- Đề xuất một phương pháp luận mới sử dụng cho việc đánh giá mức độ 
tổn thương ro sóng thần cho một khu vực đô thị ven biển của Việt Nam. 
Phương pháp luận được xây dựng dựa trên lý thiết phân tích đa tiêu chuẩn cho 
phép đánh giá bán định lượng nguy cơ tổn thương về nhà cửa và người do 
sóng thần gây ra.Ưu điểm chính của phương pháp luận là đơn giản, linh hoạt 
đối với sự thay đổi các điều kiện cụ thể của khu vực nghiên cứu và cho phép 
sử dụng triệt để công cụ GIS trong toàn bộ quy trình đánh giá. Phương pháp 
luận đề xuất được áp dụng thử nghiệm cho một khu vực đô thị ven biển của 
thành phố Nha Trang.
- Đã xây dựng được một cơ sở dữ liệu GIS tổng hợp chứa toàn bộ các 
bản đồ chuyên đề về nhà cửa, dân số và hạ tầng cơ sở của thành phố Nha 
Trang phục vụ cho quy trình đánh giá rủi ro sóng thần.
- Đã xây dựng được một bộ công cụ tính toán trên môi trường GIS của 
phần mềm ArcView, cho phép tự động tính toán và hiển thị các bản đồ 
chuyên đề và kết quả cho khu vực bất kỳ tại Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 68 trang
68 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2703 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá độ rủi ro sóng thần khu vực đô thị thành phố Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 liên 
quan đến đứt gẫy này. 
Đới này bao gồm 2 đến 3 đứt gẫy bậc 1 đến bậc 3 phát triển dọc thềm 
và rìa thềm lục địa Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Hoạt động của chúng phát 
triển kéo dài trong suốt Kainozoi đến Pliocen-Đệ Tứ và làm móng Granit 
trước Kainozoi sụt dần ra phía trũng sâu Biển Đông. Nếu ở khu vực nằm sát 
bờ biển Khánh Hòa-Ninh Thuận chiều sâu móng Kainozoi chỉ nằm ở khoảng 
một vài trăm mét thì ở khu vực cách bờ 50 km, móng đã chìm đến độ sâu 2-3 
km, còn ở khu vực cách bờ 100 km nó chìm xuống 4-5 km. Hoạt động của hệ 
thống đứt gẫy Tây Biển Đông vùng biển Nam Trung Bộ có thể đã làm đáy 
biển sụt bậc từ độ sâu từ 300-4000 mét trong Holocen và hiện đại, dấu hiệu 
hoạt động này là địa hình đáy biển tại đây sụt bậc từ độ sâu 150 mét xuống độ 
sâu 200 mét, ở khu vực rìa thềm hoạt động, độ sâu 700-800 mét, đôi chỗ trên 
1000 mét. 
Ngoài các biểu hiện trên địa hình đáy biển, hoạt động của đứt gẫy Tây 
Biển Đông còn tạo ra quá trình phun trào núi lửa phát triển dọc dải biển Miền 
Trung từ đảo Lý Sơn đến đảo Phú Quốc, Hòn Tro và các hiện tượng trượt lở 
kiến tạo, phát hiện được theo các tài liệu địa chấn thăm dò. 
Đới đứt gẫy thềm lục địa Bắc Biển Đông 
Đây là một đới rìa lục địa kiểu Đại Tây Dương với một loạt các đới sụt 
tách thuận tạo nên các địa hào, máng trũng phương đông bắc-tây nam hoặc 
đông đông bắc-tây tây nam. Các đới đứt gẫy này có độ dài từ vài trăm đến 
16 
1000 km, và về nguyên tắc có thể tạo nên các trận động đất gây sụt lở đáy 
biển đáng kể, tạo nên sóng thần. Đáng chú ý nhất là các đứt gẫy ở phần rìa 
tiếp giáp với khu vực vỏ đại dương Biển Đông. Tuy nhiên các trận động đất 
trong đới này là không mạnh. 
Đới đứt gẫy Tây bắc Borneo - Palawan 
Đây là một đới đứt gẫy nghịch, cắm về phía đông nam. Mặc dù động 
đất có magnitude 6 đã xảy ra trên đới này, nhiều chuyên gia kiến tạo vẫn cho 
rằng đới đứt gẫy này đã ngừng hoạt động từ lâu. 
Các vùng nguồn khác 
Ngoài các đới kiến tạo có khả năng gây sóng thần trong khu vực Biển 
Đông đã nêu ở trên, một số đới hút chìm có kích thước nhỏ hơn trong các 
vùng biển Sulu và Ban Đa cũng cần xem xét như các nguồn sóng thần có thể 
tác động tới bờ biển Việt Nam. Trong số này có máng biển Negro là một vùng 
hội tụ ngắn dọc theo bờ tây của miền trung Philíppin, và máng biển Cotabato 
là một hệ thống máng biển ngắn khác chạy dọc theo bờ biển tây nam 
Minđanao. 
Trên hình 1.7 minh họa sơ đồ các vùng nguồn sóng thần trên khu vực 
Biển Đông và lân cận có khả năng ảnh hưởng tới dải ven biển và hải đảo của 
Việt Nam, bao gồm chín vùng nguồn sau [5]: 
1. Vùng nguồn biển Đài Loan 
2. Vùng nguồn Máng sâu Manila 
3. Vùng nguồn Biển Sulu 
4. Vùng nguồn Biển Selebes 
5. Vùng nguồn Biển Ban đa bắc 
6. Vùng nguồn Biển Ban đa nam 
7. Vùng nguồn Bắc Biển Đông 
8. Vùng nguồn Pa la oan 
9. Vùng nguồn Tây Biển Đông 
17 
Từ hình 1.7, có thể khẳng định rằng trong khu vực Biển Đông, vùng 
nguồn Máng biển Manila được coi là vùng nguồn sóng thần nguy hiểm nhất 
đối với bờ biển Việt Nam. 
Hình 1.7. Sơ đồ phân bố vùng nguồn sóng thần trên Biển Đông [5]. 
Ngoài các đặc trưng địa chấn kiến tạo và địa động lực, 25 kịch bản 
sóng thần cũng cho ta cái nhìn thực tế hơn về độ nguy hiểm sóng thần trong 
khu vực Biển Đông [1]. Trong kịch bản 4, động đất có độ lớn Mw= 8,5 xảy ra 
trên đới hút chìm Manila, như chỉ ra trên Hình1.8, độ cao sóng thần rất lớn tại 
khu vực ven bờ biển Miền Trung của Việt Nam và có khả năng gây thảm hoạ. 
Trong trường hợp này, khu vực có độ cao sóng thần cực đại lớn hơn 1m, tức 
là sóng thần nguy hiểm, kéo dài từ phía bắc của tỉnh Quảng Bình tới Bà Rịa – 
Vũng Tàu. Khu vực có độ cao sóng thần lớn hơn 2 m kéo dài từ Quảng Trị tới 
Bình Thuận. Thời gian lan truyền sóng từ nguồn tới bờ biển miền Trung là 
mất khoảng 2h, với nguồn động đất xảy ra tại đới hút chìm Manila được xem 
là nguồn sóng thần xa. 
Bên cạnh việc xem xét các trận động đất sóng thần có khả năng xảy ra 
trên đới hút chìm Manila, đới đứt gẫy Tây biển Đông cũng được xem là một 
18 
nguồn có khả năng gây ra sóng thần. Theo kịch bản số 10, động đất có độ lớn 
độ lớn Mw= 7.0, có thể thấy rằng độ cao sóng thần ở ven biển Nam Trung Bộ 
là nhỏ hơn 1m. Như vậy, động đất tại vùng nguồn ngoài khơi Nam Trung Bộ 
rất khó có khả năng gây ra sóng thần ven bờ biển Việt Nam (Hình 1.9). Thời 
gian lan truyền của sóng thần từ nguồn tới vùng ven biển Nam Trung Bộ là 
thấp hơn 1 giờ. 
Với các kết quả phân tích tính địa chấn kiến tạo của từng vùng nguồn, 
kết hợp với các kết quả tính toán lan truyền có thể khẳng định rằng tồn tại 
nguy cơ xảy ra sóng thần đối với vùng bờ biển Việt Nam và vùng nguồn 
nguy hiểm nhất là đới hút chìm Manila. 
Hình 1.8. Độ cao sóng thần trên Biển Đông và ven Biển Việt Nam theo kịch 
bản 4 động đất có Mw= 8,5 xảy ra tại đới hút chìm Manila [1] 
19 
Hình 1.9. Độ cao sóng thần trên Biển Đông và ven Biển Việt Nam theo kịch 
bản 10 động đất có Mw= 7 xảy ra tại đứt gẫy Tây Biển Đông [1] 
20 
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ QUY TRÌNH THỰC HIỆN 
Hiểm họa sóng thần thường tập trung cao nhất tại các khu vực nằm sát bờ 
biển và có thể trở thành thảm họa nếu khu vực đó đồng thời cũng là một khu 
vực phát triển của cộng đồng. Ở Việt nam, mặc dù chưa có tài liệu chính thức 
nào được công bố về thiệt hại do sóng thần gây ra trong quá khứ, song các kết 
quả nghiên cứu đều cho thấy khu vực miền Trung đất nước được đánh giá là 
có độ nhạy cảm cao đối với hiểm hoạ sóng thần [1, 4, 8]. Đối với những khu vực 
như vậy, việc đánh giá độ rủi ro sóng thần nhằm đề xuất những biện pháp phòng 
ngừa và giảm thiểu những tổn thất do sóng thần gây ra đối với cộng đồng là một 
việc làm không những mang tính thiết thực, mà còn vô cùng cấp bách. 
Trong chương này của luận văn, một phương pháp luận đánh giá độ rủi 
ro do sóng thần gây ra cho một khu vực ven biển của Việt Nam được đề xuất, 
trên cơ sở đó quy trình thực hiện cũng được xây dựng có lưu ý tới việc sử 
dụng các công nghệ hiện đại. Phương pháp luận và quy trình đề xuất sẽ được 
áp dụng thử nghiệm cho thành Phố Nha Trang, một thành phố nằm trên dải 
ven biển miền Trung Việt Nam, được coi là nằm trong vùng ảnh hưởng của 
sóng thần từ khu vực Biển Đông. 
2.1 Mức độ tổn thương, độ nguy hiểm và độ rủi ro sóng thần 
 Phương pháp luận đánh giá rủi ro và giảm nhẹ thiệt hại do sóng thần 
gây ra cho một khu vực ven biển thường được xây dựng dựa trên ba khái 
niệm cơ bản nhất bao gồm Mức độ tổn thương do sóng thần, Độ nguy hiểm 
sóng thần, và Độ rủi ro sóng thần sẽ được định nghĩa dưới đây. 
Mức độ tổn thương do sóng thần là khả năng bị mất mát hay khả năng ứng 
phó của cộng đồng đô thị ven biển khi bị đặt trước sự đe dọa của tai biến sóng 
thần. Mức độ bị tổn thương thường được xét tương ứng với các yếu tố chịu 
rủi ro. Ở đây các yếu tố chịu rủi ro được hiểu là tất cả các đối tượng có mặt 
trên khu vực nghiên cứu, bao gồm cả những đối tượng trực tiếp của sóng thần 
21 
như con người, nhà cửa và các hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hay 
gián tiếp như những tổn thất về kinh tế hay xã hội. 
Độ nguy hiểm sóng thần là xác suất xuất hiện của một cơn sóng thần có thể 
gây thiệt hại cho một vùng cho trước trong một khoảng thời gian cho trước. 
Trong các tính toán định lượng, độ nguy hiểm sóng thần thường được gán 
bằng các giá trị độ cao sóng thần khi tấn công vào bờ hay độ sâu ngập lụt do 
sóng thần. 
Độ rủi ro sóng thần là xác suất xảy ra những tổn thất về kinh tế xã hội do 
sóng thần gây ra tại một khu vực cho trước, trong một khoảng thời gian cho 
trước. 
Độ rủi ro sóng thần, độ nguy hiểm sóng thần và mức độ tổn thương do sóng 
thần liên hệ với nhau bởi biểu thức: 
n
i
iiVEHR
 (2.1) 
ở đây E là yếu tố chịu rủi ro; V là khả năng bị tổn thương, biểu thị số đo của 
những tổn thất thành phần; và H là độ nguy hiểm sóng thần. Chỉ số i biểu thị 
loại yếu tố chịu rủi ro. 
2.2. Quy trình đánh giá độ rủi ro do sóng thần 
Trên hình 2.1 minh hoạ quy trình thực hiện phương pháp luận theo các nội 
dung đã mô tả ở trên. Đây là quy trình tổng quát, có thể được áp dụng không 
chỉ cho thành phố Nha Trang, mà còn cả các thành phố nằm trên dải ven biển 
Việt Nam có khả năng chịu sóng thần tác động. 
 Từ hình 2.1, có thể thấy quá trình đánh giá mức độ rủi ro sóng thần bao 
gồm ba nội dung chính là: 1a) đánh giá mức độ tổn thương, 1b) đánh độ nguy 
hiểm và 1c) đánh giá mức độ rủi ro sóng thần cho khu vực nghiên cứu. Các 
nội dung chính của quy trình được thực hiện lần lượt, theo trình tự chỉ ra bằng 
22 
các mũi tên. Theo quy trình này, có thể thấy giữa các thành phần của toàn bộ 
cấu trúc có mối quan hệ nhân quả với nhau, tức là các kết quả của mỗi giai 
đoạn có thể được xem như là số liệu đầu vào trực tiếp cho giai đoạn tiếp theo. 
Các tham số đầu vào nhà cửa và người được đưa vào tính toán nhằm xác 
định mức độ tổn thương đối với người và nhà cửa. Các kết quả này được sử 
dụng làm dữ liệu đầu vào cho việc tính toán mức độ rủi ro. 
Giá trị độ nguy hiểm ngập lụt (H) được xác định thông qua bản đồ ngập 
lụt cho thành phố Nha Trang theo kịch bản số 4 [1]. Giá trị mức độ rủi ro 
được xác định theo công thức (2.1), là sự kết hợp giá trị mức độ tổn thương và 
độ nguy hiểm ngập lụt. 
Hình 2.1 Sơ đồ minh họa quy trình đánh giá độ rủi ro sóng thần 
2.2 . Cơ sở phương pháp luận đánh giá mức độ rủi ro do sóng thần 
2.3.1 Đánh giá mức độ tổn thương do sóng thần 
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đánh giá nguy cơ bị tổn thương 
do sóng thần cho các khu vực khác nhau trên thế giới [6, 22, 23]. Phần lớn 
các nghiên cứu này đều sử dụng kỹ thuật phân tích đa tiêu chuẩn (Multi-
criteria analysis) để xây dựng phương pháp luận đánh giá khả năng bị tổn 
23 
thương. Đây là một kỹ thuật được áp dụng khá phổ biến trong các quá trình ra 
quyết định, với nội dung chính bao gồm việc xác định các mục tiêu cần đạt và 
phân tích tổ hợp các tiêu chuẩn khác nhau để đưa ra phương án tối ưu cho 
quyết định cuối cùng [17]. 
Phương pháp luận đánh giá khả năng bị tổn thương do sóng thần được xây 
dựng trên cơ sở tham khảo và cải tiến các phương pháp luận đang được sử 
dụng cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, đặc biệt lưu ý tới khả năng áp 
dụng công nghệ GIS để tính toán và hiển thị các kết quả nhận được. 
 Công thức tính mức độ tổn thương 
Công thức tổng quát tính mức độ tổn thương do sóng thần có dạng: 
n
i
iii ewAaV ),( 
, i=1, n ( 2.2) 
trong đó V là số đo mức độ tổn thương; A là tham số tổn thương; ai là các yếu 
tố ảnh hưởng; wi là trọng số của yếu tố ảnh hưởng thứ i; ei là giá trị ước lượng 
cho yếu tố ảnh hưởng thứ i; và n là tổng số các yếu tố ảnh hưởng có liên quan 
tới tham số tổn thương A. 
Các tham số tổn thương đặc trưng cho các dạng thiệt hại khác nhau và được 
xác định theo các yếu tố chịu rủi ro. Ứng với mỗi tham số tổn thương A, một 
danh sách các yếu tố ảnh hưởng ai được xác định. Các yếu tố này đặc trưng 
cho khả năng bị tác động nhiều nhất bởi sóng thần. Tổng hợp của những yếu 
tố ảnh hưởng sẽ xác định mức độ bị tổn thương của tham số đang xét. 
Trong nghiên cứu này chỉ xét hai yếu tố chịu rủi ro quan trọng nhất đối với 
cộng đồng ven biển sau đây: 
1) Tham số tổn thương “Nhà cửa”. 
2) Tham số tổn thương “Người”. 
 Đánh giá mức độ tổn thương cho tham số “Nhà cửa” 
Mức độ tổn thương về nhà cửa có thể được hiểu như là khả năng chống 
chọi với sóng thần của nhà cửa và các công trình xây dựng tại khu vực nghiên 
24 
cứu. Đối với tham số “Nhà cửa”, các yếu tố ảnh hưởng tương ứng được xác 
định bao gồm: 
- Vật liệu xây dựng : m (material) 
- Mô tả tầng trệt của ngôi nhà: g (description of ground floor) 
- Số tầng : s (stories) 
- Thiết kế : d (design) 
- Kết cấu nền móng : f (foundations) 
Các tiêu chuẩn đánh giá biểu thị các dạng thiệt hại do sóng thần gây ra cho 
nhà cửa tại khu vực nghiên cứu. Đối với tham số “Nhà cửa”, hai dạng thiệt 
hại được đánh giá bằng cách gán trọng số bao gồm: 
- Thiệt hại về cấu trúc 
- Thiệt hại do ngập lụt 
Quá trình gán trọng số cho các tiêu chuẩn đánh giá được thực hiện như sau. 
Đầu tiên, các tiêu chuẩn đánh giá được sắp xếp theo hàng và cột trong một ma 
trận và được so sánh lần lượt theo từng cặp để đánh giá sự phù hợp (Bảng 
2.1). Nếu giữa hai tiêu chuẩn đang được so sánh, tiêu chuẩn nào đó (nằm trên 
hàng) được cho là quan trọng hơn tiêu chuẩn đang được so sánh (nằm trên cột) 
thì ô nằm ở giao điểm giữa hàng và cột đó được gán 1 điểm. Trong trường hợp 
ngược lại, ô đó được gán 0 điểm. Yếu tố ngoại cảnh ở đây được sử dụng để bổ 
trợ cho quá trình tính toán. Bảng 2.1 cho thấy thiệt hại về cấu trúc có trọng số 
cao hơn so với thiệt hại do ngập lụt gây ra (0.667 so với 0.333). 
Bảng 2.1. Ma trận so sánh cặp đôi giữa các tiêu chuẩn đánh giá 
Thiệt hại 
về cấu 
trúc 
Thiệt hại 
do ngập 
lụt 
Yếu tố 
ngoại cảnh 
khác 
Tổng 
Trọng số 
(= tổng/3) 
Thiệt hại về cấu trúc - 1 1 2 0.667 
Thiệt hại do ngập lụt 0 - 1 1 0.333 
Yếu tố ngoại cảnh khác 0 0 - 0 0 
25 
Tương tự, các yếu tố ảnh hưởng cũng được so sánh theo từng cặp giữa 
chúng và được gán cho các giá trị trọng số liên quan khác nhau. Các giá trị 
trọng số liên quan cho phép xếp hạng các yếu tố ảnh hưởng theo mức độ của 
tác động gây tổn thương đối với nhà cửa. Các kết quả đánh giá trọng số liên 
quan cho các yếu tố ảnh hưởng được trình bày trong các bảng 2.2 và 2.3 
tương ứng với hai trường hợp thiệt hại về cấu trúc và thiệt hại do ngập lụt. 
Trong trường hợp sau, các yếu tố ảnh hưởng d (thiết kế) và f (kết cấu nền 
móng) không được xét đến vì chúng không chịu tác động của ngập lụt. 
Bảng 2.3. Ma trận so sánh cặp đôi giữa các yếu tố ảnh hưởng đối với thiệt 
hại về cấu trúc 
Thiệt hại 
về cấu 
trúc 
m g s f d 
Yếu 
tố ngoại 
cảnh 
khác 
Tổng 
Trọng 
số liên 
quan 
(=tổng/1
5) 
m - 0 1 1 1 1 4 0.267 
g 1 - 1 1 1 1 5 0.333 
s 0 0 - 0 0 1 1 0.067 
f 0 0 1 - 1 1 3 0.2 
d 0 0 1 0 - 1 2 0.133 
Yếu tố 
ngoại cảnh 
khác 
0 0 0 0 0 - 0 0 
26 
Bảng 2.4. Ma trận so sánh cặp đôi giữa các yếu tố ảnh hưởng đối với thiệt 
hại do ngập lụt 
Thiệt hại do ngập lụt M g s 
Yếu tố ngoại 
cảnh khác 
Tổng 
Trọng số 
liên quan 
(=tổng/6) 
m - 0 0 1 1 0.167 
g 1 - 0 1 2 0.333 
s 1 1 - 1 3 0.5 
Yếu tố ngoại cảnh khác 0 0 0 0 0 0 
Tổng hợp kết quả từ các bảng 2.1, 2.2 và 2.3 ta được kết quả trình bày 
trong bảng 2.5. Đối với cả hai tiêu chuẩn đánh giá, trọng số tổng cộng của 
mỗi yếu tố ảnh hưởng được tính bằng tích của trọng số tiêu chuẩn với trọng 
số liên quan của yếu tố ảnh hưởng đang xét. Kết quả tính trọng số tổng cộng 
của các yếu tố ảnh hưởng được trình bày trong bảng 8. 
Bảng 2.5. Trọng số liên quan của các yếu tố ảnh hưởng 
 Trọng số 
của từng 
tiêu chuẩn 
Trọng số 
liên quan 
của m 
Trọng 
số liên 
quan 
của g 
Trọng số 
liên quan 
của s 
Trọng 
số liên 
quan 
của f 
Trọng 
số liên 
quan 
của d 
Thiệt hại 
về cấu 
trúc 
0.667 0.267 0.333 0.067 0.2 0.133 
Thiệt hại 
do ngập 
lụt 
0.333 0.167 0.333 0.5 0 0 
27 
Bảng 2.6. Trọng số tổng cộng của các yếu tố ảnh hưởng 
Trọng 
số của 
m 
Trọng 
số của g 
Trọng 
số của s 
Trọng số 
của d 
Trọng số 
của f 
Thiệt hại 
về cấu trúc 
 0.178 0.222 0.045 0.089 0.133 
Thiệt hại 
do ngập lụt 
 0.056 0.111 0.166 0 0 
Tổng cộng 0.234 0.333 0.211 0.089 0.133 
Từ các kết quả của bảng 2.6 và lưu ý công thức (2.2), có thể viết biểu thức 
tính mức độ tổn thương của tham số “Nhà cửa” dưới dạng: 
VNC= 0.234m + 0.333g+0.211s+0.089d+0.133f (2.3) 
Giá trị của các yếu tố ảnh hưởng m, g, s, d và f được xác định theo các tiêu 
chuẩn phụ thuộc điều kiện cụ thể tại khu vực nghiên cứu. Công thức (2.3) 
được sử dụng để tính toán và thành lập bản đồ mức độ tổn thương thành phần 
do sóng thần gây ra đối với nhà cửa tại khu vực nghiên cứu. 
 Đánh giá mức độ tổn thương cho tham số “Người” 
Mức độ tổn thương theo tham số “Người” có thể được hiểu như là khả năng 
bị thiệt hại về người do sóng thần gây ra tại khu vực nghiên cứu. Đối với 
tham số “ Người ”, các yếu tố ảnh hưởng được xác định trong nghiên cứu này 
bao gồm: 
- Mật độ dân số (d) 
- Số lượng trẻ em, người trưởng thành và người già (thành phần dân số) (n) 
- Giới tính (số lượng nữ) (g) 
- Thu nhập bình quân (m) 
28 
Tất cả các dữ liệu về các yếu tố ảnh hưởng nêu trên phải được quy về một 
đơn vị tham chiếu thống nhất. Mức độ thiệt hại về người sẽ được tính toán 
ứng với đơn vị tham chiếu này. Đơn vị tham chiếu nhỏ nhất cho tổn thương 
về người có thể là một tòa nhà, nhưng nếu không có đủ số liệu chi tiết thì có 
thể chọn đơn vị tham chiếu lớn hơn, như một phường hay thậm chí một quận. 
Đối với mỗi đơn vị diện tích đã chọn, các thông tin sau đây cũng cần biết: 
 Mùa có mật độ dân số cao và thấp. 
 Thời gian trung bình để sơ tán dân. 
Công thức tính mức độ tổn thương của tham số “Người” sẽ có dạng: 
 (2.4) 
trong đó: 
- KST là hệ số liên quan đến thời gian trung bình để sơ tán dân trong 
phạm vi đơn vị tham chiếu đã chọn, với giả thiết là thời gian báo động 
sóng thần xảy ra trước 15 phút khi đợt sóng đầu tiên kéo đến. Các giá 
trị của hệ số KST được đề nghị như trong bảng 2.7, tuy nhiên giá trị này 
có thể được hiệu chỉnh tùy theo khả năng của hệ thống cảnh báo sóng 
thần; 
- Giá trị SNĐ phụ thuộc vào việc thời gian sóng thần tấn công là ngày hay 
đêm, với 
o SNĐ = VNC /5 (ban đêm, giả thiết là mọi người đang ở trong nhà) 
o SNĐ = V NC /10 + ½ (ban ngày, giả thiết là một nửa số dân đang ở 
trong nhà và một nửa ở bên ngoài). 
- SC và ST là các hệ số chỉ mùa du lịch: 
o Nếu đang trong mùa du lịch (lượng khách du lịch và mật độ dân 
cư cao): 
29 
SC = 1 nếu sóng thần xảy ra trong mùa du lịch 
SC = 0 nếu sóng thần xảy ra lúc không phải mùa du lịch. 
o Nếu đang không phải mùa du lịch (lượng khách du lịch và mật 
độ dân cư thấp): 
ST = 1 nếu sóng thần xảy ra lúc không phải mùa du lịch 
ST = 0 nếu sóng thần xảy ra trong mùa du lịch 
- PVC là mức độ tổn thương của tham số “Người” trong đơn vị tham 
chiếu, được tính cho mùa có khách du lịch cao sử dụng công thức (2.5) 
và những yếu tố ảnh hưởng đã được xác định ở trên với chỉ số C: 
PVH = w1(dC) + w2(nC) + w3(gC) + w4(mC) (2.5) 
Các trọng số được xác định bằng phương pháp phân tích đa tiêu chuẩn 
như trong trường hợp tham số môi trường xây dựng đã trình bày ở trên. 
- Tương tự, PVT là mức độ tổn thương của tham số “Người” trong đơn vị 
tham chiếu, được tính cho mùa có khách du lịch thấp sử dụng công thức 
(16) và những yếu tố ảnh hưởng đã được xác định ở trên với chỉ số T: 
PVL = w1(dT) + w2(nT) + w3(gT) + w4(mT) (2.6) 
Các công thức (2.4), (2.5) và (2.6) được sử dụng để tính toán và thành lập 
các bản đồ mức độ tổn thương thành phần về người do sóng thần gây ra tại 
khu vực nghiên cứu. 
Bảng 2.7. Các giá trị đề nghị cho hệ số KST 
Báo động 15 trước khi 
sóng đến 
Thời gian sơ tán trung 
bình (phút) 
Giá trị KST đề nghị 
Khu vực 1 < 5 0.4 
Khu vực 2 5 – 10 0.6 
Khu vực 3 10 – 15 0.8 
Khu vực 4 >15 1 
30 
2.3.2.Độ nguy hiểm sóng thần 
 Trong trường hợp đánh giá rủi ro sóng thần, độ nguy hiểm sóng thần 
được xác định là độ cao cực đại của cột nước tại từng điểm nghiên cứu trong 
vùng ngập lụt. Bản đồ ngập lụt là sản phẩm của quá trình mô phỏng sóng thần 
lan truyền lên bờ và được thể hiện trên bản đồ khu vực bị ngập lụt cực đại. 
Mức độ sóng thần xâm nhập lên bờ phụ thuộc vào các đặc điểm chi tiết của 
khu vực ngập lụt và số liệu địa hình sẵn có (Priest, 1995). 
 Như đã trình bày ở trên, bản đồ ngập lụt do sóng thần đối với khu vực 
thành phố Nha Trang được khai thác từ kịch bản số 4 trong cơ sở dữ liệu 25 
kịch bản sóng thần (Hình 3.12). Các kịch bản này được tính toán và xây dựng 
trong khuôn khổ đề tài “Xây dựng cơ sở dữ liệu kịch bản sóng thần” do Vũ 
Thanh Ca chủ nhiệm [1]. 
Giá trị độ nguy hiểm ngập lụt (H) được phân ra thành 4 cấp độ tương ứng với 
các giá trị độ sâu ngập lụt. 
- Từ 0 3m: H = 1 
- Từ 3 6m: H = 2 
- Từ 6 9m: H = 3 
- >= 9m : H =4 
2.3.3. Mức độ rủi ro do sóng thần 
Như đã trình bày ở trên, giá trị độ rủi ro được tính toán thông qua giá trị 
mức độ tổn thương và giá trị độ nguy hiểm ngập lụt sóng thần. Giá trị mức độ 
tổn thương trong khoảng từ 1 đến 5 và giá trị độ nguy hiểm ngập lụt nằm 
trong khỏang từ 1 đến 4. Do vậy, giá trị mức độ rủi ro sóng thần cho từng yếu 
tố mức độ tổn thương được xác định bởi công thức: 
 R = VxH/4 (2.7) 
31 
Trong đó,V mức độ tổn thương; H là mức độ nguy hiểm ngập lụt và R là giá 
trị rủi ro. Giá trị R phải là số nguyên và nằm trong khoảng từ 1 đến 5. Ở đây, 
Giá trị R = 5 là mức độ rủi ro lớn nhất. 
 Trên cơ sở quy trình và phương pháp luận trình bày ở trên, luận văn đã 
bước đầu áp dụng tính toán mức độ rủi ro sóng thần cho khu vực thành phố 
Nha Trang với hai tham số chính là nhà cửa và người. Các kết quả tính toán 
sẽ được hiển thị dưới dạng bản đồ mức đô rủi ro, trên cơ sở áp dụng công cụ 
GIS. Trong chương tiếp theo sẽ trình bày chi tiết việc thành lập bản đồ độ rủi 
ro sóng thần cho khu vực đô thị của thành phố Nha Trang. 
32 
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ ĐỘ RỦI RO SÓNG THẦN GÂY RA ĐỐI VỚI 
KHU VỰC THÀNH PHỐ NHA TRANG 
Trong chương này, phương pháp luận đánh giá độ rủi ro sóng thần 
được áp dụng thử nghiệm cho một khu vực đô thị của thành phố Nha Trang 
theo quy trình minh họa trên hình 2.1 ở chương hai. Toàn bộ quy trình đánh 
giá độ rủi ro sóng thần được thực hiện với sự trợ giúp của công nghệ GIS. 
Dưới đây là mô tả chi tiết các nội dung đã thực hiện. 
3.1. Khu vực nghiên cứu 
Khu vực nghiên cứu được lựa chọn nằm sát đường bờ biển, bao gồm 11 
phường nội thành của thành phố Nha Trang với diện tích 7,9 km2 và tổng số 
dân là 163.885 người (Hình 3.1). 
Hình 3.1. Vị trí khu vực nghiên cứu trên bản đồ thành phố Nha Trang 
33 
Bảng 3.1: Dân số và diện tích các phường khu vực nghiên cứu năm 2009. 
STT Tên Phường Dân số (người) Diện tích (km2) 
1 Vĩnh Phước 20.662 1,09 
2 Vĩnh Thọ 14.823 1,3 
3 Vạn Thắng 13.012 0,28 
4 Xương Huân 17.873 0,61 
5 Phương Sài 13.284 0,29 
6 Phước Tân 13.103 0,48 
7 Phước Tiến 12.680 0,3 
8 Phước Hòa 14.461 1,12 
9 Tân Lập 16.242 0,59 
10 Lộc Thọ 12.861 1,47 
11 Vạn Thạnh 14.884 0,37 
3.2. Xây dựng cơ sở dữ liệu GIS tổng hợp phục vụ đánh giá rủi ro sóng thần. 
3.2.1 Các dữ liệu thuộc tính 
Các dữ liệu thuộc tính được sử dụng bao gồm hai loại chính là dữ liệu 
về dân số và dữ liệu về nhà cửa, trong đó các dữ liệu về dân số được khai thác 
từ các niên giám thống kê. Số liệu dân số chi tiết tới cấp phường được liệt kê 
trong bảng 3.1 [11]. 
Để khảo sát và thu thập các dữ liệu thuộc tính về nhà cửa, công tác thực địa 
được tổ chức quy mô tại khu vực đô thị sát bờ biển thành phố Nha Trang. Các 
cán bộ khảo sát đã tiến hành khảo sát các công trình xây dựng trên toàn bộ 
các khu phố, các ngõ phố, các cụm dân cư trên địa bàn theo mẫu phiếu điều 
tra đã lập sẵn. Các dữ liệu thuộc tính về nhà cửa được nối kết với các dữ liệu 
không gian về nhà cửa, được số hóa từ ảnh nền Google ở tỷ lệ 1:2000. 
34 
Ngôn ngữ lập trình Avenue được sử dụng để xây dựng cơ sở dữ liệu 
thành phần mang tên “Cơ sở dữ liệu khảo sát nhà cửa thành phố Nha Trang’’ 
và đưa vào lưu trữ trong cơ sở dữ liệu GIS tổng hợp. Cơ sở dữ liệu này hoạt 
động trên môi trường GIS của phần mềm ArcView. Các công cụ tùy biến 
được xây dựng cho phép nhập các dữ liệu thuộc tính từ 1911 phiếu điều tra 
thu được từ chuyến khảo sát nhà cửa tại thành phố Nha Trang vào cơ sở dữ 
liệu. Đồng thời, các công cụ chỉnh sửa, tìm kiếm và kết xuất dữ liệu cũng 
được xây dựng để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý và khai thác dữ liệu. 
Trên hình 3.2 minh họa giao diện của cơ sở dữ liệu khảo sát nhà cửa. Ngoài ra, 
các công cụ nhập, tìm kiếm và kết xuất dữ liệu cũng được xây dựng để trợ giúp 
cho người sử dụng trong việc khai thác cơ sở dữ liệu (các hình 3.3, 3.4). 
Hình 3.2. Bảng chọn chính của cơ sở dữ liệu khảo sát nhà cửa 
 Thành phố Nha Trang. 
35 
Hình 3.3. Công cụ tìm kiếm dữ liệu. 
Hình 3.4. Cửa sổ nhập dữ liệu 
36 
3.2.2 Các dữ liệu không gian 
Cở sở dữ liệu GIS được bổ sung các dữ liệu không gian dưới dạng các 
bản đồ chuyên đề chứa các lớp thông tin đồ họa phục vụ cho các tính toán và 
thành lập các bản đồ kết quả. Toàn bộ các bản đồ chuyên đề và các bản đồ kết 
quả được lưu trữ trong môi trường của phần mềm Arcview GIS. Việc xây dựng 
các bản đồ chuyên đề được mô tả chi tiết trong mục 3.4.1 của chương này. 
3.2.3 Cơ sở dữ liệu GIS tổng hợp 
Các dữ liệu thuộc tính và không gian được nối kết trong một cơ sở dữ 
liệu GIS tổng hợp, phục vụ cho các tính toán đánh giá độ rủi ro sóng thần cho 
khu vực nghiên cứu. Do cơ sở dữ liệu được quản lý bằng phần mềm 
ArcView, mọi thao tác với cơ sở dữ liệu được thực hiện dễ dàng và thuận tiện 
trong môi trường của phần mềm này. Người sử dụng có thể sử dụng các công 
cụ và chức năng ngầm định của ArcView để hiển thị, cập nhật, chỉnh sửa và 
in các sản phẩm đồ họa từ cơ sở dữ liệu ra máy in với độ chính xác, hình thức 
đẹp và chất lượng cao. 
3.3 Xây dựng các công cụ tính toán trên môi trường GIS. 
Việc tính toán theo các công thức đề xuất trong phương pháp luận chỉ 
sử dụng các công cụ ngầm định của arcview sẽ tốn rất nhiều thời gian và công 
sức. Để thực hiện quy trình đánh giá độ rủi ro sóng thần một cách có hiệu quả, 
một bộ công cụ tính toán được xây dựng dưới dạng các chương trình con viết 
trên ngôn ngữ Avenue, một ngôn ngữ lập trình mặc định của phần mêm 
Arcview GIS. Bộ công cụ được xây dựng cho phép áp dụng phương pháp 
luận đề xuất cho một khu vực bất kỳ tại Việt Nam. 
Các công cụ tính toán được xây dựng có lưu ý tới việc sử dụng các dữ 
liệu đầu vào, bao gồm dữ liệu về nhà cửa và dân số. Các công cụ này cho 
phép tự động nhập các tham số đầu vào, thực hiện việc tính toán theo các 
37 
công thức đề xuất trong phương pháp luận và hiển thị trên màn hình các bản 
đồ kết quả. 
Bộ công cụ tính toán bao gồm 20 chương trình được viết trên ngôn ngữ 
Avenue, trong đó quan trọng nhất là các chương trình tính toán được liệt kê 
dưới đây : 
- Chương trình tính toán và lập bản đồ mức độ tổn thương nhà cửa do 
sóng thần gây ra cho một khu vực đô thị, sử dụng công thức (2.3) 
trong chương hai. 
- Chương trình tính toán và lập bản đồ dự báo mức độ tổn thương về 
người do sóng thần gây ra cho một khu vực đô thị, sử dụng các công 
thức (2.4) trong chương hai. 
- Chương trình tính toán và lập bản đồ rủi ro sóng thần cho khu vực 
đô thị, áp dụng công thức (2.7) trong chương hai. 
3.4 Đánh giá độ rủi ro sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang 
Như đã trình bày trong chương 2, toàn bộ quy trình đánh giá rủi ro sóng 
thần cho khu vực đô thị được thực hiện theo ba bước chính, bao gồm : 1) đánh 
giá mức độ tổn thương do sóng thần (V) ; 2) đánh giá mức độ nguy hiểm sóng 
thần (H) và 3) đánh giá độ rủi ro sóng thần (R). Nội dung thực hiện các bước 
của quy trình được mô tả chi tiết dưới đây. 
3.4.1 Đánh giá mức mức độ tổn thương đối với nhà cửa và người 
3.4.1.1 Xây dựng các bản đồ chuyên đề về nhà cửa tại thành phố Nha Trang 
Việc đánh giá mức độ tổn thương đối với nhà cửa dựa trên kết quả tính 
toán và xây dựng 5 bản đồ chuyên đề. Các bản đồ chuyên đề biểu thị phân bố 
không gian của các tham số được sử dụng để tính toán và thành lập bản đồ dự 
báo mức độ tổn thương đối với nhà cửa do sóng thần. Bản đồ kết quả đánh giá 
mức độ tổn thương đối với nhà cửa sẽ được trình bày chi tiết trong mục 3.4.1.3. 
Dưới đây mô tả việc xây dựng các bản đồ chuyên đề bằng công cụ GIS. 
38 
 Bản đồ phân bố kết cấu nhà cửa (m) 
Bản đồ kết cấu nhà cửa cho khu vực nghiên cứu được xác định căn cứ 
theo kết cấu nhà cửa và hiện trạng chất lượng của công trình theo các số liệu 
khảo sát thực địa. Trên cơ sở số liệu khảo sát nhà cửa thực tế, có thể phân loại 
nhà cửa theo 3 dạng chính : nhà gỗ, nhà gạch xây nề, nhà xây dựng bê tông 
cốt thép có chịu lực (Hình 3.5). 
Hình 3.5. Bản đồ phân bố giá trị trọng số (m) theo vật liệu xây dựng 
nhà cửa 
39 
Bản đồ mô tả chức năng sử dụng tầng trệt (g) 
Giá trị của g được xác định dựa trên sự kết hợp các thông tin từ chức 
năng sử dụng và số tầng của ngôi nhà. Chức năng sử dụng của các ngôi nhà 
được phân ra thành 3 nhóm theo số tầng như sau (Hình 3.6): 
 nhóm 1 chứa các nhà có số tầng 1, 2, 7, 9; 
 nhóm 2 chứa các nhà có số tầng là 3, 4, 8; 
 nhóm 3 chứa các nhà có số tầng là 5, 6. 
40 
Hình 3.6. Bản đồ phân bố giá trị trọng số (g) theo chức năng 
sử dụng tầng trệt. 
41 
Bản đồ phân bố giá trị trọng số (s) của nhà cửa theo số tầng 
Giá trị của s (số tầng của ngôi nhà) được xác định thông qua số liệu 
khảo sát thực tế (Hình 3.7). 
Hình 3.7. Bản đồ phân bố giá trị trọng số (s) nhà cửa theo số tầng. 
42 
Bản đồ phân bố nhà cửa theo khoảng cách tới bờ biển (d) 
Trên cơ sở số liệu nhà cửa được số hóa tại khu vực nghiên cứu, việc 
xác định khỏang cách của từng ngôi nhà so với bờ biển được tính toán trực 
tiếp trên môi trường GIS thông qua việc xác định centroid của từng khối nhà 
dạng polygon đến đường bờ biển (Hình 3.8). 
Bản đồ phân bố giá trị trọng số ( f) nhà cửa theo kết cấu móng nhà. 
Giá trị f được xác định theo số liệu về kết cấu của móng nhà, tuy nhiên 
trên thực tế để thu thập được dữ liệu về kết cấu móng nhà là rất khó khăn. 
Theo các chuyên gia xây dựng công trình, kết cấu móng nhà có thể xác định 
được dựa trên số liệu về kết cấu của ngôi nhà và số tầng (Hình 3.9). 
Bảng 3.2 liệt kê mối quan hệ phổ biến nhất giữa chức năng sử dụng nhà cửa 
và số tầng nhà tại khu vực khảo sát. Căn cứ vào các tiêu chuẩn đề ra, các yếu 
tố ảnh hưởng được gán các trị số như trình bày trong bảng 3.3. 
Công thức (3) được áp dụng để tính giá trị mức độ tổn thương cho từng 
khối nhà trên bản đồ nhà cửa tại khu vực nghiên cứu. Các chương trình viết 
trên ngôn ngữ Avenue cho phép thực hiện các tính toán nhanh chóng và tự 
động trên môi trường GIS. Các giá trị VNC nhận được được sử dụng để thành 
lập bản đồ mức độ tổn thương nhà cửa do sóng thần tại khu vực nghiên cứu ở 
ba mức độ: cao, thấp và trung bình. 
43 
Hình 3.8. Bản đồ phân bố giá trị trọng số (d) nhà cửa theo khoảng cách tới 
bờ biển 
44 
Hình 3.9. Bản đồ phân bố giá trị trọng số (f)theo kết cấu móng nhà 
45 
Bảng 3.2. Phân nhóm các chức năng sử dụng nhà cửa 
Chức năng sử dụng nhà Số tầng 
Quân đội 1 
Tôn giáo (Nhà thờ, chùa) 2 
Khách sạn, khách sạn + nhà ở 3 
Nhà ở, Nhà ở + cửa hàng 4 
Siêu thị, chợ 5 
Nhà hàng, Cửa hàng dịch vụ 6 
Trường học, viện bảo tàng 7 
Cơ quan, văn phòng+nhà ở 8 
Bảng 3.3. Gán giá trị cho các yếu tố ảnh hưởng 
Yếu tố 
ảnh 
hưởng 
Giá trị đề nghị 
1 2 3 4 5 
m 
Bê tông 
cốt thép 
chịu lực 
Gạch, gỗ , 
bê tông 
không có 
cốt thép 
 Gỗ 
g 
Mặt tiền 
mở, không 
có các đồ 
vật di động 
Mặt tiền 
mở, có các 
đồ vật di 
động 
Không có 
mặt tiền 
mở 
s 5 tầng 4 tầng 3 tầng 2 tầng 1 tầng 
 3.4.1.2 Xây dựng thuật toán đánh giá mức độ tổn thương về người do sóng 
thần tại thành phố Nha Trang 
Để đánh giá mức độ tổn thương cho tham số «Người», trong nghiên cứu 
này chỉ xét trường hợp sóng thần xảy ra trong mùa du lịch. Khi đó công thức 
(2.4) trở thành : 
46 
VNG = KE.SNĐ.PVC (3.1) 
Do trong thực tế thời gian sơ tán dân có thể vượt quá 15 phút tính từ khi 
báo động nên các giá trị của KE được gán bằng 1. Các tiêu chuẩn đánh giá 
biểu thị các dạng thiệt hại do sóng thần gây ra trong trường hợp này sẽ bao 
gồm: 
- Thiệt hại do ngập lụt; 
- Thiệt hại do các đồ vật trôi dạt gây ra. 
Quá trình gán trọng số được thực hiện bằng phương pháp phân tích đa tiêu 
chuẩn theo các bước đã mô tả trong mục 3. Biểu thức tương quan giữa các 
yếu tố ảnh hưởng nhận được trong trường hợp này có dạng: 
PVC =0.317 d + 0.317 c + 0.293 g + 0.07126 m (3.2) 
Từ (3.1) và (3.2) ta có: 
VNG = KE.SNĐ(0.317 d + 0.317 c + 0.293 g + 0.07126 m) (3.3) 
Như vậy, công thức tính mức độ tổn thương cho tham số dân cư trong 
trường hợp sóng thần tấn công ban ngày là: 
VNGN = KE.(VNC /10 + ½)(0.317 d + 0.317 c + 0.293 g + 0.07126 m) 
(3.4) 
Và trong trường hợp sóng thần tấn công ban đêm là: 
VNGĐ = KE.(VNC /10 + ½)(0.317 d + 0.317 c + 0.293 g + 0.07126 m) 
(3.5) 
Các công thức (3.4) và (3.5) được sử dụng để tính mức độ tổn thương cho 
tham số « Người » trong hai thời điểm tấn công của sóng thần vào ban ngày 
và ban đêm. Các chương trình tính toán viết trên ngôn ngữ Avenue được áp 
dụng cho từng đơn vị tham chiếu tương đương cấp phường tại khu vực nghiên 
47 
cứu. Các giá trị VNGN và VNGĐ được xếp thành ba mức độ : cao, trung bình, 
thấp và được thể hiện trên bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần. 
3.4.1.3 Các bản đồ kết quả mức độ tổn thương do sóng thần đối với nhà cửa 
và người 
Các bản đồ kết quả được thể hiện trên môi trường đồ họa của phần 
mềm ArcView GIS. Trên hình 3.10 minh họa bản đồ mứ
3.10, có thể nhận thấy nguy cơ tổn thương nhà cửa cao nhất tập trung tại 
khu vực cửa sông Cái, đặc biệt là trên cù lao Dê nằm sát biển, nơi tập trung 
nhiều nhà cấp 4 và phải đối mặt với sóng thần từ biển ập vào qua một cửa 
sông hẹp. 
Các bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần gây ra tại hai thời 
điểm ngày và đêm được minh họa trên các hình 3.11a và 3.11b tương ứng. 
Các bản đồ trên hình 3.11 cho thấy nguy cơ tổn thương về người tại hai thời 
điểm trong ngày là khác nhau. Khu vực sát bờ biển, nơi tập trung nhiều khách 
sạn, nhà cao tầng và được gia cố tốt lại có mức độ tổn thương thấp hơn so với 
khu dân cư thuộc các phường Phước Hòa, Vạn Thanh, … nằm sâu hơn trong 
lục địa. Qua đó cho thaýa việc thiết kế nhà cửa để phòng chống và giảm nhẹ 
hậu quả khi thiên tai xảy là hết sức quan trọng. 
48 
Hình 3.10. Bản đồ mức độ tổn thương nhà cửa do sóng thần 
49 
(a) 
Hình 29. Bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần gây ra cho 
 khu vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang cho trường hợp ban ngày 
(a) 
50 
(b) 
Hình 29. Bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần gây ra cho 
 khu vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang cho trường ban đêm (b). 
51 
3.4.2 Đánh giá độ nguy hiểm sóng thần 
 Như đã trình bày ở trên, bản đồ ngập lụt do sóng thần đối với khu vực 
thành phố Nha Trang được lấy trực tiếp từ kịch bản số 4 trong cơ sở dữ liệu 
25 kịch bản sóng thần (Hình 3.12). Từ hình 3.12 có thể nhận thấy trong khu 
vực nghiên cứu một số phường ven biển như Vĩnh Thọ, Xương Huân, Lộc 
Thọ chịu mức độ ngập lụt lớn hơn 3m tương ứng với H = 2. Trong khi đó một 
số khu vực thuộc phường Tân Lập và Vạn Thạnh chịu tác mức độ ngập lụt 
dưới 2m tương ứng với H =1. Các phường nằm sâu hơn trong phía đất liền 
không bị ngập lụt [1]. 
Bảng 3.4 Các thông số vùng nguồn máng sâu Manila 
Stt 
Mô 
hinh 
Tọa độ 
Độ 
sâu 
Chiều 
dài 
Chiều 
rộng 
Đường 
phương 
Góc 
dốc 
Góc 
trượt 
Mw 
1 Fault 
1 
120.00 20.88 20 201.3 154.5 334.46 15 90 8.5 
52 
Hình 3.12. Bản đồ ngập lụt khu vực đô thị thành phố Nha Trang (theo[1]). 
3.4.3 Đánh giá độ rủi ro sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang. 
Trên cơ sở phương pháp luận và quy trình thực hiên được trình bày 
trong chương hai, các kết quả tính toán mức độ tổn thương sóng thần, độ nguy 
hiểm ngập lụt do sóng thần theo kịch bản số 4 trình bày ở trên, được sử dụng 
để tính toán mức độ rủi ro sóng thần cho khu vực nghiên cứu. 
53 
Từ công thức (2.7), mức độ rủi ro do sóng thần đối với tham số nhà cửa 
và người được viết lại thành: 
R = (VNCx H)/4 
R = (VNxH)/4 
Trong đó R là giá trị độ rủi ro, VNC, VN là các giá trị mức độ tổn thương 
đối với nhà cửa và người, H giá trị độ nguy hiểm ngập lụt. 
Các bản đồ kết quả đánh giá rủi ro do sóng thần gây ra đối với nhà cửa và người. 
Kết quả tính toán mức độ rủi ro sóng thần đối với nhà cửa ứng với kịch 
bản số 4, với magnitude 8.6 độ Rích te, được thể hiện dưới dạng bản đồ (hình 
3.13). Theo kết quả trên bản đồ, rõ ràng những khu vực ven biển chịu mức độ 
rủi ro lớn hơn, điều này hoàn toàn phù hợp với số kết quả tính toán ngập lụt 
và mức độ tổn thương. Giá trị mức độ khu vực dải ven biển chủ yếu ở cấp độ 
1 và 2 tập trung tại một số phương như Vĩnh Thọ, Vĩnh Phước, Vạn Thắng, 
Xương Huân và Lộc Thọ. Một số lượng rất nhỏ lên đến cấp 3 và những ngôi 
nhà chủ yếu là nhà gỗ tại khu vực phường Lộc Thộ và Xương Huân. Tuy 
nhiên đây mới chỉ là kết quả tính toán rủi ro sóng thần bước đầu và cần được 
tiếp tục bổ sung nghiên cứu thêm. 
54 
Hình 3.13. Bản đồ dự báo mức độ rủi ro nhà cửa do sóng thần 
55 
Tham số người 
Tương tự như đối với nhà cửa, kết quả tính toán mức độ rủi ro sóng 
thần đối với người được thành lập dưới dạng bản đồ (hình 3.14). Giá trị mức 
độ rủi ro được tính cho hai thời điểm ban ngày và ban đêm. Trên hình 3.14a 
giá trị mức độ rủi ro ứng với thời điểm ban ngày lớn nhất là mức độ 1 xảy ra 
tại một số phường Vĩnh Thọ, Vĩnh Phước, Vạn Thạnh, Xương Huân, Phươc 
Tiên, Tân Lập và Lộc Thọ. 
Bên cạnh đó, trên hình 3.14b cho thấy mức độ rủi ro sóng thần với thời 
điểm ban đêm có phần cao hơn giá trị lớn nhất là cấp độ 2 xảy ra tại các 
phường Vĩnh Thọ, Xương Huân, và Lộc Thọ. Các phường Vĩnh Thọ, Vạn 
Thạnh và Tân Lập chịu ảnh hưởng mức độ 1. Các phường còn lại như Phước 
Hòa, Phước Tiến, Phước Tân và Phương Sài không bị ảnh hưởng. 
Qua kết quả thể hiện trên hình 3.14 có thể nhận ra là giá trị mức dộ rủi 
ro tại hai thời điểm này khác nhau, đồng thời phản ánh đúng thực tế là nếu 
sóng thần xảy ra vào ban đêm nguy cơ thiệt hại sẽ cao hơn. 
56 
a) 
Hình 3.14. Bản đồ mức độ rủi ro về người do sóng thần gây ra cho khu 
vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang cho trường hợp ban ngày (a) 
57 
b) 
Hình 3.14. Bản đồ mức độ rủi ro về người do sóng thần gây ra cho khu 
vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang cho trường hợp ban đêm (b). 
58 
KẾT LUẬN 
Luận văn đã đạt được một số kết quả chính sau đây: 
- Đề xuất một phương pháp luận mới sử dụng cho việc đánh giá mức độ 
tổn thương ro sóng thần cho một khu vực đô thị ven biển của Việt Nam. 
Phương pháp luận được xây dựng dựa trên lý thiết phân tích đa tiêu chuẩn cho 
phép đánh giá bán định lượng nguy cơ tổn thương về nhà cửa và người do 
sóng thần gây ra.Ưu điểm chính của phương pháp luận là đơn giản, linh hoạt 
đối với sự thay đổi các điều kiện cụ thể của khu vực nghiên cứu và cho phép 
sử dụng triệt để công cụ GIS trong toàn bộ quy trình đánh giá. Phương pháp 
luận đề xuất được áp dụng thử nghiệm cho một khu vực đô thị ven biển của 
thành phố Nha Trang. 
- Đã xây dựng được một cơ sở dữ liệu GIS tổng hợp chứa toàn bộ các 
bản đồ chuyên đề về nhà cửa, dân số và hạ tầng cơ sở của thành phố Nha 
Trang phục vụ cho quy trình đánh giá rủi ro sóng thần. 
- Đã xây dựng được một bộ công cụ tính toán trên môi trường GIS của 
phần mềm ArcView, cho phép tự động tính toán và hiển thị các bản đồ 
chuyên đề và kết quả cho khu vực bất kỳ tại Việt Nam. 
- Đã xây dựng tập bản đồ kết quả hiển thị mức độ tổn thương và khả 
năng bị thiệt hại về người và nhà cửa tại thành phố Nha Trang nếu có sóng 
thần xảy ra. Đây là các thông tin quan trọng, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch 
ứng phó với hiểm họa sóng thần tại địa phương. 
Do hạn chế về thời gian, luận văn còn một số điểm tồn tại cần khắc phục 
trong các nghiên cứu tiếp theo, bao gồm: 
- Giá trị của các tham số về độ nguy hiểm sóng thần được lấy từ các kịch 
bản tính sẵn đã công bố từ trước. Trong tương lai, quy trình đánh giá độ nguy 
hiểm sóng thần cần được bổ sung các nghiên cứu chi tiết hơn. 
- Phương pháp thành lập bản đồ rủi ro sóng thần còn đơn giản, cần được 
tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và nâng cấp để hoàn thiện phương pháp luận và 
quy trình đánh giá độ rủi ro sóng thần ở Việt Nam. 
59 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Vũ Thanh Ca (2008). Xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng thần cho 
các vùng bờ biển Việt Nam, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Bộ TNMT năm 
2006-2008. 
2. Nguyễn Văn Dương (2010). Tính toán và xây dựng bản đồ độ nguy 
hiểm sóng thần ven biển miền trung từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi. Báo 
cáo chuyên đề thực hiện Dự án ‘‘Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm 
động đất và sóng thần ở vùng bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải 
pháp phòng tránh’’. 
3. Nguyễn Hồng Phương. Bản đồ độ nguy hiểm động đất Việt nam và 
Biển Đông. Tạp chí Các khoa học về Trái Đất, 26(2), 97-111, 2004. 
4. Nguyễn Hồng Phương (2009). Đánh giá độ nguy hiểm và độ rủi ro động 
đất cho thành phố Nha Trang. Báo cáo chuyên đề thực hiện Dự án hợp 
tác Việt- Pháp “Hệ thống hỗ trợ ra quyết định không gian tổng hợp 
phục vụ cảnh báo đô thị” (ISSUE), Hà Nội. 
5. Nguyễn Hồng Phương, Bùi Công Quế, Nguyễn Đình Xuyên (2010). 
Khảo sát các vùng nguồn sóng thần có khả năng gây nguy hiểm tới 
vùng bờ biển Việt Nam. Tạp chí các Khoa học về trái đất, 32(1), 2010, 
36-47. 
6. Nguyễn Hồng Phương, Phạm Thế Truyền, Adrien moiret (2011). Đánh 
giá nguy cơ tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha 
Trang. Tạp chí các Khoa học về trái đất, 33(1), 2011, 1-9. 
7. Nguyễn Hồng Phương, Vũ Hà Phương, Phạm Thế Truyền (2011). Xây 
dựng kế hoạc sơ tán sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang 
sử dụng công nghệ GIS. Hội nghị khoa học công nghệ biển toàn quốc 
lần V, quyển 2, p178 -190. 
8. Bùi Công Quế (2010). Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và 
sóng thần ở vùng bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng 
tránh. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà 
nước, Viện Vật lý Địa cầu, 2010. 
60 
9. Trần Thị Mỹ Thành (2009). Quy trình công nghệ đánh giá độ nguy 
hiểm sóng thần và cảnh báo nguy cơ sóng thần trên vùng ven biển Việt 
Nam (phù hợp yêu cầu của Hệ thống cảnh báo khu vực), Báo cáo tổng 
kết Đề tài độc lập cấp Viện KH&CN Việt Nam năm 2007-2008. 
10. Phạm Văn Thục (1995), Bước đầu đánh giá ảnh hưởng của sóng thần ở 
Biển Đông đến bờ biển Việt Nam, Các công trình nghiên cứu địa chất 
và địa vật lý biển, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1995. 
11. Nguyễn Đình Xuyên (2007). Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động 
đất và sóng thần vùng ven biển Việt Nam, đề xuất các biện pháp cảnh 
báo và phòng tránh, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Viện KH&CN Việt 
Nam năm 2005-2006. 
12. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiếng Việt. 
Tiếng Anh 
13. Abe K. (1975). Reliable estimation of the seismic mement of large 
earthquakes; J. Phys. Earth, 23, 381-390. 
14. Aida, I. (1988). Tsunami hazard probability in Japan. Bull. Seism. Soc. 
Am. 78, 3, 1268 – 1278. 
15. Bautista P. Leonila Ma. Historical Tsunami of the Philippine (1589 to 
1999) PHIVOLCS. Oct.4, 2001. 
16. Bautista P. Leonila Ma., Kazuo Oike. Estimation of the Magnitudes 
and Epicenters of Philippine Historical Earthqukes. Tectonophysics 317 
(2000) 137-169. 
17. Berryman, K. (Compiler), 2005. “Review of Tsunami Hazard and Risk 
in New Zealand”. Institute of Geological & Nuclear Sciences, Client 
Report 2005/104, Wellington. 
18. Department for Communities and Local Government: London (2009). 
Multi-criteria analysis: a manual, 161p. 
19. Downes, G. L. and Stirling, M. W.: 2001, Groundwork for development 
of a probabilistic tsunami hazard model for New Zealand, International 
Tsunami Symposium 2001, Seattle, Washington, pp. 293–301. 
61 
20. Geist, E. L., 2005: Local Tsunami Hazards in the Pacific Northwest 
from Cascadia Subduction Zone Earthquakes. U.S. Geological Survey 
Professional Paper 1661-B, 17 pp. 
21. Geist, E. L., Tom Parsons, 2006. Probabilistic analysis of Tsunami 
hazards. Nutural hazard, 37, 277 - 134. 
22. Hills, S.G. and Mader, C.L., 1997. Tsunami produced by the impacts of 
small asteroids, Annals of Sciences, 822, pp. 381-394. 
23. Italian Ministry for the Environment and Territory (2005). CRATER 
(Coastal Risk Aanalysis of Tsunamis and Environmental Remediation). 
Final report extract. 
24. Papathoma M. and Dominey Howes D. (2003). Tsunami vulnerability 
assessment and its implications for coastal hazard analysis and disaster 
management planning, Gulf of Corinth, Greece. Natural Hazards and 
Earth System Sciences, 3, pp.733-747. 
25. Priest, G.R.,1995. Explanation of Mapping Methods and Use of the 
Tsunami Hazard Maps of the Oregon Coast, State of Oregon 
Department of Geology and Mineral Industries, Suite 965, 800 NE 
Oregon St., #28 Portland, Oregon 97232, Open- File Report O-95-67. 
26. Rikitake, T. and Aida, I.: 1988, Tsunami hazard probability in Japan, 
Bull. Seismol. Soc. Am. 78, 1268–1278. 
27. Saunders, Wendy (compiler), 2006. “National population casualties 
resulting from tsunami in New Zealand”. GNS Science Consultancy 
Report 2006/107, Institute of Geological & Nuclear Sciences, Lower Hutt. 
28. Takahashi, R. (1951). An estimate of future tsunami damage along the 
Pacific coast of Japan, Bull. Earthquake Res. Inst., Tokyo Univ. 29, 71-95. 
29. UNESCO-IOC.2009. Five years after the Tsunami in the Indian Ocean. 
From strategy to implementation. Paris. 
61 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Vũ Thanh Ca (2008). Xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng thần cho các 
vùng bờ biển Việt Nam, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Bộ TNMT năm 2006-
2008. 
2. Nguyễn Văn Dương (2010). Tính toán và xây dựng bản đồ độ nguy hiểm sóng 
thần ven biển miền trung từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi. Báo cáo chuyên đề 
thực hiện Dự án ‘‘Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần ở 
vùng bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng tránh’’. 
3. Nguyễn Hồng Phương. Bản đồ độ nguy hiểm động đất Việt nam và Biển 
Đông. Tạp chí Các khoa học về Trái Đất, 26(2), 97-111, 2004. 
4. Nguyễn Hồng Phương (2009). Đánh giá độ nguy hiểm và độ rủi ro động đất 
cho thành phố Nha Trang. Báo cáo chuyên đề thực hiện Dự án hợp tác Việt- 
Pháp “Hệ thống hỗ trợ ra quyết định không gian tổng hợp phục vụ cảnh báo 
đô thị” (ISSUE), Hà Nội. 
5. Nguyễn Hồng Phương, Bùi Công Quế, Nguyễn Đình Xuyên (2010). Khảo sát 
các vùng nguồn sóng thần có khả năng gây nguy hiểm tới vùng bờ biển Việt 
Nam. Tạp chí các Khoa học về trái đất, 32(1), 2010, 36-47. 
6. Nguyễn Hồng Phương, Phạm Thế Truyền, Adrien moiret (2011). Đánh giá 
nguy cơ tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang. 
Tạp chí các Khoa học về trái đất, 33(1), 2011, 1-9. 
7. Nguyễn Hồng Phương, Vũ Hà Phương, Phạm Thế Truyền (2011). Xây dựng 
kế hoạc sơ tán sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang sử dụng 
công nghệ GIS. Hội nghị khoa học công nghệ biển toàn quốc lần V, quyển 2, 
p178 -190. 
8. Bùi Công Quế (2010). Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng 
thần ở vùng bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng tránh. Báo cáo 
tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước, Viện Vật lý Địa 
cầu, 2010. 
62 
9. Trần Thị Mỹ Thành (2009). Quy trình công nghệ đánh giá độ nguy hiểm sóng 
thần và cảnh báo nguy cơ sóng thần trên vùng ven biển Việt Nam (phù hợp 
yêu cầu của Hệ thống cảnh báo khu vực), Báo cáo tổng kết Đề tài độc lập cấp 
Viện KH&CN Việt Nam năm 2007-2008. 
10. Phạm Văn Thục (1995), Bước đầu đánh giá ảnh hưởng của sóng thần ở Biển 
Đông đến bờ biển Việt Nam, Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý 
biển, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1995. 
11. Nguyễn Đình Xuyên (2007). Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và 
sóng thần vùng ven biển Việt Nam, đề xuất các biện pháp cảnh báo và phòng 
tránh, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Viện KH&CN Việt Nam năm 2005-2006. 
12. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiếng Việt. 
Tiếng Anh 
13. Abe K. (1975). Reliable estimation of the seismic mement of large 
earthquakes; J. Phys. Earth, 23, 381-390. 
14. Aida, I. (1988). Tsunami hazard probability in Japan. Bull. Seism. Soc. Am. 
78, 3, 1268 – 1278. 
15. Bautista P. Leonila Ma. Historical Tsunami of the Philippine (1589 to 1999) 
PHIVOLCS. Oct.4, 2001. 
16. Bautista P. Leonila Ma., Kazuo Oike. Estimation of the Magnitudes and 
Epicenters of Philippine Historical Earthqukes. Tectonophysics 317 (2000) 
137-169. 
17. Berryman, K. (Compiler), 2005. “Review of Tsunami Hazard and Risk in 
New Zealand”. Institute of Geological & Nuclear Sciences, Client Report 
2005/104, Wellington. 
18. Department for Communities and Local Government: London (2009). Multi-
criteria analysis: a manual, 161p. 
19. Downes, G. L. and Stirling, M. W.: 2001, Groundwork for development of a 
probabilistic tsunami hazard model for New Zealand, International Tsunami 
Symposium 2001, Seattle, Washington, pp. 293–301. 
63 
20. Geist, E. L., 2005: Local Tsunami Hazards in the Pacific Northwest from 
Cascadia Subduction Zone Earthquakes. U.S. Geological Survey Professional 
Paper 1661-B, 17 pp. 
21. Geist, E. L., Tom Parsons, 2006. Probabilistic analysis of Tsunami hazards. 
Nutural hazard, 37, 277 - 134. 
22. Hills, S.G. and Mader, C.L., 1997. Tsunami produced by the impacts of small 
asteroids, Annals of Sciences, 822, pp. 381-394. 
23. Italian Ministry for the Environment and Territory (2005). CRATER (Coastal 
Risk Aanalysis of Tsunamis and Environmental Remediation). Final report 
extract. 
24. Papathoma M. and Dominey Howes D. (2003). Tsunami vulnerability 
assessment and its implications for coastal hazard analysis and disaster 
management planning, Gulf of Corinth, Greece. Natural Hazards and Earth 
System Sciences, 3, pp.733-747. 
25. Priest, G.R.,1995. Explanation of Mapping Methods and Use of the Tsunami 
Hazard Maps of the Oregon Coast, State of Oregon Department of Geology 
and Mineral Industries, Suite 965, 800 NE Oregon St., #28 Portland, Oregon 
97232, Open- File Report O-95-67. 
26. Rikitake, T. and Aida, I.: 1988, Tsunami hazard probability in Japan, Bull. 
Seismol. Soc. Am. 78, 1268–1278. 
27. Saunders, Wendy (compiler), 2006. “National population casualties resulting 
from tsunami in New Zealand”. GNS Science Consultancy Report 
2006/107, Institute of Geological & Nuclear Sciences, Lower Hutt. 
28. Takahashi, R. (1951). An estimate of future tsunami damage along the Pacific 
coast of Japan, Bull. Earthquake Res. Inst., Tokyo Univ. 29, 71-95. 
29. UNESCO-IOC.2009. Five years after the Tsunami in the Indian Ocean. From 
strategy to implementation. Paris. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luanvan_phamthetruyen_1418.pdf luanvan_phamthetruyen_1418.pdf