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan và lấy ý kiến
công chúng trước khi các văn bản này được ban hành và áp dụng.
3. Nghĩa vụ thông báo về các biện pháp thương mại được ban hành hoặc sửa
đổi
4. Nghĩa vụ thành lập điểm hỏi đáp cung cấp thông tin cho các thành viên quan
tâm về các vấn đề cụ thể
5. Nghĩa vụ liên quan đến rà soát chính sách thương mại
5. Nguyên tắc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng:
WTO đôi khi được mô tả là một tổ chức tự do thương mại, nhưng điều này không
hoàn toàn chính xác theo nghĩa đó. Sự thật là WTO có cho phép tạo ra các hàng
rào thuế quan cũng như các hình thức bảo hộ khác để các chính phủ có thể ứng phó
với các trường hợp bán phá giá chẳng hạn, tất nhiên là trong nhiễm hoàn cảnh rất
hạn chế.
Vd: vụ kiên 15 nước phát triển của Uruguay (1962) về việc áp dụng các mức thuế
nhập khẩu khác nhau cho cùng một mặt hàng
6. Nguyên tắc dành một số ưu đãi cho các nước đang phát triển:
Tính đến năm 2001, đến ¾ các thành viên của WTO là các nước đang phát triển và
các nước đang chuyển đổi, vì vậy WTO có quy định các nước này sẽ được hưởng
một số quyền ưu tiên và không phải thực hiện một số quy định của WTO. Ngoài
ra, WTO còn cho phép các nước này co giãn về thời gian áp dụng thực thi các quy
định của WTO.
Sau vòng đàm phán Uruway, các nước phát triển đã cam kết áp dụng chính sách
không thuế quan và không hạn ngạch với hầu hết hàng nhập khẩu từ các nước đang
phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. tuy nhiên vấn đề đang đặt ra là các nước
phát triển đang than phiền về việc nền kinh kế trong nước gặp nhiều khó khăn khi
bị cạnh tranh bởi các hàng hóa đến từ các nước đang phát triển, đặc biệt là trong
thời điểm nền kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen_de_1_6314.pdf