Đảng ta phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH

Bài Làm Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ : "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Và tại Đại hội IX của Đảng lần này, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác.

doc13 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5930 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đảng ta phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng ta phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới; kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội Bài Làm Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ : "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Và tại Đại hội IX của Đảng lần này, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ? Nhưng rồi chính lịch sử lại có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định : chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành "trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài người. Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một "định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì sau Tháng Mười - 1917, không ai không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy đã bị bẻ gẫy, điều định mệnh ấy thành ảo tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn và sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi. Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt gặp" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau. Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là : Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ. Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, 71 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, một điển hình trong các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với "hai đế quốc to", mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như thế, đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch cho là “thời cơ” đã đến để xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.Hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa bị tấn công từ nhiều phía. Lý tưởng cộng sản và đảng cộng sản bị tấn công thô bạo, bỉ ổi từ các thế lực chống Cộng điên cuồng, mang nặng hận thù.Ở trong nước, các phần tử cơ hội chính trị, phản động, chống đối tăng cường phát tán các ấn phẩm có nội dung phản động với mức độ ngày càng công khai, nhiều hơn và cực đoan hơn. Các phần tử phản động người Việt ở bên ngoài cũng tăng cường sự liên kết với nhau, liên kết với phản động trong nước tổ chức các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ngày càng quyết liệt hơn. Khi tập trung tấn công vào đường lối của Đảng ta, các thế lực thù địch lập luận rằng “Không thể làm trái quy luật là bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”, rằng “nêu định hướng xã hội sẽ không thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, sẽ bị cô lập trên trường quốc tế”. Từ đó họ rêu rao rằng “Đảng cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội”, rằng “chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng, còn chủ nghĩa xã hội có trăm ngàn khuyết tật, tội ác, không dân chủ, thiếu nhân quyền, không có tự do tôn giáo”… Bài học hàng đầu từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo đất nước là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều này đã được cương lĩnh trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (1999) khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Có thể nói độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao cả, mục tiêu cao đẹp của Đảng ta suốt 80 năm qua. Trong sự gắn bó này, độc lập dân tộc không thể bó hẹp trong phạm vi độc lập chủ quyền quốc gia, nhân dân thoát khỏi ách thống trị của bọn đế quốc mà còn đi đôi với giải phóng dân tộc và giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức, bóc lột và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Độc lập dân tộc là cơ sở và điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Chính lý tưởng cao cả này đã soi sáng cho nhân dân ta lập nên những kỳ tích vang dội trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc đổi mới đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay là một sự nghiệp đầy chông gai, thử thách nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà trong đó: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh! Muốn thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới; kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội! Chúng ta đều biết, trong thế kỷ XX, dân ta muốn thoát khỏi ách nô lệ của người dân thuộc địa phải chống lại chính sách ngu dân thâm độc của bọn thực dân. Dưới chế độ thuộc địa, nước ta có 90% số dân mù chữ, nhà tù nhiều hơn trường học, không có một chút tự do, dân chủ nào, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Năm 1945 có hơn 2 triệu người chết đói. Khi chống chủ nghĩa thực dân cũ xong, Việt Nam lại phải bước vào chống chủ nghĩa thực dân mới. Cốt lõi của chính sách thực dân mới là làm tiêu tan bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để dễ bề áp đặt "giá trị Mỹ". Ở phương Tây, có nhiều người thường giải thích nền văn minh của loài người theo trình độ khoa học kỹ thuật làm chủ thiên nhiên. Nhưng bước vào thế kỷ thứ XXI, đài BBC của Anh đã điểm lại các nền văn minh của loài người có phân tích rằng: trong thế kỷ XX, nước Mỹ đã nổi lên giàu mạnh, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao khoa học kỹ thuật, tưởng rằng nền văn minh của loài người chỉ do kỹ thuật chi phối, quyết định. Thế nhưng, đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã huy động đến mức cao nhất vũ khí kỹ thuật hiện đại (trừ vũ khí hạt nhân) mà vẫn thất bại. Sự thất bại đó làm đảo lộn suy nghĩ của nhiều người. Rõ ràng, kỹ thuật là quan trọng, nhưng con người mới là yếu tố quyết định. Con người thể hiện trình độ văn minh trong làm chủ khoa học - kỹ thuật. Đồng thời, con người thể hiện trong quan hệ giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác, biết tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng quyền con người, quyền tự quyết của các dân tộc. Mỹ hiện đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở I-rắc cũng đã chứng minh rằng "dân chủ và nhân quyền" không phải thứ có thể áp đặt từ bên ngoài; quyền con người không thể tách rời quyền độc lập dân tộc, bản sắc văn hóa của dân tộc . Việt Nam đã đạt được những thành tựu vĩ đại trong thực hiện quyền dân tộc, quyền con người. Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, tự mình lựa chọn chế độ xã hội thích hợp. Đó là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong 20 năm qua, Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử: Đất nước ổn định, kinh tế phát triển hàng năm tăng từ 7% trở lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, công cuộc xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. Việt Nam đã lập quan hệ với 167 quốc gia, trong đó có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn trên thế giới, trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Trên đất nước ta, quyền con người được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật. Luật pháp quốc tế nào phù hợp với điều kiện nước ta, đều được Nhà nước chấp nhận. Ở nước ta, người dân có đầy đủ các quyền tự do: Tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tự do không theo tín ngưỡng, tự do làm giầu theo pháp luật… Ở đó, tự do của một cá nhân không được xâm phạm đến tự do chính đáng của người khác, đến trật tự an ninh chung của xã hội và đất nước. Đảng và Nhà nước ta coi trọng nâng cao dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, coi trọng phát triển khoa học và công nghệ, phát triển thuần phong mỹ tục, chống mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội. Chúng ta mở rộng giao lưu về nhiều mặt với các nước, cổ vũ học tập những kinh nghiệm tiên tiến để góp phần thực hiện đổi mới, song không thể mù quáng rập khuôn, bắt chước phương Tây hoá, làm sói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, tiêu tan tâm hồn và cốt cách của con người Việt Nam. Một chính khách cấp cao của Xinh-ga-po sang làm việc tại Việt Nam đã chia sẻ rằng: ở Xinh-ga-po, chúng tôi cũng có một đảng, ở Việt Nam có một đảng (tất nhiên, tính chất của mỗi đảng có khác nhau), nhưng nó đều bảo đảm ổn định để phát triển. Nếu cứ theo kiểu "đa đảng" của phương Tây thì dễ mất ổn định, khó mà xây dựng đất nước theo một kế hoạch dài hạn. Có bài học nóng hổi ở vài nước đã thực hiện dân chủ theo mẫu của phương Tây, bầu cử "tự do", đa đảng, bầu ra tổng thống được vài năm lại phải phế bỏ. Bài học thực hiện dân chủ ở nước ta là không được buông lỏng lãnh đạo, để tự phát, như bước vào một canh bạc đỏ đen, vì vận mệnh của một dân tộc phải trao cho người đã được thử thách, sàng lọc, có độ tin cậy, không thể tuỳ tiện rập khuôn theo thể chế chính trị của người khác, nước khác. Nước ta có trên 80 triệu dân, được coi là một trong những nước đông dân và có cơ cấu dân số trẻ trên thế giới. Đông dân và dân số trẻ là một thế mạnh về tiềm năng trí tuệ và lực lượng lao động trong tương lai. Nhưng đông dân cũng có nghĩa sẽ có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cần biết lắng nghe, gạn lọc để xây dựng kế hoạch phát triển đất nước. Chúng ta cần phân biệt người có ý kiến xây dựng khác với những kẻ chống lại Hiến pháp, pháp luật, gây chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, kích động ly khai, gây bạo loạn lật đổ. Trong Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: đảng viên có ý kiến thuộc thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc. Nhưng, đảng viên phải chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, nói, viết, làm theo nghị quyết của Đảng, không thể biến Đảng thành một "câu lạc bộ" tự do tuỳ tiện, không tuân theo nguyên tắc tổ chức. Việc phân biệt đúng, sai diễn ra trong nội bộ Đảng, phải quán triệt quan điểm chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương của Bộ chính trị. Nhân dân ta gắn bó với Đảng, vì Đảng luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thể hiện sự trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc. Đảng đã lãnh đạo quân và dân cả nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhân dân rất quan tâm đến xây dựng hệ thống chính trị của nước ta vững mạnh, biểu dương những cán bộ gương mẫu, tận tụy và chỉ trích mạnh mẽ một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái về chính trị và tư tưởng, đạo đức lối sống, nổi bật là nạn tham nhũng, quan liêu… Đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu hiện nay là thiết thực góp phần bảo vệ Đảng; đồng thời, cũng là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Công dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, quyền đó được pháp luật bảo vệ. Nhà nước ta chỉ trừng trị những kẻ vu cáo xuyên tạc sự thật, xâm phạm quyền tự do chính đáng của người khác, làm lộ bí mật quốc gia, chống lại pháp luật. Nước ta có hơn 2 triệu người làm ăn sinh sống ở nước ngoài, là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Như một bàn tay có ngón dài, ngón ngắn, nếu đoàn kết lại, thì bàn tay có sức mạnh. Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần kêu gọi người Việt sống ở nước ngoài hướng về Tổ Quốc, xoá bỏ thành kiến, hướng về tương lai, cùng nhau phấn đấu cho dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không ai có quyền từ chối người công dân Việt Nam được hoà hợp với dân tộc, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh. Điểm xuất phát của nước ta khi bước vào thời kỳ lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, còn rất thấp, là nước nông nghiệp, kém phát triển, lại bị chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc tàn phá, nên không thể so sánh đơn giản với một số nước khác. Dù có làm ăn rất giỏi cũng phải có một thời gian tương đối dài mới thành một nước phát triển. Chúng ta không trì trệ bảo thủ, nhưng cũng không thể nôn nóng thoát ly thực tế. Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ của nhân dân thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam và sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã chứng minh rằng dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh là một dân tộc đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, một quốc gia hàng đầu phấn đấu cho quyền tự quyết của dân tộc, cho sự hoà hợp dân tộc, cho quyền con người, quyền sống, quyền tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lư tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐảng ta phải vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM trong giai đoạn cách mạng mới; kiên định con đường độc lập d.DOC
Luận văn liên quan