PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo đói là một vấn đề mang tính chất toàn cầu luôn tồn tại trong xã hội. Nghèo đói làm cho nền kinh tế chậm phát triển, giải quyết vấn đề nghèo đói là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Ngay cả những nước phát triển cao cũng có tình trạng nghèo đói. Theo ngân hàng thế giới đến năm 2011vẫn còn 1.1 tỷ người nghèo, đói chiếm 21% dân số thế giới. Đó là một thách thức lớn cho sự phát triển của toàn thế giới
Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, với gần 70% dân cư sống ở khu vực nông thôn, lực lượng lao động làm nông nghiệp là rất lớn. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về kinh tế và trình độ phân công lao động xã hội kém, dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức tăng trưởng xã hội thấp.
Tình hình nghèo đói ở Việt Nam diễn ra rất phổ biến và phức tạp đặc biệt khu vực miền núi và nông thôn chiếm tỷ lệ rất cao, có sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn giữa thành thị và nông thôn. Nghèo đói làm cho trình độ dân trí không thể nâng cao, đời sống xã hội không thể phát triển được.
Chính vì vậy trong quá trình xây dựng và đổi mới Đảng và nhà nước ta luôn đặt mục tiêu xóa đói giảm nghèo lên hàng đầu góp phần đem lại hiệu quả thiết thực cho người nghèo, ổn định thu nhập, nâng cao đời sống và tạo mọi điều kiện để đáp ứng đầy đủ nhu cầu và nguyện vọng của người nghèo đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới nhằm hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xã Hoà Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk là một xã phần đông dân số sống bằng nghề nông nghiệp, thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp, điều kiện sản xuất khó khăn nên ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao nên công tác xóa đói giảm nghèo tại xã luôn là vấn đề cấp thiết và nan giải, từ những khó khăn và nhu cầu bức thiết của người dân, nhằm tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo và đời sống của người dân trên địa bàn nên tôi chọn đề tài. “Đánh giá tình hình xóa đói giảm nghèo tại Xã Hoà Sơn, Huyện Krông Bông, Tỉnh Đăk Lăk” để nghiên cứu.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá tình hình xóa đói giảm nghèo tại địa bàn xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông, tỉnh ĐăkLăk.
- Tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
- Đưa ra một số đề xuất góp phần tăng cường hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của hộ nghèo xã.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tình hình: Sản xuất, tiêu dùng, vấn đề nghèo đói của các hộ nông dân tại bốn Thôn, Buôn trên địa bàn xã Hòa Sơn, Huyện Krông Bông, Tỉnh Đăk Lăk.
1.4 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Thông tin sử dụng trong đề tài được thu thập trong phạm vi xã Hoà Sơn, Huyện Krông Bông ,Tỉnh Đăk Lăk.
- Về thời gian:________________________________
_______________________________________________
_______________________________________________
_______________________________________________
39 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4623 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá tình hình xóa đói giảm nghèo tại Xã Hòa Sơn, Huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành hai vùng tương đối rõ rệt, phía Nam là vùng núi cao, phía Bắc là vùng trũng tương đối thấp, độ cao trung bình 650-690m. Đất đai khá bằng phẳng ở khu vực trung tâm, Phía Đông Nam của Xã là dãy núi Chư Yang Sin chiếm 51,54 % diện tích tự nhiên. Khu vực có địa hình thấp hơi có lượn sóng, phân bổ ở phía Tây Bắc. Độ cao trung bình 450 - 470m, chiếm 48,46% diện tích tự nhiên. Nhìn chung, địa hình thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp. Rất thích hợp cho các loại cây Lúa và công nghiệp dài ngày phát triển: cây điều, cà phê .v.v...
3.1.2 Các nguồn tài nguyên
3.1.2.1 Nguồn nước, thuỷ văn
Hệ thống sông suối, chảy trên địa bàn xã phân bố tương đối đồng đều, mật độ sông suối là 0,35-0,55 km/km². Có sông chính (sông Krông Ana) là ranh giới tự nhiên phía Bắc giữa Hòa Sơn và xã Hòa Tân, chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc. Lưu lượng nước của các suối đều chịu ảnh hưởng theo mùa.
- Mùa mưa: 450 - 500 m³/s, nước lớn, dâng nhanh, dòng chảy mạnh.
- Mùa khô: 2,7 m³/s, lưu lượng rút nhanh, lượng nước giảm đáng kể, một số các suối nhỏ hầu như cạn kiệt nước.
3.1.2.2 Tài nguyên đất
Trên địa bàn xã có những nhóm đất chính với diện tích và tỷ lệ từng loại đất như sau:
* Nhóm đất phù sa: Diện tích 1.465 ha, chiếm tỷ lệ 27,29% diện tích tự nhiên toàn xã, phân bổ tập trung ở khu vực thung lũng ven sông thuộc phía Bắc của xã. Đất được bồi đắp hàng năm do bị ngập lụt nên khá phì nhiêu. Hiện nay đất phù sa đang được sử dụng vào trồng lúa hai vụ và hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
* Nhóm đất xám rẫy: Diện tích 1.215,5 ha, chiếm tỷ lệ 22,56%. Phân bố ở khu vực phía Đông Bắc của Xã. Hiện nay đang được khai thác để trồng cà phê, tiêu, điều, sắn...
* Nhóm Đất đỏ vàng trên đất phiến sét: chiếm 14,17%, phân bố ở khu vực phía Tây của xã.
* Nhóm đất vàng nhạt trên đá granit (Fa,Ha) chiếm 18,52%, phân bổ tập trung ở khu vực giữa xã và phía Đông. Đất có tầng dày nhỏ hơn 30cm, thành phần cơ giới từ thịt nặng đến sét, khả năng giữ ẩm kém, có đá lẫn.
* Nhóm đất khác: Bao gồm các loại đất lầy thụt và đất dốc tụ, phân bổ dưới các khe suối hợp thủy. Loại đất này có độ phì khá cao, giàu mùn, khả năng giữ ẩm rất tốt, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ 17,46%.
3.1.2.3 Tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng: 2.790ha.
Trong đó:
- Đất rừng sản xuất: 1.598 ha
- Đất rừng đặc dụng: 959 ha
- Đất rừng trồng: 233 ha
3.1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội
3.1.3.1 Tình hình dân số, dân tộc và tôn giáo
Theo báo cáo UBND xã Hòa Sơn toàn xã có 15 thôn, buôn với 2.044 hộ với 9.867 khẩu. Trong đó đồng bào dân tộc tại chỗ có 243 hộ với 1.255 khẩu chiếm 12,7% dân số toàn xã.
Khi đó, tổng số hộ nghèo tại xã Hòa Sơn: 344 hộ - 1.499 khẩu, chiếm 17.28 %, trong năm đã có 160 hộ nghèo và cận nghèo với sự tín chấp của các đoàn thể, được ngân hàng chính sách cho vay tổng số tiền là 750 triệu đồng, góp phần cải thiện vốn đầu tư sản xuất cho nhân dân.
Công tác phúc tra hộ nghèo năm 2010, kết quả tại xã: 625 hộ, 2828 khẩu chiếm tỷ lệ 30.74%, hộ cận nghèo 271 hộ, 1393 khẩu.
Với 11 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn và có bốn tôn giáo chính gồm có: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành và Cao Đài. Theo thống kê mới nhất tổng số hộ có theo tôn giáo trên địa bàn là 119 hộ chiếm tỷ lệ 5,8% tổng số hộ, và số khẩu tương ứng là 494 khẩu chiếm tỷ lệ 5% tổng số khẩu.
Bảng 3.1 Tình hình dân số trên địa bàn xã
Stt
Thôn, Buôn
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số hộ
Số khẩu
Số hộ
Số khẩu
số hộ
Số khẩu
1
Thôn 1
164
794
168
782
178
816
2
Thôn 2
271
1436
121
630
121
622
3
Thôn 3
215
1102
138
711
140
703
4
Thôn 4
133
701
135
709
141
720
5
Thôn 5
75
411
75
386
76
407
6
Thôn 6
146
737
158
711
168
791
7
Thôn 7
169
844
163
821
174
824
8
Thôn 8
185
996
192
857
205
894
9
Thôn 9
121
592
121
613
134
613
10
Thôn 10
260
1235
149
674
161
721
11
Buôn Ya
117
661
124
687
131
725
12
Thôn Thanh Phú
Chưa thành lập
134
681
142
732
13
Thôn Tân Sơn
Chưa thành lập
40
166
43
181
14
Thôn Quảng Đông
Chưa thành lập
109
573
115
550
15
Thôn Hòa Xuân
Chưa thành lập
113
565
115
568
Tổng cộng
1856
9.509
1.940
9.566
2044
9867
(Nguồn: Báo cáo UBND xã)
3.1.3.2 Tình hình phân bổ và sử dụng đất trên địa bàn
Căn cứ vào kết quả điều tra trên địa bàn xã cũng như kế hoạch sử dụng đất đến 2010, tình hình phân bổ và sử dụng đất như sau:
Tổng diện tích đất nông nghiệp là 4.581,69 ha chiếm 85,04% tổng diện tích tự nhiên. Đất phi nông nghiệp là 303,02 ha chiếm 5,62%, đất chưa sử dụng là 503,29 chiếm 9,34%.
Bảng 3.2 Tình hình phân bổ và sử dụng đất trên địa bàn xã
Chỉ tiêu
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích tự nhiên
5388,00
100
1. Đất nông nghiệp
4581,69
85,04
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp
2179,02
40,44
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm
1717,98
31,89
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm
461,04
8,56
1.2 Đất lâm nghiệp
2376,96
44,12
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản
25,71
0,48
2. Đất phi nông nghiệp
303,02
5,62
2.1 Đất ở
72,67
1,35
2.2 Đất chuyên dùng
185,89
3,45
2.3 Đất sông suối, mặt nước chuyên dùng
30,76
0,57
3. Đất chưa sử dụng
503,29
9,34
(Nguồn: Báo cáo UBND xã)
3.1.3.3 Thực trạng phát triển kinh tế, xã hội
Trong những năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng xã Hòa Sơn biết vận dụng những lợi thế sẵn có của xã đã đưa tốc độ phát triển kinh tế liên tục được gia tăng, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững. Bên cạnh đó được sự chỉ đạo của các cấp và sự nỗ lực của nhân dân địa phương, cán bộ và nhân dân trong xã đã thu được một số kết quả trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội như sau:
Nông lâm nghiệp: Với diện tích đất canh tác là 2.179,02 ha, ngành nghề chủ yếu của bà con trong xã là sản xuất nông nghiệp trồng cây nông sản như, lúa nước, ngô, cà phê, tiêu, điều…Trồng trọt vẫn là ngành chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của xã.
Bảng 3.3 Giá trị các ngành sản xuất
Đơn vị: 1.000.000.000đ
Ngành
Năm 2010
Tỷ lệ (%)
Nông lâm nghiệp
58.08
65.36
Tiểu thủ công nghiệp
10.72
12.06
Thương mại dịch vụ
20.06
22.57
(Nguồn: Báo cáo UBND xã năm 2010)
Ta thấy ngành Nông lâm nghiệp có giá trị sản xuất khá lớn trong tổng giá trị sản xuất của xã 58.08 tỷ đồng chiếm 65.36%; Ngành thương mại dịch vụ 20.06 tỷ đồng chiếm 22.57%; Tiểu thủ công nghiệp 10.72 tỷ đồng chiếm 12.06%. Nông lâm nghiệp vẫn là ngành cho giá trị sản xuất nhiều nhất chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu. Tiểu thủ công nghiệp chưa được phát triển, tỷ trọng của ngành chiếm tỷ lệ rất thấp. Trồng trọt cho đến nay vẫn là ngành sản xuất chính trong nền kinh tế của xã
Cây hàng năm: Có thể nói nhóm cây này là thế mạnh của địa phương, luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng diện tích gieo trồng (>60%).
Cây lúa: Trên địa bàn xã phần diện tích gieo trồng lúa chủ yếu là cây lúa nước, chủ yếu là lúa vụ Mùa còn vụ Đông Xuân là không đáng kể (cả về mặt diện tích và sản lượng)
Cây ngô: Là yếu tố cơ bản trong việc tăng sản lượng lương thực hàng năm của xã. Hầu hết diện tích là ngô lai được đầu tư phát triển cả hai vụ hoặc một vụ trồng ngô, một vụ trồng đậu.
Các loại cây như khoai, đậu xanh và rau xanh trong cơ cấu cây trồng của nhóm cây hàng năm thì năm 2009 khoai tăng 25%, đậu xanh tăng 7,14% và rau xanh là 12,94%. Năm 2008 khoai giảm 20%, đậu xanh 12,5%, rau xanh 10.53%. Các loại cây như lúa, sắn diện tích không thay đổi qua ba năm.
Cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, mía, diện tích trồng cỏ: Trong năm 2008 có tăng lên nhưng sang năm 2009 đã giảm xuống. Do đất trồng màu đã bị thu hẹp dần, chuyển mục đích sử dụng đất, quan trọng hơn là các loại cây trồng này không mang lại hiệu quả kinh tế cao bằng các nhóm cây khác do đất đai ít phù hợp cho việc trồng màu.
Cây lâu năm: Nhìn chung cây cà phê có tăng lên trong năm 2008, 2009 khoảng 54%, cây điều đã giảm diện tích xuống để chuyển đổi mục đích sử dụng năm 2009 giảm 55,59%.
Bảng 3.4 Cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã
ĐVT: ha
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
2008/2007
2009/2008
SL
%
SL
%
1. Cây lương thực
1620
1651
1652
31
1.19
1
0.06
Lúa nước đông xuân
228
228
229
0
0.00
1
0.44
Lúa nước vụ mùa
410
419
419
9
2.20
0
0.00
Ngô
490
515
502
25
5.10
-13
-2.52
Khoai lang
90
81
66
-9
-10.0
-15
-18.52
Sắn
402
408
436
6
1.49
28
6.86
2. Cây thực phẩm
184
184
223
0
0.00
39
21.20
Đậu xanh
29
29
29
0
0.00
0
0.00
Đậu các loại
111
111
151
0
0.00
40
36.04
Rau xanh
44
44
43
0
0.00
-1
-2.27
3. Cây CN ngắn ngày
143
150
85
7
4.90
-65
-43.33
Lạc
27
27
27
0
0.00
0
0.00
Mía
60
60
12
0
0.00
-48
-80.00
Cỏ chăn nuôi gia súc
56
63
46
7
12.50
-17
-26.98
4. Cây CN lâu năm
86
141
134
55
63.95
-7
-4.96
Cà phê
23
78
104
55
239.13
26
33.33
Điều
59
59
26
0
0.00
-33
-55.59
Tiêu
4
4
4
0
0.00
0
0.00
(Nguồn: Báo cáo UBND xã)
3.1.3.4 Cơ sở hạ tầng
* Hệ thống giao thông: Đường tỉnh lộ 12 đi qua địa bàn xã dài 9 km, được rải nhựa nên thuận tiện cho việc vận chuyển, giao thương hàng hóa trong và ngoài xã. Tuy nhiên, phần lớn các tuyến giao thông trong khu dân cư, giao thông nội đồng là đường đất hẹp, gặp khó khăn cho việc đi lại vận chuyển nông sản, hàng hóa nhất là vào mùa mưa.
Hệ thống thủy lợi: Năm 2009 Xã Hòa Sơn đã được nhà nước đầu tư đang thi công bê tông hóa tuyến kênh N1, đã góp phần rất lớn giúp người dân trên địa bàn Xã Hòa Sơn nói riêng và cả Huyện Krông Bông nói chung cung cấp được lượng nước cho đồng ruộng vào mùa khô và thoát nước nhanh chóng khi mùa lũ tràn về.
Theo Báo cáo tổng kết UBND Xã Hòa Sơn năm 2008, diện tích được tưới theo kế hoạch năm 2008 là 2.166 ha, đến năm 2009 diện tích được tưới 2.170ha.
3.2 Kết quả nghiên cứu
Căn cứ Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011.
Thông qua điều tra 135 hộ tại bốn Thôn, Buôn ta có số liệu sau:
Bảng 3.5 Phân loại hộ
Chỉ tiêu
ĐVT
Khá
Cận Nghèo
Nghèo
Tổng
Tổng số hộ
Hộ
95
8
32
135
Tỷ lệ
%
70.37
5.93
23.7
100
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
Trong cơ cấu 135 hộ được điều tra có 95 hộ khá chiếm 70,37%, hộ cận nghèo 8 hộ chiếm 5.93%, hộ nghèo 32 hộ chiếm 23.7%. Như vậy ta thấy tỷ lệ hộ nghèo trong xã vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Đặc biệt số liệu điều tra trong bốn Thôn, Buôn thì Buôn Ya có tỷ lệ hộ nghèo là cao nhất.
3.2.1 Thực trạng hộ nghèo tại xã
3.2.1.1 Thực trạng hộ nghèo theo thành phần dân tộc
Hòa Sơn là một xã thuần nông, cuộc sống của đại đa số các hộ nông dân còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, cuộc sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp là chính, đất đai bạc màu điều kiện thời tiết không thuận lợi, giá cả nông sản thì không ổn định. Tất cả những khó khăn đó thì đều đổ trên vai người nông dân, làm cho cuộc sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Tình hình nghèo đói của xã trong ba năm 2008 – 2010 thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.6 Tỷ lệ hộ nghèo theo thành phần dân tộc
Dân tộc
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Kinh
312
81.68
275
79.94
506
80.96
DTTS tại chỗ
31
8.12
33
9.59
65
10.40
DTTS khác
39
10.21
36
10.47
54
8.64
T.hộ nghèo
382
100
344
100
625
100
T.số hộ
1907
1990
2033
Tỷ lệ hộ nghèo (%)
20.03
17.28
30.74
(Nguồn: Uỷ ban nhân dân xã)
Số liệu năm 2008 và 2009 được điều tra căn cứ vào quy định của bộ lao động thương binh và xã hội quy định chuẩn nghèo giai đoạn 2006 - 2010. Tỷ lệ hộ nghèo trong xã qua các năm được thể hiện rõ, đối với người kinh thuộc diện hộ nghèo trong năm 2008 là 312 chiếm 81.68% sang năm 2009 giảm xuống còn 275 hộ chiếm 79.94%, năm 2010 số hộ nghèo tăng lên 506 hộ chiếm 80,96%. Như vậy về số tương đối thì mức độ dao động không đáng kể nhưng về số tuyệt đối năm 2010 hộ nghèo tăng lên qúa nhanh làm cho tỷ lệ hộ nghèo trong xã tăng lên đáng kể, Dân tộc thiểu số tại chỗ qua các năm số hộ nghèo có xu hướng tăng lên cụ thể: năm 2008 là 31 hộ, năm 2009 là 33 hộ, năm 2010 là 65 hộ. Mức tăng tương ứng của số tương đối là: 8.12%; 9.59%; 10.4%. Đối với dân tộc thiểu số có sự biến động nhiều hơn năm 2008 là 39 hộ chiếm 10.21% sang năm 2009 giảm còn 36 hộ tỷ lệ 10,47%, năm 2010 là 54 hộ chiếm 8.64%.
Từ đó ta thấy áp dụng chuẩn nghèo mới số hộ nghèo trong xã tăng lên mạnh cụ thể số hộ nghèo diễn biến qua các năm như sau: năm 2008 là 20.03% năm 2009 là 17.28% năm 2010 là 30.74% có sự biến động mạnh giữa các năm, năm 2009 so với năm 2008 đã giảm 2.75% đó là sự cố gắn nổ lực không những của riêng người dân mà cả các cấp chính quyền trong xã. Sang năm 2010 lại tăng lên 13.46% không giảm đi mà lại tăng lên rất mạnh nguyên nhân ở đây không phải các hộ tự nghèo đi mà do chuẩn nghèo mới ban hành cao hơn mức củ làm cho tỷ lệ hộ nghèo tăng lên. Như vậy chuẩn nghèo mới của chính phủ ban hành làm cho số hộ nghèo tăng lên vô hình chung đã làm cho các hộ trước đây không thuộc diện hộ nghèo rơi vào hộ nghèo hay các hộ đã thoát nghèo lại rơi vào cảnh nghèo.
3.2.1.2 Thực trạng hộ nghèo theo địa bàn
Tỷ lệ hộ nghèo trong xã phân theo địa bàn qua các năm 2009 và 2010.
Bảng 3.7 Tỉ lệ hộ nghèo theo các Thôn, Buôn
STT
Thôn, Buôn
Tỉ lệ hộ nghèo
2009 (%)
Tỉ lệ hộ nghèo
2010(%)
Toàn xã
17.28
30.74
1
Thôn 1
11.6
25.27
2
Thôn 2
13
34.37
3
Thôn 3
18.7
38.73
4
Thôn 4
16.9
28.57
5
Thôn 5
19.4
30.76
6
Thôn 6
23.6
38.21
7
Thôn 7
14.6
15.9
8
Thôn 8
9.9
18.04
9
Thôn 9
16.5
22.83
10
Thôn 10
17.6
24.51
11
Thôn Thanh Phú
17.8
35.41
12
Thôn Quảng Đông
14.2
38.53
13
Thôn Tân Sơn
32.5
60.46
14
Hoà Xuân
29.3
31.62
15
Buôn Ya
25.9
52.3
(Nguồn: Uỷ ban nhân dân xã )
Ta thấy tỷ lệ hộ nghèo trong xã năm 2009 là khá thấp so với năm 2010. Cụ thể toàn xã năm 2009 là 17.28% sang năm 2010 tăng lên 30.74%. Nhìn chung tỷ lệ hộ nghèo giữa các thôn năm 2009 là khá thấp, cao nhất là thôn Hòa Xuân (29.3%) và Buôn Ya (25.9%). Năm 2010 thì tỷ lệ này tăng đột biến có nhiều thôn cao trên 50% cụ thể là thôn Tân Sơn (60.46%), Buôn Ya (52.3%). Từ đó cần phải xem xét tại sao tỷ lệ hộ nghèo không giảm đi mà lại tăng lên nhiều như vậy. Nguyên nhân trong năm trước năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo trong các thôn này là khá cao khi chỉ tiêu hộ nghèo được chính phủ nâng lên vào năm 2011 thì các hộ này lại rơi vào diện nghèo, một số hộ tái nghèo và nghèo mới.
3.2.2 Các điều kiện căn bản của hộ nghèo
3.2.2.1 Nguồn lực sản xuất
Phương tiện sản suất đó là một yếu tố rất quan trọng đối với nông hộ. Trang bị phương tiện tốt thì sản xuất mới tốt được, có phương tiện sản xuất có thể tự phục vụ cho gia đình không cần phải thuê, mướn từ đó làm giảm chi phí sản xuất cho nông hộ. Hệ số cơ giới hóa cao thì năng suất sản xuất càng cao tiết kiệm được thời gian, phục vụ cho những công việc khác làm tăng thu nhập cho gia đình. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi con người cũng phải phát triển cùng tốc độ nếu không sẽ bị tụt hậu và yếu kém. Qua điều tra 135 hộ cho kết quả phương tiện sản xuất như sau:
Bảng 3.8 Phương tiện sản xuất của các nông hộ
PTSX
Đơn vị
Hộ nghèo
Cận nghèo
Khá
SL
BQ/hộ
SL
BQ/hộ
SL
BQ/hộ
Máy gặt đập
Cái
0
0
0
0
10
0.11
Công nông
Chiếc
4
0.13
3
0.38
34
0.36
Máy bơm nước
Cái
2
0.06
1
0.13
8
0.08
Máy xay xát
Cái
0
0
0
0
4
0.04
Khác
Cái
1
0.03
0
0
5
0.05
Tổng
7
0.22
4
0.51
61
0.64
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
Phương tiện sản xuất đối với nhóm hộ nghèo được trang bị rất ít như máy gặt đập, máy xay xát là không có. Vì vậy mà khâu thu hoạch sẽ giảm năng suất. Bình quân trên hộ chỉ có 0.22 cái chỉ số này nói lên rằng hầu như phương tiện phục vụ cho sản xuất là rất ít. Đối với nhóm hộ cận nghèo thì tỷ lệ này có tăng cao hơn, hai nhà có một phương tiện phục vụ sản xuất. Đối với nhóm hộ khá bình quân trên một hộ có 0.64 cái cao hơn so với nhóm hộ nghèo và nhóm hộ cận nghèo trong nhóm hộ này thì hầu hết đều có phương tiện phục vụ cho sản xuất đặc biệt số lượng công nông, máy gặt đập và máy bơm nước là khá cao. Từ đó ta thấy nhóm hộ nghèo được trang bị rất ít vì vậy khâu thu hoạch sẽ tốn thêm chi phí hay khâu làm đất phải thuê máy đánh càng làm khó khăn hơn cho hộ nghèo. Hộ khá họ được trang bị nhiều hơn tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc thu hoạch, nâng cao năng suất và đảm bảo chất lượng nông sản.
3.2.2.2 Tình hình về nhân khẩu và lao động
Nhân khẩu và lao động là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân, đến đời sống, đến khả năng phát triển kinh tế của nông hộ. Số lượng nhân khẩu trên số lao động càng nhỏ càng tốt. Nó thuận lợi cho quá trình phát triển của hộ thể hiện ở sự phụ thuộc của những người ăn theo so với số lao động trong hộ. Lực lượng lao động quyết định thu nhập của nông hộ số lượng lao động của nông hộ càng nhiều càng tốt.
Bảng 3.9 Tình hình về nhân khẩu và lao động của hộ năm 2010.
Nhóm hộ
Số hộ
Số khẩu
BQ khẩu/Hộ
Lao động
Lao động/Hộ
Tỷ lệ phụ thuộc
Khá
32
427
4.49
289
3.04
32.32
Cận Nghèo
8
43
5.38
26
3.25
39.53
Nghèo
95
156
4.88
98
3.06
37.18
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Qua bảng số liệu ta thấy nhóm hộ cận nghèo và nghèo có số lượng khẩu/hộ cao hơn so với nhóm hộ khá mặt dù không nhiều, riêng nhóm hộ cận nghèo bình quân cao hơn gần một người so với nhóm hộ khá. Tỷ lệ lao động/hộ của cả ba nhóm hộ là gần như nhau. Bình quân hơn 3 người trên hộ nhóm hộ cận nghèo có cao hơn một ít. Tuy nhiên tỷ lệ phụ thuộc của nhóm hộ khá là 32.52% ít hơn so với hai nhóm hộ nghèo và cận nghèo 37.18% và 39.53% tỷ lệ phụ thuộc càng ít thì càng tốt tức thu nhập không phải nuôi nhiều người khác. Ta thấy đối với nhóm hộ nghèo và cận nghèo do số lượng con cái đông người phụ thuộc nhiều làm cho thu nhập bình quân trên hộ giảm đi. Lực lượng lao động nhiều nhưng chỉ tập trung làm nông nghiệp ít lao động trong công nghiệp và dịch vụ nên mức thu nhập không cao. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ nghèo chưa phát triển nên hiệu quả mang lại từ lao động chưa cao. Đối với nhóm hộ nghèo cần phải có biện pháp để giảm tỷ lệ người phụ thuộc xuống thấp hơn nữa để cải thiện tình hình kinh tế trong gia đình.
3.2.2.3 Phương tiện sinh hoạt của nông hộ
Phát triển hài hoà đi đôi với việc quan tâm đến điều kiện vật chất, tinh thần, văn hóa. Cuộc sống ấm no hạnh phúc thì trước tiên là phải đủ ăn, mặc, đầy đủ phương tiện phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình, điều đó nhằm kích thích mọi người trong quá trình sản xuất và đời sống. Trang bị phương tiện sinh hoạt thể hiện điều kiện phục vụ sinh hoạt tốt hay không. Đây là nhu cầu tinh thần của nông hộ. Chỉ số bình quân trên hộ càng cao thể hiện mức sống của nông hộ cao.
Bảng 3.10 Phương tiện sinh hoạt của nông hộ
Hạng mục
Đơn vị
Hộ nghèo
Hộ cận nghèo
Hộ khá
S.lượng
BQ/hộ
S.lượng
BQ/hộ
S.lượng
BQ/hộ
Xe máy
chiếc
23
0.72
7
0.88
111
1.17
Xe đạp
chiếc
10
0.31
5
0.63
44
0.46
Ti vi
cái
24
0.75
9
1.13
92
0.97
Video
cái
1
0.03
2
0.25
32
0.34
khác
cái
4
0.13
1
0.13
96
1.01
Tổng
cái
62
1.94
24
3.00
375
3.95
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
Thông qua bảng số liệu đối với nhóm hộ nghèo mức trang bị phương tiện sinh hoạt là rất thấp. Xe máy hộ nghèo trung bình chỉ 0.72 chiếc trên hộ trong khi đó nhóm hộ khá là 1.17 chiếc. Ti vi hộ nghèo là 0.75 hộ khá là 0.97 mỗi hộ khá được trang bị một cái tivi. Đây là phương tiện rất quan trọng giúp cho người dân biết được các thông tin đại chúng cũng như thông tin thị trường từ đó tăng thêm kiến thức và sự hiểu biết cho người dân. Tính tổng lại thì bình quân trên hộ nghèo có 1.94 cái hộ cận nghèo có 3 cái và hộ khá có 3.95 cái. Điều này nói lên rằng chất lượng cuộc sống của nhóm hộ khá cao hơn nhiều so với nhóm hộ nghèo hơn hai lần họ được trang bị gần như đầy đủ các phương tiện sinh hoạt. Khi nhu cầu ăn mặc đã đủ thì họ lại chuyển sang nhu cầu tinh thần. Hộ nghèo không có đầy đủ các nhu cầu thiết yếu vì vậy họ chưa quan tâm nhiều tới đời sống tinh thần.
3.2.3 Nguyên nhân dẫn đến nghèo, đói
Điều kiện tự nhiên không thuận lợi, mùa khô thiếu nước đã gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như trong sinh hoạt, lúa nước có nhiều hộ chỉ sản xuất được một vụ. Diện tích đất của xã đã bị phần lớn dãy núi Chư Yang Sin chiếm nên đất sản xuất nông nghiệp bị hạn chế.
Hầu hết các hộ nghèo lại nhiều khẩu, lao động chính không nhiều. Nhiều người phụ thuộc dẫn đến các khoảng chi tiêu cao thu nhập đủ không đáp ứng đựơc nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Con cái không có tiền cho ăn học nên tỷ lệ học hành của người nghèo là rất thấp.
Hộ nghèo không có vốn sản xuất, việc đầu tư chăm sóc yếu kém, tư liệu sản xuất thì không có. Có nhân công có đất đai nhưng năng suất thấp dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao, thu nhập không ổn định tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên.
Người nghèo thường hay mắc nhiều bệnh tật vì chế độ dinh dưỡng không đảm bảo, chất lượng cuộc sống thấp, không đi khám định kỳ, nếu có gặp bệnh tật thì cũng không chạy chữa nỗi vì không có tích lũy không có khoảng phòng ngừa. Dễ gặp phải rủi ro khi có biến động bất ngờ.
Từ những nguyên nhân đó tôi đưa ra một số nguyên nhân cụ thể của 135 hộ được điều tra như sau:
3.2.3.1 Trình độ học vấn
Trình độ học vấn là một trong những nguyên nhân đẫn đến nghèo đói. Nghèo đói không có tiền ăn học đẫn đến trình độ thấp, không biết làm ăn lại rơi vào cảnh nghèo. Chính vì vậy việc điều tra và nghiên cứu trình độ học vấn của nông hộ là rất quan trọng.
Bảng3. 11 Trình độ học vấn của hộ năm 2010
Trình độ
Không biết chữ
cấp I
Cấp II
Cấp III
Trung cấp, CĐ-ĐH
SL
Tỷ lệ
SL
Tỷ lệ
SL
Tỷ lệ
SL
Tỷ lệ
SL
Tỷ lệ
Khá
14
28,6
51
49,51
19
57,58
84
75
51
83,61
CN
7
14,3
7
6,80
1
3,03
8
7,14
5
8,20
Nghèo
28
57,1
45
43,69
13
39,39
20
17,85
5
8,20
Tổng
49
100
103
100
33
100
112
100
61
100
(Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)
Ta thấy nhóm hộ nghèo có tỷ lệ mù chữ là cao nhất chiếm 57.1% , nhóm hộ cận nghèo là 14.3% và nhóm hộ khá là 28,6%. Tỷ lệ mù chữ cao đó là nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo. Trình độ thấp thì kéo theo hàng loạt các vấn đề như là khả năng tiếp cận thông tin, các ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất thấp, sản xuất nông nghiệp của hộ nghèo chủ yếu dựa vào tập tục truyền thống lạc hậu, năng suất không cao. Trình độ thấp nên khả năng tư duy không cao không hình thành nên các kế hoạch để sản xuất cho hiệu quả chính vì vậy mà hộ nghèo sản xuất chỉ mang tính tự cung tự cấp. Đối với nhóm hộ khá tỷ lệ học cấp II là 57.58%, cấp III là 75% và trên cấp III là 83.61% từ tỷ lệ này ta thấy nhóm hộ khá tỷ lệ học hành cao hơn đặc biệt trên cấp III từ đó ta thấy nhóm hộ này đầu tư cho con cái ăn học là rất cao. Điều đó nói lên rằng trình độ càng cao thì khả năng tiếp cận các thông tin và các ứng dụng khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất. Họ có thể dự đoán được giá cả hay biến động của thị trường từ đó lập ra các kế hoạch cụ thể cho việc sản xuất nên hiệu quả sản xuất sẽ cao hơn.
3.2.3.2 Diện tích đất nông nghiệp bình quân của hộ
Xã Hòa Sơn là xã có diện tích đất canh tác trên đầu người khá thấp, trong khi đó sản xuất nông nghiệp đòi hỏi đất canh tác lớn, nhất là ngành trồng trọt. Qua việc tìm hiểu về diện tích đất canh tác có thể phản ánh được trình độ thâm canh, sử dụng đất đai có đúng mục đích và hiệu quả hay không.
Bảng 3.12 Diện tích đất bình quân
Chỉ tiêu
Hộ khá
Cận nghèo
Nghèo
Chênh lệch
CN – Khá
Nghèo - Khá
Diện tích
170.14
25.80
83.91
Diện tích/hộ
1.79
3.23
2.62
1.43
0.83
Diện tích/khẩu
0.40
0.60
0.54
0.2
0.14
(Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)
Nhìn chung ta thấy nhóm hộ cận nghèo và nghèo có diện tích đất bình quân trên hộ là khá cao so với nhóm hộ khá, nhóm hộ nghèo là 2.62 ha/hộ cận nghèo là 3.23 ha/hộ mức chênh lệch giũa hộ cận nghèo và khá là 1.43 ha. Đối với nhóm hộ khá diện tích bình quân trên hộ là 1.79 ha thấp hơn nhiều so với hai nhóm hộ trước. Điều này nói lên rằng nhóm hộ khá tuy ít đất sản xuất hơn nhưng sản xuất có hiệu quả. Từ đó ta có thể thấy được rằng nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của nhóm hộ nghèo là không phải do đất sản xuất ít. Diện tích đất bình quân/khẩu của nhóm hộ nghèo cao hơn so với nhóm hộ khá là 0.14 ha. Có đất sản xuất nhưng tại sao vẫn cứ nghèo. Điều này còn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
3.2.3.3 Hệ số sử dụng đất canh tác của nông hộ
Hệ số sử dụng đất nói lên một điều rằng nông hộ có sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất, có sử dụng đúng mục đích hay không, làm sao để khai thác nguồn tài nguyên một cách bền vững.
Bảng 3.13 Hệ số sử dụng đất canh tác
Chỉ tiêu
Đơn vị
Hộ khá
Hộ cận nghèo
Hộ nghèo
Diện tích đất gieo trồng
Ha
193.58
27.95
88.22
Diện tích đất canh tác
Ha
170.14
25.8
83.91
Hệ số sử dụng đất
Ha
1.14
1.08
1.05
(Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)
Hộ nghèo và hộ cận nghèo mặt dù diện tích đất canh tác trên hộ là khá cao so với hộ khá nhưng hiệu quả sử dụng đất lại không cao cụ thể nhóm hộ nghèo hiệu quả sử dụng chỉ 1.05 hộ cận nghèo 1.08 với nhóm hộ khá tỷ lệ này có cao hơn 1.08. Nhìn chung hiệu quả sử dụng đất của cả ba nhóm hộ là chưa cao. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của các nông hộ diện tích nhiều nhưng đất đai bạc màu, cằn cỗi một số hộ chỉ sản xuất được một mùa, đối với người dân tộc thiểu số đất sản xuất chủ yếu là đất đồi núi bạc màu. Thông qua số liệu này ta thấy hiệu quả sử dụng đất của các hộ được điều tra là không cao. Vì vậy cần phải có các biên pháp thích hợp như đảm bảo hệ thống thuỷ lợi cho việc tưới tiêu lúa trồng một vụ sẽ làm được hai vụ, cải tạo đất không để đất trở nên hoang hoá, trồng các loại cây tốt cho đất như các loại đậu hạn chế trồng mì, và ngô.
3.2.3.4 Năng suất cây trồng
Năng suất cây trồng nói lên trình độ thâm canh của từng nhóm hộ, có đầu tư nhiều hay không, công chăm sóc như thế nào.
Bảng 3.14 Năng suất cây trồng
Đơn vị: Tấn/ha
Cây trồng
Khá
Cận nghèo
Nghèo
Lúa
9.50
6.48
3.81
Ngô
4.93
8.84
4.28
Sắn
13.88
3.87
6.00
Cà phê
1.69
1.50
1.45
Đậu, đỗ
1.19
0.00
0.00
Khác
0.97
0.00
0.00
(Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)
Qua bảng số liệu ta thấy nhóm hộ khá trồng lúa năng suất rất cao 9.5 tấn/ha trong khi đó nhóm hộ nghèo năng suất chỉ có 3,81 tấn/ha. Hiệu quả từ trồng lúa đối với hộ nghèo là rất thấp so với hộ khá. Sở dĩ như vậy là vì nhóm hộ nghèo không có vốn đầu tư, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, qua điều tra cho thấy đa số người đồng bào trồng lúa không bón phân hoặc bón rất ít. Đối với các loại cây còn lại năng suất cũng không bằng nhóm hộ khá. Từ đó ta thấy đầu tư và chăm sóc rất quan trọng, chỉ dùng công lao động không thì chưa đủ. Trong cơ cấu cây trồng thì nhóm hộ nghèo thường trồng cây hàng năm đặc biệt là cây lúa chiếm diện tích nhiều nhất, năng suất lúa lại thấp dẫn tới thu thấp. Cây sắn và cây ngô là hai loại cây dễ trồng hơn không cần nhiều công chăm sóc nhưng năng suất vẫn chưa cao.
3.2.3.5 Tình hình vay vốn
Vốn sản xuất trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, nói cách khác vốn là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất nông nghiệp nói riêng, và trong tất cả các hoạt động khác của các hộ nông dân. Vốn là điều kiện quan trọng không thể thiếu được trong sản xuất có vốn thì sản xuất nông nghiệp mới tiến hành được. Do vậy, trong khảo sát điều tra tôi đã tìm hiểu tình hình vay vốn của các nông hộ như sau:
Bảng 3.15 Tình hình vay vốn của các hộ năm 2010
Đơn vị: 1000 đ
Nhóm hộ
Ngân hàng nông nghiệp
Ngân hàng chính sách
Đại lý và tổ chức khác
Số hộ vay
Tỷ lệ tiếp cận vốn
Bình quân/hộ
số hộ
số tiền
số hộ
số tiền
số hộ
số tiền
Khá
20
710000
29
338000
16
297000
65
68.42
14157.8
CN
0
0
4
58000
1
5000
5
62.50
7875
Nghèo
5
90000
15
128000
6
26000
26
81.25
7625
( Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
Qua bảng số liệu điều tra ta thấy đối với nhóm hộ khá đối tượng vay chủ yếu là ngân hàng nông nghiệp với 20 hộ vay số tiền lên tới 710.000.000đ nhóm hộ này đầu tư cho sản xuất là rất lớn. Trong khi đó nhóm hộ nghèo và cận nghèo tỷ lệ vay vốn với ngân hàng nông nghiệp là rất ít sở dĩ như vậy là vì với ngân hàng nông nghiệp vốn vay với lãi suất cao nếu sản xuất không hiệu quả thì không thể trả nổi vì vậy họ không giám tiệp cận nhiều. Đối với ngân hàng chính sách xã hội thì nhóm hộ nghèo lại được tiếp cận rất nhiều trong 32 hộ nghèo thì có đến 15 hộ được vay vốn nhóm hộ cận nghèo 8 hộ được vay 4 hộ. Điều này nói lên rằng chính sách hỗ trợ cho người nghèo là rất lớn khi vay với ngân hàng chính sách xã hội thì lãi xuất rất ưu đãi chỉ với 0.65%/tháng đối với hộ nghèo tạo điều kiện cho người nghèo yên tâm sản xuất. Nhóm hộ khá ngoài ngân hàng nông nghiệp thì vay đại lý và tổ chức khác là khá lớn họ vay chủ yếu là phân bón, thuốc bảo vệ thực vật phục vụ cho việc sản xuất cây công nghiệp dài ngày. Với hộ nghèo thường tiếp cận với đại lý chủ yếu vay lương thực, thực phẩm và giống để sản xuất hoặc họ bán sản phẩm non cho các đại lý nhỏ trường hợp này chủ yếu là người dân tộc thiểu số. Qua điều tra ta thấy nhóm hộ nghèo có tỷ lệ tiếp cận vốn vay là nhiều nhất 81.25% với số tiền bình quân trên hộ là 7.625.000đ tạo điều kiện để đầu tư cho sản xuất và tiêu dùng một hộ với số tiền như trên thì không đủ để đáp ứng nhu cầu của hộ, hộ nghèo thường vay lương thực, thực phẩm, giống, vật tư…của các đại lý nhỏ lãi suất cao, lãi mẹ đẻ lãi con vì thế khó mà hoàn trả vào mùa thu hoạch họ phải trả hết cho các đại lý và chủ nợ không có dư thừa dẫn đến nghèo càng nghèo thêm. Ngoài ra thường thi hộ nghèo sử dụng vốn vay không đúng mục đích, có hộ dùng tiền vay mua sắm vật dụng không cần thiết, đầu tư không đúng chỗ, không có kế hoạch tính toán cụ thể dẫn đến không hiệu quả. Việc sử dụng vốn vay sai mục đích của hộ nghèo diễn ra rộng rãi và phổ biến đây cũng là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nghèo đói tăng lên. Nhóm hộ cận nghèo tỷ lệ tiếp cận vốn cũng khá cao 62.5%. Với nhóm hộ khá họ lại chủ động hơn nguồn vay phong phú và đa dạng hơn vay nhiều để đầu tư cho sản xuất bình quân trên hộ vay hơn 14 triệu đồng vì vậy họ có điều kiện sản xuất tốt hơn. Họ mạnh dạn hơn trong vay vốn vì vậy chủ yếu tập trung cho sản xuất chứ không phải để tiêu dùng số tiền lớn thì có thể đầu tư lớn thu vào cũng lớn hơn. Với nhóm hộ nghèo cần quan tâm hơn trong việc thẩm định dự án vay vốn nhằm hướng người dân sử dụng vốn đúng mục đích mang lại hiệu quả trong vốn vay cần đặc biệt quan tâm hơn nữa với người nghèo và người dân tộc thiểu số.
3.2.3.6 Mức tích lũy của nông hộ
Nguồn thu nhập của nông hộ có nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu thu từ hoạt động nông nghiệp.
Bảng 3.16 Cân đối thu chi của nông hộ
Đơn vị:1000đ/hộ/năm
Chỉ tiêu
Khá
Thu - Chi
Cận nghèo
Thu - Chi
Nghèo
Thu - Chi
Thu
Chi
Thu
Chi
Thu
Chi
Trồng trọt
127748
12177
115571
17418.1
6624.8
10793
8881.9
4025
4857.4
Chăn nuôi
37556.5
17060
20496
3175
4267.5
-1093
1037.5
4305
-3268
Khác
21726.1
49072
-27346
19550
27126
-7576
4275
22321
-18046
Tổng
187031
78309
108721
40143.1
38018
2125.1
14194
30651
-16456
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
Thông qua bảng số liệu ta thấy nguồn thu của các nông hộ chủ yếu là từ trồng trọt. Hộ khá thu 127.748.000đ, hộ cận nghèo thu 17.418.100đ, nhưng hộ nghèo thu 8.881.900đ rất nhỏ so với nhóm hộ khá. Trong khi đó nguồn lực về đất đai và nhân công của nhóm hộ nghèo là lớn hơn nhóm hộ khá. Nguồn thu từ chăn nuôi đối với nhóm hộ cận nghèo và nghèo là rất ít so với nhóm hộ khá bình quân mỗi hộ chỉ thu được 1.037.500đ. Trong khi đó chi cho chăn nuôi lại rất lớn 4.305.000 so với nguồn thu dẫn đến bị thua lỗ. Đối với nhóm hộ khá thu từ chăn nuôi là 37.556.500đ trừ chi phi đi rồi vẫn lãi 20.496.000đ. Từ đó ta thấy nhóm hộ khá trong hoạt động trồng trọt và chăn nuôi là rất hiệu quả. Nguồn thu khác vối nhóm hộ khá chủ yếu thu từ lương còn đối với nhóm hộ nghèo và cận nghèo chủ yếu thu từ việc làm thuê làm mướn, nhưng việc chi tiêu dùng lại rất đa dạng như chi cho ăn uống, y tế, học tập, cưới hỏi, ma chay… vì vậy nguồn chi khác của các nhóm hộ là âm. Mỗi năm nhóm hộ khá sau khi trừ đi chi phí họ còn dư ra 180.721.000đ với nhóm hộ cận nghèo là 2.125.100đ. Nhóm hộ nghèo là âm 16.456.000đ, đây chính là nguyên nhân làm cho hộ nghèo lại nghèo hơn khó thoát khỏi nghèo, nguồn thu thì ít trong khi chi lại rất nhiều khoảng làm cho cuộc sống của họ càng khó khăn hơn.
3.3 Công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Hòa Sơn
3.3.1 Tình hình thực hiện
Xã Hòa Sơn là một xã có tỷ lệ hộ nghèo tương đối cao. Trong những năm qua chính quyền các cấp không ngừng tăng cường và phát huy hiệu quả các chính sách, dự án xóa đói giàm nghèo trên địa bàn xã. Với sự quan tâm sâu sắc của các cấp lãnh đạo, xã đã thực hiện rất nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo. Có các hoạt động hỗ trợ sau:
Trong ba năm qua chính quyền xã đã hỗ trợ rất nhiều khoản cho các hộ nghèo và hộ thuộc diện chính sách.
Trong năm 2008 có các công tác như: cứu đói dịp tết nguyên đán 409 khẩu số lượng gạo là 6135 kg, thăm hỏi và tặng quà nhân dịp tết nguyên đán và đau ốm số đối tượng là 26 với số tiền 16 triệu đồng . Thực hiện thư kêu gọi của Trung ương mặt trận tổ quôc Việt Nam xây dựng quỹ “ Ngày vì người nghèo” Ủy ban nhân dân xã kết hợp cùng với Ủy ban mặt trận tổ quốc đã tổ chức vận động quyên góp cùng người dân.
Năm 2009 cứu đói dịp tết nguyên đán 480 khẩu số lượng gạo 6750 kg, cứu đói do ảnh hưởng bảo số 9 và 11 là 266 khẩu số lượng gạo 4000 kg, cấp giống do ảnh hưởng bảo số 9 và 11 là 4000 kg giống. Chương trình hỗ trợ của chính phủ cho hộ nghèo ăn tết trên địa bán xã cấp cho 164 hộ 612 khẩu với số tiền 286.400.000đ.
Năm 2010: cứu đói dịp tết nguyên đán 399 khẩu số lượng gạo 3990 kg, trợ giống theo quyết định 102 cho 344 hộ với 1499 khẩu, trị giá mỗi khẩu 80.000đ tổng số tiền trợ cấp là 119.920.000đ.
Thông qua đây cho thấy các hoạt động hỗ trợ người nghèo được Đảng và nhà nước rất quan tâm, có chính sách chủ trương hỗ trợ cho người nghèo kịp thời đúng nơi, đúng thời điểm để người dân có thể tiếp tục sinh hoạt bình thường trong hoàn cảnh khó khăn.
3.3.2 Những thành kết quả đạt được trong công tác xóa đói giảm nghèo
3.3.2.1 Công tác xóa đói giảm nghèo
Những năm qua chính quyền các cấp, đặc biệt là chính quyền xã đã có những cố gắn nhất định trong công tác xóa đói giảm nghèo. Những cố gắn đó được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.17 Số hộ thoát nghèo qua các năm
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Số lượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ(%)
Số lượng
Tỷ lệ(%)
Hộ nghèo
387
20.03
382
17.28
344
30.74
Hộ thoát nghèo
5
1.29
38
9.95
-281
-81.69
Hộ tái nghèo
2
33.33
1
20
27
71.05
Tổng số hộ dân
1907
1990
2033
(Nguồn: Báo cáo UBND xã)
Tỷ lệ hộ nghèo trong xã qua các năm 2008 và 2009 đã giảm dần cụ thể năm 2008 giảm được 5 hộ với tỷ lệ 1.29%, năm 2009 giảm 38 hộ chiếm tỷ lệ 9.95%. Điều này cho ta thấy đã có sự cố gắng nỗ lực nhiều của người dân cũng như chính quyền các cấp trong công tác xóa đói giảm nghèo. Bước sang năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo trong xã không giảm xuống mà lại tăng lên một cách đột biến. Theo kết quả điều tra hộ nghèo 81.69%. Vậy nguyên nhân chính là do đâu? Sở dĩ có điều này là vì điều tra hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015. Chuẩn nghèo mới ban hành với mức chuẩn nghèo cao hơn, đã làm cho các hộ nghèo tăng lên và các hộ đã thoát nghèo lại rơi vào cảnh nghèo. Số hộ tái nghèo qua các năm lại có sự biến động năm 2008 có 2 hộ tái nghèo chiếm tỷ lệ 33.33% sang năm 2009 số hộ tái nghèo là 1 hộ tỷ lệ đã giảm đi khá nhiều. Nhưng sang năm 2010 tỷ lệ hộ tái nghèo lại tăng lên quá mạnh chiếm 71.05%. Điều này cho ta thấy công tác xóa đói giảm nghèo của xã vẫn chưa thực sự hiệu quả đặc biệt là năm 2010 số hộ nghèo và tỷ lệ tái nghèo là rất cao.
Các hộ thoát được nghèo ngoài sự nổ lực cố gắng của chính các hộ đó còn có sự quan tâm của chính quyền các cấp. Đó là sự cố gắng không biết mệt mỏi của những cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo. Nguyên nhân để họ thoát nghèo là các chính sách của nhà nước có hiệu quả như “thư kêu gọi ngày vì người nghèo“ hay chương trình 167 xóa nhà tranh tre tạm bợ, từ đó làm cho người dân yên tâm sản xuất nâng cao đời sống của mình. Cấp giống cho người nghèo đó là những công tác thiết thực ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sản xuất của nhân dân làm tăng nguồn thu của họ. Đặc biệt các chương trình vay vốn tạo điều kiện cho họ có nguồn vốn phục vụ cho việc sản xuất được tốt hơn.
Trong thời gian tới chính quyền các cấp cần phát huy hơn nữa công tác xóa đói giảm nghèo. Cần có những chính sách thiết thực hơn đối với những hộ vừa thoát nghèo và hộ cận nghèo có như vậy thì công tác xóa đói giảm nghèo mới có hiệu quả. Tránh để tình trạng thoát nghèo rồi lại rơi vào cảnh nghèo làm cho các hộ nghèo không còn ý chí muốn vươn lên trong cuộc sống, mất niềm tin vào các cấp chính quyền.
3.3.2.2 Việc tiếp cận vốn vay của các hộ nghèo
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo trong ba năm qua Đảng bộ và chính quyền xã đã thường xuyên quang tâm và chỉ đạo tạo mọi điều kiện tốt nhất cho nghèo nghèo tham gia mọi hoạt động cũng như tiếp xúc các nguồn vốn hỗ trợ của chính quyền các cấp và địa phương.
Bảng 3.18 Vốn vay của các hộ nghèo
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Hộ nghèo
Hộ
387
382
344
Hộ nghèo được vay
Hộ
113
113
160
Tổng vốn vay
Triệu đồng
925
550
750
Tỷ lệ được vay
%
29.20
29.58
46.51
Bình quân vốn vay/hộ
Triệu đồng
8.19
4.87
4.69
(Nguồn: Báo cáo UBND xã)
Trong ba năm qua với sự tín chấp của các đoàn thể, được ngân hàng chính sách cho các hộ nghèo vay cụ thể qua các năm như sau: Năm 2008 số hộ nghèo được vay là 113 hộ chiếm 29.2% bình quân mỗi hộ vay là 8.19 triệu đồng. Năm 2009 số hộ được vay là 113 hộ chiếm 29.58% với số vốn vay của mỗi hộ là 4.87 triệu đồng. Năm 2010 số hộ nghèo được vay tăng lên là 160 hộ chiếm 46.51% bình quân mỗi hộ vay là 4.69%. Từ đó ta thấy vốn vay chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu của người nghèo. Trong năm 2010 số hộ vay có tăng lên nhưng cũng chỉ đáp ứng chưa được 50% nhu cầu vay của người nghèo. Nguồn vốn chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay nên việc sản xuất của người nghèo khó có thể thể tiến hành phần đông là không tiếp cận được với các nguồn vốn vì vậy công tác xóa đói giảm nghèo vẫn chưa phát huy hết hiệu quả. Chính vì vậy mà công tác xóa đói giảm nghèo của địa phương trong những năm qua vẫn đang còn hạn chế.
Mặt dù vậy nhưng với những hộ được tiếp cận nguồn vốn vay đã góp phần cải thiện được đời sống của bà con nông dân thuộc diện khó khăn, có thêm vốn họ có điều kiện phục vụ cho sản xuất nâng cao thu nhập. Giúp họ cải thiện đời sống và vươn lên thoát nghèo.
Tóm lại tỷ lệ tiếp cận được nguồn vốn vay của hộ nghèo là khá thấp nên cần có các chương trình chính sách của các cấp chính quyền để tất cả các hộ nghèo có thể tiếp cận nguồn vốn phục vụ cho việc sản xuất và nâng cao đời sống. Bên cạnh đó cần tăng số tiền vốn vay và thời gian cho vay dài hơn nữa để họ có điều kiện và yên tâm sản xuất.
3.3.2.3 Xây dựng nhà ở cho hộ nghèo
Thực hiện quyết định 167 của chính phủ triển khai xây dựng nhà ở cho hộ nghèo gặp khó khăn về nhà ở.
Năm 2008 Ủy ban mặt trận tổ quốc xã kết hợp với nguồn vốn của huyện hỗ trợ xây dựng nhà đại đoàn kết, xóa nhà tranh tre tạm bợ cho 4 hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, neo đơn với số tiền là 106.200.000đ trong đó cấp trên hỗ trợ là 57.200.000đ số còn lại do cộng đồng dân cư và gia đình đóng góp 49.000.000đ.
Năm 2009 trên địa bàn xã đã xây dựng được 10 ngôi nhà với tổng kinh phí 250.000.000đ trong đó vốn nhà nước hỗ trợ cho mỗi ngôi nhà là 12.000.000đ và vay lãi ưu đãi tại ngân hàng chính sách 8.000.00đ còn lại do gia đình bỏ ra và quyên góp của hàng xóm.
Năm 2010 theo kế hoạch là xây dựng 88 ngôi nhà, đến hết năm 2010 Ủy ban nhân dân xã đã triển khai tổ chức thực hiện trong năm là 87 ngôi còn lại một hộ không nhận đã trả lại cho nhà nước.
Trong ba năm nhưng với sự cố gắng nỗ lực của các cấp chính quyền đã xây dựng được 101 ngôi nhà cho hộ nghèo gặp khó khăn về nhà ở. Đó là một kết quả khả quan mà các cấp chính quyền cần phát huy hơn nữa để tạo mọi điều kiện tốt nhất cho họ thoát nghèo.
3.3.2.4 Tác động của các chính sách xóa đói giảm nghèo
Việc thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo đã tác động nhiều đến đời sống của hộ nghèo, cụ thể:
Chính sách hỗ trợ người nghèo về tín dụng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu vay vốn của nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo được vay vốn qua điều tra là khá cao 81,25%. Cũng nhờ đó mà người nghèo có tiền đầu tư sản xuất, các giống lúa, ngô lai có năng xuất cao đã được đưa vào gieo trồng, nhiều giống gia súc mới có chất lượng cũng đã được đưa vào nuôi. Nhờ nguồn vốn vay một số hộ đã phát triển chăn nuôi đầu tư nhiều hơn vào trồng trọt và đã vươn lên thoát nghèo.
Công tác giáo dục và y tế đã được đẩy mạnh và đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao. Đến năm 2008 công tác phổ cập trung học cơ sở đã hoàn thành được Ủy ban nhân dân huyện ký quyết định công nhận đạt chuẩn phổ cập giá dục trung học cơ sở. Và hiện nay đang hoàn thành thủ tục và xây dựng trường tiểu học Sơn Đông đạt chuẩn quốc gia.
Công tác y tế đã được tăng cường. Đặc biệt việc chăm sóc người nghèo, người khuyết tật đã được chú ý hơn, những đối tượng người nghèo đều được khám, chữa bệnh miễn phí. Trong năm 2009 trạm y tế xã đã khám và chữa bệnh cho 13063 lượt đạt 124,7% kế hoạch. Cấp thuốc điều trị cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi với số tiền là 104.476.389đ. Nhờ đó mà đời sống nhân dân được cải thiện, sức khỏe được đảm bảo.
Quan trọng hơn các chương trình xóa đói giảm nghèo đã có tác động đến tâm tư nguyện vọng của bà con nông dân. Không ngừng làm tăng thêm sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng vào nhà nước, khẳng định tính ưu việc của chính trị, đẩy lùi các âm mưu xuyên tạc, tuyên truyền, nói xấu chế độ của các phần tử phản động, góp phần ổn định chế độ chính trị, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn.
Các chương trình đã mang lại hiệu quả thiết thực cho người dân trong công tác xóa đói giảm nghèo. Cải thiện thu nhập cho người dân, tạo công ăn việc làm, có vốn để sản xuất.
Các gia đình hộ nghèo rất hưởng ứng các chính sách của nhà nước. Đặc biệt chính sách 167 xóa nhà tranh tre tạm bợ của chính phủ. Giúp họ có nhà cửa kiên cố yên tâm để sản xuất và canh tác. Với các hộ gia đình đặc biệt khó khăn thì đây là một khoảng trợ cấp lớn mà họ không bao giờ mơ tới. Có một ngôi nhà kiên cố và có vốn phục vụ cho việc sản xuất. Đây là một trong những chương trình tốt và hiệu quả mà Đảng và nhà nước ta đã mang lại cho người dân, giúp họ vươn lên thoát nghèo tiến tới mục tiêu chung của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
Tóm lại các chính sách, dự án hỗ trợ người nghèo đã mang lại niềm an ủi động viên lớn về mặt vật chất cũng như mặt tinh thần cho người nghèo, giúp họ yên tâm sản xuất, cải thiện đời sống và góp phần thay đổi bộ mặt của người nghèo.
3.3.3 Những hạn chế trong công tác xóa đói giảm nghèo tại địa bàn xã
Trong những năm qua, mặc dù được sự quan tâm của chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo đã tích cực thực hiện tốt các chính sách chủ trương của nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế do nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
Người dân chưa tự giác kê khai thu nhập của gia đình, kê khai không chính xác vẫn muốn mình nằm trong diện hộ nghèo để hưởng các chính sách và quyền lợi của Đảng và nhà nước về người nghèo.
Vốn hỗ trợ người nghèo còn ít, thời gian ngắn và không đồng đều có hộ xếp vào hộ nghèo nhưng đến nay vẫn chưa được vay vốn để làm ăn, thì đã ra khỏi diện hộ nghèo.
Một số hộ nghèo còn trông chờ ỷ lại vào chế độ đãi ngộ, chính sách ưu đãi không tự khắc phục vươn lên để thoát nghèo.
Ban điều hành công tác xóa đói giảm nghèo còn kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ nên công tác chưa sâu sát và hiệu quả.
Ban điều hành chưa phối hợp chặt chẽ với các ngành đoàn thể, chưa phân công nhiện vụ cụ thể cho từng thành viên.
3.3.4 Giải pháp xóa đói giảm nghèo
- Giải pháp cho những tồn tại trong công tác xóa đói giảm nghèo tại xã
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo cần phải thường xuyên học hỏi, trao dồi kiến thức, kinh nghiệm, trong công tác rà soát hộ nghèo cần tìm hiểu kỹ thông tin về hộ nghèo để xác định chính xác hộ nghèo đói.
+ Thường xuyên mở các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ các cấp, để nâng cao trình độ và quản lý của cán bộ.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền về vấn đề kế hoạch hóa gia đình nhằm giảm tỷ lệ sinh của các hộ nghèo.
+ Thường xuyên kiểm tra và hướng dẫn cách sử dụng vốn đúng mục đích.
- Giáo dục và đào tạo: Nâng cao trình độ dân trí cho người nghèo, tổ chức tuyên truyền và vận động cho con em những hộ khó khăn đến trường đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng công tác tuyển sinh, khuyến khích con em những hộ nghèo có thành tích cao trong học tập bằng việc khen thưởng, trao học bổng...
- Đối với chính sách
+ Phát huy mạnh và hiệu quả các chính sách hỗ trợ người nghèo, đến từng Thôn, Buôn, hộ và người nghèo. Tạo sự công bằng và hiệu quả của từng chính sách.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về xóa đói giảm nghèo, để họ tự giác và tự mình vươn lên.
+ Tạo mọi điều kiện tốt nhất cho người dân đến trạm y tế khám và chữa bệnh định kỳ đặc biệt là người nghèo.
+ Đối với các hộ nghèo khi cho vay vốn thì phải tư vấn cách thức làm ăn cho họ, tránh để họ vay vốn sử dụng sai mục đích, nguồn vốn cho vay không hiệu quả.
- Đối với các hộ nghèo
+ Các hộ nghèo đói phải tự thân vươn lên không được trông chờ hay ỷ lại chính quyền các cấp, mà phải chủ động học hỏi tìm cách làm ăn để thoát nghèo. Sự chủ động của người nghèo là rất quan trọng.
+ Chủ động tìm công ăn việc làm tăng thêm thu nhập cho gia đình đặc biệt trong thời gian rảnh rổi.
PHẦN 4
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Xóa đói giảm nghèo là một vấn đề toàn cầu chứ không riêng một quốc gia nào. Đó là vấn đề khó khăn của các quốc gia đặc biệt là các quốc gia nghèo, kém phat triển. Chính vì vậy mà xóa đói giảm nghèo được coi là chương trình mục tiêu quốc gia, là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và nhà nước ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Xã Hòa Sơn huyện Krông Bông tỉnh Đăk Lăk là một trong những xã điểm của huyện nhưng tỷ lệ nghèo đói của xã vẫn còn cao. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015 thì năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo trong xã là 30.74%, chủ yếu tập trung ở thôn Tân Sơn và Buôn Ya. Dân số sống bằng nghề nông rất cao, nên thường gặp nhiều rủi ro thiên tai, vì vậy đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Trong quá trình tìm hiểu hộ nghèo do một số nguyên nhân sau: trình độ học vấn của người nghèo là rất thấp tỷ lệ mù chữ của người nghèo cao 57,1%, học cấp I là 43,69% trong khi đó tỷ lệ học cấp III 17.85%. Như vậy sẽ gây khó khăn cho hộ nghèo trong việc tiếp cận khoa học kỹ thuật và thông tin thị trường, giá cả. Nghèo là do đông con, tỷ lệ phụ thuộc cao nhóm hộ cận nghèo tỷ lệ phụ thuộc là 39,53%, nghèo là 37,18%. Hệ số sử dụng đất thấp 1.05. Năng suất cây trồng không cao, cây trồng chủ lực của xã là cây lúa, hộ nghèo năng suất chỉ đạt 3.81 tấn/ha trong khi đó nhóm hộ khá là 9.5 tấn /ha. Diện tích đất bình quân trên hộ là khá cao với hộ nghèo 2.62 ha/hộ cao hơn cả nhóm hộ khá là 0.83 ha/hộ. Nhưng sản xuất lại không hiệu quả do thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất. Vốn vay bình quân của hộ nghèo là 7.625.000đ khó mà đầu tư cho việc sản xuất. Phương tiện sản xuất bình quân chỉ 0.22 cái rất thấp, chỉ bằng một phần ba so với nhóm hộ khá là 0.64 cái, đến mùa vụ phải thuê, mướn làm cho chi phí sản xuất tăng lên. Chính vì vậy mà việc cân đối thu chi của hộ nghèo trong năm dẫn đến thâm hụt.
Mặt dù có những khó khăn nhất định nhưng thời gian qua Đảng ủy và chính quyền xã đã có những thành công nhát định trong công tác xóa đói giảm nghèo, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân.
4.2 Kiến nghị
Qua việc nghiên cứu đánh giá tình hình xóa đói giảm nghèo tại xã Hòa Sơn, để giảm tỷ lệ nghèo đói trong xã tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
* Đối với nhà nước cần có nhiều chính sách ưu tiên hơn nữa trong công tác xóa đói giảm nghèo. Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu trong công tác xóa đói giảm nghèo
* Đối với chính quyền xã
- Đội ngũ làm công tác xóa đói giảm nghèo trong xã không nên kiêm nhiệm quá nhiều nhiệm vụ để có thời gian chuyên sâu cho công việc.
- Việc điều tra và rà soát hộ nghèo cần được thực hiện công khai và sác thực để xác định đúng người và đúng đối tượng, tránh hiện tượng hộ nghèo không được nghèo hộ không nghèo lại trở thành hộ nghèo.
- Chú trọng công tác khuyến nông cho hộ nghèo để họ sản xuất hiệu quả hơn.
- Chính quyền xã cần tạo mọi điều kiện tốt nhất để con em hộ nghèo và người đồng bào dân tộc thiểu số được đến trường.
- Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là các thôn buôn hơi xa trung tâm xã.
- Tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận nhiều hơn nữa với các tổ chức tín dụng, ưu tiên cho người nghèo vay vốn với lãi suất thấp mà không cần thế chấp đồng thời phải hướng người dân sao cho sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất.
- Nâng cao số vốn cho vay và thời gian cho vay để họ yên tâm sản xuất đầu tư vào những lĩnh vực có thời gian dài hơn.
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn khuyến nông nhằm hướng dẫn cụ thể cho bà con nông dân đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số, ở đây tỷ lệ mù chữ rất cao nên hình thức khuyến nông phải cụ thể rõ ràng, thực tế thì người dân mới áp dụng được.
- Nhanh chống hoàn thiện hệ thống thủy lợi để người dân chủ động trong việc tưới tiêu, từ đó mới hộ nghèo
* Đối với hộ nghèo
- Tích cực tham gia các lớp tập huấn khuyến nông lâm được tổ chức tại xã
- Chủ động tạo công ăn việc làm nhất là trong thời gain nhàn rỗi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Tuyết Hoa Niêkdăm, Bài giảng kinh tế hộ, trường Đại học Tây Nguyên
2. Th.S H’wen NiêKdăm, Bài giảng Kinh tế nông nghiệp, trường Đại học Tây Nguyên
3. CN Phạm Văn Trường (2011), Bài giảng kinh tế phát triển, trường Đại học Tây Nguyên.
4. GS.TS Tô Dũng Tiến, Giáo trình thống kê nông nghiệp, trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội.
GS.TS Tô Dũng TIến, Bài giảng Phương pháp nghiên cứu kinh tế, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
6. Báo cáo tổng kết của UBND xã Hòa Sơn, huyện Krông Bông trong ba năm 2008, 2009, 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá tình hình xóa đói giảm nghèo tại Xã Hòa Sơn, Huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk.doc