Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng, mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu

LỜI MỞ ĐẦU Dưới sự tận tình hương dẫn của TS. Từ Quang Phương cùng TS. Phạm Văn Hùng. Nhóm 14 gốm : 1Lê Thị Mai 2Võ Thị Như Quỳnh Đã thực hiện đề tài : “Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu” Gồm có các chương sau: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ qua lại giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. I.Khaí quát về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu II: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu Chương II: Thực trạng mối quan hệ đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2008 I.Thực trạng đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu trên thế giới II.Thực trạng đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu ở Vi ệt Nam: Chương III: Một số giải pháp để phát triển đấu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai: I. Đầu tư theo chiều âu II.Biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư theo chiều rộng Chương I: Những vấn đề lý luận chung vè mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu. I. Khái quát về đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu 1. Đầu tư và phân loại đầu tư 1.1 Khái niệm: _ Đầu tư: nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, klaf sức lao động và trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường sá , bệnh viện, trường học ), tài sản trí tuệ( trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học, kỹ thuật ) và nguồn nhân lực có đủ điều hiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. _ Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đàu tư , là việc chi dung vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất( nhà xưởng thiết bị ) và tài cản trí tuệ( trí thức, kỹ năng ), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển Đầu tư phát triển đòi hỏi cần có nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên. 1.2. Phân loại đầu tư phát triển Trong công tác quản lý và kế hoạch hóa hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầ tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau . Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là: 1.2.1.Phân loại theo hoạt động Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm đầu tư cho các đối tượng đầu tư cho các đối tượng vật chất ( đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởn, máy móc, thiết bị ) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất( đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo nghiên cứu khoa học, y tế ). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư cho đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế_ xã hội cao. 1.2.2. Theo phân cấp quản lý Dầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B,C. Tùy theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C. Trong đó dự án quan trọng quốc gia do quốc hội quyết định, dự án nhóm A do thủ tướng chính phủ quyết định, nhóm B, C do Bộ trưởng, Thủ tướn cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính pủ, UBND tỉnh, thanmhf phố trực thuộc trung ương quyết định. 1.2 3. Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư Phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỡ với nhau. 1 2.4. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư Phân chia thành: _ Dầu tư cơ bản nhăm tái sản xuất các tài sản cố định - Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì các hoạt động của cơ sở vật chất kĩ thuật không thuộc các doanh nghiệp Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. 11.2.5. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội - Đầu tư thương mại: hoạt động đầu tư mà thời gian thưch hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngăn hạn, vốn vận động nhanh , độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt đọ chính xác cao. - Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn(5, 10,20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thưch hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được 1.2.6. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư - đầu tư ngắn hạn: tiến hành trong một khoảng thời gian ngắn, thương do những chủ đầu tư ít vồn thực hiện, đầu tư vào các hoạt động nhanh chóng thu hồi vốn. - Đầu tư dài hạn là việc đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi vốn đầu tư dài, khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu. 1.2.7. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư - Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thưc hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thong qua các hoạt động tài chính trung gian để đầu tư phát triển - Đầu tư trực tiếp: người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện vận hành các kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên hững năng lực sản xuất phuc vụ mới ( cả lương và chất). 1.2.8. Theo cơ cấu tái sản xuất: - Đầu tư theo chiều rộng - Đầu tư theo chiều sâu

doc42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2696 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng, mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến một sản phẩm mang thương hiệu riêng, chủ yếu là gia công những công đoạn thông thường. Cụ thể, hai lĩnh vực đóng tàu và ô tô tuy đạt mức tăng trưởng cao nhưng chỉ dừng lại ở khâu đóng khung và các phần nội thất đơn giản. Còn các máy móc và những thiết bị phức tạp đều phải nhập ngoại. Theo ông Nguyễn Văn Thụ - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp CK Việt Nam (VAMI), sản phẩm CK nước ta hiện nay chủ yếu là hàng gia công, giá trị kinh tế thấp, công nghệ, thiết bị lạc hậu, chưa hình thành một số ngành mũi nhọn đủ sức chế tạo dây chuyền thiết bị đồng bộ. Phần lớn thiết bị, máy móc, nguyên liệu phải nhập khẩu, công nghiệp phụ trợ yếu kém… Các chuyên gia trong Ngành đã không ngần ngại nhận định, lực lượng nghiên cứu phát triển, từ tư vấn, thiết kế công nghệ và thiết kế chế tạo, đến các chuyên gia đầu ngành với vai trò công trình sư, tổng công trình sư và lực lượng công nhân lành nghề còn thiếu và yếu về năng lực. Chất lượng đào tạo kỹ sư CK chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Bên cạnh đó, nguồn vốn cho đầu tư phát triển thiếu, chưa có chiến lược thị trường, sản phẩm, trình độ quản trị doanh nghiệp thấp. Quản lý thị trường yếu kém để hàng CK chất lượng thấp, giá rẻ tràn vào thị trường trong nước, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh cho các DN làm sản phẩm CK chính xác. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, các hàng rào bảo hộ bị bãi bỏ thì ngành CK sẽ gặp nhiều khó khăn. Tình hình trên không sớm được cải thiện thì trong tương lai Việt Nam vẫn mãi là người thợ làm thuê CK cho các nước đầu tư trực tiếp hoặc chỉ dừng lại ở vai trò là một nước chuyên gia công cơ khí cho thế giới. Tập trung đầu tư chiều sâu cho thị trường nông - lâm sản Theo dự báo, xuất khẩu lâm sản, trong đó chủ yếu là đồ gỗ, sẽ có nhiều thuận lợi trong những năm tới, nhất là đối với các thị trường lớn như Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU), Nhật Bản. Đối với ván nhân tạo, từ nay đến năm 2015, chỉ nên đầu tư sản xuất ván dăm và ván sợi (MDF) sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng, với tổng sản lượng ván nhân tạo dự kiến 800.000 m3 sản phẩm/năm, trong đó 60% là ván dăm. Các cơ sở chế biến gỗ và lâm sản hiện có (khoảng 1.200 cơ sở)da tập trung đầu tư chiều sâu ở những nơi có điều kiện để sản xuất các đồ mộc cao cấp phục vụ xuất khẩu bằng các nguồn vốn tự có, vốn huy động trong dân, vốn liên doanh... Đối với các cơ sở mới, chỉ nên tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất ván dăm, ván sợi ép và đồ mộc từ ván gỗ ép. Để tạo sự phát triển bền vững, nên chú ý việc tạo dựng nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản gắn với thị trường và lợi thế mỗi vùng là vô cùng quan trọng. Tập đoàn Dệt may tiếp tục đầu tư chiều sâu Vinatex tiếp tục đầu tư mở rộng cho các dự án chiến lược, chủ yếu tập trung vào đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất và giá trị gia tăng của hàng dệt may Việt Nam. Ông Nguyễn Hữu Bình, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) cho biết, trong năm 2008, Vinatex tiếp tục phát huy lợi thế của Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): thị trường xuất khẩu mở rộng, môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi hơn; phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu về doanh thu, giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu tăng từ 17% trở lên; tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 16%. Vinatex tiếp tục đầu tư mở rộng cho các dự án chiến lược, chủ yếu tập trung vào đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất và giá trị gia tăng của hàng dệt may Việt Nam. Trong đó , đặc biệt là dự án đầu tư nhà máy sản xuất xơ PE đầu tiên của Việt Nam, dự kiến tổng mức đầu tư khoảng 3.000 tỷ đồng. Trong năm 2008, Vinatex sẽ phấn đấu hoàn thành cơ bản việc cổ phần hóa tập đoàn, cũng như xây dựng mô hình tổ chức cho tập đoàn sau khi cổ phần hóa. Vinatex cũng sẽ mở rộng kinh doanh trên 3 lĩnh vực hỗ trợ: kinh doanh tài chính; khu công nghiệp, bất động sản và kinh doanh bán lẻ để có thêm nguồn đầu tư cho những lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của ngành dệt may. Năm 2007, ngành dệt may Việt Nam đạt mức tăng trưởng 34,5% so với năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,78 tỷ USD, tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất Việt Nam cùng với dầu thô. Trong đó Tập đoàn Dệt-May Việt Nam đã có bước chuyển quan trọng, đó là từ tăng về lượng sang tăng về chất (hiệu quả kinh tế). Tổng doanh thu trong năm đạt 22.348 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,452 tỷ USD; lợi nhuận đạt 556 tỷ đồng; tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 15,6%, so với mức trung bình từ 10 – 12% trong nhiều năm trước. Đây là thành quả bước đầu của quá trình chuyển đổi mô hình quản lý doanh nghiệp, từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. công nghệ thông tin-viễn thông Nhiều Cty nghiên cứu thị trường và chuyên gia dự báo rằng, mức tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin - viễn thông (CNTT-VT) VN sẽ  tiếp tục tăng mạnh trong năm 2005 - năm khép lại kế hoạch 5 năm. Sẽ vượt Trung Quốc về mức tăng trưởng Ngày 6.1.2005, họp báo tại TPHCM, Cty IDG VN đã đưa ra dự báo về mức tăng trưởng của thị trường CNTT VN năm 2005: Lần đầu tiên VN sẽ vượt qua Trung Quốc với tỷ lệ tăng trưởng đạt 16%, đứng thứ 5 trên thế giới, trên các nước như Trung Quốc, Anh, Mỹ, Đức, Nhật, Italia, Australia... Theo IDG VN, trong giai đoạn từ 2004-2008, mức gia tăng chi tiêu cho CNTT của VN nằm trong tốp 10 nước tăng trưởng hàng đầu thế giới, xếp vị trí thứ 4 sau Ân Độ, Nga và Argentina, nhưng trên nhiều nước khác trong đó có Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ... Chi tiêu cho viễn thông cho giai đoạn này cũng lọt vào tốp 10 quốc gia về tỷ lệ gia tăng, xếp ở vị trí thứ 6, sau Nga, Ân Độ, Thái Lan nhưng tiếp tục vượt qua Trung Quốc. TS.Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội Tin học TPHCM - lý giải: "Thế giới đang trên đà tăng trưởng vì thế VN tiếp tục tăng trưởng tốt. Năm 2005 lại là năm cuối kế hoạch 5 năm, chi tiêu cho các dự án CNTT sẽ được đẩy mạnh hơn - đặc biệt ở khu vực nhà nước - tạo sức bật mạnh mẽ cho thị trường".   Đầu tư chiều sâu ở lĩnh vực CNTT Cty Intel VN đã có kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các DN trong năm 2005. Nhận thức của các DN đã thay đổi, vì thế chi tiêu cho CNTT để nâng cao sức cạnh tranh của DN cũng gia tăng. TS Lê Trường Tùng nhận xét: Các DN lớn từ bỏ những giải pháp nhỏ lẻ để đầu tư vào các giải pháp tổng thể ERP để chuẩn bị hòa nhập thế giới khi VN gia nhập WTO. Một hướng đầu tư khác là đào tạo. Theo TS Vũ Thanh Nguyên - GĐ Trung tâm Đào tạo CNTT TPHCM: Các dự án đào tạo sẽ đi vào chất lượng cao, trong đó có các dự án chuyên sâu về thiết kế bo mạch điện tử và tổ chức đào tạo kỹ sư CNTT theo chuẩn nhằm xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Các trung tâm đào tạo sẽ chú trọng hơn nữa vào việc xây dựng thương hiệu, chọn chương trình đào tạo có chất lượng. Để vươn tới điều này buộc các trường đại học phải cải tiến chương trình giảng dạy, trong đó có việc thực hiện chương trình hợp tác nhiều hơn để thu hút học viên.  Xuất khẩu theo chiều sâu Trong bối cảnh đ ất n ư ớc ta hi ện nay, mục tiêu phát triển kinh tế nhanh hơn rõ ràng không khả thi. Do vậy, cách duy nhất trong những năm tới chỉ có thể là đẩy mạnh XK theo chiều sâu. Nếu nhìn vào bảng xếp hạng 50 nền kinh tế XK hàng hoá nhiều nhất thế giới, chúng ta hoàn toàn có quyền để tự hào rằng, chỉ sau 8 năm thực hiện đường lối đẩy mạnh XK, VN đã có mặt trên "bảng vàng" này, cho dù ở vị trí "đội sổ". Thế nhưng, bên cạnh đó, nếu việc chúng ta cũng có mặt trong bảng xếp hạng 50 nền kinh tế NK hàng hoá nhiều nhất thế giới năm 1999 này (xếp thứ 49) là bình thường, thì việc "nhảy vọt" 5 bậc để xếp thứ 44 năm 2004 (năm 2005 có thể còn cao hơn) lại là điều rất đáng quan tâm. Do vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đề ra, nếu như XK không thể tăng tốc hơn nữa, thì con đường duy nhất chỉ có thể là nâng cao hiệu quả thúc đẩy nền kinh tế phát triển của Trong 15 năm qua, chúng ta đã nỗ lực vượt bậc trong việc đẩy mạnh XK, nhưng nhìn chung vẫn là phát triển theo chiều rộng, cho nên chẳng những hiệu quả thúc đẩy nền kinh tế phát triển không cao, mà còn kéo theo NK tăng quá mạnh, dẫn tới nhập siêu lớn. So với Trung Quốc, chúng ta thua rất xa ở các chỉ tiêu kinh tế này. Đó là, cho dù đã trở thành cường quốc XNK thứ ba thế giới, nhưng tỷ trọng của XK so với GDP hiện mới là 42,38%, còn của NK chỉ là 36,71% (năm 2005 xuất siêu 102 tỷ USD), còn cặp số liệu tương ứng của nước ta là 61,14% và 69,69%. Những con số này cho thấy một thực tế, cho dù quy mô nền kinh tế nước ta vẫn là hết sức nhỏ nhoi, nhưng phụ thuộc quá nặng nề vào XK và càng phụ thuộc nặng nề hơn vào NK, cho nên việc bị chao đảo mạnh trước những biến động của thị trường thế giới là điều hiển nhiên. Xem xét từ những vấn đề trên ta thấy nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển biến tích cực.Trước kia nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,nền kinh tế còn kém phát triển,kĩ thuật lạc hậu,sự phát triển chủ yếu là nhờ đầu tư theo chiều rông.Hiện nay gia nhập kinh tế thế giới,học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước nước ta đã có những bước phát triển đặc biêt.Giờ đây nước ta đã tập trung vào đầu tư theo chiều sâu và đã có được nhiều thành công. III. Quan hệ dầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu Theo báo cáo của Bộ KH-ĐT, kết thúc 6 tháng đầu năm 2007-nửa năm đầu tiên thực hiện các cam kết với tư cách là thành viên WTO-kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao nhất trong 5 năm gần đây, đầu tư phát triển xã hội đạt 38,4% GDP, cam kết đầu tư nước ngoài tăng 55% so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu tăng 19,4%... Đó là những thành tựu ban đầu rất đáng trân trọng, phản ánh nỗ lực của Chính phủ cùng với toàn dân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đó cũng phản ánh thời điểm thuận lợi của nền kinh tế: đang được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài cả về đầu tư tài chính lẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính trong thời điểm “say sưa” với tốc độ và khối lượng này, rất cần sự phân tích nghiêm túc và tỉnh táo, chỉ rõ những tiềm năng và vấn đề hiện nay của nền kinh tế nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả, tăng trưởng bền vững trong thời gian tới. Trước hết, cần khẳng định nền kinh tế nước ta có tiềm năng để đạt tăng trưởng cao và bền vững, trong khi vừa tiếp tục khai thác các tiềm năng theo chiều rộng (như tăng thêm vốn đầu tư, vật tư, đất đai, lao động), đồng thời cần xây dựng và phát huy các nhân tố phát triển theo chiều sâu là khoa học-công nghệ, quản lý, tiết kiệm, giảm bớt lãng phí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Nền kinh tế nước ta, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào khác, không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư, đất đai, lao động tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn. Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc thang cao hơn, nền kinh tế phải vận hành theo những thước đo và chính sách thích hợp để chuyển sang phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị tiền vốn, lao động, năng lượng. Muốn vậy, phải coi trọng các thước đo về tỷ lệ đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, đa dạng hóa thị trường, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí về thời gian và tiền bạc, giảm ô nhiễm môi trường, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng, giảm bớt thời gian lãng phí của xã hội như bị kẹt xe, chờ đợi thủ tục... Những thước đo như vậy chưa thấy được đưa vào các chỉ tiêu bắt buộc thực hiện, công bố, phân tích và chưa được coi trọng để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện. Như vậy có thể thấy rằng nước ta không thể tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu dầu thô, than đá, cà phê nhân, gạo (với chất lượng thấp và giá trị gia tăng rất hạn chế) mà phải chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ được chế tác sâu hơn, có chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng cao hơn. Khu vực DN vừa và nhỏ chiếm khối lượng lớn và có nhu cầu về đổi mới nhưng lại bị hạn chế về quy mô, năng lực công nghệ và tài chính... Cũng theo kết quả khảo sát vào năm 2007 của Tổ chức Swiss Contact (Thụy Sỹ) và GTZ (Đức) đối với 1.200 DN tại Việt Nam thì chỉ có khoảng 0,1% doanh thu hàng năm của DN được dành cho đổi mới công nghệ, thiết bị. Trong khi đó, DN ở các nước như Ấn Độ có mức đầu tư cho đổi mới công nghệ, thiết bị là 5% và Hàn Quốc là 10% doanh thu hàng năm. Bên cạnh đó, việc đổi mới công nghệ, thiết bị ở các DN trong nước mới chỉ dừng lại ở việc đi mua máy móc, thiết bị mới và nắm các thao tác cần thiết để vận hành chúng. Phần lớn các DN đều không có những nghiên cứu chuyên sâu để làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ… Việc đổi mới công nghệ, thiết bị trong các DN được tiến hành khá bị động, theo sức ép của thị trường, như khi khách hàng đến đặt hàng, đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới thì cơ sở sản xuất mới đi tìm. Việc đổi mới công nghệ, thiết bị trong các DN nước ta phần lớn chưa mang tính tích cực, chưa mang tầm chiến lược phát triển lâu dài của DN. Điều này có thể thấy rõ qua tỷ lệ nhập khẩu công nghệ, thiết bị của nước ta còn ở mức thấp khi mà tỷ lệ nhập khẩu công nghệ, thiết bị mỗi năm của Việt Nam chỉ dưới 10% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi ở các nước đang phát triển là 40%. Từ hạn chế trong đổi mới công nghệ, thiết bị đã dẫn đến khả năng cạnh tranh của DN không cao, sản phẩm kém đa dạng và khả năng xuất khẩu sản phẩm ở mức thấp. Ông Phan Minh Tân - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM cho biết, cái khó lớn nhất của DN là thiếu vốn đầu tư đổi mới công nghệ, kế đến là thiếu thông tin, tư vấn trong lựa chọn công nghệ tiên tiến. Khắc phục những nhược điểm trên, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM đã tổ chức thực hiện đánh giá trình độ công nghệ nhằm xác định vị trí, chỗ đứng thực chất của DN, hướng đến sự phát triển bền vững dựa trên công nghệ sản xuất hiện đại. Ngoài ra, sở còn xây dựng dự án “Đổi mới công nghệ công nghiệp sản xuất phục vụ chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2006-2010”. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt 8,5%, như vậy đây là năm thứ ba liên tiếp kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trên 8%. Hoạt động kinh doanh tại Việt Nam vẫn tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế đạt 40,4% so với GDP. Sự tăng trưởng đã được thúc đẩy bởi nhân tố tư nhân, trong đó có 59 nghìn doanh nghiệp được thành lập trong năm qua, tăng 26% so với năm trước. Vốn đầu cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng gần gấp đôi, lên 20,3 tỷ USD. IV. Đánh giá đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu . Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng ngày càng tăng của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch… Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. a) Mô hình tăng trưởng chứa đựng một số mâu thuẫn và bất cập. - Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế đạt được chủ yếu bằng tăng đầu tư hơn là nhờ nâng cao năng suất và hiệu quả. Tăng vốn đầu tư và đẩy mạnh khai thác tài nguyên (để bán) nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chiếm vị trí quan trọng trong quản lý nền kinh tế. - Vừa xây dựng nền kinh tế theo hướng mở cửa, hội nhập, nhưng lại còn vừa đan xen "hướng nội", "thay thế nhập khẩu" và "tự bảo đảm", vừa "hướng ngoại" và "dựa vào xuất khẩu". - Lợi thế lớn nhất của nền kinh tế - nguồn lao động dồi dào và giá rẻ - chưa được quan tâm khai thác phát triển đúng hướng và đúng tầm. - Nguồn vốn đầu tư Nhà nước và khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng hiệu quả còn thấp. Tiềm năng của khu vực dân doanh và khu vực đầu tư nước ngoài chưa được phát huy đầy đủ do những cản trở về thủ tục hành chính và một số chính sách còn thiếu ổn định, nhất quán. b) Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, nhất là theo hướng hiện đại hóa. Nhận định quan trọng này đã được nêu tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX), phản ánh một thực tế rất đáng quan tâm trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn vừa qua. Liên quan đến thực trạng này, nổi lên ba vấn đề lớn: - Quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa tuân thủ nguyên tắc là dựa vào lợi thế so sánh và phải liên tục tạo ra lợi thế so sánh mới cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế mở, để cạnh tranh thắng lợi và khẳng định vị thế trong nền kinh tế thế giới được cấu trúc theo nguyên lý dựa trên lợi thế và luôn tạo ra lợi thế mới (lợi thế động) là yêu cầu bắt buộc. Nhưng trong giai đoạn vừa qua, trên thực tế, nguyên tắc này chưa được coi trọng đúng mức, do vậy dẫn tới chỗ cơ cấu kinh tế chậm thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém sức cạnh tranh và hiệu quả thấp. - Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, chưa cùng nhịp với sự chuyển dịch cơ cấu ngành và yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Đây là vấn đề hết sức lớn của nền kinh tế nước ta. Nó là hậu quả trực tiếp của việc đầu tư nghiêng về các ngành, các dự án dùng nhiều vốn hơn là nhiều lao động, chưa quan tâm đúng mức đến khu vực tạo nhiều việc làm trong nền kinh tế. Về mặt xã hội, sự chuyển dịch này dẫn đến sự gia tăng chênh lệch về cơ hội việc làm và thu nhập, làm cho tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ngày càng tăng lên, gây ra hậu quả xấu trong xã hội. - Trong cơ cấu công nghiệp, một khâu đặc biệt quan trọng là các ngành công nghiệp phụ trợ chưa được quan tâm phát triển. Việc định hướng sử dụng công nghệ chưa được quan tâm, thực chất là còn tự phát. Vì thế, cơ cấu kinh tế không tạo được sự kết nối và lan tỏa phát triển cần có giữa các doanh nghiệp, nhất là giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Thiếu khâu này, lợi thế quan trọng lớn nhất, tác động lan tỏa phát triển mạnh nhất mà dòng đầu tư nước ngoài và trong nước có thể mang lại cho nền kinh tế nước ta bị lãng phí; sức cạnh tranh của cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp trong nước chậm được cải thiện, thậm chí có thể bị suy yếu đi. c) Còn nhiều hạn chế về nguồn nhân lực có trình độ cao. Đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết các tranh chấp thương mại, tư vấn cho doanh nghiệp trong kinh doanh. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều. d) Năng lực điều hành của bộ máy quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế. Cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, sau 10 năm tiến hành cải cách hành chính, những bước tiến đạt được trong lĩnh vực này chưa nhiều. Đây là một phần việc quan trọng của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta. Sự chậm trễ của cải cách hành chính so với đổi mới về kinh tế làm cho năng lực quản lý của bộ máy hành chính công quyền kém hiệu quả, ảnh hưởng đến quá trình phát triển nền kinh tế. Điều đó càng trở nên cấp bách hơn trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO. Sáu nhóm vấn đề lớn và cấp bách nêu trên mà nền kinh tế đang phải đối mặt gắn kết với nhau, tạo thành thách thức bao trùm. Vì thế, nhanh chóng vượt qua thách thức với các nội dung cụ thể như vậy cũng là nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của giai đoạn tới. Về bản chất, đó là thách thức tự thân bên trong, mang tính tổng thể. Vì thế, để vượt qua thách thức, đòi hỏi trước hết phải trên tinh thần tiếp tục đổi mới tư duy trong thời kỳ nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới như một bước ngoặt lịch sử quan trọng. Về phía các doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực + Hoạt động đầu tư vào những sản phẩm chất lượng cao,các máy móc thiết bị hiện đại ngày càng được tang cường .Các doanh nghiệp cũng đã chủ động hợp tác với các đối tác nước ngoài để trao đổi,tiếp thu công nghệ taêsn tiến phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất. + Các doanh nghiệp đã tập trung đầu tư cho nguồn nhân lực .Các kĩ sư được gửi sang nước ngoài đào tạo ngày càng tăng.Xu hướng mở các xưởng ,trường đào tạo nhân lực phục vụ cho chính nghành ấy phát triển. Đây là hình thức ươm mầm ,1 chiến lược đầu tư mang tính dài hạn ,quy mô. Điều này góp phần giúp cho doanh nghiệp có thể vận hành hoạt động một cách hài hoà ,nhịp nhàng trong khi bên ngoài thị trường vẫn còn “khát” nhân lực chất lượng cao ,có tay nghề cao. Bên cạnh đó cũng có nhiều bất cập; + Nhìn chung trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, quy mô của doanh nghiệp. + Hầu hết các doanh nghiệp đều đang “khát” vốn. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp. + Trình độ nhân lực tuy được nâng cao nhưng số đó rất ít.Thị trường luôn cần những người lao động vững tay nghề ,mạnh về chuyên môn. + Chương trình đào tạo và nội dung giảng dạy, đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực chuyên môn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và hội nhập, chưa có sự gắn kết sâu rộng giữa cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp. Các vấn đề về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cũng còn khá bất cập. + Cơ quan quản lý nhà nước hoạt động cũng thiếu tính chuyên nghiệp dẫn dến sự hạn chế trong đầu tư chiều sâu. +Đa số các doanh nghiệp đều thiếu vốn trong việc mở rộng quy mô, mở rộng phát triển sản xuất Chương III: Một số giải pháp để phát triển đấu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai: Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trên nhiều mặt trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong vòng 20 năm, GDP tăng 4 lần, hơn 40 triệu người dân thoát khỏi đói, nghèo. Với việc trở thành thành viên WTO, nền kinh tế nước ta được xác lập một vị thế mới, ngày càng vững chắc trong hệ thống kinh tế thế giới, sức hấp dẫn đầu tư tăng lên mạnh mẽ. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá đầu tư đang gia tăng vấn đề đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu hết sức quan trọng.Chúng ta cần phải sửa đổi, hoàn thiện về vấn đề đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu cho phù hợp. Nền kinh tế nước ta, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào khác, không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư, đất đai, lao động tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn. Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc thang cao hơn, nền kinh tế phải vận hành theo những thước đo và chính sách thích hợp để chuyển sang phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị tiền vốn, lao động, năng lượng. Dưới đây là một số giải pháp về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu: I. ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU: 1.Đầu tư phát triển giáo dục và tiến hành cải cách giáo dục có hiệu quả. Một thực trạng đáng buồn của nước ta là, đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu và yếu cả về năng lực chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết các tranh chấp thương mại, tư vấn cho doanh nghiệp trong kinh doanh. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, số lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều.Bên cạnh đó là cơ sở hạ tầng, các trang thiết bị máy móc còn thô sơ , lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu giảng dạy. Nên việc áp dụng thực tiễn của đội ngũ sinh viên vừa mới ra trương là rất thấp.Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của nước ta là huy động mạnh mẽ các nguồn lực để phát triển giáo dục - đào tạo, tạo ra một cơ cấu lao động mới, trong đó lao động có trình độ cao, có kỹ năng, biết ngoại ngữ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Gấp rút đào tạo đội ngũ luật sư am hiểu luật pháp quốc tế, đội ngũ chuyên gia tư vấn, kế toán, kiểm toán, quản trị doanh nghiệp đạt trình độ quốc tế. - Nâng cao tỉ lệ tiếp nhận vào hệ giáo dục mầm non (nhà trẻ và mẫu giáo), đảm bảo tất cả trẻ em trong nhóm tuổi đi học cấp I và PTTH cơ sở đều được đến trường, tất cả trẻ em khi đạt 6 tuổi đều được vào học lớp 1, giảm tỉ lệ bỏ học. - Nâng cao dần tỉ lệ đi học đối với trẻ em trong tuổi đi học phổ thông trung học, trước hết là ở cấp cơ sở tiến tới đạt mục tiêu phổ cập phổ thông trung học cơ sở vào năm 2010 trên toàn lãnh thổ địa bàn và PTTH chuyên ban vào thời điểm trên đối với khu vực đô thị. - Tiếp tục thực hiện việc xóa mù chữ và nâng cao trình độ học vấn cho người lao động thông qua hệ thống giáo dục thường xuyên. - Nâng cao chất lượng dạy và học, nhằm nâng cao trình độ học vấn chung của dân cư, cần thực hiện sâu rộng hơn việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thông qua hệ thống trường chuyên, lớp chọn, có chính sách tạo qũy học bổng cho con em các gia đình nghèo hiếu học và học giỏi... - Mở rộng đào tạo nghề cho người lao động: mở rộng mọi loại hình đào tạo nghề mới cho thanh niên từ 15 tuổi trở lên, mở rộng và nâng cao chất lượng việc học ngoại ngữ cho người lao động, trước hết là thanh niên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế mở trên lãnh thổ của địa bàn. - Đào tạo cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và khoa học kĩ thuật trình độ ĐH trở lên: tăng tốc độ đào tạo cán bộ có trình độ đại học trở lên theo tất cả mọi hình thức sẽ phải tăng tối thiểu 3 - 4%/năm trong thời kì 1996 - 2000 và 4 - 5%/năm thời kì 2001 - 2010. - Đào tạo công chức Nhà nước các cấp, đào tạo các chủ doanh nghiệp bao gồm lãnh đạo và cán bộ quản lý các công ty lớn (kể cả quốc doanh và tư nhân) cùng với những chuyên gia tư vấn, giúp việc của họ (như quản đốc, trưởng các phòng ban, giám đốc chi nhánh...), chủ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các chủ hộ gia đình. V ới khả năng đầu tư cho giáo dục nên tập trung có trọng điểm vào các trường đại học quốc gia và các trường có truyền thống đào tạo công nghệ và kỹ thuật cho nền kinh tế. Định hướng chiến lược phát triển của các cơ sở đào tạo này là chuẩn công nghệ đào tạo của quốc gia và đầu tư tương ứng về ngân sách để các trường này đạt được chuẩn mực yêu cầu. Chuẩn quốc gia về đào tạo cần định hướng ngang bằng hay cao hơn các quốc gia cạnh tranh đối với các ngành công nghệ chiến lược. Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ : -Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ khoa học và công nghệ , đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. -Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ , đặc biệt cho các ngành kinh tế trọng yếu và các ngành công nghệ cao. -Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực .Ví dụ đưa người của ta ra nước ngoài tập huấn ,học hỏi sự tiến bộ của nước bạn . -Phát triển thị trường nhân lực khoa học công nghệ . Tuyển chọn nguồn nhân lực quản lý: quan chức nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng đối với thành công của chiến lược phát triển quốc gia. Hàng năm, c ần tổ chức các kỳ thi công chức hết sức nghiêm túc để lựa chọn nhà quản lý và cán bộ chuyên môn. Tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ dựa trên nền tảng duy nhất là năng lực chuyên môn thông qua kết quả học tập trong các trường đại học uy tín nhất đất nước. Tính chất nghiêm túc của kỳ thi và tiêu chuẩn trúng tuyển đã tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cho phép n ư ớc ta có được các chính sách và thực hiện chính sách phát triển kinh tế một các hiệu quả. Chương trình đào tạo công chức nhà nước c ần thực tế, tùy thuộc từng đối tượng, các giai đoạn đào tạo đều gắn liền với mục tiêu duy nhất - chuyên nghiệp về kỹ năng quản lý và vững vàng về lý luận kinh tế phát triển. 2 Đầu tư phát triển khoa học, kĩ thuật Tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Khoa học xã hội và nhân văn đặt trọng tâm nghiên cứu vào tổng kết thực tiễn, đi sâu vào những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát huy nhân tố con người và văn hóa Việt Nam. Khoa học tự nhiên chú trọng nghiên cứu cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ trọng điểm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng, tránh, giảm nhẹ hậu quả thiên tai. Khoa học công nghệ tập trung vào đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, bảo vệ môi trường và bảo đảm an ninh quốc phòng; coi trọng phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp, không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, hiện đại, thích nghi công nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại hóa công nghệ trong quản lý. Hoàn thành xây dựng hai khu công nghệ cao ở gần Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm đạt trình độ tiên tiến của khu vực. Thực hiện cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội - nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo và sản xuất, kinh doanh; ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu. Khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các viện nghiên cứu quốc gia, các hội, liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật. Đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa các nguồn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức khoa học, doanh nghiệp và cá nhân được hoạt động khoa học theo luật định. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ và quyền tác giả. Có cơ chế thúc đẩy doanh nghiệp tăng đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và đặt hàng cho cơ quan nghiên cứu. Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới đóng góp vào sự phát triển đất nước bằng nhiều hình thức thích hợp. Chính sách khoa học công nghệ: Chính sách khoa học trong chiến lược CNH, HĐH của nước ta trong thời gian đến nên tập trung vào học tập, phổ biến và cải tiến công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài hơn là tìm kiếm đổi mới. Với khả năng thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay, chúng ta nhập khẩu rất nhiều công nghệ đa dạng và phức tạp, do vậy điều cần thiết là cần phải hấp thụ và phổ biến công nghệ đang vận hành trong nước để giảm thiểu chi phí nhập khẩu công nghệ. Bộ khoa học công nghệ nên thành lập tiểu ban ứng dụng công nghệ để thực hiện chương trình đổi mới công nghệ ngành công nghiệp. Chức năng của tiểu ban này là tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp các xu hướng và phương pháp ứng dụng các công nghệ cơ bản và hiện đại vào sản xuất và khả năng cạnh tranh của công nghệ ứng dụng. Ban hành các chính sách ưu đãi cụ thể về đổi mới và ứng dụng công nghệ đối với các chủ thể trong nền kinh tế, xây dựng và củng cố các nền tảng hạ tầng về khoa học - công nghệ, đặc biệt là tổ chức lại các viện nghiên cứu, hệ thống trường đại học kỹ thuật. Cần có chính sách khuyến khích mối liên hệ hợp tác giữa cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ chuẩn quốc gia về công nghệ dựa theo tiêu chuẩn của khu vực và thế giới để phân loại doanh nghiệp theo trình độ công nghệ. Từ đó, có chính sách hỗ trợ và đầu tư cho các doanh nghiệp phát triển 3.Chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng thu hút các ngành có công nghệ, kỹ thuật cao. Việt Nam phải đầu tư đẩy mạnh những ngành công nghệ có lợi thế so sánh động Nước ta không thể tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu dầu thô, than đá, cà phê nhân, gạo (với chất lượng thấp và giá trị gia tăng rất hạn chế) mà phải chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ được chế tác sâu hơn, có chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng cao hơn. Việt Nam phải đẩy mạnh những ngành công nghiệp có lợi thế so sánh động. Năm ngành công nghiệp hứa hẹn là những ngành công nghiệp mũi nhọn có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong vòng năm đến mười năm tới là: Ðiện tử, may mặc, giày dép, chế biến thực phẩm và phần mềm. Ðây là những ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao đã đạt được một mức cạnh tranh quốc tế nhất định. Tuy nhiên, quản lý sản xuất, ma-két-tinh hay kết hợp sản phẩm trong các ngành này còn quá xa tiềm năng. Những ngành này phải được phát triển hơn và phát triển đến mức hoàn thiện để đạt được chất lượng cao nhất và trở thành nguồn cung cấp đáng tin cậy cho thị trường thế giới. Trong số các yếu tố đầu vào công nghiệp, các nguyên liệu cơ bản như thép, các sản phẩm hóa dầu (bao gồm cả nhựa PVC và phân bón), sợi dệt, xi-măng, giấy và những nguyên liệu tương tự nên được phân tích tách biệt với các phụ tùng và quy trình sử dụng trong sản xuất theo kiểu lắp ráp. Ðây là những ngành công nghiệp nguyên liệu đòi hỏi nhiều vốn, thuộc loại thay thế nhập khẩu mà việc khuyến khích phát triển đòi hỏi phải tính toán thận trọng. Không nên khước từ việc khuyến khích phát triển các ngành này nữa, quan điểm cho rằng cần có các ngành công nghiệp nặng để tăng chiều sâu của cơ cấu công nghiệp và giải tỏa áp lực cán cân thanh toán khi thu nhập tiếp tục tăng nhanh ngày càng có lý. Tuy nhiên, các ngành này nên được phát triển một cách có chọn lọc và tùy theo điều kiện, thay vì phát triển theo chiều rộng, bằng mọi giá, do có nhiều rủi ro tiềm tang. Việc thu hút đầu tư không nên dàn đều. Nếu các công viên công nghiệp được chỉ định ở các vùng sâu, vùng xa, thì sẽ ít công ty sản xuất đến đó. Các vùng sâu, vùng xa nên được hỗ trợ thỏa đáng theo cách khác, hiệu quả hơn. Các công ty hạ tầng cần chọn lọc dự án có chất lượng cao và mạnh dạn từ chối các DN thâm dụng lao động, trang thiết bị thô sơ, gây ô nhiễm. Các KCN sẽ nâng cao chất lượng hoạt động toàn diện cả về cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, điện thoại, nước,...) lẫn hạ tầng xã hội như nhà ở cho công nhân,... Để tạo quỹ đất cho các nhà đầu tư, các KCN n ên sử dụng phương thức dùng quỹ đất hoán đổi cho người dân và nghiên cứu nâng tầng nhà xưởng để khai thác thêm diện tích sử dụng. Có cơ chế hỗ trợ vốn từ ngân sách để phát triển các công trình hạ tầng trong hàng rào nhằm giảm giá thuê đất cho nhà đầu tư. Tiến bộ công nghệ đối với các nước đang phát triển được tập trung chủ yếu vào việc cải tiến hiệu quả của quy trình công nghệ .Việc cải tiến này cho phép nâng cao hiệu quả của người lao động.Một trong những xu hướng đổi mới của quy trình sản xuất mà các nước phát triển quan tâm là thay đổi trình độ kĩ thuật sản xuất .Việc thay đổi này thường được xem xét thong qua kết hợp giữa vốn sản xuất và lao động trong sản xuất. Phương hướng cơ bản phát triển khoa học –công nghệ của Việt Nam: Đối với khoa học xã hội và nhân văn: Tập trung vào hướng chủ yếu :tổng kết thực tiễn đất nước , đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước ,khu vực của toàn cầu,giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc ,cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối ,chiến lược ,chính sách phát triển kinh tế -xã hội ,phát huy nhân tố con người và văn hoá việt nam. Đối với công nghệ : -Đổi mới công nghệ trong mọi lĩnh vực ,nhằm thu hẹp khoảng cách tụt hậu về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực -Phát triển và ứng dụng một số hướng công nghệ cao (công nghệ thong tin,sinh học ,vật liệu mới và tự động hoá )nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và tạo ra bước nhảy vọt về năng suất ,chất lưọng ,hiệu quả của nền kinh tế. -Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới ,hiện đại ,thích nghi công nghệ nhập khẩu ,tiến tới cải tiến sáng tạo công nghệ Việt Nam. -Hướng phát triển và ứng dụng công nghệ trong một số nghành ,cụ thể: Đối với Nông Nghiệp:Tập trung nghiên cứu ứng dụng để có những bước đột phá về giống cây cho năng suất và giá trị kinh tế cao. Áp dụng công nghệ sinh học , ông nghệ chế biến và công nghệ bảo quản sau thu hoạh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hang nông sản . Đối với ông nghiệp Tập trung nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ hiện đại ,hàm lượng trí thức cao ,tăng sức cạnh tranh của sản phẩm hang hoá. Đối với dịch vụ :hiện đại hoá các ngành như bưu chính viễn thông,tài chính ,ngân hang ,bảo hiểm ,du lịch … 4.Đối với bản thân các doanh nghiệp : Muốn đạt hiệu quả kinh doanh, DN không những chỉ có những biện pháp sử dụng nguồn lực bên trong hiệu quả mà còn phải thường xuyên phân tích sự biến động của môi trường kinh doanh của DN, qua đó phát hiện và tìm kiếm các cơ hội trong kinh doanh của mình. Có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN trong nền kinh tế thị trường là: Một là, quan tâm tới việc xây dựng và phát triển đội ngũ lao động của DN. Hiệu quả của mỗi quốc gia, ngành và DN phụ thuộc lớn vào trình độ văn hoá, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao động. Muốn vậy phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ, kích thích tinh thần sáng tạo và tính tích cực trong công việc bằng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần. Hai là, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong DN. Việc đảm bảo đầy đủ, kịp thời và sử dụng có hiệu quả vốn sẽ là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của DN. Vì vậy, DN cần phải có kế hoạch sử dụng hiệu quả và phải có những biện pháp phòng chống những rủi ro; phải xác định cơ cấu vốn hợp lý, chặt chẽ thích ứng với quy mô DN, tránh không lạm dụng vốn vay quá mức, đặc biệt là vốn ngắn hạn… Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý DN. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động, luôn tôn trọng và khuyến khích tính tự chủ sáng tạo của lực lượng lao động tạo ra sức mạnh tổng hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố sản xuất, đặc biệt là yếu tố con người. Cần tăng cường chuyên môn hoá, kết hợp đa dạng hoá cùng với những phương án quy mô hợp lý cho phép khai thác tối đa lợi thế quy mô giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Việc tổ chức, phối hợp với các hoạt động kinh tế thông qua các hình thức tổ chức liên doanh, liên kết nhằm phát huy sức mạnh chung, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ trên thị trường là một trong các biện pháp tăng hiệu quả kinh doanh. Bốn là, xây dựng hệ thống trao đổi và xử lý thông tin trong DN. Lợi thế cạnh tranh của DN phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống trao đổi và xử lý thông tin. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Điều này đòi hỏi cần phải hiện đại hoá hệ thống trao đổi và xử lý thông tin phục vụ không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Năm là, vận dụng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vận dụng vào sản xuất, kinh doanh. Các DN để khẳng định vị trí trên thương trường, để đạt hiệu quả kinh doanh, để giảm thiểu chi phí, sản lượng cao đồng thời để thị trường chấp nhận sản phẩm, đòi hỏi sản phẩm phải đạt được các tiêu chuẩn, đạt chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, cần tiếp cận với khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vận dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, phải không ngừng cải tiến, đầu tư công nghệ để giúp DN hoạt động hiệu quả hơn. Sáu là, quản trị môi trường. Các khía cạnh thuộc về môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của DN như: cơ chế chính sách của Nhà nước, tình hình kinh tế thế giới, trao đổi quốc tế, hệ thống chính trị; mối quan hệ song phương giữa các quốc gia; các hiệp định đa phương điều khiển mối quan hệ giữa các nhóm quốc gia; các tổ chức quốc tế,…Vì vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả cần phải quản trị môi trường. Đó là việc thu thập thông tin, dự đoán, ước lượng những thay đổi, bất trắc của môi trường trong và ngoài nước, đưa ra những biện pháp đối phó nhằm giảm bớt những tác động, những tổn thất có thể có do sự thay đổi, bất trắc đó. Thậm chí, nếu dự đoán trước được sự thay đổi môi trường ta có thể tận dụng được những thay đổi này, biến nó thành cơ hội cho việc sản xuất, kinh doanh của DN. II.BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RÔNG 1.Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài Theo kết quả điều tra của JETRO về so sánh chi phí đầu tư và đánh giá môi trường đầu tư kinh doanh của 1.745 DN Nhật đang hoạt động tại các nước châu Á năm 2007, VN vẫn được đánh giá là quốc gia giàu sức hút đối với DN Nhật Bản. Cụ thể, về kế hoạch kinh doanh, có tới 92,6% số công ty Nhật đang hoạt động tại VN dự định mở rộng quy mô trong 1-2 năm tới, chiếm tỷ lệ cao nhất trong khu vực. Có đến 88,2% số DN phi sản xuất tại VN cũng có dự định mở rộng đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm và phát triển thị trường trong những năm tới. Không chỉ với những dự định ngắn hạn mà trong kế hoạch phát triển dài hạn 5-10 năm tới, VN vẫn được đánh giá là địa chỉ đầu tư lý tưởng, có triển vọng nhất của các DN Nhật đang hoạt động tại các nước khác, với số lượng 33,7% DN (cao hơn mức 31,2% so với năm 2006). Thái Lan xếp sau VN với tỷ lệ 22,3%; Trung Quốc 17,5%…3 lý do chính để các nhà đầu tư chọn VN là sự ổn định chính trị xã hội, an ninh tốt; chi phí sản xuất thấp và rủi ro không tập trung. So với một số nước trong khu vực thì giá nhân công tại VN hiện nay mới chỉ bằng 50%-70%… VN đã và đang bộc lộ khá nhiều điểm yếu có thể làm cho những kỳ vọng của các nhà đầu tư giảm sút nhưng đến nay vẫn chưa tìm được lời giải. Thị trường lao động của VN rất cạnh tranh nhưng các DN lại rất khó tuyển dụng. Mức lương hàng tháng của kỹ sư, công nhân và cán bộ quản lý cấp trung gian gần như thấp nhất trong khu vực. Thế nhưng, điều này lại không phải là yếu tố quan trọng nhất khi tuyển dụng lao động mà cái DN cần chính là chất lượng lao động (đặc biệt là năng suất lao động và trình độ đã qua đào tạo) và an ninh lao động. Đặc biệt, nghề quản lý trung gian và kỹ sư chuyên nghiệp thiếu hụt trầm trọng và kéo dài từ nhiều năm qua. Vì vậy, chúng ta cần phải đẩy mạnh, chăm lo cho giáo dục. Ngành sản xuất thô tại VN (hay nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất) chưa phát triển. Nếu tỷ lệ cung cấp nguyên phụ liệu tại chỗ của VN năm 2006 đạt 22,6% thì đến năm 2007 chỉ nhích lên ở mức 26,5%. Trong khi đó mức trung bình ở các nước trong khu vực là 40,1%. Theo các DN Nhật Bản, giải pháp tối ưu cho VN hiện nay là kêu gọi và hỗ trợ các DN vừa và nhỏ đầu tư vào lĩnh vực này để làm trụ cột của công nghiệp sản xuất phụ trợ. Đó là chưa kể, các DN vẫn còn bị làm phiền về hải quan, thuế, và các thủ tục hành chính vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Nước ta cần phải chủ động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách theo hướng minh bạch dễ dự đoán trước. Không nên thay đổi chính sách một cách đường đột và vận dụng các chính sách không rõ ràng đã khiến nhiều DN không an tâm để kinh doanh Thu hút đầu tư nước ngoài: Với mục tiêu thu hút FDI 12 tỷ USD vốn đăng ký cấp phép mới, 11 tỷ USD vốn thực hiện giai đoạn 2001-2005, cần khuyến khích đầu tư FDI vào các ngành công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dầu khí, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng và các ngành Việt Nam có nhiều lợi thế gắn với công nghệ hiện đại, tạo nhiều việc làm. Thu hút FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai tṛò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng. Vận động các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Khuyến khích các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại đầu tư vào Việt Nam, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Trước mắt cần phải: 1) Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách về FDI theo hướng thông thoáng, hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế; 2) Cải tiến hệ thống tài chính ngân hàng, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả chính sách tiền tệ;3) Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá việc cấp phép và mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư; 4) Phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ hiệu quả: hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, giảm cước bưu chính viễn thông, tiền thuê đất, tăng thêm ưu đãi về thuế và tài chính. Phát triển các thị trường dịch vụ khoa học công nghệ, tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý, thị trường sản phẩm trí tuệ, tài chính-tiền tệ, dịch vụ bảo hiểm; 5) Mở rộng hình thức và lĩnh vực đầu tư, triển khai hiệu quả các dự án gọi vốn đầu tư, chọn mời trực tiếp các tập đoàn lớn trong các ngành chủ chốt tham gia đầu tư vào các dự án quan trọng. Thu hút đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và giá trị gia tăng cao (tài chính, ngân hàng, giám định, đánh giá tài sản...); các dự án trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở; các dự án sử dụng công nghệ cao và nhân lực trình độ cao. Thực tiễn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua đã khẳng định vai trò tích cực của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Vì thế, để tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, việc tạo lập một môi trường đầu tư minh bạch, hấp dẫn và thực thi một chương trình xúc tiến đầu tư dài hạn trong sự hợp tác có hiệu quả giữa Chính quyền và doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết trong nỗ lực huy động các nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3. Đẩy mạnh cải cách hành chính, không gây khó cho nhà đầu tư. Như ta đã biết tốc độ tăng GDP năm 2006 có cao nhưng không bằng năm 2005 la do hiệu quả đầu tư chưa cao, giá trị tăng thêm rất thấp. Cụ thể giá trị tăng thêm cho nông nghiệp, thuỷ sản chỉ có 3,5% - 3,8%; dịch vụ 8%; công nghiệp dưới 10%... Giá trị tăng thêm chủ yếu nằm ở lĩnh vực gia công, lắp ráp... Ngoài ra, việc sử dụng nguồn nội lực về kinh tế chưa cao. Thu ngân sách vượt 20.000 tỉ đồng nhưng chủ yếu là do giá dầu thô, xổ số; kết quả sản xuất kinh doanh thu nội địa mới chỉ 54-55%; đầu tư nước ngoài (không bền vững) nhưng chiếm tỉ trọng khá lớn, áp đảo. Sức cạnh tranh tụt tới 3-4 bậc, thị trường đầu tư tụt xuống... Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do việc đầu tư gây thất thoát, lãng phí nhiều; chi phí lớn, bộ máy cồng kềnh, không năng suất, hiệu quả.. Sự chậm trễ của cải cách hành chính so với đổi mới về kinh tế làm cho năng lực quản lý của bộ máy hành chính công quyền kém hiệu quả, ảnh hưởng đến quá trình phát triển nền kinh tế. Điều đó càng trở nên cấp bách hơn trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO. Muốn vậy phải cải tiến rất đồng bộ nền kinh tế. Đồng thời phải tạo môi trường sống sạch, môi trường đầu tư thông thoáng; phải đẩy mạnh cải cách hành chính, không nhũng nhiễu, gây khó khăn cho nhà đầu tư... 4 ,các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và xuất khẩu tài nguyên cần có chính sách đẩy mạnh sản xuất theo chiều rộng Quan điểm "vừa phát triển tuần tự, vừa lựa chọn đi tắt đón đầu" phù hợp với những điểm nhấn của mô hình hướng vào xuất khẩu qua việc lựa chọn các ngành công nghiệp cần phát triển. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cần tận dụng các lợi thế so sánh tĩnh, trước mắt là khai thác hết tiềm năng hiện có của đất nước để đảm bảo và duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Đánh giá các lợi thế so sánh động nhằm xác định các ngành mũi nhọn cần phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới. Có thể thấy rằng, với quan điểm này, cơ cấu công nghiệp Việt Nam hiện nay là hợp lý nhưng các biện pháp chuẩn bị hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn vẫn còn rất chậm chạp. Dựa trên quan điểm cạnh tranh này, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và xuất khẩu tài nguyên cần có chính sách đẩy mạnh sản xuất theo chiều rộng để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước và nâng cao mức sống của người dân. Ngoài ra, lĩnh vực dịch vụ cũng cần được thúc đẩy phát triển để đóng góp khả năng tăng trưởng cao của nền kinh tế và hỗ trợ công nghiệp phát triển, đặc biệt là các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Các ngành công nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ cao hay có hàm lượng công nghệ cao trong giá thành sản phẩm cần được tập trung đầu tư theo chiều sâu để nâng cao sức cạnh tranh tương lai. Nâng cao vai trò của lao động trong phát triển kinh tế Việt nam -Phát triển các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động . -Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm chẳng hạn như :hoạt động dịch vụ việc làm.dạy nghề gắn với việc làm… -Phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn, Giảm cung lao động về số lưọng và tăng cung lao động về chất lượng cũng là hướng cần thiết phải được coi trọng .Việc tăng cung lao động về chất lượng nhằm phát triển nguồn lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong xu hướng hội nhậo kinh tế thế giới , đồng thời cũng tăng cơ hội tiếp cận của người lao động với quá trình hội nhập. Taì liệu ham khảo: Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư_Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân năm 2007 Giáo trình lập dự án đầu tư _Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân Các tạp chí : Đầu tư Thời báo kinh tế Nghiên cứu kinh tế Các trang web: www.neu.edu.vn www.sggp.org.vn/daututaichinh www.vnn.vn/kinhte www.tiasang.com.vn www8.ttvnol.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu.doc
Luận văn liên quan