LỜI MỞ ĐẦU
Dân số là cơ sở tự nhiên để hình thành nguồn nhân lực - một nhân tố cơ bản có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Dân số với các yếu tố cơ bản của mình bao gồm: quy mô, cơ cấu, chất lượng và sự phân bố dân số, khi các yếu tố này đạt đến một sự phù hợp nhất định sẽ có vai trò và tác động rất lớn đối với sự phát triển. Ngược lại, mọi sự phát triển suy cho cùng đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người, nâng cao đời sống và đáp ứng ngày một tốt hơn những nhu cầu của con người.
Như vậy có thể thấy rằng giữa dân số và phát triển hình thành nên một mối quan hệ biện chứng gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó dân số được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển. Nghiên cứu sâu sắc mối quan hệ này, hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đều có chung một cách nhìn nhận coi đầu tư cho dân số là đầu tư cho sự phát triển. Việc phân tích , đánh giá vấn đề trên không chỉ có ý nghĩa ở tầm lý luận mà trên thực tế có vai trò đặc biệt quan trọng tác động vào sự phát triển dân số nói riêng và sự phát triển bền vững của quốc gia nói chung.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng em sẽ tập trung phân tích mối quan hệ dân số và phát triển trên hai phương diện lý luận và thực tiễn để làm rõ vấn đề “Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển”.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: 2
QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 2
1. Các vấn đề cơ bản của dân số. 2
2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển. 2
II. HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN Ở CAIRO – AI CẬP NĂM 1994. 3
III. QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 5
1. Dân số và kinh tế. 5
2. Dân số và xã hội 10
3. Dân số với tài nguyên và môi trường. 16
CHƯƠNG II: 19
VIỆT NAM – VỚI CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ 19
PHỤC VỤ SỰ PHÁT TRIỂN 19
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN 20
II. CÁC CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ CỦA VIỆT NAM . 21
1. Chính sách kinh tế. 21
2. Các chính sách xã hội 24
3. Chính sách đối với tài nguyên - môi trường. 32
Tài liệu tham khảo. 36
KẾT LUẬN 37
39 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3876 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương án thấp nhất) đến 104,28 triệu ng (phương án cao nhất).
Gia tăng dân số nhanh: trung bình mỗi năm nước ta có thêm khoảng trên 1 triệu trẻ em, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên luôn ở mức cao.
Cơ cấu dân số của nước ta thuộc cơ cấu dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động lớn. Cơ cấu dân số trẻ vừa tạo ra nguồn nhân lực dồi dào vừa tạo áp lực đối với vấn đề giải quyết việc làm của nền kinh tế.
Dân số Việt Nam có sự phân bố không đều giữa thành thị và nông thôn, giữa các thành phố lớn và các vùng lân cận, giữa đồng bằng và miền núi...Khu vực nông thôn chiếm khoảng trên 75% dân số, khu vực thành thị là gần 25% dân số.
Với những đặc điểm về dân số nêu trên thì Việt Nam luôn là một trong những quốc gia có dân số đông và ép sức ép của dân số đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường là rất lớn. Việt Nam đã thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng tổng sản phẩm xã hội, giải quyết việc làm cho người dân. Đồng thời, với sự nỗ lực trong việc tham gia các hội nghị quốc tế, ký kết các hiệp định song phương, đa phương với các quốc gia nhằm hợp tác tích cực về vấn đề dân số. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể về giảm mức sinh, tiến tới ổn định quy mô dân số và nâng cao chất lượng dân số.
Từ sự phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa dân số với các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tài nguyên – môi trường đã giúp chúng ta đi đến một kết luận rằng: bất kỳ quốc gia nào mong muốn đạt đạt mục tiêu phát triển bền vững thì cần phải có chiến lược đầu tư cho dân số một cách phù hợp. Việt Nam cũng không nằm ngoài kết luận đó. Chính phủ Việt Nam đã tích cực đưa ra những chính sách dân số cụ thể nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa dân số và phát triển. Kiểm soát được sự gia tăng dân số cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ sẽ có cơ sở để đề ra các chính sách hợp lý nhất. Việc đầu tư cho dân số được thể hiện trong những chính sách cụ thể mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN
Từ đầu thập niên 1960 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân số hợp lý. Chính sách dân sô hướng tới giảm sinh ở nước ta ra đời cách đây gần 40 năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại thời điểm này dân số nước ta mới khoảng 30 đến 31 triệu người, chưa bằng nửa số dân hiện nay và trên thế giới nhiều Chính phủ chưa quan tâm đến vấn để dân số. Điều đó chứng tỏ nhà nước đã sớm ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh và hơn nữa, có tầm nhìn chiến lược đối với công tác này khi xác định mục tiêu của sinh đẻ có hướng dẫn không chỉ đơn thuần là để hạn chế quy mô dân số mà mục đích tối cao của nó là: “ Vì sức khỏe của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hòa thuận của gia đình, để cho việc nuôi dạy con cái được tốt...”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII (1993) nhận định: “ Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt”.
Mục tiêu phát triển con người được khẳng định như là mục tiêu tổng quát của chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: “Thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no hạnh phúc”.
Nghị quyết đã nêu lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển, vị trí của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình: “Công tác dân sô KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội”.
Như vậy, “Sinh đẻ có hướng dẫn”, “ Sinh đẻ có kế hoạch” hay “Kế hoạch hóa gia đình” đều là những yếu tố cơ bản để vươn tới mục tiêu cao hơn mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Hay nói cách khác, giải quyết tốt vấn đề dân số là một trong những giải pháp cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Đó là quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong những thập kỷ qua.
Mặt khác, trong những năm qua Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành và thực thi nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là đối với bà mẹ, trẻ em, nâng cao địa vị người phụ nữ... Tạo điều kiện thích hợp cho việc thực hiện thành công chính sách và chương trình dân số Quốc gia.
II. CÁC CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CHO DÂN SỐ CỦA VIỆT NAM
1. Chính sách kinh tế
Kinh tế phát triển là cơ sở là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của đất nước, góp phần quan trọng vào việc tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội của nhà nước.
Đặc điểm cảu nền kinh tế Việt Nam là có điểm xuất phát thấp và gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong mọi giai đoạn phát triển đất nước. Tuy nhiên trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Như vậy, các kết quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế đều phải nhằm vào phục vụ các chính sách xã hội và vì mục tiêu cao nhất là phát triển con người.
Chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước là một chủ trương quan trọng góp phần tạo nên những chuyển biến căn bản của nền kinh tế nước ta. Chủ trương này đã được cụ thể hóa thành các mục tiêu, giải pháp trong các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta giai đoạn 1991 – 2000 và chiến lược 2001 – 2010. Trong đó xác định đổi mới kinh tế là đổi mới toàn diện bao gồm: cơ cấu kinh tế, nội dung kinh tế, phương pháp quản lý kinh tế...
Hệ thống các chính sách phát triển kinh tế đã được xây dựng và triển khai trên thực tế như: chính sách thu hút đầu tư, chính sách phát triển các thành phần kinh tế, chính sách phát triển các ngành nghề, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại....
Hàng năm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế chiếm trên 30% GDP, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh, cùng với đó là các chương trình phát triển nông nghiệp – nông thôn, công nghiệp dịch vụ, các chương trình và dự án trọng điểm kinh tế của nhà nước được thực thi đã góp phần giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo môi trường lành mạnh để nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo và tự tạo việc làm cho người lao động.
Trong những năm qua từ việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế thì nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như: tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng tăng qua các năm từ 5,2% đầu năm 2000 đã tăng lên 8,2 % năm 2006 và 8,5 % năm 2007; thu nhập bình quân trên đầu người được nâng cao từ xấp xỉ 289 USD/ng năm 1999 lên 725 USD/ng năm 2006, 835 USD/ng năm 2007 và đến năm 2008 đạt 1030USD/ng. Đây là một nỗ lực rất lớn của nền kinh tế đưa nước ta lần đầu tiên ra khỏi danh sách các nước nghèo trên thế giới....
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới có nhiều biến động đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, thì nền kinh tế nước ta cũng chịu những tác động nặng nề tốc độ tăng trưởng giảm sút, lạm phát tăng cao, kéo theo đó là tình trạng thất nghiệp gia tăng đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn...Đảng và nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra các chủ trương tăng cường các giải pháp hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giải quyết việc làm cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội.
Mặc dù, thành tựu đạt được của nền kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Song trên thực tế chúng ta nhận thấy rằng các kết quả về mặt kinh tế đã hướng vào mục tiêu vì người lao động, có tác động mạnh mẽ đến các quá trình dân số, là một trong những tiền đề quan trọng giúp Chính phủ giải quyết các hậu quả của gia tăng dân số, suy thoái nguồn tài nguyên và sự xuống cấp của môi trường sống đang diễn ra nghiêm trọng ở nước ta.
Trong các chính sách phát triển kinh tế thì chính sách giải quyết việc làm là một chính sách quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều mặt như: thu nhập, mức sống của người lao động, các quá trình dân số như di dân và sự phân bố dân cư...giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động sẽ góp phần quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, tác động tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát trỉển, tiến kịp khu vực và thế giới. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề việc làm đang là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ mở cửa hội nhập hiện nay.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối thiết thực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đã được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ: “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, trong những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả khả quan: với việc đa dạng hóa ngành nghề trên phạm vi cả nước, hàng năm đã giải quyết việc làm cho từ 1,1 - 1,2 triệu lao động, tận dụng tối đa nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước, từng bước nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân; tạo và tự tạo việc làm cho từ 300 - 350 nghìn lao động trên năm; đến nay đã có 150 trung tâm giới thiệu việc làm; việc đẩy mạnh chính sách kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia trên thế giới trong đó có hợp tác về vấn đề lao động thì nước ta đã và đang thực hiện tốt hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, coi đây là một trong những kênh quan trọng để giải quyết việc làm (từ 70-80 nghìn lao động trên năm), xóa đói giảm nghèo cho người dân, đem lại cơ hội lớn cho việc tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì vấn đề lao động và việc làm ở nước ta hiện nay vẫn là vấn đề bức xúc, còn nhiều hạn chế cần khắc phục: các văn bản, chính sách về lao động việc làm ra đời nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa đày đủ, chưa thực sự theo sát thực tiễn, hiệu quả thực hiện triển khai chính sách còn chậm; chất lượng việc làm chưa cao, tính ổn định, bền vững trong việc làm thấp, hiệu quả tạo việc làm còn chưa cao, chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, lao động chủ yếu làm việc trong nông nghiệp chiếm 54,7%; thị trường lao động Việt Nam đã bước đầu hình thành và phát triển nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn có nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất, ở 3 vùng kinh tế trọng điểm, còn ở các tỉnh khác mức độ còn sơ khai. Lao động phân bố không đều chủ yếu ở nông thôn, đồng bằng và thưa thớt ở miền núi. Hệ thống thông tin thị trường lao động chưa hoàn thiện, hệ thống giao dịch việc làm chưa mạnh, chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động; các chính sách về tiền lương, tiền công, bảo hiểm, bảo hộ lao động chưa được đảm bảo nên chưa khuyến khích đựợc người lao động phát huy hết khả năng và chưa thực hiện được chức năng “kích cầu” để sản xuất phát triển; tồn tại cơ bản là chất lượng nguồn nhân lực, nhìn chung trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, gần 70% lao động chưa qua đào tạo, một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc được sử dụng không đúng ngành nghề hoặc phải đào tạo lại mới có thể làm việc trong các doanh nghiệp, chúng ta thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động dịch vụ cao cấp (tài chính ngân hàng...). Mặt khác hầu hết người lao động của nước ta hiện nay còn mang thói quen, tập quán sản xuất nhỏ, thiếu năng động và sáng tạo, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp kém...Do đó, nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường là rất lớn, kể cả thị trường trong nước và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Những hạn chế và tồn tại nêu trên đã gây ra nhiều khó khăn trong giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động ở nước ta hiện nay. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu giải quyết việc làm trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, cần thực hiên một hệ thống các giải pháp khác nhau tác động trực tiếp đến những mặt còn yếu kém. Trong đó, có giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho đầu tư phát triển, nhất là những vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động như: các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở cả 3 miền, khu vực dân doanh, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế trang trại, hợp tác xã, các nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống...; khu vực dịch vụ nhất là các dịch vụ thu hút nhiều lao động, kết hợp khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng CNH - HĐH để tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động di dân ra các thành phố kiếm việc làm.
2. Các chính sách xã hội
2.1. Chính sách về giáo dục – đào tạo
Phát triển Giáo dục – đào tạo sẽ nâng cao mặt bằng dân trí, yếu tố thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát triển của giáo dục đào tạo sẽ tạo một nguồn nhân lực có đạo đức và trí tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, đặc biệt là yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nhận thức vai trò của giáo dục- đào tạo, Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 (Khóa VIII) đã khẳng định: “Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư cho phát triển. Thực hiện hiệu quả các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục đào tạo, có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục”.
Các Nghị quyết của Đảng gần đây đều tiếp tục nhấn mạnh giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư có hiệu quả nhất cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Việc coi trọng và đầu tư cho sự nghiệp giáo dục- đào tạo ở nước ta được biểu hiện trên một số điểm cơ bản sau;
Nhà nước đã xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp luật để quản lý và điều tiết thống nhất tòan bộ hoạt động giáo dục đào tạo trên phạm vi cả nước, tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động giáo dục- đào tạo, trong đó Luật Giáo dục 2005 cùng với các Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ là nền tảng cơ bản.
Các kế hoạch, chương trình phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo được xây dựng cho mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước và được tích cực triển khai thực hiện trên thực tế như: các chương trình về cải cách giáo dục, chương trình xóa nạn mù chữ, các chương trình dự án xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, chương trình giáo dục cho đồng bào dân tộc miền núi... Để thực hiện các chương trình và kế hoạch trên, nhà nước đã ban hành và thực thi nhiều chính sách cụ thể trong giáo dục như chính sách đối với giáo viên và học sinh nghèo, thu học phí, chính sách hỗ trợ đồng bào miền núi, dân tộc ít người, chính sách hỗ trợ cho sinh viên...
Đầu tư cho giáo dục đào tạo được nhà nước ta đặc biệt quan tâm thông qua việc tăng cường chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo: chi phí cho giáo dục, đào tạo từ mức chiếm 15,5% trong tổng chi ngân sách nhà nước năm 2001 đã tăng lên 20% năm 2008. Nhà nước cũng tăng cường các biện pháp thích hợp nhằm thu hút, huy động các nguồn đầu tư cho giáo dục, đào tạo từ nhân dân, từ các thành phần kinh tế trong nước và cả những nguồn vốn từ nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Trong đó chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, đa dạng hóa các cấp học và ngành học, nâng cao chất lượng giáo dục...
Sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước, do đó Đảng và nhà nước ta cũng nhấn mạnh giáo dục đào tạo là quyền lợi, là trách nhiệm của mọi người dân, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo là sự nghiệp của toàn dân ta.
Sự nghiệp giáo dục, đào tạo ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm học 2007-2008, cả nước có 12 nghìn trường mẫu giáo, bậc giáo dục phổ thông là 27.900 trường, bậc giáo dục chuyên nghiệp có 550 trường trung cấp chuyên nghiệp, 55 trường cao đẳng nghề, 265 trường trung cấp nghề và hàng ngàn các cơ sở trung tâm đào tạo nghề. Đối với bậc giáo dục đại học và sau đại học có 369 trường cao đẳng và đại học, trong đó cao đẳng là 210 trường, đại học là 169 trường với tổng số sinh viên là 1,6 triệu, chiếm khoảng 1,88% dân số cả nước.
Công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đạt được nhiều kết quả tích cực và tiếp tục được triển khai mạnh trên phạm vi cả nước. Tính đến tháng 12 năm 2008, có 41/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 47/63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
Trình độ đào tạo và chất lượng giáo dục ở các cấp học đã có nhiều chuyển biến: tỉ lệ lao động qua đào tạo của cả nước tăng từ 16,92% năm 2002 lên 25% năm 2005 và đạt 35,4% năm 2008, tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề theo mục tiêu đạt 25% vào năm 2010. Công tác quản lý chất lượng giáo dục được đặc biệt chú trọng, hình thành các tổ chuyên trách từ trung ương đến cơ sở về đánh giá và kiểm định chất lượng. Tính đến tháng 7 năm 2008 có 144/163 (chiếm 70%) trường đại học tự đánh giá, các trường phổ thông chất lượng cao được thành lập ở nhiều địa phương, nhiều trường đại học đã thực hiện tổ chức giảng dạy theo các chương trình tiên tiến quốc tế.
Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đạt được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động đưa trẻ đến trường, giám sát hiến kế cho giáo dục, đóng góp kinh phí. Đặc biệt có sự tham gia đông đảo của các thành phần kinh tế vào hoạt động giáo dục khiến cho số lượng các cơ sở giáo dục ngoài công lập tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng gia tăng của xã hội.
Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện đặc biệt, tăng cơ hội học tập cho các trẻ em gái, người dân tộc nghèo, người khuyết tật. Việc miễn giảm học phí, cấp học học bổng và các chính sách hỗ trợ khác được tăng cường thực hiện (năm 2008 có 53% số sinh viên cả nước được miễn giảm học phí)
Như vậy, với những thành tựu đã nêu trên, sự nghiệp giáo dục- đào tạo đã đóng góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Tuy nhiên, sự nghiệp giáo dục hiện nay cũng đang gặp phải không ít những hạn chế và bất cập cần phải giải quyết và tháo gỡ như: đào tạo còn chưa thực sự chú trọng về mặt chất lượng, chưa gắn với nhu cầu thực tế, đầu tư cho giáo dục- đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, các chiến lược phát triển giáo dục còn mang nặng tính mục tiêu, không gắn với các chiến lược phát triển kinh tế xã hội... Vì vậy, cần thiết phải thiết lập và thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ về giáo dục- đào tạo trong đó nhấn mạnh vai trò quản lý của nhà nước về giáo dục đào tạo, có sự tham gia của toàn thể các cấp, các ngành và toàn nhân dân vào sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước, đáp ứng cho nhu cầu phát triển của trong điều kiện hội nhập hiện nay.
2.2. Chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân
Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người và của xã hội, do đó chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có vị trí hàng đầu trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Sức khỏe tốt thể hiện ở thể lực cường tráng, không bệnh tật, nó cùng với trí lực và tâm lực là yếu tố quyết định đến sự phát triển toàn diện của cá nhân và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Trong chiến lược và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 – 2020 đã nêu bật quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong đó khẳng định: “Con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất của xã hội, con người quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội. Vì vậy, đầu tư cho sức khỏe để mọi người đều được chăm sóc sức khỏe chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân và gia đình”. Quan điểm cũng chỉ rõ phải đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền dân tộc, tăng cường xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hướng vào các nội dung cơ bản như: bảo vệ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chăm sóc sức khỏe gia đình đặc biệt là bà mẹ và trẻ em, giảm tỷ lệ gia tăng dân số, phòng và chống dịch bệnh ....Các nội dung đó được cụ thể trong các chính sách như chính sách đầu tư cho y tế, chính sách bảo hiểm y tế, chính sách phòng trừ tệ nạn xã hội và dịch bệnh, chính sách về thuốc, chính sách kế hoạch hóa gia đình...
Sự quan tâm, đầu tư cho y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở nước ta được thể hiện như sau:
Về đầu tư của ngân sách nhà nước cho y tế: mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn chế, nhiều lĩnh vực phải ưu tiên nhưng Chính phủ cũng đã ưu tiên tăng chi ngân sách nhà nước cho y tế, năm sau cao hơn năm trước cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng chi ngân sách nhà nước. Năm 2002 đầu tư cho y tế là 7.187 tỷ đồng, đạt 5% tổng chi ngân sách và đến năm 2007 là 23.280 tỷ đồng chiếm 6,3% chi ngân sách nhà nước.
Vấn đề khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được quan tâm và tăng cường triển khai thực hiện, hàng năm đã đảm bảo ngân sách để mua thẻ bảo hiểm y tế cho khoảng 1,1 triệu người có công với cách mạng. Bố trí đủ ngân sách và chỉ đạo các địa phương thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh cho gần 20 triệu người nghèo, mức chi cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng tăng (từ 50 nghìn đồng/ng năm 2005 lên 80 nghìn đồng/ng năm 2007).
Nhà nước đặc biệt khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế đầu tư phát triển hệ thống y tế. Tính đến năm 2007, cả nước có trên 30.000 phòng khám tư, trên 21.600 thầy thuốc, 450 cơ sở sản xuất thuốc với 4.456 giường bệnh. Cho đến nay, các bệnh viện công đã huy động được 3.000 tỷ đồng để triển khai các kỹ thuật cao, trong đó các bệnh viện trực thuộc Bộ y tế là trên 1.500 tỷ đồng.
Xác định đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho phát triển bền vững, Chính phủ đảm bảo đủ kinh phí để khám chữa bệnh miễn phí cho khoảng 10 triệu trẻ em/năm tại các cơ sở y tế công lập với mức chi ngày càng tăng: năm 2005 là 75 nghìn đồng/trẻ, năm 2007 là 108 nghìn đồng/trẻ và năm 2008 là 130 nghìn đồng/trẻ. Hàng chục triệu trẻ em đã được khám và điều trị bệnh miên phí, nhiều trường hợp bệnh nặng hiểm nghèo chi phí lên đến 40 - 50 triệu đồng.
Đối với những người cận nghèo, từ năm 2008 ngân sách nhà nước cũng đã bố trí 700 tỷ đồng để hỗ trợ họ mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện, mức hỗ trợ là 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế của người nghèo.
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ vẫn tiếp tục giữ và tăng dần kinh phí cho Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng chống dich bệnh nguy hiểm, trong đó hầu hết là các dự án thuộc lĩnh vực y tế dự phòng.
Một số kết quả đạt được trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân như sau: tỉ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 95%, tỉ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 31,2 phần nghìn năm 2000 xuống 15 phần nghìn năm 2008; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển mạnh, năm 2007 có gần 98% trong tổng số 11.000 xã ở Việt Nam đã có trạm y tế; tuổi thọ trung bình của người dân được nâng lên từ 35 tuổi (1945) lên 60 tuổi (1975) và hiện nay đạt xấp xỉ 74 tuổi, công tác chăm sóc sức khỏe người già được quan tâm; nhiều dịch bệnh đã được ngăn chặn và đẩy lùi kịp thời như SARS, cúm H5N1, dịch tiêu chảy cấp...
Bên cạnh chính sách chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thì Việt Nam cũng như các quốc gia khác, việc quan tâm và thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình được nhấn mạnh vừa là mục tiêu vừa là động lực nhằm giảm mức sinh, nâng cao chất lượng sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng của con người.
Trong những năm qua, kể từ khi thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về “Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình” và Nghị quyết 47/NQ/TW/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình”, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư của Đảng, nhà nước, sự tham gia trách nhiệm của các cấp, các ngành, sự đồng tình hửơng ứng của các tầng lớp nhân dân, Chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã đạt được những kết quả quan trọng: quy mô gia đình chỉ có từ một đến hai con được chấp nhận rộng rãi, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm mạnh từ trên 3,8 con (1990) xuống 2,2 con (2000) và đến nay đã đạt được mức sinh thay thế với 2,09 con, tỉ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ ba giảm xuống dưới 17%. Tỉ lệ gia tăng dân số theo đó cũng giảm tương ứng: từ 1,51% (1999) xuống còn 1,22% năm 2008. Kết quả công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình đã góp phần rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội. Qua nghiên cứu các nhà khoa học đã chỉ ra rằng: “Để đảm bảo ổn định kinh tế xã hội như hiện tại, nếu tốc độ phát triển dân số là 1% thì tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng phải là 4%”. Ở nước ta, từ 2000-2007 trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng tăng (từ 5,2% năm 2000 lên 8,48% năm 2008 thì tốc độ tăng dân số có sự giảm tương. Đây là dấu hiệu quan trọng góp phần tăng tích lũy cho nền kinh tế, tăng thu nhập bình quân/ người hàng năm và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì thực tế cũng cho thấy chính sách y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân hiện nay cũng còn nhiều điểm hạn chế cần khắc phục như: chất lượng khám chữa bệnh chưa cao, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn cao, tốc độ dân số vẫn có nguy cơ tăng trở lại, số lượng các cơ sở y tế ngoài công lập tăng song quy mô nhỏ, chỉ thực hiện khám và chữa các bệnh thông thường, trang thiết bị y tế còn lạc hậu chưa đảm bảo nhu cầu khám và điều trị ... Vì vậy, cần tăng cường các giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện chính sách y tế chăm sóc sức khỏe, nhấn mạnh và đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình trong chiến lược phát triển của đất nước, tăng đầu tư cho y tế, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế,.. Đây là yếu tố quyết định đến sự phát triển của đời sống nhân dân nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung.
2.3. Thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam
Như đã khẳng định: không thể có được những tiến bộ xã hội nếu như một bộ phận của xã hội còn bị hạn chế hay bị loại trừ khỏi những hoạt động xã hội. Các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã có nhiều nỗ lực thực hiện vấn đề bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ và trẻ em gái có được cơ hội học tập, làm việc và thụ hưởng thành quả lao động.
Bình đẳng giới được thể hiện thông qua chỉ số GDI, là chỉ số phản ánh toàn diện sự phát triển của quốc gia về giới trên thực tế. Như vậy, để đạt được bình đẳng giới phải là sự tổng hợp các kết quả đạt được từ các chính sách khác như giáo dục, y tế, việc làm, thu nhập, kế hoạch hóa gia đình..Và vì vậy đầu tư cho các chính sách này cũng có nghĩa là nâng cao chỉ số GDI và bình đẳng giới được xem như là mục tiêu, nhân tố thành công của các chính sách dân số.
Việt Nam là nước tương đối đi đầu về bìnhđẳng giới trong khu vực. Vấn đề bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ là một trong những mục tiêu to lớn của Đảng và nhà nước ta đã được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trong Hiến pháp qua các thời kỳ và đã được thể chế hóa trong hầu hết các văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện và cơ hội trao quyền bình đẳng cho cả nam và nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật bình đẳng giới đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2007. Tiếp đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 3 tháng 5 năm 2007 về việc triển khai thi hành Luật bình đẳng giới, Nghị định số 70/2008/ND-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bình đẳng giới, Nghị định số 48/2009/ND-CP ngày 15/5/2009 quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trong đó quy định cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới là Bộ lao động thương binh xã hội.
Luật bình đẳng giới cùng với Kế hoạch hành động của Chính phủ về sự tiến bộ của phụ nữ (2006-2010) và Luật phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội thông qua cuối năm 2007, một mặt đã hình thành hành lang pháp lý cho quá trình quản lý nhà nước về bình đẳng giới coi bình đẳng giới là một trong những nội dung thuộc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền. Mặt khác, quan trọng là nhận thức về bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam đã có sự chuyển biến rõ rệt. Bình đẳng giới là một mục tiêu phấn đấu của một xã hội phát triển, và để thực hiện được bình đẳng giới cần lồng ghép vấn đề bình đẳng giới với các chương trình cụ thể khác.
Từ những đầu tư của nhà nước, xã hội, gia đình và từng cá nhân cho vấn đề bình đẳng giới, trong những năm qua công tác bình đẳng giới ở nước ta đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị giảm xuống còn 5,29%. Tỷ lệ nhập học và tốt nghiệp của học sinh nam và nữ trong tất cả các cấp, bậc học gần như tương đương, tỷ lệ mù chữ ở nam và nữ đã giảm đáng kể. Tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, huy dộng mạnh mẽ các nguồn lực khác nhau trong xã hội đã góp phần đưa tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế lên hơn 90 %. Trên 50 % số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn từ chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, 45 % số phụ nữ được vay vốn từ ngân hàng chính sách xã hội đã góp phần mạnh mẽ vào thành quả giảm nghèo ở Việt Nam. Cùng với đó thì những kết quả đạt được từ công tác dân số – KHHGĐ đã góp phần tích cực vào nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội, đồng thời nhấn mạnh vai trò của nam giới trong nhận thức về bình đẳng giới .
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam là một trong những nước dẫn dầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt dộng kinh tế, là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách giới trong những năm qua ở khu vực Đông Nam Á.
Những thành tựu đạt được trong công tác bình đẳng giới thể hiện những cố gắng của Chính phủ và toàn xã hội vì mục tiêu phát triển con người trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Đó là sự đầu tư để nâng cao thu nhập và hiểu biết của con người nói chung và của phụ nữ, trẻ em gái nói riêng. Kết quả đạt được đó là sự liên hệ mật thiết giữa các chính sách trong quá trình thực hiện và phản ánh những bước tiến của xã hội chúng ta hiện nay với xã hội cũ trước đây.
Tuy nhiên, trên thực tế công tác bình đẳng giới vẫn còn nhiều khó khăn bất cập như: nhận thức, thái đọ và hành vi mang tính định kiến về giới còn tồn tại ngay cả đối với gia đình trí thức, đội ngũ cán bộ công chức; kết quả thực hiện bình đẳng giới là không đồng đều giữa khu vực đồng bằng và khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mặc dù nhà nước đã ban hành văn bản để bảo đảm việc thực hiện bình đẳng giới nhưng trên thực tế khoảng cách giữa những quy định của pháp luật và việc thực thi là khá lớn, những định kiến trong xã hội không thể chỉ bằng quy định pháp luật mà sửa bỏ ngay được; thiếu thông tin, dữ liệu tách biệt giới tính và trách nhiệm thực hiện lồng ghép giới chưa được quán xuyến đầy đủ…Những hạn chế, tồn tại này đang cản trở quá trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. Giải pháp đưa ra cần nhằm vào những tồn tại lớn và phải mang tính thiết thực, trong đó quan trọng là công tác đầu tư của nhà nước, toàn xã hội và từng cá nhân thuộc cả hai giới. Nội dung đầu tư thực hiện trên hai mặt song song là nhận thức vấn đề và đầu tư các nguồn lực thực hiện.
3. Chính sách đối với tài nguyên - môi trường
Dân số là chủ thể quản lý xã hội nhưng cũng là đối tượng tác động trực tiếp đến tài nguyên, môi trường sống của xã hội. Muốn có những giải pháp cho vấn đề tài nguyên môi trường cần giải quyết vấn đề dân số. Những giải pháp về mối quan hệ này sẽ tạo ra các biện pháp “chữa trị” cho tài nguyên và môi trường đang bị tàn phá nghiêm trọng đặc biệt trong xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay. Phải nghiêm ngặt ứng dụng mối quan hệ dân số – tài nguyên môi trường trong sự hoạch định các chính sách về dân số cũng như các hoạt động có liên quan đến việc cải thiện các điều kiện về tài nguyên môi trường sống. Đó là nhiệm vụ của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam – một nước nằm trong vùng ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu và sự tàn phá, hủy hoại về môi trường gắn liền với bùng nổ dân số.
Tình hình sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc trong đó nổi bật là các vấn đề: nạn phá rừng; khai thác tài nguyên sinh học quá mức; tài nguyên đất xuống cấp; thiếu và ô nhiễm nước ngọt; ô nhiễm gia tăng; hậu quả chất độc hóa học của Mỹ trong chiến tranh để lại; dân số tăng nhanh cùng với nạn đói nghèo. Cụ thể các vấn đề đó là:
Nạn phá rừng: cũng như nhiều nước trên thế giới, rừng nước ta bị suy giảm một cách nhanh chóng. Nếu năm 1950 độ che phủ là 48 % tổng diện tích của cả nước thì đến năm 2001 giảm xuống còn 33,2 %. Nguyên nhân của tình trạng trên ngoài khai thác gỗ và các loại lâm sản còn do giải quyết nhu cầu lương thực cho số dân tăng quá nhanh đòi hỏi phải phá rừng để mở rộng diện tích đất canh tác. Diện tích rừng giảm sút, diện tích đất trống, đồi núi trọc tăng lên dẫn đến lũ lụt xảy ra nhiều hơn, ảnh hưởng đến các nguồn tài nguyên khác như đất đai, nước ngọt, khoảng sản, nhiên liệu và nguy hiểm hơn là làm giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Ô nhiễm nguồn nước: hầu hết các xí nghiệp công nghiệp và các thành phố lớn đều được xây dựng trên bờ các con sông lớn và bờ biển, nước thải chưa được xử lý đổ trực tiếp ra các con sông, biển và tình trạng sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật một cách phổ biến tràn lan ở nông thôn đã khiến cho nguồn nước ở cả thành thị lẫn nông thôn đều bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc đảm bảo và cung cấp nước sạch cho người dân trở thành một vấn đề bức xúc.
Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, sự gia tăng của các khu công nghiệp ….khiến cho ô nhiễm môi trường tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh trở thành vấn đề khá nghiêm trọng. Theo dự đoán của Sở khoa học, công nghệ và môi trường Thành phố Hà Nội năm 2005 sẽ có hơn 850 nghìn tấn rác thải, và đến năm 2020 con số này sẽ lên tới 1 triệu 600 nghìn tấn. Trong khi đó việc thi hành Luật bảo vệ môi trường chưa thực sự nghiêm minh, ở một số cơ quan, ban, ngành vấn đề môi trường chưa được coi là ưu tiên.
Ý thức tự giác của người dân về bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa thực sự trở thành thói quen. Nhiều người còn suy nghĩ giản đơn rằng vấn đề môi trường chưa cấp bách, trước mắt như vấn đề cơm áo gạo tiền hàng ngày; bảo vệ môi trường là vấn đề chung của cả nước, cả xã hội, là trách nhiệm của Đảng và nhà nước chứ không phải trách nhiệm của người dân…Chính sự thờ ơ, thái độ vô cảm của một bộ phận người dân đối với môi trường đã tiếp tay cho việc tàn phá môi trường.
Quan điểm phát triển bền vững chưa được thực hiện nhất quán. Đầu tư mới tập trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi ích trực tiếp, rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng. Bên cạnh đó, sức ép dân số và việc làm tiếp tục gia tăng. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, mô hình tiêu dùng của dân cư tiêu tốn nhiều vật liệu năng lượng, thải ra nhiều chất thải độc hại…Hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí, bất hợp lý tài nguyên thiên nhiên gây nên ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Xuất phát từ những thực trạng trên, Đảng và nhà nước ta luôn nhấn mạnh phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc trong quá trình phát triển, đặc biệt tới Đại hội Đảng IX Đảng ta đã nêu thành một quan điểm phát triển hàng đầu: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
Do vậy, để thực hiện thành công công cuộc phát triển bền vững đất nước, cần đảm bảo hài hòa phát triển kinh tế xã hội bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường với các mục tiêu: tập trung xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân; tăng trưởng kinh tế bền vững, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa theo các định hướng cơ bản sau:
Trong lĩnh vực kinh tế: phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường. Lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế hiệu quả cao, ít tốn năng lượng, thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng hòa hợp với môi trường; thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch”. Chuyển hướng phát triển tiết kiệm hoặc cần ít tài nguyên hơn với các quy trình công nghệ bảo vệ môi trường thiên nhiên, đầu tư theo chiều sâu, sử dụng có hiệu quả, khai thác kết hợp với tái tạo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Tránh lối phát triển theo kiểu “chụp giật”, chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá, chỉ chú trọng lợi ích trước mắt mà không tính đến yếu tố phát triển bền vững.
Trong lĩnh vực xã hội: bảo vệ môi trường phải gắn với công tác dân số, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ở Việt Nam, dân số nước ta hiện nay vào khoảng 85 triệu ng mật độ dân số cao, có tới 70 % dân số sống dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nên gia tăng dân số trở lại trong mấy năm vừa qua dã tạo ra sức ép rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong đó có mục tiêu phát triển bền vững. Do vậy, cần có chiến lược ổn định dân số, thực hiện kiểm soát việc gia tăng dân số bằng cách điều chỉnh, hạn chế dân số ở mức vừa phải, hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội. Bởi lẽ dân số ở mức phù hợp sẽ là nguồn lực quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, kích thích sự phát triển bền vững.
Mặc dù trong thời gian qua, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước đang phát triển có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới (từ trên mức 70% vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ 20 xuống còn khoảng 24,3% trong những năm gần đây), có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong khu vực nhưng đời sống của một bộ phận người dân, nhất là các vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền trong cả nước vẫn còn lớn. Với quan điểm con người là trung tâm của phát triển bền vững, cần tiếp tục tập trung thực hiện xóa đói giảm nghèo công bằng xã hội, đáp ứng nhu cầu cơ bản của cuộc sống, nâng cao mức sống và chất lượng sống của mỗi người và của cộng động, phát triển con người một cách bền vững trên cơ sở nâng cao năng lực thể chất, trí tuệ, tinh thần, nhân cách. Tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và nghĩa vụ, tự giáo dục của người dân về ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường coi đó như bảo vệ chính cuộc sống của họ. Tổ chức vận động nhân dân tham gia các phong trào từ đó thay đổi hành vi, nếp nghĩ trong ứng xử với các vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường. Quản lý chặt chẽ xu thế đô thị hóa, tránh hình thành một cách tự phát các siêu đô thị, làm nảy sinh các vấn đề môi trường, xã hội phức tạp.
Trong lĩnh vực môi trường: chống tình trạng thoái hóa đất, bảo vệ môi trường nước; khai thác và sử dụng hợp lý khoảng sản; bảo vệ môi trường biển…Ban hành các chế tài buộc các doanh nghiệp quy mô lớn và vừa phải thiết lập các hệ thống tự quản, giảm sát về môi trường. Ngoài ra cần xem xét để đưa vào giá thành các chi phí cần thiết cho tài nguyên và môi trường, thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm và sử dụng tài nguyên phải thanh toán chi phí cơ hội cho người sử dụng tương lai. Mặt khác, chúng ta cần tăng cường đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, mở rộng và xử lý thông tin về môi trường.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực xã hội của Học Viện
2. Hành Chính, nxb, khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2008.
3. Dân số và phát triển - những vấn đề cơ bản, nxb, học viện Chính trị, hà nội, 2005.
4. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 4 khóa VII (1993).
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001.
6. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
7. Chiến lược Giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2008, 2009-2020.
8. Thông báo số 160/TB-TW của Bộ Chính trị về kết luận của Ban Bí thư về thực hiện chính sách Dân số- KHHGĐ và một số giải pháp cấp bách.
9. Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua việc tập trung phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển đã cho thấy giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó dân số được khẳng định vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Việc phân tích làm rõ “Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển” sẽ cung cấp những thông tin về mặt lý luận cho các nhà quản lý trong việc hoạch định và tổ chức triển khai thực hiện các chính sách dân số nói riêng và chính sách phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên, để có thể giải quyết tốt và hài hòa mối quan hệ giữa dân số và phát triển trên thực tế luôn là bài toán nan giải đối với Chính phủ và toàn xã hội. Vì vậy, cần thiết phải có một hệ thống những giải pháp đồng bộ, trong đó đặc biệt quan trọng là phải có sự đầu tư hợp lý và toàn diện của Chính phủ ngay từ khi xây dựng các chính sách cho đến công tác tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư cho dân số là đầu tư cho phát triển.doc