Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và ảnh hưởng của nó tới cục diện chiến tranh lạnh

MỤC LỤC Phần Mở Đầu 1 Chương I: Sự kiện Vịnh Con lợn 2 1. Nguyên nhân sâu xa: 2 2. Diễn biến của sự kiện Vịnh Con Lợn: 3 2.1. Sự chuẩn bị và huấn luyện cho cuộc đổ bộ: 4 2.2. Những cảnh báo trước cuộc xâm lược: 5 2.3. Xâm lược: 6 2.4. Hậu quả: 9 Chương II: Những chuyến tầu bí mật trên biển Caribê 10 Chương III: Cuộc đấu vẫn tiếp tục 12 Chương IV: Phát hiện kinh hoàng của những chiếc máy bay do thám tầm cao U-2 14 Chương V: Cuộc khủng hoảng bắt đầu ló dạng 16 Chương VI: Kết thúc cuộc khủng hoảng 18 Phần Kết Luận 21 Tài liệu tham khảo 22

doc24 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3801 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và ảnh hưởng của nó tới cục diện chiến tranh lạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và khi cần phải dùng chúng để bảo vệ đất nước". 2.2. Những cảnh báo trước cuộc xâm lược: Lực lượng an ninh phòng thủ của Cuba đã biết về cuộc xâm lược sắp tới, thông qua mạng lưới tình báo bí mật của họ, cũng như qua những cuộc nói chuyện bị rò rỉ giữa những thành viên của lữ đoàn, một số nghe được tại Miami và được lặp lại tại Hoa Kỳ và các bản tin báo chí ngoại quốc khác. Tuy nhiên, nhiều ngày trước cuộc xâm lược, đã có một số hành động phá hoại được thực hiện, như cuộc tấn công phá hoại tại cửa hàng bách hóa El Encanto ở La Habana ngày 13 tháng 4, giết chết một nhân viên cửa hàng. Chính quyền Cuba cũng đã được các nhân viên cấp cao của KGB, lần lượt là Osvaldo Sánchez Cabrera và "Aragon" cảnh báo, những người này đã chết thảm khốc trước và sau cuộc xâm lược. Người dân Cuba nói chung không được biết điều gì sắp xảy ra, ngoại trừ Đài phát thanh Swan do CIA tài trợ. Vào tháng 5 năm 1960, hầu như mọi phương tiện liên lạc công cộng đều nằm trong tay chính quyền. Một bài viết của báo Washington Post ngày 29 tháng 4 năm 2000 có tên "Liên Xô biết được ngày tấn công Cuba", đã nói rằng CIA có được thông tin nói rằng Liên Xô đã biết trước cuộc xâm lược sẽ diễn ra mà không báo cho Kenedy. Đài phát thành Moskva đã phát đi một bản tin tiếng Anh vào ngày 13 tháng 4 năm 1961 tiên đoán một cuộc xâm lược "theo một kịch bản do CIA dàn dựng" sử dụng những "tên tội phạm" do CIA trả lương trong tuần tới. Cuộc xâm lược diễn ra bốn ngày sau đó. Theo Đại sứ Anh tại Hoa Kỳ, David Ormsby-Gore, tình báo Anh cho rằng đa số người dân Cuba ủng hộ Fidel và sẽ khó mà xảy ra hiện tượng đào ngũ hoặc khởi nghĩa hàng loạt sau khi xâm lược, điều này cũng đã được chuyển tới CIA. Đa số các phân tích gần đây cho thấy các nguồn tin dùng trong dự đoán tình báo của Ormsby-Gore không hề biết các tình tiết liên quan. Vào ngày 17 tháng 4, người ta đồn rằng đây là một tên đào ngũ. Vào khoảng 6 giờ sáng giờ Cuba ngày 15 tháng 4 năm 1961, tám máy bay ném bom Douglas B-26B Invader chia làm ba nhóm, đồng thời tấn công ba sân bay của Cuba, tại San Antonio de Los Baños và tại Ciudad Libertad (trước đó có tên là Campo Columbia), đều gần La Habana, cộng với Sân bay Quốc tế Antonio Maceo ở Santiago de Cuba. Những chiếc B-26 đã được CIA chuẩn bị trên danh nghĩa Lữ đoàn 2506, và được sơn dấu hiệu của FAR (Fuerza Aérea Revolucionaria), lực lượng không quân cách mạng Cuba. Mỗi chiếc đều được trang bị bom, hỏa tiễn và súng máy. Chúng đã bay từ Puerto Cabezas ở Nicaragua, và được các phi công và hoa tiêu Cuba lưu vong tự gọi mình là Fuerza Aérea de Liberación (FAL). Mục đích của điệp vụ này (bí danh Chiến dịch Puma) là để phá hủy phần lớn hoặc tất cả máy bay vũ trang của không quân Cuba nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ chính. Tại Santiago, hai máy bay tiêm kích được báo cáo đã phá hủy một máy bay vận tải C-47, một thủy phi cơ PBY Catalina, hai B-26 và một máy bay dân sự DC-3 cộng với vài máy bay dân sự khác. Tại San Antonio, ba chiếc tiêm kích đã báo cáo phá hủy được 3 chiếc B-26, một Sea Fury và một T-33 của Không quân Cuba, có một chiếc tiêm kích đổi hướng quay về Cayman Lớn do thiếu nhiên liệu. Tại Ciudad Libertad, ba chiếc tiêm kích báo chỉ phá hủy được các loại máy bay không còn vận hành như hai chiếc F-47 Thunderbolts. Một trong các chiến đấu cơ này đã bị lưới đạn phòng không tiêu diệt, rơi cách Cuba khoảng 50 km về phía bắc, đội bay gồm Daniel Fernández Mon và Gaston Pérez đều chết. Chiếc B-26 đồng hành với nó tiếp tục bay về hướng bắc và hạ cánh tại sân bay Boca Chica (Naval Air Station Key West), Florida. Đội bay, José Crespo và Lorenzo Pérez-Lorenzo, được trao quyền tỵ nạn chính trị và ngày hôm sau thì quay về Nicaragua qua ngả Miami thông qua chuyến bay hàng ngày của CIA từ Sân bay Opa-Locka đến Puerto Cabezas. Chiếc B-26 của họ, được đánh số 933 trùng với ít nhất là hai chiếc B-26 khác nhằm làm nhiễu loạn thông tin, được giữ lại cho đến cuối ngày 17 tháng 4. 2.3. Xâm lược: Vào khoảng 00.00 ngày 17 tháng 4 năm 1961, hai nhóm bộ binh đổ bộ Blagar và Barbara J, mỗi đội có một "sĩ quan điều hành" của CIA cùng một Đội Phá hoại dưới mặt nước với 5 người nhái, xâm nhập Vịnh Con Lợn (Bahía de Cochinos) ở bờ biển phía nam Cuba. Theo sau các nhóm này là một lực lượng gồm bốn tàu vận tải (Houston, Río Escondido, Caribe, và Atlántico) chở khoảng 1.300 bộ binh người Cuba lưu vong của Lữ đoàn 2506, cùng với xe tăng và các loại xe bọc thép khác trên tàu đổ bộ. Vào khoảng 01.00, chiếc Blagar, với vai trò là tàu chỉ huy chiến trường, hướng về địa điểm đổ bộ chính tại Playa Girón (Bãi xanh biển), đi đầu là nhóm người nhái lái xuồng cao su, sau đó là nhóm quân trên Caribe đi trong những chiếc xuồng nhôm nhỏ, rồi đến các tàu LCVP và LCU. Nhóm Barbara J, dẫn đầu chiếc Houston, cũng đổ quân cách đó 35 km về phía đông tây tại Playa Larga (Bãi đỏ), dùng xuồng sợi thủy tinh nhỏ. Việc thả quân vào đêm bị trì hoãn, do hỏng máy và một số chiếc xuồng bị hỏng do va phải đá ngầm. Một vài dân quân trong khu vực đã cảnh báo nhanh chóng cho quân đội Cuba ngay sau khi có cuộc đổ bộ đầu tiên, trước khi đội quân xâm lược tiêu diệt sự kháng cự của họ. Vào rạng sáng lúc khoảng 06.30, các máy bay Sea Fury, B-26 và T-33 của Không quân Cuba bắt đầu tấn công tàu của Đội quân viễn chinh Cuba lúc đó vẫn tải thả quân. Vào khoảng 06.50, cách 8 km về phía nam Playa Larga, Houston cũng bị hư hỏng do bị tên lửa từ một chiếc Sea Fury và T-33, đến khoảng hai giờ đồng hồ sau thuyền trưởng Luis Morse ra lệnh kéo thuyền lên phía tây vịnh. Khoảng 270 đã được thả xuống, nhưng khoảng 180 trong số đó bị chết chìm hoặc bị bắn chết trên bờ, khiến họ không thể tiến hành công việc nào khác. Vào khoảng 07.00, hai chiếc B-26 của Giải phóng quân tấn công và đánh chìm tàu Hộ tống Tuần dương Hải quân Cuba El Baire tại Nueva Gerona trên Đảo Thông. Hai chiếc này tiếp tục bay tới Giron để nhập vào hai chiếc B-26 khác cùng tấn công lực lượng bộ binh Cuba và yểm trợ trên không cho các máy bay thả dù C-46 và các tàu của Lực lượng Viễn chinh Cuba đang bị không kích. Vào khoảng 07.30, năm máy bay vận tải C-46 và một C-54 thả 177 lính dù trong tiểu đoàn dù Lữ đoàn 2506 trong điệp vụ có bí danh Chiến dịch Falcon. Khoảng 30 quân cùng với các thiết bị nặng đã được thả xuống phía nam nhà máy đường của Úc trên đường đến Palpite và Playa Larga, nhưng thiết bị bị thất lạc trong đầm lầy và đội quân này không thể khóa được con đường. Số quân khác được thả xuống San Blas, Jocuma giữa Covadonga và San Blas, và tại Horquitas giữa Yaguaramas và San Blas. Các vị trí này có nhiệm vụ phong tỏa con đường duy trì được hai ngày, cho đến khi được tiếp viện từ bộ binh từ Playa Girón đến. Vào khoảng 08.30, một chiếc Sea Fury của Quân cách mạng do phi công Carlos Ulloa Arauz lái đâm vào vịnh, do bị mất lái hoặc trúng đạn phòng không, sau khi đụng độ với một chiếc C-46 của Giải phóng quân đang trở về phía nam sau khi thả lính dù. Đến 09.00, quân đội và dân quân Cuba từ bên ngoài khu vực bắt đầu tiến đến nhà máy đường của Úc, Covadonga và Yaguaramas. Suốt hôm đó, họ liên tục được tăng viện quân, xe thiết giáp và tăng thường được chở tới bằng xe tải. Vào khoảng 09.30, nhiều chiếc Sea Fury và T-33 của Quân cách mạng tấn công bằng tên lửa vào tàu Rio Escondido, khiến nó bị nổ tung và chìm cách Girón 3 km. Vào khoảng 11.00, một chiếc T-33 của Quân cách mạng tấn công chiếc B-26 (mã số 935) của Quân giải phóng do Matias Farias lái, nhưng may mắn sống sót khi máy bay rơi tại sân bay Girón, hoa tiêu Eduardo Gonzales đã chết vì bị bắn. Chiếc B-26 đi chung bị thiệt hại và phải chuyển hướng đến Đảo Cayman Lớn; Phi công Mario Zúñiga ("kẻ đào ngũ") và hoa tiêu Oscar Vega quay lại Puerto Cabezas trên chiếc C-54 của CIA vào ngày 18 tháng 4. Đến khoảng 11.00, hai chiếc tàu vận tải còn lại Caribe và Atlántico, và những chiếc LCI và LCU của CIA, bắt đầu rút lui về phía nam để đến vùng hải phận quốc tế, nhưng vẫn bị máy bay của Quân cách mạng đuổi theo. Đến khoảng 12.00, chiếc B-26 của Quân cách mạng bị hỏa lực phòng không của Blagar bắn nổ tung, và phi công Luis Silva Tablada (chỉ mới là lần bay thứ hai) cùng phi hành đoàn ba người đều tử nạn.[16] Đến 12.00, hàng trăm dân quân là học viên các trường quân sự tại Matanzas đã chiếm được Palpite, và thận trọng đi bộ tiến về Playa Larga ở phía nam, chịu nhiều tổn thất trong những trận tấn công của những chiếc FAL B-26. Vào lúc chạng vạng, các lực lượng mặt đất khác của Cuba dần tiến về phía nam từ Covadonga và phí tây từ Yaguaramas tới San Blas, và phí tây dọc theo các con đường ven biển từ Cienfuegos tới Girón, toàn bộ lực lượng đều không có vũ khí nặng hay phương tiện thiết giáp. Trong ngày, ba chiếc FAL B-26 đã bị những chiếc T-33 bắn hạ, với các phi công Raúl Vianello, José Crespo, Osvaldo Piedra và các hoa tiêu Lorenzo Pérez-Lorenzo và José Fernández thiệt mạng. Hoa tiêu của Vianello là Demetrio Pérez đã thoát được ra ngoài và được chiếc USS Murray vớt lên. Phi công Crispín García Fernández và hoa tiêu Juan González Romero, trong chiếc B-26 số hiệu 940, đã chuyển hướng tới Boca Chica, nhưng buổi tối muộn hôm đó họ đã tìm cách bay trở lại Puerto Cabezas trong chiếc B-26 số hiệu 933 mà Crespo đã bay tới Boca Chica ngày 15 tháng 4. Trong tháng 10 năm 1961, những mảnh xác của chiếc B-26 và hai phi công của nó cuối cùng được tìm thấy trong rừng rậm ở Nicaragua. Một chiếc FAL B-26 đã chuyển hướng tới Grand Cayman với động cơ hỏng. Tới 16.00, Fidel Castro đã tới trung tâm nhà máy đường Australia, gia nhập với José Ramón Fernández người đã được ông chỉ định làm chỉ huy chiến trước trước buổi sáng ngày hôm đó. Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Osvaldo Ramírez (khi ấy là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa nông thôn chống Castro) bị bắt tại Aromas de Velázquez và bị hành quyết ngay lập tức. CIA không biết hay không quan tâm tới những hiệu ứng mang tính biểu hiện này trong chiến dịch đã được lên kế hoạch sẵn. Vào khoảng lúc 21.00 ngày 17 tháng 4 năm 1961, một cuộc tấn công ban đêm của ba chiếc FAL B-26 vào sân bay San Antonio de Los Baños thất bại, được cho là do khả năng kém và điều kiện thời tiết. Hai chiếc B-26 khác đã từ bỏ nhiệm vụ sau khi cất cánh. Các nguồn tin khác cho rằng đạn phòng không dày đặc đã khiến các phi đội sợ hãi, khói từ các súng phòng không này có lẽ đã được lấy làm một lời giải thích tốt về "tầm nhìn kém". Tới khoảng 10.30 ngày 18 tháng 4, quân đội và du kích Cuba, được sự hỗ trợ của xe tăng, đã chiếm Playa Larga sau khi các lực lượng Lữ đoàn đã bỏ chạy về phía Girón trong những giờ trước đó. Trong ngày, các lực lượng Lữ đoàn rút về San Blas dọc theo hai con đường từ Covadonga và Yaguaramas. Tới khi ấy, cả Fidel Castro và José Ramón Fernández đều đã chuyển tới khu vực mặt trận đó. Khoảng 17.00 ngày 18 tháng 4, những chiếc FAL B-26 tấn công một đoàn 12 xe buýt dân sự Cuba chạy trước những chiếc xe tải chở xe tăng và xe thiết giáp khác, đi về phía nam giữa Playa Larga và Punta Perdiz. Những chiếc xe, chở đầy thường dân, quân du kích, cảnh sát và binh sĩ, bị tấn công bằng bom, napalm và tên lửa, chịu lượng thương vong lớn. Sáu chiếc B-26 do hai phi công hợp đồng của CIA và bốn phi công khác cùng sáu hoa tiêu từ Lữ đoàn không quân 2506 điều khiển. Đoàn xe sau đó lại tập hợp lại và tiến về Punta Perdiz, khoảng 11 km tây bắc Giron. Trong đêm ngày 18 tháng 4, một chiếc FAL C-46 chở vũ khí và trang bị tới sân bay Girón đã được các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 chiếm, và cất cánh trước rạng đông ngày 19 tháng 4. Chiếc C-46 cũng di tản Matias Farias, phi công của chiếc B-26 serie '935' (mã hiệu Chico Two) đã bị bắn và phải hạ cánh khẩn cấp xuống Girónngày 17 tháng 4. Phi vụ tấn công đường không cuối cùng (mã hiệu Mad Dog Flight) gồm năm chiếc B-26, bốn chiếc trong số đó do các phi phi đội hợp đồng người Mỹ của CIA và các phi công thuộc Alabama Air Guard điều khiển. Một chiếc FAR Sea Fury (do Douglas Rudd lái) và hai chiếc FAR T-33 (do Rafael del Pino và Alvaro Prendes lái) bắn hạ hai trong số những chiếc B-26 đó, làm thiệt mạng bốn phi công Mỹ. Những cuộc tuần tra chiến đấu trên không do những chiếc phản lực Douglas A4D-2N Skyhawk thuộc phi đội VA-34 hoạt động từ USS Essex thực hiện, với các dấu hiệu quốc tịch cùng các dấu hiệu khác đã bị xoá bỏ. Những chuyến xuất kích chỉ để đảm bảo tinh thần cho các binh sĩ Lữ đoàn và các phi công, và để đe doạ các lực lượng của chính phủ Cuba mà không tham gia trực tiếp vào các hoạt động chiến tranh. Không có sự hỗ trợ không quân trực tiếp, và thiếu đạn dược, các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 đã lùi về các bãi biển trước sự tấn công mạnh mẽ của pháo binh, xe tăng và bộ binh chính phủ Cuba. Cuối ngày 19 tháng 4, tàu khu trục USS Eaton (mã hiệu Santiago) và USS Murray (mã hiệu Tampico) đã dời tới Vịnh Cochinos để di tản các binh sĩ Lữ đoàn đang rút lui khỏi các bãi biển, trước khi những loạt đạn từ xe tăng của Cuba buộc Commodore Crutchfield phải ra lệnh rút lui. Từ ngày 19 tháng 4 đến khoảng 22 tháng 4, các chuyến xuất kích được thực hiện bởi những chiếc A4D-2N để có thông tin trinh sát bằng mắt thường về các khu vực chiến sự. Các chuyến bay trinh sát cũng thông báo về những phi đội Douglas AD-5W của VFP-62 và/hay VAW-12 từ USS Essex hay các tàu sân bay khác, như USS Shangri-La rằng đó là một phần của lực lượng đặc nhiệm đã được thiết lập ngoài khơi Đảo Cayman. Ngày 21 tháng 4, Eaton và Murray, được tăng cường thêm những chiếc khu trục USS Conway và USS Cony, cộng với USS Threadfin (tàu ngầm) và một thuỷ phi cơ PBY-5A Catalina của CIA vào ngày 22 tháng 4, tiếp tục tìm kiếm dọc bờ biển, rặng đá ngần và các hòn đảo để cứu những người còn sống sót thuộc Lữ đoàn, khoảng 24-30 người đã được cứu. 2.4. Hậu quả: Tổng cộng số phi công thiệt mạng trong chiến dịch gồm 6 người thuộc Không quân Cuba, 10 người Cuba lưu vong và 4 người Mỹ. Lính dù người Mỹ Eugene Herman Koch thiệt mạng trong chiến đấu, và các phi công Mỹ bị bắn hạ gồm Thomas W Ray, Leo F Baker, Riley W Shamburger và Wade C Gray. Năm 1979, thi thể Thomas 'Pete' Ray được Cuba trả về nước. Trong thập niên 1990, CIA thừa nhận những liên quan của ông tới tổ chức này, và trao cho ông Intelligence Star. 114 người Cuba lưu vong từ Lữ đoàn 2506 được thông báo là đã thiệt mạng trong chiến đấu. Thiệt hại của Cuba trong cuộc xung đột được thông báo khá khác biệt lên tới 4,000 người chết, bị thương hay mất tích, or about 5,000. các nguồn tin Cuba thông báo hơn 2,200 thương vong. Con số cuối cùng được thông báo là 176 người thiệt mạng trong chiến đấu thuộc các lực lượng vũ trang Cuba trong cuộc xung đột. Con số này có thể chỉ là thiệt hại của quân đội Cuba, không gồm quân du kích hay những thường dân vũ trang trung thành, vì thế tổng cộng khoảng 2,000 (có lẽ tới 5,000, xem bên trên) du kích quân Cuba có thể đã thiệt mạng, bị thương hay mất tích trong chiến đấu. Các cuộc tấn công vào phi trường ngày 15 tháng 4 khiến 7 người Cuba thiệt mạng và 54 người bị thương. Cuộc xâm lược thất bại đã gây rắc rối lớn cho chính quyền Kennedy và khiến Castro trở nên lo ngại về một sự can thiệp trong tương lai của Mỹ vào Cuba. Tháng 8 năm 1961, trong một hội nghị kinh tế của Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ tại Punta del Este, Uruguay, Che Guevara đã gửi một lưu ý tới Kennedy qua Richard N. Goodwin, một thư ký của Nhà Trắng. Nó viết: "Cảm ơn về Playa Girón. Trước cuộc xâm lược, cuộc cách mạng yếu ớt. Bây giờ nó mạnh hơn bao giờ hết". Ngoài ra, Guevara đã trả lời một loạt câu hỏi của Leo Huberman thuộc tờ Monthly Review sau cuộc xâm lược. Trong một câu trả lời, Guevara được yêu cầu giải thích số lượng ngày càng tăng những người phản cách mạng và đào tẩu khỏi chế độ, ông đã trả lời rằng cuộc xâm lược bị đẩy lui là cực điểm của phản cách mạng và rằng những hậu quả của những hành động đó "hầu như bằng không". Về việc một số nhân vật nổi bật trong chính phủ Cuba đào tẩu, Guevara lưu ý rằng điều này bởi vì "cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để lại những kẻ cơ hội, tham vọng và sợ hãi phía sau và hiện đang tiến tới một chế độ mới không có tầng lớp ký sinh đó." Cuộc đổ bộ lên bãi biển Giron thảm bại là đòn đánh mạnh vào Kennedy. Sau khi Sự kiện Vịnh Con lợn xảy ra, Kennedy lập tức phái hai thuộc hạ thân tín tới Florida theo dõi việc lãnh đạo chính trị những phần tử lưu vong Cuba đang phẫn nộ vì bị CIA cấm tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Không lâu sau, Kennedy đã hoà giải thành công với những tên lãnh đạo lực lượng Cuba lưu vong, đồng ý với chúng rằng Mỹ sẽ bỏ 53 triệu USD để chuộc những tên phản động lưu vong bị bắt trong Sự kiện Vịnh Con lợn về trước lễ Noel và sẽ loại Cuba ra khỏi Tổ chức các nước châu Mỹ trong hội nghị của tổ chức này vào tháng 1/1962. Nó con cổ vũ mạnh mẽ phe xã hội chủ nghĩa. Ngày 18/4/1961, Liên Xô ra tuyên bố kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh dũng cảm giành độc lập, tự do của nhân dân Cuba, yêu cầu Mỹ ngừng mọi hành động xâm lược nhằm vào Cuba. Khrushchev sau này cũng viết: “Sau khi Fidel giành thắng lợi quyết định trước các phần tử phản cách mạng, chúng tôi đã tăng cường viện trợ quân sự cho Cuba. Quân đội Cuba có thể tiếp nhận được bao nhiêu vũ khí, chúng ta sẽ cung cấp bấy nhiêu”. Nếu đem kết hợp ba yếu tố trên lại, rõ ràng, Cuba ngày càng gần với Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh giữa Mátxcơva và Oasinhtơn lấy La Habana làm thể mang cũng ngày càng quyết liệt. Cuộc khủng hoảng trên biển Caribê đã xảy ra trong bối cảnh đó. Chương II: Những chuyến tầu bí mật trên biển Caribê Từ khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, hai phe Xô, Mỹ luôn trong tình trạng “tên chuẩn bị rời cung, súng sẵn sàng lẩy cò” và bên nào cũng muốn giành phần thắng. Về phần Oasinhtơn, sau khi Eisenhower bước vào Nhà Trắng, John Dulles thay George Marshall làm Ngoại trưởng, từ “ngăn chặn”, chính sách đối phó với phe xã hội chủ nghĩa của Mỹ đã chuyển thành “ngăn chặn và giải phóng”: Một mặt dựa vào ưu thế hạt nhân quân sự để đạt được hiệu quả uy hiếp cao nhất với giá thấp nhất, thông qua răn đe hạt nhân và thiết lập vòng vây quân sự tiếp tục ngăn chặn sự “bành trướng” của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản; mặt khác dựa vào các hành động bí mật và tấn công tâm lý để lật đổ chính quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa, dùng biện pháp hòa bình “giải phóng nhân dân các nước Đông Âu khỏi ách áp bức của chủ nghĩa cộng sản” (chiến lược Diễn biến hòa bình). Đối với Mátxcơva, sau khi Stalin mất, Georgy Malenkov lên giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Trong hơn hai năm nắm quyền, Malenkov đã cho thực thi chính sách đối ngoại tương đối hòa hoãn, làm dịu bớt sự đối kháng vốn rất quyết liệt với thế giới phương Tây do Mỹ đứng đầu. Năm 1955, sau khi Malenkov từ chức, Khrushchev đã không vì những bất đồng với Malenkov trong vấn đề đối nội mà thay đổi chính sách đối ngoại của Liên Xô, thậm chí còn tỏ ra hòa hoãn hơn với phương Tây so với người tiền nhiệm. Ví dụ: Liên Xô kết thúc tình trạng chiến tranh với Đức, thừa nhận sự trung lập của Áo và rút quân đội ra khỏi nước này, cải thiện quan hệ với Mỹ, tìm cách giải trừ quân bị, cấm bom nguyên tử, đưa ra đường lối tổng thể cho chính sách đối ngoại với nội dung chủ yếu là chung sống hòa bình… Tổng thống Mỹ Kennedy (trái) và nhà lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô, hai nhân vật chính trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba 1962. Ở một mức độ nào đó, những điều chỉnh của Mỹ và Liên Xô đã làm dịu bớt sự căng thẳng của tình hình quốc tế kể từ khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Mátxcơva và Oasinhtơn lùi bước vì thực chất đây là thủ đoạn tấn công mới. Trước tiên, cả Liên Xô và Mỹ khi đó đều gặp phải nhiều khó khăn lớn. Với Mỹ là vai trò minh chủ phe phương Tây bị lung lay do không thể giành chiến thắng trên chiến trường Triều Tiên. Với Liên Xô là khuynh hướng li tâm của các nước Đông Âu do phải đối mặt với những khó khăn kinh tế trong nước. Bên cạnh đó, cả Liên Xô và Mỹ đều lấy thực lực quân sự làm lá chắn bảo vệ và không chịu đơn phương nhượng bộ. Do đó, mặc dù mùa đông băng giá của Chiến tranh Lạnh đã đi qua, nhưng mùa xuân hòa hoãn vẫn chưa tới. Trong thời khắc giao mùa đó, giữa Liên Xô và Mỹ, giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa lại xuất hiện những dòng hàn lưu đối kháng như cuộc khủng hoảng Béclin lần thứ hai, sự kiện bức tường Béclin, sự kiện máy bay do thám U-2 của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô, sự đổ vỡ của hội nghị thượng đỉnh Pari… Tuy nhiên, dòng hàn lưu lớn nhất lại đến từ biển Caribê. Sau sự kiện bãi biển Giron, chính sách khống chế và phong tỏa của Mỹ đối với Cuba càng ngặt nghèo hơn. Ngoài việc cấm vận mậu dịch toàn diện, Oasinhtơn tiếp tục sử dụng biện pháp cô lập để ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản kiểu Fidel ở Mỹ Latinh và không từ bỏ ý định can thiệp vũ trang. Vì thế, Lầu Năm góc thường xuyên phái máy bay do thám tầm cao U-2 tiến hành giám sát Cuba, chiêu mộ 150.000 quân dự bị, cho phép những phần tử Cuba lưu vong gia nhập quân đội Mỹ, tổ chức diễn tập quân sự quy mô lớn ở biển Caribê… Hơn ai hết, Chủ tịch Fidel Castro, hiểu rõ thế và lực của Cuba lúc này, muốn chống lại Mỹ cách tốt nhất là nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau sự kiện bãi biển Giron, Khrushchev đã hai lần viết thư cho Kennedy nói rõ với người Mỹ rằng Liên Xô phải cung cấp cho Cuba mọi sự viện trợ cần thiết. Tháng 7/1962, Fidel phái Raul và Che Guevara dẫn đầu đoàn đại biểu Cuba thăm Liên Xô với mục đích chủ yếu là yêu cầu Liên Xô có biện pháp giúp Cuba tránh khỏi sự xâm lược của Mỹ. Trên thực tế, từ khi xảy ra sự kiện bãi biển Giron, Khrushchev luôn suy nghĩ nghiêm túc về sách lược đối với vấn đề Cuba. Theo Khrushchev, người Mỹ sẽ không thể chấp nhận được sự tồn tại của chính quyền Fidel. Nếu Liên Xô không có bước đi quyết định bảo vệ Cuba thì rất có thể sẽ mất Cuba. Nếu Cuba sụp đổ, các nước Latinh khác sẽ rời bỏ Liên Xô, làm sụt giảm nghiêm trọng vị thế của Liên Xô trên trường quốc tế. Với suy nghĩ đó, Khrushchev quyết tâm biến Cuba thành lô cốt đầu cầu ngay trong sân sau của phương Tây. Trong chuyến thăm này, Cuba và Liên Xô đã đạt được một hiệp định đàm phán quân sự. Theo đó, Liên Xô sẽ cung cấp viện trợ quân sự cho Cuba và cử chuyên gia quân sự tới đảo quốc này. Nội dung cụ thể của hiệp định không được công bố, nhưng sau đó người Mỹ phát hiện, số lượng tầu Liên Xô chở vật tư đi tới biển Caribê tăng mạnh, chỉ trong hai tháng 7 và 8/1962 đã là hơn 100 lượt. Đặc biệt, những chiếc tàu này sau khi cập cảng Cuba, hàng hoá đều do người Liên Xô bốc dỡ. Điều này đã làm cho người Mỹ nghi ngờ. Khi đó, ở nước Mỹ cũng loang đi tin có 16 tàu hàng của Liên Xô chở theo 3.000-5.000 nhân viên kĩ thuật và rất nhiều cấu kiện tên lửa đã tới Cuba. Tuy chưa được kiểm chứng, nhưng nó đã làm cho người Mỹ cảm thấy bất an. Ngay lập tức, Mỹ tăng cường giám sát đường không và đường biển đối với Cuba, chụp ảnh tất cả những tàu Liên Xô đi vào vùng biển Cuba. Kennedy rất quan tâm tới những thông tin tình báo này. Bắt đầu từ tháng 8/1962, việc nhân viên và trang bị của Liên Xô được đưa vào Cuba luôn nằm trong chương trình nghị sự của Nhà Trắng. Phái cứng rắn của Đảng Cộng hòa càng được thể, phê phán sự yếu kém về chính sách đối ngoại của chính quyền Kennedy (thuộc Đảng Dân chủ). Cuối tháng 8 năm đó, Che Guevara dẫn đầu đoàn đại biểu thứ hai của Cuba sang thăm Mátxcơva. Ngày 2/9, hai nước ra thông báo cho biết Liên Xô đồng ý với yêu cầu cung cấp vũ khí và chuyên gia kĩ thật cũng như huấn luyện cho lực lượng vũ trang của Cuba. Ngày 4/9, Nhà Trắng ra tuyên bố về việc Liên Xô thiết lập trận địa tên lửa phòng không ở Cuba và tàu chở tên lửa của Liên Xô. Người Mỹ không thể chấp nhận được cảnh những quả tên lửa đất đối đất và các loại vũ khí tiến công khác được bố trí ở Cuba. Đứng trước sự phản ứng quyết liệt của Mỹ, ngay ngày hôm đó, Khrushchev đã viết thư gửi Kennedy, bảo đảm rằng trước khi cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ diễn ra sẽ không có bất cứ hành động gì làm phức tạp hóa tình hình quốc tế và khiến quan hệ hai nước căng thẳng thêm. Một tuần sau, chính phủ Liên Xô ra tuyên bố: Liên Xô không cần thiết phải di chuyển vũ khí tiến công chiến lược sang nước khác như Cuba. Liên Xô có khả năng chi viện cho bất cứ nước nào yêu chuộng hoà bình ngay từ lãnh thổ của mình. Chương III: Cuộc đấu vẫn tiếp tục Vào những năm 1960, trong khi vẫn tiếp tục đàm phán về việc dừng thử nghiệm hạt nhân và cắt giảm quân bị, cả Liên Xô và Mỹ lại tăng cường thử nghiệm hạt nhân. Năm 1959, một tướng lĩnh cao cấp Bộ Quốc phòng Mỹ đã dự đoán: cuối năm 1962, số lượng tên lửa tầm xa của Mátxcơva sẽ gấp 3 lần Mỹ. Kennedy rất quan tâm tới điều này. Chính vì vậy, trong ba năm cầm quyền (1961- 1963), Kennedy liên tục gia tăng ngân sách quốc phòng. Tháng 3/1961, Kennedy ra lệnh đẩy mạnh việc nghiên cứu, chế tạo và sản xuất tên lửa Polaris bắn từ tàu ngầm và tên lửa Minuteman phóng từ lòng đất. Ngoài ra, Mỹ còn tìm cách tăng cường sự có mặt của mình ở Tây Đức, Áo, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ để hình thành thế bao vây đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Trong hai năm: 1959 và 1960, quân đội NATO và quân đội Tây Đức nhiều lần tổ chức diễn tập liên hợp lấy Liên Xô và Đông Âu làm kẻ địch giả tưởng. Những quả tên lửa của Mỹ bố trí ở Thổ Nhĩ Kỳ chỉ mất 5-6 phút là có thể vươn tới Mátxcơva. Trong khi đó, nếu phóng từ lãnh thổ của mình và muốn đến được nước Mỹ, tên lửa của Liên Xô phải mất từ 20-30 phút bay. Cục diện bất lợi này khiến Khrushchev cảm thấy bất an. Trước chuyến thăm Mátxcơva của Raul Castro, tháng 5/1962, Khrushchev đi thăm Bungari. Một hôm, Khrushchev đi dạo trên bờ Biển Đen với Nguyên soái Rodion Malinovsky - Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô. Malinovsky chỉ tay sang phía bờ đối diện nói: “Chỉ cần vài phút là những quả tên lửa hạt nhân bố trí ở các căn cứ quân sự Mỹ trên đất Thổ Nhĩ Kỳ có thể huỷ diệt Kiép, Minxcơ và Mátxcơva”. Khrushchev hỏi: “Vậy tại sao chúng ta không thể thiết lập căn cứ quân sự ở gần nước Mỹ?” Và Khrushchev quyết tâm biến ý tưởng đó thành hiện thực. Đúng lúc này, quan hệ giữa Mỹ và Cuba leo thang căng thẳng. Trong một thời gian ngắn, Cuba đã cử hai đoàn đại biểu sang thăm Liên Xô, đề nghị Mátxcơva giúp La Habana chống lại sự xâm lược của Oasinhtơn. Nhằm tạo thế cân bằng với Mỹ, Khrushchev đương nhiêu đã vui vẻ nhận lời giúp đỡ Cuba. Nhưng giúp bằng cách gì? Cung cấp những loại vũ khí thông thường như xe tăng, đại pháo …cũng chỉ giúp Cuba nâng cao khả năng phòng ngự thông thường, không thể tạo ra sức mạnh răn đe đối với Mỹ. Khrushchev cho rằng: “Chúng ta nhất định phải nghĩ ra biện pháp thực tế để đối phó với Mỹ và sự can thiệp của Mỹ ở biển Caribê”. Cuối cùng, Khrushchev quyết định phải xây dựng căn cứ quân sự và bố trí tên lửa hạt nhân, máy bay Il-28 ở Cuba. Khrushchev dự tính nếu hoàn thành việc bố trí tên lửa hạt nhân ở Cuba trước khi bị người Mỹ phát hiện thì chỉ cần 1/10 số tên lửa của Liên Xô thoát khỏi đòn trả đũa của Lầu Năm góc cũng đủ giáng đòn sấm sét vào New York. Kết quả của việc bố trí tên lửa hạt nhân ở Cuba không chỉ có thể khống chế hành động quân sự tuỳ tiện của Mỹ nhằm vào Cuba, mà còn giúp tạo thế cân bằng hạt nhân giữa Mátxcơva và Oasinhtơn. Theo Khrushchev, người Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự bao vây Liên Xô, sử dụng vũ khí hạt nhân đe doạ Liên Xô, nên họ đáng được nếm vị đắng khi thấy tên lửa của Liên Xô chĩa vào. Chính phủ Liên Xô phê chuẩn kế hoạch của Khrushchev, căn cứ vào hiệp định bí mật kí với Cuba, quyết định bố trí tên lửa tầm trung ở Cuba và cung cấp máy bay ném bom phản lực Il-28 cho Cuba. Hàng chục quả tên lửa (mỗi quả có thể mang đầu đạn hạt nhân có sức công phá lớn gấp hàng chục lần so với quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki - Nhật Bản) và hàng chục chiếc máy bay đã được tháo rời, đóng vào kiện, bí mật chuyển lên những chiếc tàu chở hàng đưa đến Cuba. Khoảng 3.500 nhân viên kĩ thuật Liên Xô cũng xuống tàu sang Cuba. Tới ngày 2/9, khi hai đoàn đại biểu Liên Xô và Cuba ra tuyên bố chung, kế hoạch vận chuyển vũ khí và nhân viên kĩ thuật của Liên Xô cơ bản đã hoàn tất. Tuy nhiên, Khrushchev không thể ngờ rằng kế hoạch chuyển thế trận từ Đông bán cầu sang Tây bán cầu của mình lại gây ra một cơn sóng gió lớn đến vậy trong quan hệ giữa Mátxcơva và Oasinhtơn cũng như trên trường quốc tế. Nguy cơ chiến tranh cũng không đặt Liên Xô vào vòng ngoại lệ. Chương IV: Phát hiện kinh hoàng của những chiếc máy bay do thám tầm cao U-2 Trong khi người Liên Xô bí mật vận chuyển tên lửa và máy bay đến Cuba, người Mỹ cũng không một phút ngơi nghỉ, vận dụng mọi thủ đoạn có thể để tìm hiểu chân tướng sự việc và đề ra sách lược đối phó. Ở phương diện này, U-2, chiếc máy bay do thám từng làm người Mỹ mất mặt khi bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô rạng sáng 1/5/1960 và sau đó làm phá sản hội đàm thượng đỉnh 4 nước: Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, dự kiến tổ chức vào trung tuần tháng 5/1960 tại Pari, giờ lại tỏ ra hữu dụng đối với Kennedy. Bởi nhờ nó, ông chủ Nhà Trắng đã có được bằng chứng về việc Liên Xô bố trí tên lửa ở Cuba trước khi quá muộn. Sau khi xảy ra sự kiện bãi biển Giron, Kennedy đã phê chuẩn kế hoạch phục hồi những chuyến bay do thám của U-2. Rạng sáng chủ nhật ngày 14/9/1962, một chiếc U- 2 được lệnh cất cánh làm nhiệm vụ trinh sát đường không ở khu vực phía tây Cuba. Tối hôm đó, các chuyên gia phân tích không ảnh của CIA đã thức trắng để kiểm tra, đối chiếu, so sánh những tấm ảnh U-2 vừa chụp với những tấm ảnh có từ trước. Máy bay do thám U-2 của Mỹ Họ bàng hoàng phát hiện dấu vết đầu tiên về sự có mặt của một căn cứ tên lửa tầm trung của Liên Xô ở San Cristobal (tỉnh La Habana). Ngay lập tức, thông tin trên được cấp báo cho cố vấn an ninh quốc gia, George Bundy. Nhận thấy tính nghiêm trọng của sự việc, không một chút chậm trễ, Bundy vội vàng sang gặp tổng thống. 11 giờ trưa 16/10, trên bàn Kennedy đã có tất cả những tấm ảnh phóng to cùng lời chú giải của CIA về căn cứ tên lửa của Liên Xô trên đất Cuba. Theo CIA, những bãi phóng tổng hợp của Liên Xô xây dựng ở Cuba được cấu thành từ 16-20 quả tên lửa, có thể sẵn sàng tham chiến trong vòng 2 tuần nữa. Khi đó, Oasinhtơn, Dalas hay Saint Louis và rất nhiều thành phố khác cùng toàn bộ các căn cứ trực thuộc Bộ tư lệnh không quân chiến lược Mỹ đều nằm trong tầm bắn của tên lửa Liên Xô. Liên Xô đã bí mật chuyển nhiều thiết bị quân sự theo con đường biển qua Đại Tây Dương đến Cuba, tất cả đều được ngụy trang sao cho máy bay trinh sát Mỹ không thể phát hiện được. Chính phủ Liên Xô đã điều động rất nhiều quân và trang thiết bị quân sự (có thông tin cho rằng còn có cả một sư đoàn tên lửa đạn đạo). Tổng thống John F. Kennedy đã bị bất ngờ vì tên lửa của phía Liên Xô chỉ cách lãnh thổ nước Mỹ chỉ có vài chục kilômét. Theo tính toán của các chuyên gia thì một khi chiến tranh nổ ra, chỉ sau 5 phút nước Mỹ sẽ có 8 triệu người chết. Viễn cảnh khủng khiếp trên khiến người Mỹ không thể ngồi yên. Trong một hành động được cho là đối phó, Lầu Năm góc nhanh chóng vạch ra kế hoạch huấn luyện quân sự và lấy đó làm bình phong che mắt để tiến hành tập kết binh lực ở các căn cứ quân sự thuộc bang Florida, gần Cuba. Tham gia kế hoạch huấn luyện quân sự trên của Lầu Năm góc có khoảng 40.000 lính thủy đánh bộ Mỹ, trong đó 5.000 quân được bố trí ở căn cứ hải quân Guantnamo của Mỹ trên lãnh thổ Cuba. Sư đoàn đổ bộ đường không số 101, tinh nhuệ nhất của quân đội Mỹ cũng được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Tất cả chỉ đợi lệnh là nổ súng tiến công Cuba. Từ 11 giờ trưa đến 6 giờ chiều ngày 16/10, Kennedy đã triệu tập hai cuộc họp bí mật thảo luận về kế hoạch hành động đối với Cuba. Phái diều hâu trong Lầu Năm góc đưa ra hai phương án cứng rắn: 1/ Lực lượng vũ trang Mỹ trực tiếp tấn công Cuba. Ban đầu, máy bay Mỹ sẽ tiến hành tấn công đường không, phá hủy các cơ sở phòng thủ, kho vũ khí và sân bay của Cuba. Sau đó, lính thủy đánh bộ Mỹ sẽ đổ bộ lên Cuba, tiêu diệt toàn bộ tên lửa, nhân viên kĩ thuật của Liên Xô và chính quyền Fidel. Huy động khoảng 500 chiếc máy bay tiến hành ném bom rải thảm đối với Cuba, mục tiêu chủ yếu là các bãi phóng tên lửa của Liên Xô. Tuy nhiên, cả hai phương án này rõ ràng mang tính xâm lược, đặc biệt là có thể khơi nguồn cho một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Liên Xô, nên đã gặp phải sự phản đối của phái ôn hòa chiếm đa số tại cuộc họp. Ảnh máy bay U-2 chụp bãi phóng tên lửa của Liên Xô ở San Cristobal. Quan trọng hơn, Kennedy vẫn chưa biết rõ mục đích thực sự của Liên Xô khi đem tên lửa bố trí tại Cuba: là thử phản ứng của Mỹ hay dụ Oasinhtơn ra đòn tiến công quân sự nhằm vào Cuba, khiến Mỹ phải hứng chịu búa rìu dư luận hoặc buộc Mỹ tham gia vào cuộc mặc cả mang tính toàn cầu (muốn Liên Xô rút tên lửa khỏi Cuba, Mỹ phải nhượng bộ trong vấn đề Béclin hoặc rút tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kỳ). Do vậy, Kennedy cho rằng việc phát động một cuộc tấn công quy mô lớn vào Cuba lúc này là vô cùng mạo hiểm. Sau nhiều lần cân nhắc và hiệp thương với các nhân vật chóp bu Nhà Trắng và Lầu Năm góc, Kennedy quyết định thành lập hai tiểu ban đặc biệt, yêu cầu hai tiểu ban này khẩn cấp hoàn thành kế hoạch chi tiết cho việc đối phó với tình hình mới phát sinh ở Cuba. Để bảo mật, những người tham gia hai tiểu ban này vẫn phải làm những công việc thường nhật của mình. Nhìn vẻ ngoài, cuộc sống của những người dân Mỹ vẫn diễn ra bình thường, ít ai ngờ rằng khi đó đất nước họ đang chuyển động cùng quá trình thai nghén một hành động quân sự lớn nhằm vào đảo quốc nhỏ bé-Cuba. Một số nét về U-2 U-2 là máy bay do thám phản lực tầm cao một chỗ ngồi của Mỹ, có thể bay làm nhiệm vụ do thám ở độ cao trên 20 km. U-2 do hãng Lockheed sản xuất theo đơn đặt hàng của CIA. U-2 được trang bị máy chụp ảnh hồng ngoại có ống kính đặc biệt 915 mm, có thể chụp được những khu vực rộng khoảng 200 km, dài trên 4.800 km. Sau khi phóng to ảnh U-2 chụp, người ta có thể phân biệt rõ những vật thể có đường kính khoảng 50 cm. Chương V: Cuộc khủng hoảng bắt đầu ló dạng Về thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, sử sách đều ghi bắt đầu từ ngày 22/10/1962 khi Mỹ tuyên bố phong tỏa Cuba và kết thúc vào ngày 28/10 khi Liên Xô và Mỹ kí hiệp định, theo đó, Mátxcơva sẽ đình chỉ việc xây dựng căn cứ tên lửa ở Cuba và triệt thoái tên lửa khỏi Cuba. Trong “tuần lễ đen tối” (nói theo lời Bộ trưởng Tư pháp Mỹ lúc đó, Robert Kennedy) này, cả thế giới như căng lên cùng cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Xô-Mỹ. Chính vào lúc Nhà Trắng tập trung tinh lực nghiên cứu đề ra đối sách, Cremli đẩy nhanh tốc độ vận chuyển vũ khí sang Cuba và xây dựng căn cứ tên lửa ở Cuba. Trên phương diện ngoại giao, Mátxcơva cũng thể hiện rõ thái độ cứng rắn. Ngày 18/10, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, Andrei Andreyevich Gromyko, lần lượt hội kiến với Tổng thống Mỹ, John Kennedy và Ngoại trưởng Mỹ, David Dean Rusk, tại New York. Gromyko khẳng định: “Nếu Mỹ lựa chọn hành động thù địch đối với Cuba, cũng có nghĩa Mỹ đã nhằm vào một số nước có quan hệ tốt đẹp với Cuba, tôn trọng độc lập của Cuba và viện trợ cho Cuba những lúc khó khăn. Trong bối cảnh đó, Liên Xô sẽ không đứng nhìn. Giờ không phải là giữa thế kỷ 19, không phải là thời đại thế giới phân chia thành những mảnh đất thuộc địa thực dân, cũng không thể xảy ra cảnh một nước bị xâm lược hàng tuần rồi mà vẫn không kêu gọi cứu viện được. Liên Xô là một quốc gia vĩ đại. Liên Xô sẽ không là một kẻ bàng quan trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh lớn gây ra bởi vấn đề Cuba hay tình hình ở khu vực khác trên thế giới”. Khi đó cả Tổng thống Kennedy, Ngoại trưởng Rusk, Bộ trưởng quốc phòng McNamara, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy và Thứ trưởng Ngoại giao George Power đều biểu thị Mỹ không muốn tấn công vũ trang đối với Cuba, nhưng quyết không cho phép Liên Xô biến hòn đảo này thành căn cứ quân sự tiến công Mỹ và các nước Mỹ Latinh. Gromyko phản đòn: “Mỹ xây dựng căn cứ quân sự ở Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản và phái tới đó không ít cố vấn quân sự. Ấy là chưa nói tới ở Anh, Italia và một số quốc gia Tây Âu khác. Một khi Mỹ có thể xây dựng căn cứ quân sự ở những quốc gia trên thì Mỹ cũng có thể ký hiệp ước quân sự ưới những quốc gia này. Lẽ nào Liên Xô không có quyền giúp Cuba phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng”. Sự cứng rắn của Mátxcơva như chất xúc tác khiến Nhà Trắng ngày càng thiên về lựa chọn một quyết sách cứng rắn. Sau cuộc họp bí mật của Nhà Trắng, các thành viên tiểu ban bí mật (sau này có tên: “Tiểu ban chấp hành Ủy ban An ninh Quốc gia”) cũng tham gia vào 4 cuộc thảo luận trong 4 đêm liên tục nhằm tập hợp ý kiến, đưa ra các phương án đối phó với việc Liên Xô đưa tên lửa sang Cuba. Đa số đồng ý với việc thiết lập một vành đai phong tỏa đặc biệt ngăn chặn Liên Xô đưa các thiết bị nguyên tử vào Cuba. Ngày 18/9, Kennedy quyết định thành lập ủy ban chuyên môn phụ trách việc hoạch định những hành động đối phó cụ thể và chỉ một ngày sau, ủy ban này đã đưa ra được một loạt phương án khác nhau, chỉ đợi tổng thống phê chuẩn. Chiều 20/9, lấy lý do sức khỏe không được tốt, Kennedy rời Chicago về Oasinhtơn, lập tức cho triệu tập hội nghị lần thứ 505 Ủy ban An ninh Quốc gia tại phòng bầu dục ở Nhà Trắng. Kennedy đưa ra những tấm ảnh chụp các bãi phóng tên lửa Liên Xô ở Cuba, rồi giải thích rõ cho những người dự hội nghị về phương án phong tỏa Cuba. Qua thảo luận và nghe ý kiến của các thành viên Ủy ban An ninh Quốc gia cũng như sự tham vấn của Bộ tư lệnh không quân chiến lược, Kennedy quyết định cho thực thi kế hoạch phong tỏa trên biển đối với Cuba. Để giảm bớt mùi thuốc súng, thay vì dùng từ “phong tỏa”, kế hoạch này sử dụng từ “cách ly”. Trước khi công bố quyết sách quan trọng, đặt đất nước vào tình trạng khẩn cấp, chính phủ Mỹ đã khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị, gồm: liên lạc với các sứ quán Mỹ ở nước ngoài, khởi thảo tuyên bố kiểm tra, cách ly tàu thuyền, thông báo cho Tổ chức các nước châu Mỹ, tăng viện binh lực cho căn cứ hải quân Guantanamo…. Đặc biệt, 6 giờ tối 22/10, một tiếng trước khi Mỹ công bố lệnh phong tỏa Cuba, Ngoại trưởng Rusk triệu kiến khẩn cấp Dobrynin, trao cho vị Đại sứ Liên Xô tại Mỹ này bức thư Tổng thống Kennedy gửi nhà lãnh đạo Khrushchev và tuyên bố đặt đất nước trong tình trạng khẩn cấp sắp được phát đi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoại trưởng Rusk từ chối đưa ra bất kì lời giải thích hay hồi đáp nào. Sau khi tiếp nhận hai văn kiện trên, Đại sứ Dobrynin nói luôn: “Chính phủ Mỹ đang âm mưu gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Điều đó có nghĩa Mỹ đã từ chối đàm phán về các vấn đề song phương giữa hai nước”. Trong bức thư gửi Khrushchev, Kennedy viết: “Nếu như xảy ra một sự kiện nào đó, nhằm bảo vệ mình và an ninh của các đồng minh, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì phải làm. Ở Cuba đã xuất hiện căn cứ tên lửa và hệ thống vũ khí tiến công của Liên Xô, do đó, tôi phải nói với ngài rằng Mỹ quyết định phải loại bỏ tận gốc sự uy hiếp này ở Tây bán cầu. Hành động mà chúng tôi sắp sửa tiến hành chỉ là mức thấp nhất của việc loại bỏ tận gốc sự uy hiếp này ở Tây bán cầu”. 7 giờ tối 22/10/1962, Kennedy bắt đầu bài phát biểu trên truyền hình. Kennedi nói: “Giống như những gì đã cam kết, chính phủ liên tục theo dõi chặt chẽ hành động quân sự của Liên Xô ở Cuba. Tuần trước, có rất nhiều bằng chứng không thể chối cãi cho thấy trên hòn đảo này đang có sự xây dựng một hệ thống tên lửa mang tính tiến công. Căn cứ tên lửa này, ngoài việc đem tới sức mạnh vũ trang tấn công Tây bán cầu thì không có mục đích nào khác. Có được loại vũ khí tầm xa mang tính tiến công với sức sát thương quy mô lớn như vậy, Cuba sẽ lập tức biến thành căn cứ chiến lược quan trọng, tạo ra sự uy hiếp rõ ràng đối với người châu Mỹ và hòa bình, an ninh. Lần đầu tiên, người Liên Xô quyết định bí mật bố trí thứ vũ khí chiến lược này ngoài lãnh thổ của họ. Điều đó cho thấy họ cố ý thay đổi hiện trạng. Nếu chúng ta hy vọng bạn bè tin vào dũng khí và những lời cam kết của chúng ta, Mỹ phải quyết không để Liên Xô làm như vậy”. Ngay sau đó, Kennedy ra lệnh cho quân đội Mỹ bước vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, 24 tiếng đồng hồ sau đó lại ký văn kiện số 3504, tuyên bố bắt đầu từ 14 giờ (giờ GMT) ngày 24/10, Mỹ sẽ tiến hành phong tỏa toàn diện đối với Cuba, bất cứ tàu thuyền nào tới Cuba đều phải chịu sự kiểm tra của các chiến hạm Mỹ, nếu chống lệnh sẽ bị bắn chìm. Một biên đội hải quân khổng lồ của Mỹ được tập kết ở biển Caribê. Một nửa số máy bay ném bom chiến lược của Mỹ sẵn sàng cất cánh. Những chiếc tàu ngầm trang bị tên lửa Polaris đã tiến vào trận địa tác chiến. Bài phát biểu trên truyền hình của Kennedy được phát đi trên toàn thế giới bằng 38 loại ngôn ngữ khác nhau đã gây ra phản ứng mạnh mẽ. Mỹ bắt đầu hành động. Nguy cơ về một cuộc đối đầu nghiêm trọng kể từ sau Chiến tranh Triều Tiên, thậm chí là sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II đã lộ diện. Chương VI: Kết thúc cuộc khủng hoảng Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 đã khẳng định thậm chí còn rõ ràng hơn những hạn chế đối với một cuộc xung đột trực tiếp trong thời đại hạt nhân. Những người Xô-viết đã cố gắng đưa tên lửa tầm trung vào Cuba, gây nên mối đe dọa rõ ràng đối với nước Mỹ. Cho dù là ở thời điểm này, Hoa Kỳ vẫn có ưu thế áp đảo về vũ khí hạt nhân, song một cuộc chiến tranh công khai gây ra nguy cơ về những tổn thất không thể chấp nhận được. Sau khi cân nhắc các lựa chọn khác nhau, Kennedy quyết định kiểm dịch để ngăn chặn không cho tàu chiến Xô-viết tiếp tục vận chuyển thêm tên lửa tới Cuba. Đồng thời, ông đã công khai yêu cầu Liên Xô rút bỏ mọi loại tên lửa và vũ khí hạt nhân và cảnh báo rằng hành động quá khích của Liên Xô trên hòn đảo Cuba có thể sẽ dẫn đến một cuộc tấn công trả đũa Liên bang Xô-viết. Sau vài ngày căng thẳng, khi mà thế giới đã đứng kề miệng vực thảm họa chiến tranh hạt nhân, Liên Xô đã đồng ý rút lui cùng với dàn tên lửa của họ. Để làm được đều này tổng thống Kennedy đã thực hiện một thương vụ bí mật, mà phải nhiều năm sau này những điều khoản của nó mới được tiết lộ. Tổng thống Kennedy và nhà lãnh đạo nước Nga, Nikita Khrushchev đã trao đổi rất nhiều lá thư mật. Kênh đối thoại riêng tư này đã tỏ ra có hiệu quả trong cuộc đàm phán tìm kiếm một kết cục hoà bình cho cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Trong lá thư mật ngày 26/10/1962, Khrushchev thể hiện thiện chí giải quyết khủng hoảng tên lửa ở Cuba nếu như Mỹ cũng có thiện chí cam kết không xâm lược Cuba.Khrushchev viết: "Ngài sẽ tuyên bố rằng Mỹ sẽ không xâm lược Cuba bằng lực lượng của mình, không ủng hộ bất kỳ lực lượng nào có ý định tiến hành xâm lược Cuba. Như vậy, sự hiện diện của các chuyên gia quân sự của chúng tôi tại Cuba sẽ không còn cần thiết nữa". Nhưng trước khi Kennedy phúc đáp lại bức thư của Khrushchev thì thông điệp chính thức thứ hai từ Nội các Liên Xô đã được chuyển đến. Thông điệp đó bổ sung thêm điều kiện để Liên Xô rút tên lửa khỏi Cuba, đó là Mỹ phải dỡ bỏ toàn bộ tên lửa hạt nhân khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng thống Kennedy không sẵn sàng công khai chấp nhận những điều khoản này. Vì một sự trao đổi như vậy có thể bị coi là "bán rẻ" an ninh của các nước đồng minh NATO. Uy tín của Mỹ sẽ bị hạ thấp và các liên minh do Mỹ đứng đầu sẽ có nguy cơ tan vỡ.  Để đổi lấy việc Liên Xô rút tên lửa hạt nhân ra khỏi Cuba, Hoa Kỳ đồng ý sẽ không hành động chống lại chế độ cộng sản của Fidel Castro ở Cuba và đồng thời, sau một khoảng thời gian hợp lý, sẽ rút những tên lửa “đã quá hạn” của Mỹ đặt tại Thổ Nhĩ Kỳ. Có vẻ như là hai “siêu cường” đã rút ra những bài học khác nhau từ cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Khi mà vào năm 1980 Hoa Kỳ đã gần như tạm ngừng việc gia tăng lượng vũ khí hạt nhân, thì Liên Xô lại tiến hành một cuộc chế tạo lớn, và không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào rằng họ sẽ giảm nhịp độ. Trong khi đó, việc lần đầu tiên lực lượng vũ trang Cuba được đưa tới những cuộc xung đột tại châu Phi những năm 1970 cũng như sự xâm lược Afghanistan của Liên Xô năm 1979 - việc lần đầu tiên sử dụng trực tiếp Hồng Quân bên ngoài Đông Âu - đã làm cho nhiều người Mỹ tin rằng Chiến tranh Lạnh vẫn chưa kết thúc. Những người phê phán đã buộc tội Kennedy là đã đánh liều với thảm họa hạt nhân trong khi chính sách ngoại giao hòa bình vẫn có thể là thích hợp. Cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba lần đầu tiên đã khiến Kennedy trở thành một nhà lãnh đạo nổi tiếng của phương Tây dân chủ. Nhìn nhận lại, cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Xô-Mỹ. Cả hai bên đều nhìn thấy sự cần thiết phải giảm bớt căng thẳng có thể dẫn tới xung đột quân sự trực tiếp. Một năm sau đó, Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh đã ký một văn kiện quan trọng - Hiệp ước Cấm thử Vũ khí hạt nhân Cục bộ nhằm cấm mọi hình thức thử vũ khí hạt nhân trên không. Đàm phán" Kenedy - Khrushchev trong khủng hoảng tên lửa Cuba (Tranh minh họa) Nhưng Kennedy cũng đánh giá một cách công bằng, tên lửa của Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, về cơ bản, không thực sự cần thiết cho an ninh của Mỹ hay các nước đồng minh. Vì vậy, Kennedy đã gửi tới Khrushchev một hồi âm bí mật. Anh trai của Tổng thống, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy đã gửi tới Anatoly Dobrynin, đại sức Liên Xô tại Washington, những điều khoản của hiệp ước. Theo thoả hiệp phức tạp này, Mỹ sẽ công khai cam kết không tấn công hay xâm lược Cuba; Liên Xô sẽ dỡ bỏ hệ thống tên lửa tại Cuba. Sáu tháng sau, tên lửa của Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng sẽ được dỡ bỏ. Nhưng Robert Kennedy cảnh báo rằng, Khrushchev có 24 giờ để chấp thuận đề nghị của Mỹ, trước khi Mỹ tiến tới áp dụng các biện pháp mạnh tay hơn. Khrushchev đồng ý những điều khoản này, và ngay buổi sáng hôm sau đã tuyên bố rằng tên lửa của Liên Xô sẽ được rút khỏi Cuba. Tổng thống Ronald Reagan còn hào hứng đối thoại trực tiếp với các nhà lãnh đạo Liên Xô. Ông đã viết lại trong nhật ký của mình: "Tiếp tục đàm phán với Liên Xô là điều cần thiết. Chúng ta không bao giờ được phép e ngại việc đàm phán". Việc các nhà lãnh đạo có các cuộc đối thoại không có nghĩa là cả hai bên đều chân thật hay họ hiểu nhau. Sự thật là, trước khi xảy ra khủng hoảng tên lửa, Dobrynin đã không thể đảm bảo với Robert Kennedy rằng, Liên Xô sẽ không đặt tên lửa ở Cuba. Phần Kết Luận Cuộc khủng hoảng nổ ra một cách đầy bất ngờ . Mỹ phát hiện ra rằng Liên bang Xô viết được lắp đặt tên lửa hạt nhân ở Cuba. Đối với 13 ngày lạnh trong tháng mười năm 1962, có vẻ như John F. Kennedy và Nikita Khrushchev đang là những người quyết định rằng liệu thế giới có đi đến một cuộc chiến tranh hạt nhân hay không? Khủng hoảng tên lửa Cuba có thời khắc thỏa thuận duy nhất của lịch sử thế giới. Cả hai đều đã cố gắng thỏa hiệp để tránh một cuộc chiến tranh hạt nhân. Hòa bình thế giới phụ thuộc vào những thỏa hiệp này. Kennedy tập hợp một lực lượng đặc nhiệm của các cố vấn. Một số người trong số họ muốn xâm lược Cuba. Một số khác lại chủ trương tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề này. Trên một phương diện khác, cuộc khủng hoảng đã phục vụ một số mục đích. Mỹ và Liên Xô đã không có va chạm tương đương từ đó. Tuy nhiên, biến cố ‘Cuban Missile Crisis’ (‘Cuộc khủng hoảng tên lửa của Cuba’) xảy ra năm 1962 đã khiến cho cả thế giới cảm thấy choáng váng. Từ Nhà Trắng tại Washington, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ đã phát đi bài diễn văn của tổng thống Mỹ John F. Kennedy: “Xin chào các công dân của nước Mỹ. Chính phủ đã hứa và đã duy trì sự giám sát chặt chẽ căn cứ quân sự của Nga trên đảo Cuba. Trong tuần vừa qua, bằng chứng không thể nhầm lẫn đã khẳng định thực tế rằng hàng loạt những khu vực có tên lửa tấn công đang được khởi động trên hòn đảo bị tù hãm này. Mục tiêu của các căn cứ này có gì khác ngoài việc cung cấp khả năng tấn công hạt nhân chống lại Tây bán cầu.” Joseph Cirincione, tác giả cuốn sách ‘Bomb Scare: The History and Future of Nuclear Weapons’ (Tạm dịch là ‘Nỗi sợ bom đạn: lịch sử và tương lai của vũ khí hạt nhân’), cho biết đến thập kỷ 1950 và sau đó vào thập kỷ 1960, có giả thuyết cho rằng vấn đề vũ khí hạt nhân có thể thực sự bình ổn và chúng ta đã có cái gọi là khái niệm ‘đảm bảo hủy diệt lẫn nhau’ (nguyên lý ‘Mutually Assured Destruction’ – MAD), theo đó những nước có vũ khí hạt nhân không được tấn công nước khác bằng vũ khí hạt nhân bởi điều xảy ra tiếp theo chắc chắn sẽ là sự hủy diệt kẻ tấn công, cả hai nước sẽ bị diệt vong. “Biến cố ‘Cuộc khủng hoảng tên lửa của Cuba’ cho thấy vấn đề là việc ngăn cản được thực thi rất có hiệu quả cho đến khi nó mất tác dụng. ‘Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba’ là tình huống khi mà cả hai nước không muốn chiến tranh và cũng không muốn tìm cớ để gây chiến nhưng chiến tranh gần như đã xảy ra. Trên thực tế, hiện nay chúng ta đã biết rằng chúng ta từng tiến tới gần cuộc chiến hơn chúng ta đã nghĩ,” tác giả Joseph Cirincione nhận xét. “Mỹ gần như đã tiến hành một cuộc tấn công trước đó nhằm vào Cuba, điều mà Tổng tham mưu Quân đội Mỹ biện hộ rằng bởi họ nghĩ rằng có thể phá hủy dàn tên lửa tại nơi này. Cho đến thời điểm cách đây khoảng 10 năm, nước Mỹ không biết rằng Nga đã có trên 100 vũ khí hạt nhân dàn trận tại đây. Những vũ khí này chắc chắn sẽ được sử dụng nếu Mỹ quyết định tấn công. Như vậy, chính nước Mỹ đã tiến gần tới hiểm họa chiến tranh hạt nhân toàn cầu và sự kiện này đã thúc đẩy những cuộc thảo luận nghiêm túc hơn giữa Mỹ và Nga khiến nhiều nước quan tâm hơn tới vấn đề này và dẫn tới sự kiện ký kết Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân năm 1968.” Từ cuộc khủng hoảng này một số bài học cũng đã được rút ra. Người Mỹ đã quá chủ quan khi khẳng định mình chiếm ưu thế hạt nhân trong năm 1962 và Liên Xô đã không có ảnh hưởng quan trọng với Washington hoặc Moscow tại thời gian và nói chung, hạt nhân chiếm ưu thế trên là không đáng kể. Trong việc giải quyết thành công của cuộc khủng hoảng, kiềm chế được cũng quan trọng như sức mạnh. Chính quyền Kennedy cam kết rằng Mỹ sẽ không xâm lược Cuba nếu tên lửa của Liên Xô đã được thu hồi. Ông công nhận rằng một cuộc xâm lược của quân đội Mỹ sẽ đẫm máu, và nó sẽ để lại những hậu quả chính trị của Tây Bán Cầu. Tại sao Kennedy sẵn sàng đàm phán với một Liên Xô, khi mà lúc đó người Mỹ coi Liên Xô như kẻ thù? Kennedy đã đoán trước với cuộc chiến tranh thương vong của cả hai bên đã sẽ rất cao.Hơn nữa Kennedy tin tưởng vào nguyên tắc đã được ông đưa ra trong diễn văn nhậm chức: "Hãy để chúng ta không bao giờ đàm phán vì run sợ. Mà hãy để chúng ta không bao giờ run sợ khi đàm phán".Việc giải quyết thành công của cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba được về cơ bản thành tích của hai người lãnh đạo lúc bấy giờ, John F. Kennedy và Nikita Khrushchev. Tài liệu tham khảo ự_kiện_Vịnh_Con_Lợn vi.wikipedia.org/wiki/Khủng_hoảng_tên_lửa_Cuba .lichsuvn.info my.opera.com l ibrary.thinkquest.org www.bignerds.com www.peerpapers.com www.foreignaffairs.com www.bookrags.com www.exampleessays.com www.nationalarchives.gov.uk www.nationalarchives.gov.uk

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và ảnh hưởng của nó tới cục diện chiến tranh lạnh.doc
Luận văn liên quan