Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam , Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam , nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Hơn 75 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một tư tưởng lớn được hình thành ngay sau khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nó giữ vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, tiếp tục dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta, là vấn đề then chốt đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công. Để Đảng làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam , Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới lại Đảng để Đảng xứng đáng là người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, để làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Tiểu luận của mình.
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5214 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận "Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới"
A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam , Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam , nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Hơn 75 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một tư tưởng lớn được hình thành ngay sau khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nó giữ vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, tiếp tục dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta, là vấn đề then chốt đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
Để Đảng làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam , Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới lại Đảng để Đảng xứng đáng là người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, để làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”.
Từ những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Tiểu luận của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu luận điểm: “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay” nhằm để hiểu sâu sắc hơn và làm phong phú thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn và đổi mới Đảng; đồng thời, nhận thức sâu hơn về quan điểm, phương hướng hành động của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, củng cố niềm tin đối với Đảng, góp phần thắng lợi đường lối đổi mới toàn điện đất nước.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, sử dụng các phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp lịch sử - logic
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp tư duy biện chứng
- Phương pháp đối chiếu so sánh
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN, LÀ QUY LUẬT TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG
1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh đổi mới, chỉnh đốn Đảng
Để xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và dân tộc, một đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, một đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Theo Hồ Chí minh thì “đổi mới” và “chỉnh đốn” là hai vấn đề có mối quan hệ gắn bó, biện chứng với nhau. Người cho rằng phải trên cơ sở đổi mới mà chỉnh đốn. Tại Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ VI (01/1949) khi cuộc kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ mới, Người đã dùng thuật ngữ “chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Như vậy thuật ngữ “chỉnh đốn Đảng” đã được Đảng ta sử dụng trong cuộc vận động nhằm nâng cao trình độ lý luận đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo cho Đảng đủ sức lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc trong thời kỳ mới.
Khi cách mạng chuyển mạnh sang tổng phản công (1952), Hồ Chí Minh đã nói: “chỉnh đốn Đảng là việc chính mà chúng ta phải làm ngay”. Chỉnh đốn Đảng ở đây là nhằm làm cho cán bộ, đảng viên thấm thuần đường lối cách mạng, loại trừ tư tưởng phi vô sản, những biểu hiện bi quan dao động, ỉ lại sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần làm phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi Đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” [10,503].
Như vậy đổi mới và chỉnh đốn là hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau. Đổi mới Đảng là phải xóa bỏ cái lạc hậu, lỗi thời hay sai trái để tạo ra những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ. Còn chỉnh đốn Đảng là sắp xếp lại những cái đúng vốn có trước kia đến nay vẫn còn giá trị đúng đắn nhưng đã bị làm sai lệch. Xây dựng Đảng phải tiến hành trên cả hai mặt trận đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Hai mặt này quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉnh đốn là tiền đề cho đổi mới, đổi mới để đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới; chỉnh đốn để tồn tại, đổi mới để phát triển.
1.1.2. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng là vấn đề sống còn của Đảng
Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh luôn chú trọng gắn việc xây dựng đường lối chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt nam với việc chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người coi việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng không phải là giải pháp tình thế, nhất thời mà là nhiệm vụ chiến lược tất yếu và là công việc thường xuyên của Đảng. Bởi vì công cuộc đổi mới càng được đẩy mạnh, nhiều vấn đề mới lại được đặt ra, càng đòi hỏi Đảng phải vượt lên phía trước để không rơi vào tình trạng thoái trào; hơn nữa, để kịp thời ngăn chặn những thoái hóa, biến chất đã và đang xảy ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình, để làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là một đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và dân tộc, một Đảng “vừa đạo đức, vừa văn minh”. Để làm được điều đó, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình giống như việc “rửa mặt hàng ngày”.
Trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn lại mình. Tùy từng giai đoạn lịch sử mà Đảng cần phải đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp với tầm cao của nhiệm vụ cách mạng mới. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh là một quá trình lâu dài, không chỉ khi cách mạng gặp khó khăn, hay khi cách mạng trên đà thắng lợi mà cho đến khi Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền.
Nhìn một cách tổng quát, tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Thực tiễn đổi mới của đất nước ta đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển theo quy luật thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và quy luật này cũng quy định sự vận động và phát triển của Đảng ta mãi về sau. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng là đòi hỏi khách quan trong xây dựng Đảng, kể cả trong điều kiện Đảng đã trở thành đảng cầm quyền.
1.2. ĐẢNG PHẢI THƯỜNG XUYÊN TỰ CHỈNH ĐỐN ĐỂ NÂNG CAO SỨC CHIẾN ĐẤU VÀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1.2.1. Giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân
1.2.1.1. Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin
Theo Hồ Chí Minh: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Chính vì vậy mà Người nói: Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”. Người xem việc học tập, nâng cao trình độ lý luận Mác-Lênin là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của mỗi cán bộ, đảng viên.
Trong quá trình vận động thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước. Chủ nghĩa Mác-Lênin được Hồ Chí Minh khẳng định là một học thuyết cách mạng và khoa học, nó chỉ ra thế giới quan và phương pháp luận, là kim chỉ nam đúng dắn cho giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ khác đứng lên làm cách mạng, cải tạo thế giới và giải phóng giai cấp mình ra khỏi áp bức, bóc lột, hướng tới sự phát triển toàn diện của con người.
1.2.1.2. Tăng cường giáo dục, rèn luyện đảng viên
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, từng đảng viên là chiến sĩ cách mạng tiên phong của Đảng. Toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ những người đảng viên, đều phụ thuộc vào số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [11,204]. Do vậy, Người thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng viên về mọi mặt.
Theo Hồ Chí Minh, chăm lo giáo dục phẩm chất chính trị, nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ đảng viên, cán bộ đảng là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của các tổ chức đảng, đó là biện pháp chủ động, tích cực nhằm đảm bảo tư cách Đảng viên, bảo đảm cho mỗi Đảng viên là những chiến sĩ cộng sản có lý tưởng cách mạng, giữ vững vai trò tiên phong, gương mẫu trong nhận thức và hành động.
Vì vậy, theo Người, để làm cho tất cả đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng thì cần phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện đảng viên cả phẩm chất và năng lực, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Giáo dục, rèn luyện cả “đức” lẫn “tài”. Trong Di chúc, chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” [1,24].
1.2.1.3. Không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên
“Nhân tài kiến quốc” là một vấn đề có tầm chiến lược liên quan đến sự hưng thịnh hay suy vong của một đất nước. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến những bậc tài đức, những người hiền năng. Người yêu cầu: “Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải bào cáo ngay cho Chính phủ biết” [5,192]. Sau khi tìm được những người tài đức thì giao công việc thích hợp cho họ và trong quá trình làm việc phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn và nghiệp vụ để họ hoàn thành tốt các nhiệm vụ.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề dạy dỗ cán bộ, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học hỏi để biết việc làm. Người cho rằng: cách mạng là một nghề, nghề nào cũng phải học, cán bộ phải vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, vừa hồng vừa chuyên, phải hồng thắm chuyên sâu. Đối với cấp lãnh đạo và các cơ quan tổ chức thì cần phải lựa chọn và sử dụng cán bộ cho đúng. Người đòi hỏi thế hệ cha anh phải sống mẫu mực, nêu gương, phải giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành thế hệ cách mạng cho đời sau. Người cho rằng muốn giáo dục người ta làm cách mạng phải cách mạng bản thân mình trước đã.
1.2.2. Đổi mới công tác cán bộ
1.2.2.1. Mục tiêu của công tác cán bộ
Vấn đề công tác cán bộ là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng. Vì vậy mục tiêu của công tác cán bộ là để tránh tình trạng bè phái cục bộ, địa phương; sử dụng cán bộ phù hợp với khả năng, vị trí làm việc, sở trường của từng người và cũng để rèn luyện, thử thách cán bộ. Từ đó mới có hiệu quả cao trong việc sử dụng cán bộ.
1.2.2.2. Thực hiện những chủ trương và biện pháp đổi mới công tác cán bộ
Hồ Chí Minh coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thắng lợi và sự vững mạnh của cách mạng, trước hết là do đường lối chính trị đúng đắn; cán bộ có năng lực tổ chức thực hiện giỏi. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng cộng sản phải biết cách tổ chức để tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy tính năng động, sáng tạo và tinh thần làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài nhằm huy động được sức mạng toàn dân vào sự nghiệp kiến thiết đất nước. Vì thế đổi mới công tác cán bộ là hết sức cần thiết. Người nêu ra những yêu cầu đối với công tác cán bộ là:
Thứ nhất, hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Muốn hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công minh, khách quan.
Thứ hai, khi sử dụng cán bộ, tức là đặt đúng người đúng việc, tùy tài mà dùng người. Cần phải vì việc mà đặt người chứ không phải vì người mà định việc.
Thứ ba, giải quyết quan hệ giữa cán bộ trẻ và cán bộ già. Cán bộ trẻ và cán bộ già phải đoàn kết bổ sung, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Thứ tư, phải chống bệnh địa phương cục bộ trong chính sách cán bộ, tránh đầu óc phe phái, họ hàng.
Thứ năm, phải “chiêu hiền đãi sĩ”, cầu người hiền tài, cân nhắc cán bộ.
Thứ sáu, xây dựng, chỉnh đốn hệ thống nhà trường đào tạo cán bộ.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta. Vì vậy, phải xây dựng chỉnh đốn hệ thống nhà trường để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
1.2.3. Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng
Cơ sở đảng là nơi truyền đạt, tổ chức triển khai đến từng người dân tất cả các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên từ trung ương xuống tận cơ sở, xuống các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; ở đâu có quần chúng ở đó cần có sự lãnh đạo của Đảng, cho nên tổ chức Đảng phải được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Người nói: “Ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông thôn, đại đội có 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ” [7,242]. Tổ chức cơ sở đảng được thành lập ứng với cấp hành chính Nhà nước ở cơ sở và ở cơ quan, đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị cơ sở trong công an nhân dân và quân đội, tổ chức kinh tế. Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở Đảng là “nền tảng”, là “gốc rể” của Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng” [7,242] và “chi bộ là nền tảng của Đảng”…[7,467]. Một cây không thể thiếu gốc rễ, một ngôi nhà không thể thiếu nền móng. Điều đó đã nói lên vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của chi bộ với tư cách là tổ chức cơ sở đảng. “Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh” [7,243] và “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh” [8,270]. Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà” [9.205]. Vì vậy, cần phải chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng làm cho tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, xứng đáng là nền tảng, gốc rễ của Đảng, là hạt nhân chính trị cơ sở.
1.2.4. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
1.2.4.1. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng sẽ khơi dậy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các tổ chức Đảng và đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ trong các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội. Dân chủ sẽ khuyến khích mọi người mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi đóng góp xây dựng nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì lẽ đó mà Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói: Trong sinh hoạt đảng “phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả Đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của Đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt” [9,118].
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển của cách mạng. Mọi Đảng viên được nêu ra ý kiến, quan điểm của mình, tự phê bình và phê bình làm cho tổ chức đảng trở nên trong sạch, vững mạng hơn. Như Hồ Chí Minh đã nói: tự do, dân chủ ở đây là “Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là quyền lợi mà cũng là nghĩa vụ của mọi người” [8,216].
Như vậy dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt Đảng. Tuy nhiên dân chủ phải đi tới tập trung, gắn liền với tập trung. Phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường tập trung và kỷ luật của Đảng.
1.2.4.2. Giữ vững đoàn kết thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo
Cách mạng càng phát triển, nhiệm vụ càng nặng nề, đòi hỏi phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo. Có như vậy giữ vững đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo và giữ vững đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo, Người nói: “Ngày nay, sự đoàn kết, trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo” [7,492]. Cán bộ lãnh đạo đoàn kết, thống nhất có ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Giữ vững đoàn kết thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo là một trong những vấn đề cần thiết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng. Người khẳng định: “Đảng ta tuy đông, nhưng khi tiến đánh thì như một người”. Điều này đã thể hiện rõ sự thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo của Đảng. Vì thế, cần giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữa gìn con ngươi của mắt mình.
1.2.4.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Một Đảng muốn vững mạnh, thực hiện được vai trò bộ tham mưu tối cao của toàn thể dân tộc, giải quyết những nhiệm vụ của cách mạng đặt ra thì trước hết Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên tiến, đại diện cho trí tuệ của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị tiên tiến, đại diện cho trí tuệ của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo, đề ra đường lối, chính sách xây dựng và đảm bảo thực hiện có kết quả đường lối. Cho nên, Đảng phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của mình cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn. Theo Người, lãnh đạo đúng nghĩa là: phải quyết định mọi vấn đề cho đúng, phải tổ chức thi hành cho đúng và phải tổ chức sự kiểm soát cho đúng. Muốn làm được đều đó thì cần phải giữ chặt mối liên hệ với dân chúng. Người nói: Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo, đó là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng và liên hợp người lãnh đạo với cơ quan. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng. Vì vậy, Người luôn quan tâm tới việc nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Để nhân dân tin tưởng thì Đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của mình và không ngừng phải đổi mới phương thức lãnh đạo.
1.2.4.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện đã đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, giành nhiều thắng lợi vẻ vang; đưa nhân dân lao động từ thân phận người nô lệ trở thành người chủ xã hội. Vì vậy, nhân dân Việt Nam đã gắn bó máu thịt với Đảng suốt cả chiều dài lịch sử. Chính vì thế mà Hồ Chí Minh xem công tác dân vận là một việc làm hết sức quan trọng. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, vận động nhân dân xây dựng Đảng. Người nói: “Đảng phải giáo dục cho đảng viên, cán bộ của mình rèn luyện đức tính khiêm tốn học hỏi nhân dân, phải biết lắng nghe ý kiến của dân, bởi quyền hành là lực lượng đều ở nơi dân” [6,698]. Nếu người cán bộ, đảng viên không biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, không thực hiện đúng “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” thì trở nên độc đoán, quan liêu không được dân tin yêu. Đảng phải có trách nhiệm nâng cao dân trí, hòa mình vào nhân dân để hiểu những nguyện vọng của họ, nhưng cũng không phải theo đuôi quần chúng… Người nói: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [10,511].
Để xây dựng Đảng thành một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh thì cần phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cần phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng lãnh đạo, tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng như đổi mới phương thức lãnh đạo công tác dân vận. Đó là những nội dung cơ bản để thực hiện tốt việc kiện toàn tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng mà chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng.
CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG,
CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
2.1.1. Thực trạng
Hơn 75 năm qua, kể từ khi Đảng ra đời, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc; tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc thực dân, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã mắc phải những sai lầm. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã đề quyết sách “đổi mới toàn diện đất nước”. Đại hội khẳng định: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”. Đường lối đổi mới tiếp tục được Đại hội VII khẳng định. Đặc biệt, từ Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII Đảng đề ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, đồng thời, mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng rộng khắp và đã thu được những thành tựu quan trọng.
Với tinh thần tự phê bình và phê bình, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của Đảng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X của Đảng đã nghiêm túc kiểm điểm những tồn tại trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội IX của Đảng (4/2001) cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến” [12,76]. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đánh giá: Cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu và nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng” [13,65].
2.1.2. Nguyên nhân
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong những năm đổi mới đã được các Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Những khuyết điểm và yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau:
- Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
- Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá cũng như việc xây dựng một số công trình trọng điểm lớn của quốc gia chưa được chỉ đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh thần trách nhiệm. Tình trạng nói nhiều làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm, không thực hiện còn diễn ra ở nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp trên một số lĩnh vực, công tác kiểm tra, thanh tra còn thiếu hiệu lực.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước còn yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ.
2.2. TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
2.2.1. Đặc điểm tình hình của thời kỳ mới
Từ thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và thực hiện là đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua những thử thách to lớn, tạo ra được những thành tựu quan trọng góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh kinh tế - xã hội hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, bước sang giai đoạn cách mạng mới thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nước ta tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phức tạp vừa tạo ra những cơ hội, thời cơ những cũng tạo ra những thách thức, nguy cơ lớn. Những nguy cơ đó là: các thế lực thù địch âm mưu “diễn biến hòa bình”, nguy cơ tụt hậu xã hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới đang là một vấn đề lớn, nguy cơ chệnh hướng xã hội chủ nghĩa xã hội cùng là một điều lo ngại, ngoài ra nạn tham nhũng, tham ô được xem là “quốc nạn”.
Những thành tựu về yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng. Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: “Trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt đảng giảm sút, công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập, công tác cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng” [12,146].
Trong tình hình mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng xác định: “Trong những năm tới, phải dành nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”.
2.2.2. Phương hướng xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam ; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Để Đảng thực hiện tốt nhiệm vụ tiên phong của mình, Đại hội Đại biểu lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
2.2.2.1. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng
Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới.
Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình.
Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận. Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn với công tác tổ chức - cán bộ và phát triển kinh tế; chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch.
2.2.2.2. Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đảng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hoá về mặt nhà nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở vùng sâu, vùng xa. Tập trung củng cố các cơ sở yếu kém.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách.
Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Sớm có quy định và chỉ đạo thực hiện, bảo đảm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách đảng viên và bản chất của Đảng.
Phân công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Thường xuyên tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Động viên quần chúng giám sát, nhận xét, góp ý kiến với đảng viên. Kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Đẩy mạnh và bảo đảm chất lượng công tác phát triển Đảng. Chú trọng trẻ hoá và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao.
2.2.2.3. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức.
Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho uỷ ban kiểm tra đảng các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, phòng ngừa. Xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính phủ.
2.2.2.4. Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ
Sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương và các địa phương gắn với kiện toàn tổ chức, bộ máy của cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả. Khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người đứng đầu không rõ. Phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Đảng. Tăng cường sự phối hợp giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp uỷ địa phương.
Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm thật sự dân chủ, khoa học, công minh. Xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Có cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng. Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ.
Cụ thể hoá và thể chế hoá nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
2.2.2.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm. Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực.
C. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những di sản cực kỳ quan trọng để lại cho dân tộc Việt Nam, nó là một hệ thống lý luận với những nội dung hết sức phong phú từ việc xác định vai trò lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản đến xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, từ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đến tư cách đạo đức của người cán bộ, đảng viên.
Luận điểm của Hồ Chí Minh về “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhiều vấn đề bức xúc trong điều kiện nền kinh tế thị trường đòi hỏi Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản nói chung, về xây dựng chỉnh đốn Đảng nói riêng.
Trải qua những thăng trầm lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hiện nay, xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng thường xuyên là làm cho Đảng không ngừng trong sạch, vững mạnh xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, tiếp tục tiến lên dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhất của toàn Đảng, toàn dân ta, là vấn đề then chốt đưa sự nghiệp đổi mới đến thành công.
Với đề tài nghiên cứu này, tác giả đã phần nào làm rõ thêm luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh “Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới” và sự vận dụng của Đảng ta vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay”, đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Do đó, là nhiệm vụ then chốt, cấp bách hàng đầu có ý nghĩa sống còn của Đảng.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[2]. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2003
[3]. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb CHính trị Quốc gia, H.2000
[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000
[11]. Hồ Chí Minh: Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, H.2000
[12]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001
[13]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2006
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.doc