Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006

Luận văn thạc sỹ 135 trang: Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, lạc hậu, lao động thủ công là chính nên hiệu quả kinh tế thấp, tổng sản phẩm xã hội quy mô nhỏ, bình quân thu nhập đầu người rất thấp. Để xây dựng đất nước hướng tới mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ngay từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ phương thức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X của Đảng xác định: " . tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp". [27, 186] Hà Tây (cũ) là tỉnh thuộc vùng châu thổ Sông Hồng, phía Đông giáp Thủ đô Hà Nội, phía Đông nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Bắc giáp hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình. Hà Tây là vùng đất nối liền giữa miền Tây Bắc và vùng trung du Bắc Bộ với các tỉnh đồng bằng Sông Hồng; có địa hình đa dạng: miền núi, trung du và đồng bằng rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, du lịch và dịch vụ. Hà Tây bao bọc Thành phố Hà Nội từ phía tây xuống phía nam, nằm liền kề với vùng tam giác kinh tế trọng điểm (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh). Do có điều kiện thuận lợi trên, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhân dân và chính quyền Hà Tây đã phát huy thế mạnh, khắc phục khó khăn, thách thức để thúc đẩy xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trước khi sáp nhập vào Thành phố Hà Nội, tình hình kinh tế - xã hội của Hà Tây đã có những chuyển biến tích cực với mức tăng trưởng kinh tế khá cao; cơ cấu kinh tế xã hội chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá; văn hoá, giáo dục, y tế và công tác xã hội có những tiến bộ đáng kể; điều kiện sống và mức sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, Hà Tây cũng còn nhiều hạn chế và đứng trước nhiều vấn đề nảy sinh: phát triển kinh tế chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu; chưa phát triển bền vững và đi vào chiều sâu; thu nhập bình quân đầu người thấp hơn bình quân chung cả nước; chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và trong nội bộ từng ngành kinh tế còn nhiều hạn chế: vấn đề chuyển dịch đất nông nghiệp, phát triển các khu công nghiệp, thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ, giải quyết việc làm cho người lao động đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Hà Tây phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, nghiên cứu quá trình Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1991 - 2006, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng không chỉ đối với địa phương mà còn có giá trị tham khảo trên phạm vi cả nước. Trong khi triển khai đề tài "Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2006)" cho luận văn thạc sỹ của mình thì tỉnh Hà Tây còn là đơn vị hành chính độc lập, đến năm 2008, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội. Việc Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội (1991 - 2006) là một thực tế với những chủ trương, kế hoạch, giải pháp và hiệu quả cụ thể. Nay Hà Tây không còn là đơn vị hành chính độc lập, một Đảng bộ riêng nhưng vấn đề trên đã trở thành một phần lịch sử của Đảng bộ và nhân dân Hà Tây trong sự nghiệp đổi mới. Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả kiên định chọn vấn đề “Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006” làm đề tài luận văn thạc sỹ. Chương 1 ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ (1991 – 1995) 1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế 1.1.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới 1.3. Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn (1991 – 1995) 1.3.2. Những chủ trương, giải pháp chính lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 – 1995) Chương 2 ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ (1996 – 2006) 2.1. Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương 1996 – 2000 2.1.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Hà Tây trong giai đoạn mới 2.1.2. Những chủ trương của Đảng bộ tỉnh trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1995 – 2000) 2.2. Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương 2001 - 2006 Chương 3 KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM 3.1. Kết quả và hạn chế chủ yếu 3.1.1. Thành tựu kinh tế chủ yếu 3.1.2. Hạn chế 3.2. Một số kinh nghiệm 3.2.1. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước trên cơ sở thế mạnh của địa phương để đề ra kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế. 3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. 3.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với giải quyết hợp lý các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện đời sống nhân dân và phát triển bền vững. 3.2.4. Chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc137 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3663 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g. Mối quan hệ giữa Đảng bộ, chính quyền và nhân dân gắn bó hơn. Nghị quyết của tỉnh sát với thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, niềm tin của nhân dân với Đảng bộ tỉnh được củng cố và tăng cường... Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, đã tăng cường thế và lực của tỉnh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, làm cho bộ mặt từ thành thị tới các vùng thôn quê trong tỉnh ngày càng đổi mới, văn minh, hiện đai. Những thành tựu trên là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố chủ quan mang ý nghĩa quyết định. Trước tiên là xuất phát từ đường lối đổi mới và các nghị quyết đúng đắn của Đảng, nhất là các nghị quyết về phát triển kinh tế, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Với điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên và được sự chỉ đạo, đầu tư của Trung ương, Hà Tây có điều kiện để phát triển kinh tế, chuyển dịch CCKT và CNH, HĐH. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Tỉnh ủy đã bám sát vào các mục tiêu mà các kỳ đại hội đề ra, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, kịp thời thông qua các giải pháp để chỉ đạo tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm và những khâu trọng yếu. Công tác sơ kết, tổng kết được chú trọng. Đề cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ. Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh luôn thể hiện tinh thần khắc phục khó khăn; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đoàn kết, nỗ lực vươn lên, khai thác các thế mạnh của tỉnh, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ đề ra; các cấp các ngành vận dụng và cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương, đề ra các cơ chế, chính sách và các giải pháp phù hợp với địa phương để tổ chức thực hiện; đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, huy động được nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, khai thác có hiệu quả các nguồn vốn; làm tốt công tác kiểm tra, phát huy dân chủ và kịp thời xử lý các vi phạm tạo điều kiện ổn định phát triển kinh tế xã hội. 3.1.2. Hạn chế Kinh tế của tỉnh tuy tăng trưởng khá nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và còn ở mức thấp so với một số tỉnh trong khu vực, chất lượng tăng trưởng chưa vững chắc. Thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp hơn so với bình quân chung của cả nước và bình quân của các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. CCKT chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH chậm. Công tác quy hoạch, rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành chưa tốt đã làm ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển. Chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế của địa phương để thúc đẩy sự phát triển của tỉnh sớm và nhanh hơn. Kinh tế của tỉnh về cơ bản là cơ cấu kinh tế nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ đang chuyển dịch sang cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ, bởi tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn còn cao, sự ổn định của đời sống xã hội vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp. Trong nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi diễn ra chậm; chưa tạo được vùng sản xuất hàng hóa tập trung với sản phẩm có giá trị hàng hóa cao, sản xuất còn manh mún, chưa gắn sản xuất với thị trường. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích còn thấp. Chưa thúc đẩy nhanh chương trình cánh đồng 50 triệu đồng/ha ở địa phương. Công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản hàng hóa chậm phát triển. Chăn nuôi tuy phát triển khá song vấn đề xử lý môi trường ô nhiễm và phòng ngừa dịch bệnh còn yếu. Hệ thống đê điều, thủy lợi còn chưa đồng bộ, xuống cấp, bị động và còn nhiều ẩn họa khó lường khi thời tiết xấu xảy ra. Hoạt động của các HTX nông nghiệp hiệu quả thấp. Tình trạng nợ đọng sản phẩm, dây dưa kéo dài khá phổ biến, hiện có 30% HTX không có vốn hoạt động, số HTX còn lại tuy có vốn nhưng khó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều yếu kém, khuyết điểm; một số cán bộ, một số địa phương vi phạm về quản lý đất đai, nhiều vụ việc vi phạm Luật đất đai xử lý chậm, thiếu kiên quyết. Đầu tư phát triển chưa gắn với bảo vệ môi trường; môi trường sinh thái ở nhiều nơi ô nhiễm nặng, nhất là ở các vùng đô thị, các làng nghề chưa được các cấp chính quyền quan tâm giải quyết... Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nhìn chung quy mô còn nhỏ, công nghệ lạc hậu; chưa thực sự quan tâm đến chất lượng, thương hiệu sản phẩm. Một số ngành có lợi thế so sánh nhưng đầu tư phát triển thiếu đồng bộ, chưa tương xứng. Sức cạnh tranh của sản phẩm địa phương còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Môi trường đầu tư thiếu hấp dẫn, năng lực cạnh tranh còn thấp. Các dự án đầu tư triển khai chậm, nhiều dự án đầu tư đi vào sản xuất kinh doanh hiệu quả không cao. Một số doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài nhưng thực hiện đổi mới, sắp xếp còn chậm và gặp nhiều vướng mắc. Đầu tư phát triển ở một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải. Tình trạng lãng phí, thất thoát trong xây dựng cơ bản vẫn tồn tại làm ảnh hưởng đến chất lượng một số công trình. Huy động vốn đầu tư phát triển trên các lĩnh vực còn hạn chế. Việc thực hiện xã hội hóa trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chưa được coi trọng. Công tác đền bù, giải tỏa, giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư gặp nhiều khó khăn, tiến triển chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng của các dự án. Kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, điện... chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế nhanh và bền vững; chưa tạo được nền tảng kinh tế vững chắc để thúc đẩy nhanh quá trình phát triển ở giai đoạn tiếp theo. Thương mại, du lịch chưa phát huy được lợi thế, tiềm năng của tỉnh; quản lý nhà nước về du lịch còn nhiều yếu kém; đầu tư phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa xuất khẩu thiếu đồng bộ; chất lượng dịch vụ thấp, sản phẩm hàng hóa chậm cải tiến, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế; doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thương mại chậm đổi mới, còn lúng túng trong kinh doanh. Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại còn phức tạp dẫn đến thất thu thuế lớn ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế còn chậm chễ. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh đã nỗ lực lãnh đạo phát triển kinh tế nhiều thành phần, tọa điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Nhưng đến nay, kinh tế nhà nước vẫn hoạt động với hiệu quả thấp. Kinh tế tập thể hoạt động còn nhiều lúng túng, chưa ổn định và chưa thực sự phát huy vai trò chủ đạo của mình. Kinh tế tư nhân tuy có sự phát triển nhưng vẫn còn non yếu, chủ yếu là quy mô nhỏ. Kinh tế tư bản nhà nước và tư bản nước ngoài mới có sự phát triển bước đầu và chưa trở thành nhân tố thúc đẩy mạnh quá trình chuyển dịch CCKT. Sự chuyển đổi cơ chế quản lý sang cơ chế thị trường định hướng XHCN vẫn còn chậm. Vì vậy, tính năng động, sức cạnh tranh trong hoạt động kinh tế của các thành phần kinh tế còn yếu. Chất lượng giáo dục đào tạo toàn diện cho học sinh còn thấp, chưa khắc phục được sự mất cân đối trong cơ cấu đội ngũ giáo viên, một số giáo viên chất lượng giảng dạy chưa đạt yêu cầu của Bộ giáo dục và đào tạo. Chất lượng khám chữa bệnh và quản lý ngành nghề y dược tư nhân còn yếu. Thực hiện chủ trương xã hội hóa một số lĩnh vực về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao ... còn lúng túng; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tăng. Các tệ nạn xã hội: ma túy, mại dâm, cờ bạc ... ngày càng phức tạp, tai nạn giao thông còn nhiều. Năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp còn một số mặt yếu kém, nhất là việc quản lý đất đai ở cơ sở. Cải cách hành chính hiệu quả thấp, thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu công khai, minh bạch làm cho môi trường đầu tư thiếu hấp dẫn. Một số cán bộ quản lý năng lực hạn chế, chưa nắm vững chức năng nhiệm vụ, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm. Một số cơ quan tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp thiếu chủ động, nhạy bén và sáng tạo trong việc giúp cấp ủy, chính quyền vận dụng chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương. Những hạn chế yếu kém đó đã tác động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, làm chậm quá trình chuyển dịch CCKT và cơ hội phát triển nhanh của tỉnh. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém là do tỉnh chịu sự tác động chung của tình hình kinh tế trong và ngoài nước, tính tất yếu của phát triển kinh tế theo kinh tế thị trường và xu thế của quá trình hội nhập kinh tế tác động đến cả nước trong đó có Hà Tây. Những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường tác động đến tư tưởng, hành động của một bộ phận cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân làm ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch CCKT. Bênh cạnh đó, sau khi tách tỉnh, điểm xuất phát của Hà Tây quá thấp, dân số đông, lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, cơ sở vật chất thiếu thốn, nguồn vốn thiếu, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề người lao động thấp… cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Về phía chủ quan, nhận thức của một bộ phận cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân về chuyển dịch CCKT còn hạn chế và chưa có sự thống nhất cao. Trong các nhiệm kỳ, các cấp, các ngành chưa tập trung cao vào lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư phát triển kinh tế công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ - du lịch nên chưa khai thác được hết tiềm năng, lợi thế để tăng tốc độ phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT. Trong tổ chức thực hiện, chậm đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho cơ sở; chính sách thu hút đầu tư, cải cách hành chính chậm; chỉ đạo giải phóng mặt bằng thiếu kiên quyết, môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền còn yếu, còn buông lỏng một số lĩnh vực như: quy hoạch, quản lý sử dụng đất... Tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp địa phương còn nhiều hạn chế. Sự quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội bằng pháp luật còn yếu. Một số cán bộ đảng viên các cấp, các ngành, các cơ quan còn kém cả về phẩm chất, trình độ và năng lực công tác, thiếu tinh thần trách nhiệm và tính tiên phong gương mẫu, có một số vi phạm pháp luật, vi phạm kỉ luật Đảng. Công tác kiểm tra chưa thường xuyên, chưa phát hiện kịp thời các vi phạm. Kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Hệ thống chính trị ở cơ sở còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra từ thực tiễn. Đảng bộ tỉnh Hà Tây cần nghiêm túc xem xét những hạn chế và nguyên nhân của những yếu kém để đề ra những giải pháp khắc phục trong lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền để đưa các hoạt động kinh tế, xã hội của tỉnh đi đúng hướng và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT, CNH, HĐH. 3.1.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại Hà Tây Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, các khu, cụm công nghiệp và các công trình công cộng ngày càng tăng, đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng bị thu hẹp. Theo quy hoạch được chính phủ phê duyệt, tại địa bàn tỉnh có các khu công nghiệp lớn như: Khu công nghệ cao Láng – Hòa Lạc, Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam, khu công nghiệp Phú Cát, khu công nghiệp Xuân Mai, khu công nghiệp An Khánh; ngoài ra tỉnh cũng quy hoạch khoảng 17 cụm công nghiệp và hơn 200 điểm công nghiệp làng nghề. Toàn tỉnh theo quy hoạch của Chính phủ và tỉnh Hà Tây đến năm 2020 có 1 khu công nghệ cao, 3 khu công nghiệp, 28 cụm công nghiệp và trên 202 điểm công nghiệp mở rộng làng nghề với tổng diện tích gần 7000 ha. Việc xây dựng và mở rộng các khu, cụm và điểm công nghiệp thúc đẩy nhanh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu ngân sách, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên, việc quy hoạch các khu công nghiệp và các dự án đầu tư trong và ngoài nước dẫn đến việc diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, theo thống kê, diện tích đất trồng lúa năm 1995 là 168409 ha, đến năm 2006 giảm còn 158675 ha, giảm 9734 ha. Đất nông nghiệp bị thu hẹp những năm gần đây càng tăng mạnh, nhất là những mảnh ruộng được gọi là “bờ xôi ruộng mật” được khai phá từ hàng trăm năm nay, tạo ra mối quan ngại trong các tầng lớp nhân dân. Việc chuyển đất trồng trọt sang phát triển công nghiệp còn dẫn đến giảm sản lượng lương thực hàng năm của tỉnh. Sản lượng lương thực bình quân đầu người thời kỳ 1996 – 2000 đạt bình quân 414 kg/người/năm, đến năm 2006 giảm còn 382,5 kg/người/năm. Đây là vấn đề liên quan đến an ninh lương thực cần lưu tâm trong quá trình CNH, HĐH. Bảng 3.1.3.1: Diện tích đất trồng lúa qua các năm (1995 – 2006) Năm 1995 1997 1999 2001 2003 2004 2005 2006 Diện tích (ha) 168409 166594 167600 168516 166505 164370 162172 158675 Nguồn: [15, 74] Biểu 3.1.3.1: Diện tích trồng lúa qua các năm (1995 – 2006) Do yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị... nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển là một thực tế khách quan, tuy nhiên, quá trình trên cũng đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội rất bức xúc ở các địa phương, nhất là ở những nơi phương có tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra nhanh chóng. Trong đó vấn đề việc làm của người nông dân sau khi bị thu hồi đất được coi là vấn đề bức xúc nhất. Đây cũng là thách thức lớn đối với quá trình chuyển dịch CCKT và phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Hà Tây. Những lao động ở địa phương đã bị thu hồi đất có rất ít cơ hội được cấp lại đất để tiếp tục sinh sống bằng nghề cũ. Do đó, nông dân lâm vào cảnh không có hoặc thiếu việc làm, thu nhập giảm hoặc không có hoặc thu nhập. Điều đáng chú ý trong số những người bị mất việc nhóm người bị ảnh hưởng nhiều nhất ở độ tuổi từ 35 tuổi trở lên (chiếm khoảng 50%) - là nhóm người thường có trách nhiệm tạo thu nhập chính cho gia đình, và ở độ tuổi của họ vấn đề học và chuyển đổi nghề mới không dễ dàng. Đây là một bài toán khó, một thách thức lớn đối với phát triển. Trên thực tế, Hà Tây đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ cho người dân những vùng bị thu hồi đất như chính sách định cư tại chỗ, hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, nhưng do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên số lượng nông dân mất việc làm, thiếu việc làm vẫn chưa thể khắc phục triệt để. Thực trạng trên nếu không được khắc phục sớm sẽ trở thành lực cản đối với tiến trình CNH, HĐH nông thôn; gia tăng các vấn đề kinh tế - xã hội... Chế biến nông sản và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, mục tiêu đặt ra là tăng tỷ trọng rau quả, cây công nghiệp và chăn nuôi, phát triển tiểu thủ công nghiệp làng nghề, tăng sản lượng nông sản hàng hóa. Vấn đề hàng đầu là chế biến nông sản thật tốt và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là vấn đề cấp bách mà tỉnh ủy, chính quyền, các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong tỉnh đều nhận thức rõ. Không giải quyết vấn đề này nhiều vấn đề quan trọng khác sẽ đặt ra. Đó là giá trị nông sản thấp, giá trị ngày công thấp, chưa thu hút được lao động nông nhàn, chưa kích thích được nông dân tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất... Những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh. Khi chuyển dịch CCKT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhất là tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong cơ chế thị trường dẫn đến nhiều vấn đề xã hội cấp bách nảy sinh. Sự chênh lệch về thu nhập dẫn đến sự phân hóa giầu nghèo trong tỉnh tăng nhanh. Vấn đề nhà ở cho công nhân trong các khu, cụm công nghiệp chưa được nhà nước, tỉnh có chính sách giải quyết thỏa đáng. Đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc đầu tư thâm canh tăng vụ, sử dụng nhiều hóa chất, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật nên môi trường sinh thái, nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Rác thải, khí thải và nước thải ở các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường. Các ngành nghề gây ô nhiễm nhất ở Hà Tây là chế biến nông sản, thực phẩm, kim khí, chế biến lâm sản, mộc, dệt nhuộm, sơn mài, nhựa, hóa chất, chăn nuôi ... gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, tiếng ồn, khói bụi... không chỉ làm ảnh hưởng đến sinh hoạt, sản xuất mà còn làm cho bệnh tật của cư dân tăng lên. Những vấn đề nảy sinh đó cần được Đảng bộ tỉnh nhìn nhận và đánh giá một cách nghiêm túc và từng bước có giải pháp cụ thể để khắc phục trong thời gian tới. Bảng 3.1.3.2: Một số chỉ tiêu chủ yếu của các tỉnh khu vực đồng bằng Sông Hồng năm 2006 ĐVT Hà Tây Hải Phòng Vĩnh Phúc Hải Dương Hưng Yên 1. Diện tích tự nhiên Km2 2196,3 1519,2 1371,5 1651,8 923,1 2. Cơ cấu lao động (100 %) Nông nghiệp % 53,80 46,14 59,22 67,53 68,00 Công nghiệp % 31,74 28,32 17,99 18,61 18,18 Dịch vụ % 14,46 25,54 22,79 13,86 13,82 3. Cơ cấu GDP (1000 %) Nông nghiệp % 29,56 12,00 17,30 26,88 27,69 Công nghiệp % 40,04 36,79 57,00 43,68 40,20 Dịch vụ % 30,40 51,21 25,70 29,44 32,11 4. Giá trị SXCN tỷ đồng 8335,0 25521 19535 13759,1 9851,5 5. Vốn đầu tư toàn xã hội tỷ đồng 6136,3 14185 837,4 4638,7 6120 6. Tổng mức bán lẻ HH&DV tỷ đồng 12657,4 13850 4693,7 5688,9 4230,4 7. Tổng giá trị xuất khẩu triệu USD 112,2 1024,6 257,9 224,4 259,3 8. GDP bình quân đầu người Nghìn đồng 7061,8 14156,0 11295,3 9018,2 8601,6 Nguồn: [15, 218] 3.2. Một số kinh nghiệm Từ những kết quả đạt được, những tồn tại và hạn chế trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ Hà Tây trong 15 năm, từ góc độ lịch sử có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: 3.2.1. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước trên cơ sở thế mạnh của địa phương để đề ra kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế. Quán triệt đường lối đổi mới và các Nghị quyết của Đảng, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương để tạo được bước đột phá trên một số lĩnh vực. Không tạo được bước đột phá thì Hà Tây không theo kịp các tỉnh trong khu vực. Vì vậy trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ đã xác định rõ khó khăn, thời cơ và thuận lợi, vận dụng và thực hiện đúng quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, tập hợp trí tuệ của toàn Đảng bộ và nhân dân để phát triển kinh tế, xã hội. Chủ động, kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn trên từng ngành cụ thể để đẩy nhanh chuyển dịch CCKT của tỉnh, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong CCKT. Xác định mục tiêu phát triển vừa mang tính tiên tiến, khoa học, vừa phù hợp với điều kiện của từng địa phương và xu thế phát triển chung của đất nước. Tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương phát huy nội lực khai thác tiềm năng lợi thế trong phát triển nông nghiệp, các làng nghề tiểu thủ công nghiệp và lưu thông hàng hoá. Đẩy mạnh hợp tác đầu tư, tranh thủ nguồn lực bên ngoài nhằm phát triển công nghiệp. Tranh thủ sự ủng hộ của Trung ương, của các bộ, ngành và sự đóng góp của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là đường giao thông, nhất là giao thông nông thôn, tạo cơ sở để phát triển kinh tế, xã hội. Nhận thức đầy đủ đường lối đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng, xác định rõ lợi thế của tỉnh, Đảng bộ Hà Tây đã xác định đúng mũi nhọn đột phá trong phát triển kinh tế là vừa phát triển nhanh công nghiệp, vừa đẩy mạnh phát triển toàn diện nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện tốt cho phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng nhanh sản phẩm xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Chủ động triển khai xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án phát triển kinh tế, xã hội. Với những chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn địa phương, xu thế phát triển chung của đất nước, hợp lòng dân nên đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Nhân dân cùng với chính quyền tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án nhanh chóng được thực hiện; mạnh dạn, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển; duy trì và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, tạo việc làm, tăng thu nhập, nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. 3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT, với sự tham gia của các thành phần kinh tế gắn liền với ba hình thức sở hữu cơ bản: toàn dân, tập thể, tư nhân đã làm cho quan hệ sản xuất mới được xác lập và ngày càng hoàn thiện góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế xã hội của tỉnh phát triển. Trong quá trình đó, cùng với việc đề ra các chủ trương, biện pháp phát triển cho từng ngành, Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã thực hiện nhất quán chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế thị trường hàng hoá, khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trên tất cả các ngành, các lĩnh vực: Đối với kinh tế nhà nước, tập trung đầu tư vốn hoặc liên doanh với các thành phần kinh tế khác trong đó giữ cổ phần chi phối ở những lĩnh vực quan trọng, những địa bàn có ý nghĩa chiến lược. Thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp còn lại cần khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lãnh đạo để sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm về quỹ lương, thưởng và phúc lợi xã hội trên cơ sở hạch toán trung thực. Các cơ quan nhà nước kiểm soát doanh nghiệp thông qua cơ chế, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp nhà nước. Đối với kinh tế tập thể, khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác theo nguyên tắc tự nguyện, khuyến khích các hợp tác xã liên kết rộng rãi với các hộ, các doanh nghiệp, không giới hạn quy mô, lĩnh vực. Có kế hoạch giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn đọng. Đối với kinh tế tư nhân: Ngoài những ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước, các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh còn được tạo điều kiện thuận lợi trong việc lập và xét thủ tục, vị trí thuận lợi về giao thông, giá thuê đất rẻ……. Đối với kinh tế trang trại và hộ sản xuất cá thể: Tỉnh đã có sự hộ trợ về vốn, kỹ thuật, mô hình phát triển, đào tạo nghề và tiêu thụ sản phẩm… Các thành phần kinh tế đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch CCKT của tỉnh, tận dụng các lợi thế, khai thác tiềm năng, đất đai và tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động. 3.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với giải quyết hợp lý các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện đời sống nhân dân và phát triển bền vững. Trong quá trình chuyển dịch CCKT ở Hà Tây, bên cạnh những chuyển biến tích cực về mặt kinh tế còn nhiều vấn đề mới nảy sinh, trong đó có những vấn đề xã hội đòi hỏi Đảng bộ tỉnh phải nhận thức đầy đủ và có những giải pháp cụ thể để chỉ đạo thực hiện nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nhân dân. Chuyển dịch CCKT, phát triển kinh tế nhanh phải đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Vấn đề đầu tiên là phải quan tâm phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật và trình độ tay nghề cho người lao động nông thôn đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH; thực hiện được mục tiêu chuyển dịch lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ. Cùng với phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng bộ và chính quyền các cấp thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển văn hóa, coi trọng đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hóa, xây dựng nếp sống văn hóa và phòng chống các tệ nạn xã hội; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng nếp sống văn minh ở nông thôn; xã hội hóa chủ trương xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Cùng với việc giải quyết các vấn đề xã hội, Đảng bộ và chính quyền các cấp thường xuyên quan tâm chỉ đạo vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở các khu công nghiệp, các làng nghề, từng bước hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường sống của nhân dân. Việc từng bước giải quyết tốt các vấn đề xã hội, môi trường sinh thái của Đảng bộ tỉnh đã góp phần quan trọng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT của tỉnh. 3.2.4. Chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, Đảng bộ Hà Tây thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Công tác chính trị, tư tưởng được coi trọng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của tỉnh ủy được thực hiện nghiêm túc, kịp thời gắn với chương trình hành động của từng cấp, từng ngành. Công tác giáo dục chính trị cho cán bộ đảng viên được triển khai tích cực đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, chống những biểu hiện thoái hóa biến chất trong Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, với công cuộc đổi mới nhằm thúc đẩy nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 (Khóa IX) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí được quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc từ tỉnh đến cơ sở đã thu được kết quả, tạo được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được gắn bó hơn. Vai trò và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được nâng lên một bước. Để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và toàn diện, Đảng bộ tỉnh đã thực hiện cụ thể hóa nhanh các Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, triển khai quán triệt và chỉ đạo thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Tỉnh ủy đã sớm thông qua các kế hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung và quy hoạch phát triển của từng ngành đến năm 2010 và một số định hướng lớn tới năm 2020. Với chủ trương nhất quán là khai thác tối đa lợi thế của địa phương để phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, có cơ chế thông thoáng ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài tỉnh, nước ngoài nhằm phát triển công nghiệp, hạ tầng giao thông, cơ sở hạ tầng du lịch ... Đây thực sự là những định hướng có ý nghĩa quyết định đến phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đảm bảo đi đúng hướng, phát huy các lợi thể của địa phương, mang lại hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. Trong quá trình đổi mới và hội nhập, bên cạnh đường lối lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng còn cần có đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo và quản lý giỏi. Công tác cán bộ có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, làm tốt công tác cán bộ thì tổ chức Đảng, hệ thống chính quyền vững mạnh, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao. Đặc biệt, trong lãnh đạo, quản lý kinh tế trên các lĩnh vực từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ, cán bộ lãnh đạo ngoài phẩm chất chính trị, kiến thức kinh tế còn phải giỏi về quản lý, khoa học kỹ thuật, công nghệ, phải dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn từng ngành, lĩnh vực. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác cán bộ, Tỉnh ủy đã ban hành quy chế về phân cấp và quản lý cán bộ, về bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ theo hướng tăng cường tính chủ động và đề cao trách nhiệm ở các cấp; xây dựng quy chế về đánh giá cán bộ; cụ thể hóa tiêu chuẩn của một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý… Công tác cán bộ đã từng bước được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo dân chủ, công khai. Đội ngũ cán bộ được chú ý đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch. Dù nhận thức và đã có những chính sách về công tác cán bộ nhưng công tác cán bộ còn nhiều hạn chế: năng lực lãnh đạo của một số tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ về phát triển kinh tế còn nhiều bất cập, xử lý những vấn đề mới, phức tạp nảy sinh còn lúng túng. Công tác đánh giá cán bộ chưa thường xuyên, chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, chưa chuẩn bị được nguồn cán bộ đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài. Một số cán bộ lãnh đạo ở các cấp vi phạm tư cách đảng viên, một số có biểu hiện tha hóa biến chất, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật phải xử lý. Một số cán bộ lãnh đạo ở cấp cơ sở thiếu kinh nghiệm thực tiễn, quản lý kém hiệu quả nên ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đây là vấn đề cần phải khắc phục trong thời gian tới để Hà Tây phát triển nhanh hơn. Như vậy, với những chủ trương, chính sách đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ tỉnh, sự triển khai tích cực của các cấp chính quyền, của các sở, ban, ngành chuyên môn, trong 15 năm từ 1991 – 2006, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có bước phát triển khá mạnh. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh và tương đối vững chắc, CCKT có sự chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH. Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân được từng bước nâng cao. Quá trình lãnh đạo đó đã để lại những kinh nghiệm có giá trị cho sự lãnh đạo của Đảng bộ và đảng bộ các địa phương khu vực Hà Tây trong những năm tiếp theo để lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. KẾT LUẬN Luận văn "Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006" đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch CCKT tại địa phương. Đó là quá trình hình thành và phát triển đường lối, tổ chức thực hiện; đánh giá kết quả, phân tích nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm cần thiết của Đảng bộ tỉnh để tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH. Thực hiện mục tiêu đó, luận văn trình bày thành 3 chương và 7 tiết lớn. Chương 1 của luận văn trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn sự lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh Hà Tây. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở Hà Tây là yêu cầu khách quan, đòi hỏi thực tiễn bức thiết của địa phương. Quá trình chuyển dịch đó diễn ra ở tất cả các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ...; các thành phần kinh tế. Chủ trương đó của Đảng bộ tỉnh phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, đồng thời phát huy được lợi thế của tỉnh. Chương 1 cũng làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà tây về chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn từ 1991 - 1995; nghiên cứu quá trình xây dựng và triển khai Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII và các Nghị quyết, kết luận của tỉnh ủy trong nhiệm kỳ về phát triển kinh tế, phát triển các ngành công, nông nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, du lịch ...; các chủ trương đối với các thành phần kinh tế. Trong Chương 2, Luận văn trình bày quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh về chuyển dịch CCKT trong giai đoạn từ 1996 - 2006. Luận văn nghiên cứu, phân tích làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh qua 2 kỳ đại hội: Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (1995), Đại hội lần thứ IX (2000) và các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, chương trình hành động của Đảng bộ, Ban thường vụ Tỉnh ủy về phát triển kinh tế, chuyển dịch CCKT Chương 3, Luận văn trình bày kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Tây. Những thành tựu đạt được đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh. Qua đó, luận văn rút ra một số kinh nghiệm tổng kết quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh Hà Tây để có những phương hướng chuyển dịch CCKT mạnh mẽ hơn trong thời gian tới. Qua 15 năm tái lập tỉnh, Tỉnh uỷ Hà Tây đã lãnh đạo thực hiện hiệu quả các nghị quyết của Trung ương, đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. CCKT của tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng giá trị nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng giá trị công nghiệp và nhất là dịch vụ tăng dần hàng năm. Sản xuất nông nghiệp phát triển đúng hướng, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch hợp lý theo hướng sản xuất hàng hóa, cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển từ độc canh sang đa canh, cơ cấu mùa vụ thay đổi theo hướng tăng vụ đông. Cơ cấu kinh tế công nghiệp chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đã từng bước khai thác được lợi thế của địa phương. Khu vực dịch vụ phát triển khá nhanh làm cho thị trường sống động, góp phần quan trọng làm cầu nối cho công nông nghiệp phát triển. Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên, văn hóa, giáo dục, y tế được đầu tư, đảm bảo nhu cầu học tập, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Tuy nhiên, kinh tế của tỉnh tăng trưởng khá nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và thấp hơn so với một số tỉnh trong khu vực, chất lượng tăng trưởng chưa vững chắc. Thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp so với bình quân chung của cả nước và bình quân của các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Công tác quy hoạch, rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và phát triển ngành chưa tốt đã làm ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển. Trong nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi diễn ra chậm; chưa tạo được vùng sản xuất hàng hóa tập trung với sản phẩm có giá trị hàng hóa cao, sản xuất còn manh mún, chưa gắn sản xuất với thị trường. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nhìn chung quy mô còn nhỏ, công nghệ lạc hậu; chưa thực sự quan tâm đến chất lượng, thương hiệu sản phẩm. Một số ngành có lợi thế so sánh nhưng đầu tư phát triển thiếu đồng bộ, chưa tương xứng; môi trường đầu tư không hấp dẫn, thiếu tính cạnh tranh. Thương mại, du lịch chưa phát huy được lợi thế, tiềm năng của tỉnh. Đầu tư phát triển chưa gắn với bảo vệ môi trường; môi trường sinh thái ở nhiều nơi ô nhiễm nặng, nhất là ở các vùng đô thị, các làng nghề. Vấn đề mất đất nông nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động chưa được giải quyết hợp lý; tai nạn giao thông và các tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp ... Những vấn đề trên đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hà Tây cần tiếp tục lãnh đạo, đề ra những chủ trương, chính sách và giải pháp đúng đắn để tháo gỡ khó khăn, phát huy những lợi thế để kinh tế địa phương phát triển, chuyển dịch CCKT nhanh hơn. Trước hết, cần tăng cường đầu tư, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong các ngành sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Tiếp theo là đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm mở rộng thị trường, đẩy mạnh hợp tác với Hà Nội và các địa phương lân cận và các đối tác nước ngoài để thu hút đầu tư và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ, hàng công nghiệp của địa phương. Đồng thời, Đảng bộ tỉnh cần có chính sách hợp lý để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp. Nâng cao trình độ học vấn gắn liền với đào tạo nghề và tạo việc làm là nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất đối với quá trình chuyển dịch CCKT. Đây vừa là vấn đề mang ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển ổn định và bền vững, vừa là vấn đề bức thiết hiện nay ở nông thôn Hà Tây. Mặt khác, cần tăng cường đầu tư cho nền kinh tế vì nó trực tiếp thúc đẩy chuyển dịch CCKT, đặc biệt ưu tiên đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt ưu tiên cho hạ tầng đô thị và giao thông nông thôn. Cần lấy hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường làm tiêu chuẩn cho lựa chọn các phương án đầu tư và công nghệ. Ngoài ra, phải xây dựng Đảng bộ Tỉnh và các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh đủ sức lãnh đạo quá trình phát triển kinh tế. Tăng cường công tác quy hoạch, chuẩn hóa và nâng cao trình độ cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Chấp hành Trung ương (2004), Số 153-TB/TW, Thông báo Kết luận của Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Hà Tây; phương hướng nhiệm vụ năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Nội. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Tây (2005), Các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây 1947 – 2005, Hà Đông. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Tây (2008), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây, Tập IV (1975-2008), Hà Đông. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (1994), Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây, Hà Đông. Lê Xuân Bá - Nguyễn Thị Tuệ Anh (chủ biên) (2006), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991 – 2005) - Từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Nông dân, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá 2001 – 2010, Hà Nội. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Thống Kê, Hà Nội. Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàn Vĩnh Lê (1998), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội. Cục thống kê Hà Tây (1995), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1990 – 1994, Hà Đông. Cục thống kê Hà Tây (1997), Tình hình cơ bản các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông. Cục thống kê Hà Tây (1999), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1995 – 1998, Hà Đông. Cục Thống kê Hà Tây (2001), Niên giám thống kê tỉnh Hà Tây 1996 – 2000, Hà Đông. Cục Thống kê Hà Tây (2006), Niên giám thống kê năm 2005, Hà Đông. Cục thống kê Hà Tây (2007), Niên giám thống kê hà Tây 2006, Hà Đông. Đỗ Quang Dũng (6/2005), “Làng nghề ở Hà Tây trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, Tạp chí công nghiệp kỳ 1, (43, 44) Đỗ Quang Dũng (2006), Phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Hà Tây, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1988), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế Nông nghiệp, Nxb Sự Thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VII), Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VII), Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của BCT “Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần thứ VII, Hà Đông. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần thứ VIII, Hà Đông. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần thứ IX, Hà Đông. Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tây lần thứ XIV, Hà Đông. Đảng bộ tỉnh Hà Tây, (2006), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005 – 2010. Lê Mạnh Hùng (chủ biên) (1998), Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội. Nguyễn Văn Khánh, (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ Sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thế Nhã (1996), Bản chất và nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn, đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Sở Công nghiệp Hà Tây (1994), Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu “Hiện trạng và những giải pháp chủ yếu để xây dựng phát triển công nghiệp, nông thôn Hà Tây đến năm 2000”, Hà Đông. Sở Công nghiệp Hà Tây (2000), Công nghiệp Hà Tây năm 2000, Hà Đông. Sở địa chính Hà Tây (1996), Số liệu kiểm kê đất đai năm 1995 Tỉnh Hà Tây, Hà Đông. Sở thương mại Hà Tây (1997), Quy hoạch và phát triển thương mại Hà Tây đến 2010, Hà Đông. Sở Văn hoá thông tin Hà Tây (2007), Địa chí Hà Tây, Hà Đông Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, Nxb CTQG, Hà Nội. Đặng Văn Thắng - Phạm Ngọc Dũng (2003), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng - thực trạng và triển vọng, Nxb CTQG, Hà Nội. Bùi Tất Thắng (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tỉnh ủy Hà Tây (10/1992), Báo cáo về nhiệm vụ công tác kinh tế đối ngoại (Trình bày tại Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 4), Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (1993), Số 07-NQ/TU, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (10/1993), Số 08 –NQ/TU, Kết luận của tỉnh ủy Về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 1994 – 1995 và những năm tiếp theo, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (1993), Số 09-NQ/TU, Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 12 (Khóa VII) về phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp đến năm 2000, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (8/1994), Đề án phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đến năm 2000, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (10/1996), Số 01-NQ/TU, Nghị quyết của Tỉnh ủy về tổ chức thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2000, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (1999), 30 năm Đảng bộ và nhân dân Hà Tây thực hiện Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây, (2001), Kết luận số 01-KL/TU về phát triển du lịch 2001 – 2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 03-KL/TU, Kết luận của Tỉnh ủy về phát triển thương mại và xuất khẩu 2001 – 2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 04-CT/TU, Chỉ thị của Ban thường vụ Tỉnh ủy về phát triển ngành nghề trên địa bàn tỉnh, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (2001), Chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001 – 2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 24/BC/TU, Báo cáo tổng kết kinh tế hợp tác và hợp tác xã 5 năm 1996 – 2000, phương hướng, nhiệm vụ 2001 – 2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 40- TB/TU, Thông báo của tỉnh ủy về triển khai thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp đến năm 2005 theo hướng sản xuất hàng hóa, ổn định và bền vững, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2001), Số 42 TB/TU, Thông báo Kết luận của Tỉnh ủy về phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (4/2002), Số 20-Ctr/TU, Chương trình thực hiện Nghị quyết TW 5 (Khóa IX) Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (4/2002), Số 21-Ctr/TU, Chương trình thực hiện Nghị quyết TW 5 (Khóa IX) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (2002), Chương trình số 24 Ctr/TU ngày 20/04/2002 về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn 2001 – 2010, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (10/2002), Số 06-KL/TU, Kết luận của tỉnh ủy về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đầu tư nước ngoài đến năm 2005 và 2010, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2/2003), Số 39 –CTr/TU, Chương trình thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2005 và 2010, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2003), Số 99- BC/TU, Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp tới năm 2005 theo hướng sản xuất hàng hóa, ổn định và bền vững, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (5/2003), Số 100-BC/TU, Báo cáo tình hình thực hiện và giải pháp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo Kết luận 06-KL/TU của Tỉnh ủy, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Chương trình số 64- Ctr/TU về tiếp tục thực hiện Kết luận số 01-KL/TU ngày 1/10/2001 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch đến năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (10/2004), Số 65 CTr/TU, Chương trình tiếp tục thực hiện Kết luận số 03-KL/TU ngày 3/10/2001 của Tỉnh ủy về phát triển thương mại và xuất khẩu đến năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Số 414 –TB/TU, Thông báo kết luận của Thường trực Tỉnh ủy về thực hiện một số dự án đầu tư của tỉnh, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Số 419 –TB/TU, Thông báo kết luận của tỉnh ủy về chủ trương và triển khai một số dự án trên địa bàn tỉnh, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Số 578-TB/TU, Thông báo ý kiến của chỉ đạo của Bí thư tỉnh ủy về công tác du lịch của tỉnh đến năm 2005 và những năm tiếp theo, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2004), Báo cáo số 169-BC/TU, Báo cáo kiểm 3 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TU ngày 1/10/2001 của tỉnh ủy về phát triển du lịch năm 2001 – 2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2/2005), Số 633-TB/TU, Thông báo Kết luận của Ban thường vụ Tỉnh ủy về tình hình quy hoạch và xây dựng các khu, cụm, điểm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (2005), Số 634-TB/TU, Thông báo kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kết quả chuyển đổi cơ cấu cây trông vật nuôi giai đoạn 2001 – 2004 và kế hoạch thực hiện năm 2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (4/2005), Số 13-NQ/TU, Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh ủy về nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa giai đoạn 2005 – 2010 và những tiếp theo, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 784-TB/TU, Thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Thường vụ tỉnh ủy về việc thực hiện phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh đến hết tháng 5/2005, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 14 – NQ/TU, Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư của tỉnh, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 59 – KH/TU, Kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh ủy về tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (6/2005), Số 783-TB/TU, thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban thường vụ tỉnh ủy về thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm và công tác sắp xếp doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh, Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (8/2005), Số 203 – BC/TU, Báo cáo tình hình và kết quả bước đầu thực hiện Nghị quyết 14-NQ/TU, Kế hoạch 59-KH/TU ngày 4/6/2005 của Ban thường vụ tỉnh ủy Về tổ chức đợt sinh hoạt kiểm điểm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư của tỉnh. Hà Đông. Tỉnh ủy Hà Tây (9/2005), Số 925-TB/TU, Thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện một số cơ chế, chính sách hỗ trợ xây dựng cụm, điểm công nghiệp của tỉnh, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2005, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Nghị quyết số 03 về phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2006 – 2010, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (2006), Chỉ thị số 08 CT/TU của Ban thường vụ tỉnh uỷ về việc đẩy nhanh tiến độ dồn điền đổi thửa gắn với chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, Hà Đông. Tỉnh uỷ Hà Tây (2007), Thông báo số 195 TB/TU: Kết luận của Ban Thường vụ tỉnh uỷ về đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông, khuyến công trên địa bàn tỉnh, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (1994), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây thời kỳ 1995 – 2010 (Báo cáo tổng hợp), Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (1994), Dự án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hà Tây đến năm 2010, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (1997), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 1997, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (1999), Số 124 BC/UB – TH, Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế - xã hội 10 tháng năm 1999 và nhiệm vụ kế hoạch năm 2000, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (2000), Số 138 – BC/UB-TH, Báo cáo Chương trình và giải pháp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (11/2003), Số 116 –BC/UB-CN, Báo cáo tình hình quy hoạch và triển khai thực hiện các khu, cụm, điểm công nghiệp – thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh và công tác giải phóng mặt bằng khu công nghệ cao Hòa Lạc – tái định cư Hòa Phú, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (3/2004), Kế hoạch thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Hà Tây, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (7/2004), Số 2280-KH/UB-NC, Kế hoạch triển khai thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở một số cụm, điểm công nghiệp, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 166-BC/UB-CN, Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện năm phát triển công nghiệp 2004, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 169-BC/UB-TNMT, Báo cáo kiểm tra quản lý, sử dụng đất tại các cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 1452a/2004/QĐ-UB, Quyết định về việc ban hành Kế hoạch thực hiện cơ chế “một cửu” ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (12/2004), Số 1545/2004/QĐ-UB, Quyết định về việc ban hành quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (2005), Số 21 BC/UB-NL, Báo cáo tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2001 – 2004 và định hướng tới năm 2010, Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (11/2005), Báo cáo tình hình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tới năm 2005 theo tinh thần Nghị quyết TW5 (Khoá IX), Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (5/2006), Số 904/2006/QĐ – UBND, Quyết định về việc ban hành chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 - 2010 theo hướng sản xuất hàng hoá hiệu quả kinh tế cao và bền vững. (Số 904/2006/QĐ – UBND ngày 25/5/2006), Hà Đông. UBND tỉnh Hà Tây (7/2007), Số 69 BC/UBND-NN, Báo cáo tình hình phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001 – 2005 - Những vấn đề cần tập trung giải quyết tạo thuận lợi để hoàn thành mục tiêu đề ra đến năm 2010, Hà Đông. Lê Thị Anh Vân (2003), “Một số giải pháp kinh tế - tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay”, Nghiên cứu kinh tế, 296(1), (38-43)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006.doc