MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: cơ sở lý luận đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
1.1. Quyền công dân và quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
1.2. Những yếu tố đảm bảo quyền công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
1.3. ý nghĩa của việc đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
Chương 2: thực trạng đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay
2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự
2.2 Thực trạng việc đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại của các cơ quan tố tụng
2.3. Thực trạng ý thức pháp luật của công dân đối với việc đảm bảo quyền được bồi thường thiệt hại
2.4. Vấn đề kinh phí bồi thường hiện nay đối với việc đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại
Chương 3: Quan điểm và phương hướng đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự
3.1. Quan điểm về đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự ở Việt Nam
3.2. Phương hướng đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2840 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yền của công dân như trên đã từng bước được thẩm thấu
và triển khai trong các quan điểm và nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VII đã khẳng định: "Đối
với việc bắt giữ, xét xử oan sai cần truy cứu trách nhiệm của những người ra
lệnh và người thừa hành, đồng thời minh oan công khai, thỏa đáng đối với
người bị bắt giữ, xét xử oan sai, đảm bảo quyền công dân đúng pháp luật".
Như vậy, phải đến khóa VII, chúng ta mới nhìn nhận: "Minh oan công khai,
thỏa đáng đối với người bị bắt giữ, xét xử oan sai, đảm bảo quyền công dân
đúng pháp luật" là nhiệm vụ quan trọng phải thực hiện, đồng thời phải "truy
cứu trách nhiệm của những người ra lệnh và người thừa hành". Đây là một
quan điểm tương đối mạnh dạn, thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc về vấn đề
đảm bảo quyền công dân bị oan sai trong TTHS, sự nghiêm khắc trong việc
truy cứu lỗi của những người có thẩm quyền gây ra oan sai. Mặt khác, "truy
cứu trách nhiệm của những người ra lệnh và người thừa hành" cũng chính là
gián tiếp tạo ra điều kiện đảm bảo quyền công dân, ngăn chặn, răn đe những
người tiến hành tố tụng trước khả năng thực hiện hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại cho công dân trong quá trình thực thi pháp luật về sau, đảm bảo công
bằng xã hội, tránh tình trạng "lễ không đến thứ dân, hình không đến bậc
trượng phu" như dưới một số triều đại phong kiến trước đây. Vấn đề này tiếp
tục được khẳng định trong Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ
Chính trị: "Việc bồi thường thiệt hại… cần làm rõ cơ sở pháp lý, trách nhiệm
tập thể giữa tập thể và cá nhân, phân định trách nhiệm từng cơ quan và cá
nhân tiến hành tố tụng và mức độ thiệt hại về dân sự do làm oan sai gây ra".
Như vậy, việc cá thể hóa trách nhiệm của từng cá nhân, từng cơ quan có trách
65
nhiệm bồi thường là một quan điểm, một định hướng quan trọng trong việc định
hình chính sách hình sự và pháp luật về BTTH do hành vi trái pháp luật trong
hoạt động TTHS nói riêng và pháp luật về bồi thường nhà nước nói chung.
3.1.3. Bồi thường thiệt hại cho công dân trong hoạt động tố tụng
hình sự là một giải pháp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, công
chức tư pháp
Như đã phân tích ở chương 1, việc đảm bảo quyền công dân được
BTTH do hành vi trái pháp luật trong hoạt động TTHS có ý nghĩa vô cùng
quan trong đối với tiến trình minh bạch hóa và nhân văn hóa lĩnh vực tố tụng
hình sự, nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng. Trách nhiệm BTTH giúp cho
các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ hội nhìn nhận những thiếu sót, sai lầm
trong hoạt động của mình, rà soát, bổ sung các lỗ hổng trong quy định của
pháp luật, trong các hướng dẫn nghiệp vụ, trong việc tổ chức, phân bổ các cơ
quan chuyên trách của mỗi ngành, trong việc phân công, bố trí người tiến
hành tố tụng, đem lại những bài học quý giá cho các cơ quan tiến hành tố
tụng. Đặc biệt, điều này còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc rèn luyện đạo đức
nghề nghiệp cho người tiến hành tố tụng nói riêng và những cá nhân trong hệ
thống các cơ quan tư pháp nói chung. Xác định trách nhiệm bồi thường của
từng cá nhân có liên quan để loại bỏ những cá nhân có vi phạm, gây ra oan sai
cho công dân, làm trong sạch bộ máy tư pháp. Và quan trọng hơn, đó là việc
xây dựng một hệ thống tư pháp với những con người tạo nên hệ thống đó có
tính nhân văn, có lòng thương yêu con người, có trách nhiệm với con người
mà không phải là những cỗ máy tố tụng. Chỉ khi có lòng thương yêu con
người, có trách nhiệm với con người, những cá nhân trong hệ thống tư pháp
mới tận tụy với công việc một cách tự tâm và tự cố gắng nâng cao trình độ
nghiệp vụ để hạn chế những trường hợp oan sai với lỗi vô ý và không để xảy
ra những trường hợp oan sai với lỗi cố ý.
66
Với cách nhìn nhận vấn đề cũng từ góc độ như vậy, chính nguyên Chủ
tịch nước Trần Đức Lương tại Hội nghị triển khai công tác năm 2005 của
ngành kiểm sát nhân dân khai mạc ngày 10/1/2005, tại Hà Nội đã chỉ rõ:
Ngành kiểm sát cần tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời
phát hiện những yếu kém trong công tác kiểm sát để tìm biện pháp
khắc phục, đồng thời kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm
chất, đạo đức, lối sống để xây dựng ngành kiểm sát nhân dân trong
sạch vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan
tư pháp… Để xảy ra những trường hợp khởi tố, truy tố oan trước
hết thuộc về trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Chúng ta phải
nhìn nhận vấn đề này thật sâu sắc, phải hiểu với nỗi đau, nỗi khổ
của người bị oan... [41].
Đối với những cơ quan tiến hành tố tụng, việc coi BTTH cho người bị
oan vừa là trách nhiệm, vừa là việc thực hiện truyền thống, văn hóa đạo lý của
dân tộc là một bước phát triển mới trong cách nhìn nhận về vấn đề đảm bảo
quyền công dân được BTTH trong TTHS. Quan điểm của đồng chí Hà Mạnh
Trí - Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng VKSNDTC là hoàn toàn đúng
đắn khi cho rằng:
Các cơ quan tố tụng phải luôn tâm niệm là: thực hiện tốt
việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra không chỉ là thực hiện nghĩa
vụ, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, mà còn là truyền thống,
văn hóa đạo lý của dân tộc [33].
Đó cũng là quan điểm của chúng tôi khi cho rằng trách nhiệm BTTH
của các cơ quan tư pháp là một trong những nội dung đảm bảo quyền công
dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong TTHS và ngược lại, chính
việc BTTH cũng là một giải pháp nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý
và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
67
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA CÔNG DÂN ĐƯỢC BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
3.2.1. Các phương hướng hoàn thiện pháp luật
3.2.1.1. Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật
Sự ra đời của Nghị quyết số 388, Thông tư liên tịch số 01, các Thông
tư của mỗi ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Tài chính… đã tạo ra bước
thay đổi quan trọng đối với việc BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật
trong TTHS, là công cụ pháp lý hữu hiệu để các cơ quan có trách nhiệm tiến
hành BTTH cho công dân cũng như để công dân sử dụng công cụ pháp lý này
yêu cầu cơ quan có trách nhiệm đảm bảo quyền được BTTH của bản thân.
Tuy nhiên, tiếp cận trên quan điểm hệ thống, có thể nhận thấy pháp
luật Việt Nam hiện nay còn chưa có được một chế định về BTTH mang tính
toàn diện và hệ thống. Điều này không chỉ thể hiện ở việc văn bản pháp luật
có giá trị cao nhất điều chỉnh tương đối bao quát quan hệ này mới chỉ dừng lại
ở cấp độ Nghị quyết, điều này cũng không chỉ thể hiện ở việc bản thân Nghị
quyết số 388 cũng chưa điều chỉnh hết các quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước và công dân trong việc BTTH. Tính toàn diện và hệ thống cũng chưa
được thể hiện khi đặt Nghị quyết này trong mối quan hệ với các văn bản pháp
luật điều chỉnh vấn đề BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật trong các
lĩnh vực khác ngoài lĩnh vực TTHS như lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính… còn thiếu vắng sự hiện hữu của một văn bản pháp luật điều chỉnh
chung về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với công dân trên các lĩnh
vực. Nói một cách khái quát, chúng ta cần tiến tới xây dựng một đạo luật về
bồi thường nhà nước, định hình rõ nét trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
đối với công dân. Việc xây dựng văn bản luật này không chỉ có ý nghĩa đối
với việc đảm bảo quyền được BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật
của Nhà nước đối với công dân, mà còn có ý nghĩa đối với tiến trình xây dựng
68
một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, đối với việc
pháp điển hóa, hệ thống hóa pháp luật, có ý nghĩa quan trọng về chính trị và
ngoại giao trong giai đoạn hiện nay. Do đó, tiến tới xây dựng luật bồi thường
nhà nước là phương hướng cơ bản nhất, thể hiện rõ nét nhất xu thế hoàn thiện
pháp luật về bồi thường nhà nước ở nước ta trong thời gian tới.
Với đạo luật này, về phía công dân, công dân sẽ được bảo vệ triệt để hơn
và toàn diện hơn, không chỉ bó hẹp trong phạm vi quan hệ pháp luật TTHS. Mặt
khác, với sự điều chỉnh của một đạo luật chung như cách đặt vấn đề nêu trên, về
nguyên tắc, cơ chế bồi thường sẽ buộc phải có sự phối hợp và liên hoàn giữa các
khâu: tiếp nhận yêu cầu, thương lượng, giải quyết theo thủ tục kiện dân sự, thực
hiện việc bồi thường và công khai xin lỗi…, sự luật hóa trách nhiệm của các cơ
quan hữu quan, sự liên hoàn và phối hợp giữa các cơ quan tố tụng, cơ quan
hành chính, cơ quan tài chính, cơ quan thông tấn báo chí theo một quy trình
được luật định, sẽ khẳng định và cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 17
Hiến pháp 1992: "Mọi hành vi xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể và công dân phải được xử lý nghiêm minh. Người bị
thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự" [19].
Đối với việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân, đạo luật về bồi thường nhà nước sẽ là sự thể hiện tập trung và
sinh động trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân, dân sự hóa hình ảnh
của Nhà nước, thể hiện ở việc tuy Nhà nước là một chủ thể có quyền lực đặc
biệt đặc biệt nhưng quyền lực đó là do nhân dân giao cho Nhà nước, Nhà
nước hoạt động cho nhân dân và vì nhân dân và, nếu Nhà nước gây thiệt hại
cho công dân dù trên bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, cũng cần xem xét thực
hiện việc bồi thường cho nhân dân. Trong một Nhà nước pháp quyền, mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân được điều chỉnh chi tiết bằng luật với
quyền và nghĩa vụ của cả hai bên, do đó luật hóa trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước đối với công dân là việc làm không thể không thực hiện.
69
Đối với việc pháp điển hóa, hệ thống hóa pháp luật, sự ra đời của đạo
luật sẽ hình thành được một chế định trách nhiệm bồi thường nhà nước với
những nguyên tắc chung, thống nhất, rõ ràng về phạm vi trách nhiệm bồi thường,
cơ chế bồi thường, phù hợp với chính sách pháp luật, chính sách hình sự và
phù hợp điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - lịch sử đặc thù của
Việt Nam. Đồng thời, đạo luật này cũng sẽ khắc phục những chồng chép, bất
cập giữa pháp luật về BTTH trong TTHS với tố tụng hành chính, TTHS, pháp
luật về BTTH do cán bộ - công chức gây ra.
Trên phương diện chính trị và ngoại giao, việc ban hành luật bồi thường
nhà nước tiếp tục khẳng định bản chất dân chủ, sự tôn trọng quyền con người
của Nhà nước Cộng hòa XNCN Việt Nam, đáp ứng các yêu cầu hội nhập, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tăng cường quan hệ với một số
quốc gia có vị thế chiến lược trong hoạt động ngoại giao giai đoạn trước mắt
cũng như lâu dài.
Mặc dù hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa đặt ra khái niệm "bồi thường
nhà nước" tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập, trách nhiệm BTTH do cán bộ,
công chức gây ra hay trách nhiệm bồi thường do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng gây ra đã được ghi nhận trong BLDS 1995, và đây cũng
chính là trách nhiệm bồi thường nhà nước vì các cán bộ, công chức, người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng là những người được Nhà nước tuyển
dụng, bổ nhiệm vào các vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước, được giao
quyền lực để thực hiện những công việc nhất định thuộc chức năng, nhiệm vụ
của bộ máy nhà nước, chế độ công chức công vụ được hình thành để thực
hiện các lĩnh vực hoạt động khác nhau của bộ máy nàh nước qua các cơ quan
nhà nước. BTTH do hành vi trái pháp luật của những người này khi thi hành
công vụ về bản chất là trách nhiệm của Nhà nước, nguồn kinh phí được sử
dụng để bồi thường trước hết là lấy từ ngân sách nhà nước, cũng xuất phát từ
"túi" của Nhà nước.
70
Mặt khác, việc xây dựng một đạo luật về bồi thường nhà nước là hoàn
toàn phù hợp với Hiến pháp. Hiến pháp Việt Nam không quy định nguyên tắc
"miễn trừ quốc gia", cũng như không có quy định nào hạn chế về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước. Mục tiêu của đạo luật này cũng như những điều
khoản, nội dung của nó là phù hợp với các quy định về bản chất Nhà nước, về
chế định quyền công dân trong Hiến pháp.
Về mô hình của Luật bồi thường nhà nước, theo chúng tôi có thể thiết
kế thành các chương, phần như sau:
Chương I: Những quy định chung. Chương này nêu đối tượng điều
chỉnh, phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc về trách nhiệm bồi thường nhà
nước, cách tính bồi thường, tiêu chuẩn bồi thường, giải thích thuật ngữ.
Chương II, Chương III, Chương IV… các chương về sau mỗi chương
là một chế định bồi thường tương ứng với mỗi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước
gây ra thiệt hại cho công dân. Trong mỗi chương này lại phải có các phần quy
định về phạm vi bồi thường, người có quyền yêu cầu bồi thường và cơ quan
có trách nhiệm bồi thường, trình tự bồi thường đặc thù của từng lĩnh vực.
Chương tiếp theo quy định về trách nhiệm của các cơ quan liên quan
khác: cơ quan tài chính ngân sách, cơ quan chính quyền, tổ chức xã hội, báo chí.
Chương cuối cùng: điều khoản bổ sung, điều khoản thực hiện.
Mô hình luật bồi thường nhà nước như trên sẽ bao quát các đối tượng
điều chỉnh theo một lôgíc phù hợp, tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn
này, chúng tôi không thể tập trung làm rõ mô hình đạo luật luật bồi thường
nhà nước một cách sâu hơn, rộng hơn vì sẽ vượt ra khỏi ở cấp độ và phạm vi
nghiên cứu của đề tài.
3.2.1.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành
Việc ban hành Luật bồi thường nhà nước là việc làm quan trọng và cần
thiết. Tuy nhiên, để xây dựng được một đạo luật toàn diện, phù hợp, khả thi,
71
khắc phục được các hạn chế pháp lý trước đó, cần phải có một quá trình
nghiên cứu, thăm dò, thảo luận kỹ lưỡng, điều này đòi hỏi nhiều thời gian và
công sức, bởi vì, pháp điển hóa thành một đạo luật về bồi thường nhà nước
không có nghĩa là thực hiện một phép cộng số học các đối tượng điều chỉnh
của các văn bản có liên quan lại với nhau. Do đó, trong thời gian chuẩn bị để
ban hành được Luật bồi thường nhà nước, chúng ta vẫn phải tiếp tục sử dụng
và hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về BTTH cho công dân do
hành vi trái pháp luật trong TTHS. Trong phần dưới đây, xuất phát từ cách đặt
vấn đề như trên, luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật hiện hành.
Theo pháp luật về BTTH trong TTHS hiện nay, những công dân bị
thiệt hại do áp dụng sai pháp luật hiện vẫn chưa được xếp vào diện bồi thường
và theo chúng tôi, cần phải coi đây là trường hợp được Nhà nước BTTH cho
công dân do hành vi trái pháp luật của cơ quan nhà nước trong TTHS. Cũng
như khái niệm oan, việc xác định như thế nào là sai cũng không hề đơn giản
và còn quá nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, Luật bồi thường nhà nước sau
này cần tính đến các trường hợp sai cũng phải được BTTH, có như vậy mới
đảm bảo quyền công dân được BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật
trong TTHS. Một công dân phạm tội ít nghiêm trọng, bị điều tra truy tố, xét
xử về tội nghiêm trọng, thậm chí rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, hậu quả là họ đáng lẽ chỉ phải chịu mức án 36 tháng tù nhưng thực tế
lại phải chịu hình phạt 15-20 năm tù. Trong trường hợp này, các cơ quan tiến
hành tố tụng sử dụng thuật ngữ "xét xử sai" nhưng với công dân, sẽ không thể
tự nói với chính bản thân họ, với gia đình họ và cộng đồng là "đi tù sai". Nếu
Nhà nước chỉ bồi thường cho những trường hợp hoàn toàn không thực hiện
hành vi phạm tội nhưng bị xác định là đã thực hiện hành vi phạm tội mà
không bồi thường cho những trường hợp không thực hiện hành vi phạm tội
như đã xác định là Nhà nước đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
72
mình. (Trên thực tế, những trường hợp sai như vậy là quá nhiều và không thể
có một con số thống kê chính xác. Bởi vì, cũng giống như công tác thống kê
tội phạm, không thể tuyệt đối chính xác vì luôn luôn có hiện tượng "tội phạm
ẩn", việc xác định có bao nhiêu trường hợp sai bằng cách tính tổng số vụ án
phúc thẩm phải sửa phần hình sự, phải giám đốc thẩm, tái thẩm thì cũng không
thể chính xác vì luôn có những sai số nằm trong các bản án sơ thẩm sai mà
không có kháng cáo kháng nghị và các nguyên nhân khách quan, chủ quan khác).
Ở đây, chưa có tiếng nói chung giữa Nhà nước và công dân. Bởi vì, Nhà nước
đánh giá các trường hợp bồi thường hoặc không được bồi thường qua tính
chất của hành vi trái pháp luật trong TTHS: đó là hành vi biến không có tội
thành có tội là oan, là nghiêm trọng hơn, là cần phải bồi thường, hành vi biến
tội nặng thành tội nhẹ là sai, là ít nghiêm trọng hơn, là không cần phải bồi
thường. Tuy nhiên, đối với công dân, việc biến họ từ không tội thành có tội,
tội nhẹ thành tội nặng đều rất quan trọng, nhưng nhiều khi không tội thành có
tội chưa hoàn toàn gây ra những hậu quả nặng nề bằng việc biến tội nhẹ thành
tội nặng. Ví dụ: một công dân trộm cắp tài sản 300.000 đồng nhưng chưa bị
xử phạt hành chính, do đó, theo Điều 138 BLHS không cấu thành tội phạm
nhưng thực tế vẫn bị xử theo khoản 1 Điều 138 và bị áp dụng mức án 15 tháng
tù giam và được bồi thường; trong khi đó, có người phạm tội Giết người do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với mức cao nhất của khung hình phạt
theo Điều 96 BLHS chỉ đến 2 năm tù nhưng thực tế công dân đó đã bị áp
dụng khoản 1 Điều 93 BLHS và bị xử phạt 15 năm tù nhưng lại không được
bồi thường. Dẫu rằng, chúng ta có thể viện lý do nếu việc sai cũng được bồi
thường thì nhiều không xuể, rằng không đủ ngân sách để chi trả bồi thường,
rằng sẽ không đủ nhân lực để tham gia giải quyết bồi thường, rằng không có
tiêu chí chuẩn xác đánh giá như thế nào là sai, rằng sẽ phá vỡ trật tự tố tụng
hiện hành, rằng sẽ tạo ra tâm lý ức chế, sợ sệt, không dám làm, không dám
quyết vì sợ "dây vào" vụ án…
73
Tuy nhiên, dù với bất cứ lý do nào, việc không thừa nhận trách nhiệm
bồi thường cho công dân trong trường hợp "sai" là không đảm bảo quyền và
lợi ích chính đáng cho công dân, vì vậy, cần coi việc mở rộng trường hợp bồi
thường này là một trong những phương hướng quan trọng trong quá trình
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước.
Về các trường hợp được và không được BTTH, hiện nay, các văn bản
pháp luật hiện hành vẫn sử dụng một thuật ngữ khá chung chung "người đó
không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật", "người đó không thực hiện hành
vi phạm tội" để xác đối tượng được hoặc không được bồi thường. Tuy nhiên,
như chúng tôi đã phân tích, khái niệm này chưa bao quát hết các trường hợp
được hoặc không được bồi thường, chưa hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật lập pháp.
Do vậy, nên quy định cho rõ nội dung của điểm a, khoản 1, Điều 1, Mục 1
Nghị quyết số 388: Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động TTHS hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không
thực hiện hành vi vi phạm bất kỳ quy định nào của pháp luật. Cũng như vậy
đối với việc sử dụng thuật ngữ "người đó không thực hiện hành vi phạm tội",
theo chúng tôi, điểm b, khoản 1, Điều 1, Mục 1 Nghị quyết số 388 nên quy
định cho rõ: Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động TTHS hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó không bị coi
là tội phạm.
Mặt khác, liên quan đến tên gọi của Nghị quyết số 388, Nghị quyết có
tên gọi là "Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra", vậy nhưng trong toàn bộ nghị quyết,
không có một sự giải thích "oan" là như thế nào. Đây là một trong những kỹ
thuật lập pháp khi "tránh né" định nghĩa như thế nào là oan, bởi vì "oan" là
khái niệm phức tạp, gây nhiều tranh cãi hiện nay, pháp luật nhiều quốc gia
cũng né tránh các quy phạm định nghĩa như thế nào "oan". Tuy nhiên, nếu đã
"tránh né" thì cũng nên "tránh né" ngay từ tên gọi của văn bản pháp luật, theo
74
chúng tôi, tên gọi của nghị quyết cũng nên điều chỉnh lại cho phù hợp: Bồi
thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra.
Về xác định thiệt hại và mức BTTH về tinh thần, theo chúng tôi cần
sử dụng cách tính mức BTTH trên cơ sở thu nhập bình quân đầu người hoặc
mức sống trung bình ở địa phương, hoặc mức trung bình của thang bảng
lương chứ không nên căn cứ vào mức lương tối thiểu. Không một ai muốn bị
tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, truy tố, xét xử oan để được bồi thường. Do đó,
việc dựa trên mức lương tối thiểu để đền bù cho công dân chỉ có lợi cho ngân
sách nhà nước mà không có lợi cho công dân, gây ra thiệt thòi cho công dân.
Mặt khác, những tổn thất to lớn về tinh thần không thể đo đếm như việc cha
mẹ người bị oan đau ốm, qua đời do lo lắng cho con cái, con cái người bị oan
hư hỏng hoặc bị tác động tâm lý vì việc của cha mẹ… tuy không thể được
trực tiếp tính đến trong việc xác định mức BTTH về tinh thần theo cách tính
mà chúng tôi đề cập ở trên nhưng cũng là yếu tố cần cân nhắc khi lựa chọn
căn cứ tính mức bồi thường về tinh thần cho công dân bị oan.
Những chi phí hợp lý mà gia đình người bị oan đã bỏ ra như thuê luật
sư, thăm nuôi, tiếp tế, các khoản thu nhập thực tế bị giảm sút do sau khi được
trở về xã hội, công dân chưa thể tái hòa nhập ngay với cộng đồng, không có
các hóa đơn chứng từ chứng minh, cũng cần được gộp vào các thiệt hại vật
chất để bồi thường cho người bị oan. Ngoài ra, theo chúng tôi, sự bất hợp lý
của phần a, điểm 2.5 mục 2 phần 2 Thông tư liên tịch số 01: "Người bị oan
chưa có việc làm hoặc tháng làm việc, có tháng không và do đó hằng tháng
không có thu nhập ổn định thì không được bồi thường theo quy định này tại
Điều 9 của Nghị quyết số 388", kéo theo nó là hệ quả một số các cơ quan tư
pháp địa phương nhận thức rằng trường hợp bị oan tuy có thiệt hại do thu
nhập thực tế bị mất nhưng vì "không có thu nhập ổn định" nên không được
bồi thường theo Nghị quyết số 388 - cần phải xóa bỏ và thay vào đó là một
quy định theo hướng ngược lại và tính theo mức lương tối thiểu đối với thời
75
gian họ bị cách ly khỏi xã hội (do bị tạm giữ, tạm giam hoặc chấp hành án
phạt tù oan).
Về cơ chế bồi thường, việc quy định Tòa án nhân dân hiện nay là cơ
quan xét xử vụ kiện dân sự về BTTH đã kéo theo những bất cập như đã được
đề cập trong chương 2. Theo mô hình của pháp luật một số quốc gia trên thế
giới, cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường trong trường hợp này là
Hội đồng bồi thường ở Tòa án trung cấp trở lên theo pháp luật Trung Hoa, là
Ủy ban pháp luật theo pháp luật Thụy Điển… Theo chúng tôi, mô hình tài
phán nào cũng có những điểm tích cực và hạn chế của nó. Nếu xây dựng một
mô hình tài phán độc lập với hệ thống cơ quan Tòa án hiện nay để xét xử để
xét xử những vụ kiện kiểu này có thể sẽ đem lại tính độc lập và khách quan
hơn trong việc xét xử, tuy nhiên, điều này cũng kéo theo những hệ lụy khi
xuất hiện những mâu thuẫn với quy định về tổ chức Tòa án trong Hiến pháp
và luật tổ chức các cơ quan nhà nước. Trong khi đó, mẫu số chung đối với bất
kỳ mô hình tài phán nào thực hiện chức năng giải quyết loại bồi thường này
cũng cần thiết phải là một cơ quan hoạt động khách quan, công bằng. Do đó,
theo chúng tôi, việc xét xử vẫn có thể theo cơ chế hiện nay với trách nhiệm
giải quyết các vụ kiện dân sự về BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật
trong TTHS vẫn thuộc về Tòa án, tuy nhiên, cần có sự tham gia giám sát chặt
chẽ hơn của nhân dân đối với quá trình xét xử, diễn biến và kết quả phiên tòa
cần được thông báo tới các cơ quan đại diện của nhân dân.
Một số quốc gia đã đưa ra mô hình bồi thường với 4 loại chủ thể lần
lượt tham gia vào quá trình này: công dân bị oan sai - cơ quan chuyên được
giao thực hiện tất cả các hoạt động bồi thường - cơ quan gây ra oan sai -
người có thẩm quyền gây ra oan sai. Theo đó, cơ quan chuyên được giao thực
hiện tất cả các hoạt động bồi thường sẽ đứng ra bồi thường cho công dân và là
bị đơn nếu công dân khởi kiện. Theo quan điểm của một số người, mô hình
này còn khắc phục được việc để các cơ quan tiến hành tố tụng phải trực tiếp
76
đứng ra bồi thường, xin lỗi. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cơ chế cơ quan nào
làm sai phải chịu trách nhiệm, phải đứng ra bồi thường, phải công khai xin lỗi
ở Việt Nam hiện nay là hợp lý. Vấn đề là chúng ta phải tiếp tục tạo ra sự hiệu
quả hơn cho cơ chế này chứ không phải là thay thế nó bằng một cơ chế khác.
Bởi chỉ với việc phải trực tiếp đứng ra nhận trách nhiệm, các cơ quan này mới
nhận thức được đầy đủ những hậu quả nghiệm trọng của hành vi trái pháp luật
đã thực hiện đối với công dân, từ đó, mới ý thức được sự cẩn trọng, liêm khiết
và trình độ chuyên môn của mình để không tạo ra oan sai, coi đây là bài học
trong quá trình hành nghề tiếp theo.
Đối với Luật trợ giúp pháp lý, chúng tôi cho rằng, cần bổ sung diện
đối tượng được hưởng trợ giúp pháp luật miễn phí theo hướng mở rộng diện
đối tượng được trợ giúp đối với những người bị oan trong TTHS. Bởi vì,
những người bị oan thường không mấy dư dả về kinh tế, thậm chí khánh kiệt
sau quãng thời gian thi hành án, bản thân gia đình họ lại mất nhiều công sức
và tiền bạc cho việc kiện tụng kéo dài. Mặt khác, bản thân những người bị oan
cũng cần phải được coi là đối tượng cần được hưởng chính sách trợ giúp pháp
lý bởi Nhà nước đã "có lỗi" đối với họ, họ cũng là một loại "nạn nhân" đặc
biệt, một dạng "người bị hại" của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Sự
tham gia của tổ chức trợ giúp pháp lý sẽ giúp cho việc giải quyết khách quan
và công bằng hơn.
3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng
Có thể nói, quá trình giải quyết BTTH là quá trình phản ánh cái "tâm"
của Nhà nước đối với công dân. Công dân là người bị oan do hành vi trái
pháp luật của Nhà nước và công dân có quyền đòi Nhà nước BTTH, nhưng
Nhà nước phải tự giác, tự nguyện thực hiện việc bồi thường ngay cả khi công
dân chưa yêu cầu bồi thường và sự tự nguyện này phải được tiếp tục trong
suốt quá trình này. Nếu các cơ quan thay mặt Nhà nước để giải quyết việc
77
BTTH cho công dân không có được sự tự nguyện, không dám chịu trách
nhiệm, không dám nhận lỗi và lảng tránh, trì hoãn trách nhiệm bồi thường của
mình thì không chỉ công dân lại thêm một lần bị thiệt thòi, mà danh dự của
chính các cơ quan đó cũng bị ảnh hưởng khi trên danh nghĩa là cơ quan bảo
vệ pháp luật nhưng lại làm trái pháp luật gây thiệt hại cho công dân và lại sử
dụng chính pháp luật để thoái thác trách nhiệm.
Phân hóa trách nhiệm của các chủ thể gây thiệt hại cho công dân là
giải pháp quan trọng để ngăn ngừa các vi phạm có thể xảy ra và đảm bảo giải
quyết thiệt hại cho công dân do các vi phạm đã xảy ra. Tránh tình trạng "khi
xác định được một người bị oan thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là cơ quan xử lý sau cùng, không phụ thuộc cơ quan tiến hành tố tụng có
xử lý oan một phần" (điểm 2 mục 2 phần III Thông tư 01), bởi vì, quy định
này tuy để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết bồi thường cho công
dân nhưng sẽ không xác định đúng cơ quan có trách nhiệm bồi thường do có
lỗi lớn hơn trong việc gây ra "oan", không công bằng với cơ quan xử lý sau
cùng, không thỏa đáng đối với công dân khi nguyện vọng của người dân
muốn cơ quan đã trực tiếp gây ra oan ức cho họ phải xin lỗi và bồi thường,
không triệt để trong việc xác định trách nhiệm bồi hoàn sau này… Do đó, vấn
đề ở đây là phải có cơ chế nhanh chóng, chính xác xác định đúng cơ quan có
lỗi phần lớn trong việc gây ra oan sai là cơ quan chịu trách nhiệm trước hết
trong việc xin lỗi, bồi thường cho công dân chứ không phải là buộc ngay cơ
quan xử lý sau cùng thực hiện trách nhiệm này, tạo ra một tiền lệ cơ quan "ăn
ốc" và cơ quan "đổ vỏ" như hiện nay.
Phân hóa trách nhiệm hơn nữa, trách nhiệm cá nhân là bài giải quan
trọng để buộc người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm với chính công
việc của mình, hạn chế khả năng cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại cho công dân. Nếu tình trạng trên làm dưới chịu, "quýt làm,
cam chịu", không ai muốn nhận trách nhiệm về mình hoặc đỗ lỗi cho tập thể,
78
hoặc việc không phải bồi hoàn, trách nhiệm cá nhân chỉ dừng lại ở mức độ
phê bình nhắc nhở, kiểm điểm qua loa thì người trực tiếp gây ra oan sai sẽ
không phải chịu trách nhiệm tương xứng với hậu quả đã gây ra, quyền lợi của
công dân khó có thể được đảm bảo. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần phải quy
định chi tiết hơn trách nhiệm bồi hoàn, quy định rõ hơn trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm hình sự của người đã trực tiếp gây ra oan sai. Thậm chí,
chính những người này phải trực tiếp công khai xin lỗi công dân tại buổi xin
lỗi tổ chức công khai tại địa phương nơi cư trú của người bị oan sai. Có như
vậy, mới làm gương cho những người tiến hành tố tụng khác, làm giảm bớt
nỗi đau của người bị oan.
Theo quan điểm phòng hơn là chống, đảm bảo bảo quyền của công
dân được BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật trong TTHS, trước hết,
phải hạn chế các nguy cơ xảy ra oan sai. Oan sai xảy ra do các nguyên nhân
khách quan như tính chất phức tạp của vụ án, do các phương tiện kỹ thuật
hình sự lạc hậu dẫn đến việc chứng minh sai, mặt khác, còn do nhiều nguyên
nhân chủ quan xuất phát từ trình độ nghiệp vụ non kém của những người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, do sự thiếu trách nhiệm, qua loa đại khái, do
thoái hóa đạo đức, nhận hối lộ từ người tham gia tố tụng, do bệnh thành tích,
nể vì cấp trên hoặc vì các động cơ cá nhân mang tính tiêu cực khác. Vì thế,
việc tạo cho họ một kiến thức, bản lĩnh chuyên môn vững vàng, môi trường
làm việc độc lập, ý thức pháp luật ở trình độ cao trên cơ sở nền tảng văn hóa
pháp lý là điều hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, việc tạo ra cơ chế giám sát, kiểm sát giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng là điều đặc biệt cần thiết nhằm ngăn chặn từ xa các nguy cơ
dẫn đến oan sai, nhằm nhanh chóng phát hiện và có hình thức xử lý từ sớm,
tránh cho việc hành vi vi phạm sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng hơn nếu phát
hiện và xử lý quá muộn. Cơ chế giám sát này cũng phải được thực thi để hạn
chế tình trạng nể nang, bao che, thiên vị giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
79
với nhau, giữa người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp
tham gia vụ án. Vấn đề giám sát còn cần phải đặt ra trong trường hợp phải
giải quyết vấn đề bồi thường bằng thủ tục tố tụng dân sự. Bởi vì, dù như
chúng tôi đã đề cập tới việc thành lập một Hội đồng hay một cơ quan, một
thiết chế nào đó để xét xử, vẫn cần có sự giám sát đối với thiết chế này để
đảm bảo phán quyết được đưa ra một cách công bằng, đúng pháp luật. Yếu tố
bình đẳng và cơ chế tự giám sát trong kiểu tố tụng tranh tụng, quan điểm "bỏ
sót còn hơn bắt nhầm" cũng cần được nghiên cứu áp dụng những khía cạnh
hợp lý trong bối cảnh nước ta hiện nay.
Mặt khác, tuy nâng cao trình độ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề
nghiệp, siết chặt kỷ luật đội ngũ những người tiến hành tố tụng là những biện
pháp loại trừ oan sai đặc biệt hữu hiệu nhưng bên cạnh việc yêu cầu những
người tiến hành tố tụng phải nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm và chất
lượng chuyên môn, còn cần phải chú ý tới việc nâng cao thu nhập, đưa đời
sống của những người tiến hành tố tụng được tốt hơn lên, tiến tới một điều
kiện toàn diện: "Không thể tham nhũng, không phải tham nhũng và không
muốn tham nhũng". Có như vậy, mới giải quyết được tận gốc vấn đề từ phía
những người tiến hành tố tụng.
3.2.3. Nâng cao vai trò của các cơ quan, tổ chức khác và cộng đồng
xã hội
Như đã phân tích, sự tham gia của các cơ quan tài chính, hành chính,
cơ quan đại diện, báo chí, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên… cũng
như cộng đồng xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo quyền
được BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật trong TTHS. Cơ quan tài
chính (các Sở, Phòng Tài chính, Chi nhánh Kho bạc Nhà nước) là những cơ
quan chịu trách nhiệm về việc quản lý và giải ngân các khoản BTTH từ ngân
sách nhà nước cho đối tượng được bồi thường. Do vậy, năng lực đáp ứng các
80
yêu cầu về hoạt động quản lý, chi trả bồi thường của các cơ quan này có vị trí
không nhỏ trong việc bồi thường các thiệt hại vật chất, tinh thần cho công
dân. Sự phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm bồi thường với cơ quan tài
chính sẽ tạo ra cơ chế bồi thường thông suốt, tránh các bức xúc từ phía công
dân về tiến độ và mức độ bồi thường.
Các cơ quan hành chính, cơ quan đại diện, mặt trận ở địa phương là
các thành tố quan trọng của hệ thống chính trị cơ sở. Thực tế cho thấy, nếu
không có sự tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền địa phương trong việc tổ
chức các hoạt động công khai xin lỗi, các hoạt động giúp đỡ người bị oan tái
hòa nhập cộng đồng thì những quyền lợi chính đáng của người bị oan sẽ
không thể được khôi phục lại dù chỉ ở mức độ tương đối. Các cơ quan đại
diện và các tổ chức thành viên của mặt trận phải thực sự đóng vai trò giám sát
hoạt động tố tụng qua chế định Hội thẩm nhân dân, qua các cuộc họp sinh
hoạt Đảng bộ địa phương và coi đây là một trách nhiệm chính trị, một nhiệm
vụ về công tác Đảng, tránh tình trạng coi việc bồi thường, xin lỗi người bị oan
là của riêng các cơ quan tiến hành tố tụng theo kiểu ai làm người đấy chịu,
không liên quan đến địa phương. Trong xu thế "xã hội dân sự" hiện nay, các
tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp… lại càng phải đóng vai trò
quan trọng trong việc giám sát xã hội, "giúp" Nhà nước thực hiện các chức
năng xã hội của mình, trong đó có việc tham gia tích cực vào quá trình giải
quyết BTTH cho công dân trong hoạt động TTHS. Sự giám sát của các cơ
quan, tổ chức ở địa phương sẽ góp phần đảm bảo việc giải quyết bồi thường
được trọn vẹn, khách quan, công bằng. Đồng thời, đối với công dân bị oan, điều
này cũng có ý nghĩa đặc biệt lớn về tinh thần, sự tham gia của các cơ quan, tổ
chức chính quyền địa phương giúp họ nhận thấy trách nhiệm của xã hội đối với
trường hợp bản thân, cộng đồng và chính quyền không bỏ rơi họ. Đối với các cơ
quan, tổ chức chính quyền địa phương, việc tham gia vào quá trình bồi thường
cũng cần được coi vừa là trách nhiệm chuyên môn, vừa là đạo lý với công dân
81
trên địa bàn mình. Đặc biệt, các tổ chức trợ giúp pháp lý, cán bộ tư pháp của
chính quyền địa phương phải tích cực hỗ trợ pháp lý đối với người bị oan
trong việc đòi BTTH. Đối với các cơ quan báo chí, việc đăng bài, đưa tin, tư vấn
pháp luật qua báo chí, tiếp nhận và chuyển các đơn yêu cầu bồi thường của công
dân đến các cơ quan chức năng có vai trò đặc biệt quan trọng. Vị trí "quyền lực
thứ tư" mà báo chí có được - vị trí định hướng dư luận, định hướng quan điểm
của cộng đồng xã hội giúp cho việc giải quyết bồi thường được nhanh chóng,
chính xác bởi sự giám sát vô hình của báo chí, cộng đồng xã hội đối với hoạt
động bồi thường tạo ra áp lực buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải thừa
nhận trách nhiệm và thực hiện việc bồi thường, là kênh thông tin để những
người đứng đầu cao nhất của hệ thống tư pháp biết và yêu cầu cấp dưới xem
xét, giải quyết việc bồi thường cho công dân. Việc đăng tin về bồi thường cũng
giúp xã hội nhìn nhận lại bản chất hành vi mà người bị oan đã bị cáo buộc là
tội phạm, nhận biết và sẻ chia, cảm thông với số phận người bị oan, thể hiện
sự đồng thuận của xã hội đối với những oan ức mà họ đã phải gánh chịu.
Do đó, việc phối hợp và nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức, chính quyền, đoàn thể, cộng đồng xã hội là một trong những giải
pháp rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền được BTTH cho công dân do
hành vi trái pháp luật trong TTHS.
3.2.4, Nâng cao ý thức pháp luật cho công dân
Ý thức pháp luật của cá nhân người được bồi thường trong TTHS có ý
nghĩa quan trọng giúp bản thân họ đảm bảo quyền được bồi thường của chính
mình. Trước hết, nếu công dân có hiểu biết nhất định về pháp luật, họ sẽ biết
được bản thân mình có quyền yêu cầu BTTH, quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước thực hiện trách nhiệm BTTH đối với bản thân, và đã có sự thay đổi về
địa vị khi bản thân họ đã có quyền bình đẳng, có vị thế ngang hàng với cơ
quan đã khởi tố điều tra truy tố xét xử họ trước đây, quyền được BTTH không
82
phải là sự ban phát, là vinh dự mà họ được hưởng. Ý thức pháp luật cũng giúp
cho công dân có thiện chí và cảm thông đối với các cơ quan tiến hành tố tụng,
không đưa ra các đòi hỏi phi lý hoặc lợi dụng quyền được bồi thường để thực
hiện các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc bản chất nhà nước. Mặt khác, ý
thức pháp luật cũng giúp cho công dân vượt qua được những mặc cảm, thành
kiến để tái hòa nhập cộng đồng.
Do đó, nâng cao ý thức pháp luật cho công dân cũng cần được coi là
một trong những phương hướng đảm bảo quyền công dân được BTTH cho
công dân do hành vi trái pháp luật trong TTHS. Những giải pháp để nâng cao
ý thức pháp luật cho công dân trong trường hợp này thể hiện ở nhóm biện
pháp mang tính "gốc" và cả tính "ngọn". Nhóm biện pháp mang tính "gốc" thể
hiện ở việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức
pháp luật ở cơ sở, tại các cộng đồng dân cư, trường học, đặc biệt là các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến pháp luật hướng tới các đối tượng có trình độ văn
hóa thấp, ở vùng sâu vùng xa. Mặt khác, cần coi quyền được BTTH do oan
sai là một trong những quyền của bị can, bị cáo và bị can, bị cáo phải được
phổ biến quyền này trong các thời điểm tố tụng quan trọng được quy định
trong BLTTHS hiện nay: khi bị tiến hành hỏi cung lần đầu tiên, khi khai mạc
phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự. Đây là nhóm biện pháp mang
tính "ngọn" phổ biến pháp luật khi công dân đã tham gia vào vụ án với tư
cách là những người bị tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên,
nhóm biện pháp này vừa giúp cho bị can, bị cáo - những công dân vẫn chưa bị
coi là tội phạm được biết về quyền này của mình, vừa giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng nhận thức được trách nhiệm và hậu quả hành vi trái pháp luật do
cố ý hoặc vô ý trong quá trình giải quyết vụ án.
3.2.5. Xây dựng quỹ bồi thường nhà nước
Đồng thời với việc xây dựng dự án luật bồi thường nhà nước, chúng ta
cần có đề án về xây dựng quỹ BTTH để chủ động về nguồn kinh phí cho các
83
hoạt động bồi thường nhằm đảo bảo thống nhất đầu mối về chi phí bồi thường
và hoạt động bồi hoàn, chủ động cho việc chi trả các khoản bồi thường cho
công dân bị oan do hành vi trái pháp luật trong TTHS.
Cơ chế tài chính hiện nay với việc lập dự toán của các Bộ Công an,
VKSNDTC, TANDTC dựa trên căn cứ thực tế BTTH cho người bị oan trong
hoạt động TTHS gây ra năm trước, phương thức này lại lặp lại ở các địa
phương với việc công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân
tỉnh sau khi căn cứ vào thực tế BTTH cho người bị oan trong hoạt động
TTHS gây ra năm trước ở địa phương rồi báo cáo lên cấp trên. Dự toán này
được duyệt căn cứ từng khoản chi bồi thường cho người bị oan. Đây là một
quy định chặt chẽ đối với hoạt động quản lý ngân sách nhưng lại dẫn đến những
trường hợp phức tạp khi tính chất, mức độ bồi thường, số lượng các trường
hợp bồi thường năm nay không thể giống so với năm trước và không thể lấy
lý do nguồn kinh phí bồi thường chỉ trong phạm vi ngân sách dự toán nên
không thể bồi thường nhiều hơn hay bồi thường cho những trường hợp thụ lý
trước đã hết kinh phí nên trường hợp còn lại phải đến năm tài chính sau…
Do đó, rất cần có một quỹ bồi thường nhà nước để giải ngân kịp thời
và chủ động đối với việc giải quyết BTTH cho công dân do hành vi trái pháp
luật trong TTHS, coi đây là một trong những phương hướng đảo bảo quyền
BTTH cho công dân do hành vi trái pháp luật trong TTHS.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Vấn đề đảm bảo quyền được BTTH cho công dân do hành vi trái pháp
luật trong TTHS mới được đặt ra trong những năm gần đây, tuy nhiên, Đảng
và Nhà nước ta đã xác định đây là một công việc mang tính cấp bách và gắn
với trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Triển khai quan
điểm mang tính chỉ đạo này, các giải pháp về xây dựng pháp luật phải được
đặt ra và trở thành mối quan tâm hàng đầu. Theo quan điểm của tác giả luận
84
văn, trong các giải pháp về pháp luật, tiến tới xây dựng một đạo luật về trách
nhiệm bồi thường nhà nước cần được coi là một phương hướng hoàn thiện
pháp luật mang tính then chốt. Tuy nhiên, trước khi có được một đạo luật như
vậy, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành, tác giả luận
văn đã đưa ra các kiến nghị cụ thể để khắc phục các hạn chế của Nghị quyết
số 388 và các văn bản có liên quan.
Tiếp tục mạch lôgíc của chương 2, trong chương 3, luận văn đã đề
xuất để nâng cao trách nhiệm và hiệu quả giải quyết bồi thường từ phía các cơ
quan tiến hành tố tụng, các cơ quan hữu quan và từ phía bản thân công dân.
Đặc biệt, tác giả luận văn cho rằng, quyền của công dân được BTTH do hành
vi trái pháp luật trong TTHS phải được đảm bảo với các giải pháp từ gốc rễ
chứ không phải từ ngọn, đó chính là các giải pháp ngăn chặn oan sai trong
TTHS, với cách đặt vấn đề như vậy, những giải pháp này cũng được phân tích
ở một mức độ đáng kể trong chương 3 của luận văn.
85
KẾT LUẬN
Bắt nguồn từ tâm lý "ngại pháp luật" và "sợ pháp luật" sâu xa trong lịch
sử, người dân Việt Nam thích ứng xử theo quan hệ tình cảm và thói quen, không
coi trọng vai trò của Nhà nước và pháp luật - "phép vua thua lệ làng", "một bồ
cái lý không bằng một tý cái tình". Tuy nhiên, khi những điều kiện kinh tế - xã
hội của một cộng đồng nông nghiệp khép kín không còn nữa, vai trò của Nhà
nước và pháp luật ngày càng quan trọng, Nhà nước can thiệp sâu vào các quan
hệ xã hội của người dân và quan hệ giữa người dân - công dân với Nhà nước
cũng ngày càng có vị trí đáng kể trong đời sống của công dân. Trong bối cảnh
đó, Nhà nước vẫn tiếp tục sử dụng những chế tài nghiêm khắc nhất - trách nhiệm
hình sự - với tính cách là một trong những công cụ pháp lý để quản lý công dân
và nguy cơ công dân bị oan, sai bởi các hành vi trái pháp luật của những người
đại diện cho nhà nước trong lĩnh vực này cũng vẫn còn hiện hữu. Tuy nhiên, đã
có sự thay đổi quan trọng về bản chất của Nhà nước, về trách nhiệm của Nhà
nước đối với công dân. Nhà nước phải BTTH cho công dân do hành vi trái pháp
luật của những người đại diện cho Nhà nước trong TTHS, cũng như tạo ra các
điều kiện cần thiết khác để đảm bảo cho công dân thực hiện quyền được BTTH.
Quyền công dân và quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp
luật trong TTHS là gì, để đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi
trái pháp luật trong TTHS cần đặt ra những điều kiện (nội dung) gì? những điều
kiện đó đã được thực hiện và sẽ phải thực hiện như thế nào trong bối cảnh đặc thù
của xã hội Việt Nam? Với hy vọng sẽ trả lời được phần nào những câu hỏi mang
tính cấp thiết nhưng không dễ trả lời như vậy, gần 100 trang của luận văn đã phân
tích và kiến giải các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến việc
đảm bảo quyền của công dân được BTTH do hành vi trái pháp luật trong TTHS,
đưa ra những giải pháp nhằm góp phần bảo vệ triệt để hơn quyền lợi chính đáng
của những công dân bị oan, nhằm xây dựng một nền tố tụng dân chủ hơn, một xã
hội yêu thương con người hơn - một xã hội mà theo cách nói của Nguyễn Trãi -
"khắp nơi hang cùng ngõ hẻm, không đâu còn tiếng nỉ non, hờn giận, oán sầu".
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mai Anh (2004), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
2. Hoàng Thế Anh (2005), "Qua hai năm thực hiện Nghị quyết 388 trong
ngành Kiểm sát nhân dân", Kiểm sát, (16).
3. Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo số 102/BCS-
TANDTC ngày 4/7 về việc triển khai, quán triệt Nghị quyết 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị và kết quả 6 tháng đầu năm thực hiện chương trình
trọng tâm công tác tư pháp năm 2006 của ngành Tòa án nhân dân,
Hà Nội.
4. Ban Cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Báo cáo số
03/BCS-VKSNDTC ngày 5/7 kết quả thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị trong ngành Kiểm sát nhân dân 6 tháng đầu năm 2006,
Hà Nội.
5. Bộ luật dân sự 1995, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
6. Bộ luật dân sự 2004, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
7. Bộ luật hình sự 1999, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
8. Bộ luật tố tụng hình sự 1988, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn
9. Bộ luật tố tụng hình sự 2003, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
10. Bộ Tài chính (1988), Thông tư số 38/TT-BTC ngày 04/06 hướng dẫn về
việc lập dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước cho bồi thường
thiệt hại, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
11. Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Hà (2003), "Oan và sai trong tố tụng hình sự",
Nghiên cứu lập pháp, (2).
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Hà Nội.
87
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2/6 của
Bộ Chính trị về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2020, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp tới năm 2020, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Động (1997), Hoàn thiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa
Nhà nước và công dân trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Động (1997), "Nguyên tắc toàn quyền của công dân trong
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân dưới chủ nghĩa xã hội",
Luật học, (1).
17. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định về xã hội của công dân ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
18. Hoàng Văn Hảo - Chu Hồng Thanh (chủ biên) (1997), Một số vấn đề về
quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi
năm 2002), cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
20. Ngô Văn Hiệp (2005), "Chế định bồi thường thiệt hại cho người bị oan, lý
luận và thực tiễn", Dân chủ và pháp luật, (4/157).
21. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số
01/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cơ sở dữ liệu luật, website:
Luatvietnam.com.vn.
22. Lê Trọng Hùng (2006), "Bồi thường vụ án oan lớn nhất ở Thái Bình: Tòa,
Viện, đùn đẩy trách nhiệm", Báo Pháp luật Việt Nam, ngày 16/1.
23. Trần Trọng Hựu (chủ biên) (1994), Chính sách xã hội - những vấn đề
pháp lý, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
88
24. Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
25. Hạnh Lê (2006), "Người bị oan trong hình sự: Được bồi thường rộng rãi
hơn?", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12/5.
26. Đỗ Đình Lương, Hà Tú Cầu (2001), "Bàn về khái niệm oan sai và căn cứ
pháp lý xác định oan sai trong tố tụng hình sự", Nghiên cứu lập
pháp, (7).
27. Dương Thanh Mai, Nguyễn Hoàng Hạnh, (2001), "Bồi thường thiệt hại
đối với oan sai trong tố tụng", Nghiên cứu lập pháp, (6).
28. Trọng Mạnh, Phi Anh (2006), "Giam oan, không được bồi thường", Báo
Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4/6.
29. Nghị định số 47/NĐ-CP, ngày 3/5/1997, về việc giải quyết bồi thường thiệt
hại do công chức, viên chức, người có thẩm quyền của các cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra, cơ sở dữ liệu luật, website: Luatvietnam.com.vn.
30. Nguyễn Viết Sách (2005), "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc
Công an nhân dân", Kiểm sát, (16).
31. Chu Đình Thắng (2005), "Về kinh phí và phương thức chi trả bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự", Kiếm sát, (16).
32. Hoàng Ngọc Thành (2005), "Về trách nhiệm của Tòa án đối với việc bồi
thường thiệt hại cho người bị oan", Kiểm sát, (16).
33. Hà Mạnh Trí (2003), Bài kết luận Hội nghị ngành Kiểm sát nhân dân từ
ngày 14 đến ngày 16/07.
34. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh (2002), Tuyên ngôn Thế giới và hai Công ước 1996 về
quyền con người, Hà Nội.
35. Nguyễn Hữu Ước (2001), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
89
36. Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa XI (2005), Báo cáo kết quả giám sát số
1350/UBPL11 về việc thực hiện Nghị quyết số 388/2003 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.
37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/NQ/2003/UBTVQH11
ngày 17/3 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, cơ sở dữ liệu luật,
website: Luatvietnam.com.vn.
38. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
39. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), "Chuyên đề về:
Bồi thường thiệt hại do bị bắt giữ, xét xử oan sai ở Việt Nam và một
số nước trên thế giới", Thông tin khoa học pháp lý, (2).
40. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
41. VietNamnet, 17: 22’ ngày 10/01/2005, Viện kiểm sát phải hiểu nỗi khổ
của người bị oan, Báo điện tử Vietnamnet Vnn.vn.
42. Vụ 1 - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Báo cáo về kết quả thực
hiện Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 - những khó khăn vướng
mắc và một số đề xuất, ngày 22/11, Hà Nội.
43. Vụ 1 - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Chuyên đề tổ chức thực
hiện Nghị quyết số 388/2003NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại
cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra trong ngành kiểm sát nhân dân), ngày 27/12, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đảm bảo quyền của công dân được bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.pdf