LỜI MỞ ĐẦU
&
Ngày nay, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu trong tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Có thể thấy việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) chính là cơ hội để Việt Nam tiến sâu vào hội nhập và phát triển bình đẳng với các quốc gia trên thế giới. Song nhìn về đặc điểm, trình độ, các mối quan hệ kinh tế hiện hữu và năng lực điều hành kinh tế vi mô, vĩ mô, thì chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức không phải là nhỏ. Gắn với công cụộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải giải quyết cùng một lúc: vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài Vì vậy cần phải có những bước đi thận trọng với những chính sách linh hoạt để tránh những “cơn sốc” hay “khủng hoảng” đối với kinh tế Việt Nam trên con đường hội nhập.
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của CSTT thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định. Từ khi đổi mới đến nay, các công cụ của CSTT dang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Việc lựa chọn các công cụ sao cho phù hợp và việc sử dụng chúng sao cho hiệu quả nhất trong từng giai đoạn kinh tế luôn là một vấn đề mà Nhà nước quan tâm theo dõi và đưa ra các quyết định cụ thể. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, thì việc nghiên cứu các công cụ của CSTT là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Các công cụ của CSTT ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để tìm hiểu và nghiên cứu.
Ngoài phần mở bài và kết luận, đề tài gồm 03 chương với bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan về CSTT trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ của CSTT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của CSTT ở Việt Nam hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo ThS. Phạm Thị Bích Duyên đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Vì kiến thức cũng như kinh nghiệm còn non trẻ và thời gian hạn hẹp nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3483 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(chỉ số giá cả hàng hóa dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng sự phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát = 0 vì vậy nền kinh tế không thể phát triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. CSTT phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Nếu mức gia tăng GDP thực tế cao hơn nhịp độ tăng trưởng dân số thì nền kinh tế thật sự có tăng trưởng. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ mọi quốc gia.
3. Tạo việc làm
CSTT phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này CSTT hướng vào việc khuyến khích đầu tư, gia tăng sản xuất, làm tăng việc làm. Ngược lại khi nền kinh tế được mở rộng sẽ có tác dụng chống suy thoái, đạt được những tăng trưởng ổn định. Như vậy, CSTT mở rộng hay thu hẹp đều có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Sự phối hợp ba mục tiêu: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm là rất quan trọng. Vì giữ các mục tiêu có sự mâu thuẫn với nhau, nên NHTƯ không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, khi đặt ra các mục tiêu cho CSTT, cần phải có sự dung hòa. Cụ thể là phải tùy lúc, tùy thời, tùy điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy NHTƯ phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi bằng những giải pháp thích hợp.
III. Các công cụ của CSTT
Để thực thi CSTT, thực hiện chức năng và vai trò của mình, NHTƯ đã sử dụng hàng loạt các công cụ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, cho vay tái chiết khấu… Mỗi loại công cụ có cơ chế vận hành riêng và có ưu nhược điểm khác nhau. Do đó, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nền kinh tế để sử dụng nó một cách phù hợp, hiệu quả. Nhìn chung, các công cụ này tác động đến hai đầu mối chủ yếu là ngân hàng trung gian và thị trường mở.
1. Lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi của lãi suất sẽ kéo theo sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT. Thực tế cho thấy, tùy theo điều kiện thực tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính, NHTƯ có thể sử dụng công cụ lãi suất để điều hành CSTT theo các chính sách:
- NHTƯ kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy định các loại lãi suất như: Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn; hoặc sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn; hoặc công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch…
- NHTƯ áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình thành theo cơ chế thị trường, NHTƯ có thể gián tiếp can thiệp thông qua các chính sách: công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường; hoặc sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị trường mở để can thiệp và điều chỉnh lãi suất thị trường.
Có thể nói, lãi suất vừa là đối tượng quản lý, vừa là một công cụ quan trọng của CSTT. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định, sẽ có tác dụng trực tiếp đến kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, cũng như ảnh hưởng đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế. Ngược lại, nếu sử dụng nó cứng nhắc không phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế, lãi suất trở thành vật cản kìm hãm, trói buộc nền kinh tế.
2. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM phải đưa vào dự trữ theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp tùy thuộc vào tỷ lệ DTBB – do NHTƯ quy định – cao hay thấp. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà NHTM huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc. Qua đó, việc tăng hay giảm tỷ lệ DTBB, NHTƯ có thể hạn chế hoặc bành trướng khối lượng tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế.
Khi tỷ lệ DTBB tăng hoặc giảm thì hệ số tạo tiền của hệ thống NHTM giảm hoặc tăng dẫn đến khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm hoặc tăng. Đây là công cụ mang tính hành chính của NHTƯ. Ưu điểm của nó là có thể tác động đến tất cả các NHTM như nhau và tác động một cách đầy quyền lực. Bên cạnh đó việc thay đổi tỷ lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu doanh lợi của các NHTM.
3. Hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tín dụng là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHTƯ. Bằng công cụ hạn mức tín dụng, NHTƯ quy định cho các NHTM một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy, biện pháp này cho phép NHTƯ ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế nhất định như:
- Có thể làm tăng lãi suất, bởi vì cung hạn chế.
- Làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng.
- Gây ra tiêu cực trên thị trường vốn.
- Hạn mức tín dụng cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ vì các ngân hàng thường chọn doanh nghiệp lớn dể cho vay nhằm giảm chi phí và bảo đảm an toàn trong giới hạn tín dụng được phép.
4. Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó NHTƯ sẽ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các NHTM trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các NHTM .
NHTƯ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hoặc tăng lượng tiền trong lưu thông. Nếu chính sách của NHTƯ là muốn bành trướng khối tiền tệ, NHTƯ khuyến khích các NHTM trong việc đi vay bằng cách hạ thấp lãi suất tái chiết khấu và những điều kiện tái chiết khấu cũng dễ dãi. Ngược lại, khi NHTƯ muốn giảm bớt cơ hội làm tăng khối tiền tệ, sẽ thực hiện nâng lãi suất tái chiết khấu, thay đổi điều kiện tái chiết khấu theo hướng khó khăn hơn.
NHTƯ cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.
5. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động giao dịch, mua bán các chứng khoán của NHTƯ với các đối tác được lựa chọn trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM và gián tiếp đến lãi suất thị trường nhằm điều tiết mức cung tiền thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và giá.
Khi NHTƯ đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu được tiền mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho lưu thông giảm, dự trữ của các NHTM giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM và như thế, cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Bên cạnh đó, việc NHTƯ bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng cung chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán này sẽ hạ, và do vậy, lãi suất chứng khoán tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng buộc các NHTM phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh trình trạng công chúng khỏi rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng khoán, nghĩa là gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ.
Ngược lại khi NHTƯ đem tiền mặt hoặc séc mua chứng khoán trên thị trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, đự trữ của các NHTM tăng lên. Mặt khác, việc NHTƯ mua chứng khoán sẽ làm tăng cầu về chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán sẽ tăng, dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm, và đến lượt lãi suất ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, khối tiền tệ tăng lên.
Với cách vận hành như trên, thì nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu điểm hơn các công cụ khác trong CSTT là: NHTƯ có thể can thiệp chủ động vào thị trường tiền tệ, từ đó tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM. Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Dễ dàng thay đổi tình thế khi có quyết định sai lầm trong việc sử dụng công cụ này. Việc thực hiện có thể được tiến hành nhanh chóng ngay trong phiên giao dịch.
Tuy nhiên, công cụ này còn có mặt hạn chế là tính tự nguyện tham gia của các đối tác chưa cao.
6. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa hai đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa. Do vậy, tỷ giá hối đoái là một công cụ để NHTƯ thực thi CSTT của mình. Tuy nhiên, khi vận dụng công cụ này, NHTƯ không đẩy tỷ giá lên cao hay kéo tỷ giá xuống thấp mà là ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của quốc gia trong từng giai đoạn.
Khi vận hành tỷ giá hối đoái, NHTƯ có thể ấn định tỷ giá cố định, hoặc thả nổi tỷ giá theo quan hệ cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Các loại tỷ giá như: tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi hoàn toàn, tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước.
Tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có những nhược điểm cơ bản. Cụ thể, cung – cầu ngoại hối biến đổi không ngừng, do vậy, nếu NHTƯ ấn định một mức tỷ giá cố định thì tác động đến quy luật cung – cầu trên thị trường. Còn nếu thả nổi tỷ giá thì sự biến động của tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, có thể làm cho nền kinh tế phát triển nhưng cũng có thể đưa nền kinh tế lâm vào trình trạng khoảng hoảng trầm trọng.
Tỷ giá thả nổi có quản lý là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ cung – cầu ngoại hối, nhưng khi cần thiết NHTƯ có thể can thiệp bằng những biện pháp thích hợp, tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quan hệ cung - cầu ngoại tệ từ đó ổn định được tỷ giá.
Biện pháp chủ yếu mà các NHTƯ thường dùng để can thiệp vào cung – cầu ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái.
Cụ thể, khi tỷ giá hối đoái tăng cao, NHTƯ tung ngoại tệ ra bán, làm cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, thì tỷ giá sẽ từ từ giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, NHTƯ hút ngoại tệ về bằng cách mua vào, trong khi các yếu tố khác vẫn không đổi thì tỷ giá sẽ dần tăng lên. Để áp dụng biện pháp này hiệu quả, đòi hỏi quốc gia phải có khối lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn. Vì vậy, đối với những nước đang phát triển, chẳng hạn như nước ta thì việc áp dụng công cụ này có những hạn chế nhất định.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. Khái quát chung về quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong những năm qua
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHTƯ là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dù vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi NHTƯ tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt.
Năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn 20 năm đổi mới. Một năm mà diễn biến kinh tế hàm chứa cả hai thái cực nóng và lạnh, sự chuyển đổi giữa hai thái cực này cũng diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008, NHTƯ đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành CSTT thắt chặt nhằm kìm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ CSTT được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. NHTƯ đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn sự suy giảm kinh tế, CSTT thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng.
Trong năm, NHTƯ đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/- 0,75% lên +/- 3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh vào tháng 6 và cuối tháng 12. Bên cạnh đó, đã thực hiện tốt 8 nhóm giải pháp của Chính phủ về ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực thi các giải pháp điều hành tiền tệ của NHTƯ có thời điểm còn thiếu đồng bộ; thị trường tiền tệ, ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó khăn nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp; chất lượng dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập.
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHTƯ đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHTƯ đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
II. Thực trạng sử dụng các công cụ của CSTT trong những năm qua
Mục tiêu năm 2007 là phấn đấu đạt tăng trưởng kinh tế cao ở mức 8,5%; triển khai điều hành tốt CSTT để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ trên tổng thể. Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHTƯ đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHTƯ công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHTƯ bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%.
- NHTƯ đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Năm 2008, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Cụ thể:
- Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, trước tình hình đó, NHTƯ đã tăng tỷ lệ DTBB và mở rộng diện tiền gửi phải DTBB ở tất cả các kỳ hạn; phát hành tín phiếu bắt buộc 20.300 tỷ đồng cho các NHTM
- NHTƯ đã tăng tính thanh khoản cho thị trường bằng cách bơm mạnh tiền qua nghiệp vụ thị trường mở, chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đấu thầu khối lượng, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM.
- Tuy nhiên, các biện pháp chính sách trên chưa ngăn chặn được đà tăng lãi suất huy động và mở rộng tín dụng của các NHTM, do vậy buộc NHTƯ phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của các NHTM không được quá 12%.
- Một diễn biến bất lợi khác trên thị trường ngoại hối trong tháng 5/2008 là với mức thâm hụt thương mại lớn, lạm phát tăng cao. Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHTƯ đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho các NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của các NHTM trong ngày, thực hiện minh bạch các thông tin về dự trữ ngoại hối.
- Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, mặc dù những tháng cuối năm 2008 mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là thị trường tài chính Việt Nam còn nhỏ, song để ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát vẫn diễn ra ở Việt Nam đến tận tháng 9, NHTƯ đã phải tiếp tục áp dụng một số biện pháp hổ trợ thị trường như nâng cao lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi cho tiền gửi DTBB bằng VND.
Để kích thích kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10, các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp. Lãi suất cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, biên độ dao động tỷ giá được nâng lên.
- Các chỉ số thị trường tiền tệ (tốc độ tăng M2, tín dụng và lãi suất) và các chỉ số kinh tế đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi CSTT của NHTƯ năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất định, nhưng thực sự đã có những tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường tiền tệ, ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho NHTƯ trong thực thi CSTT, thiết lập được kỷ luật trên thị trường tiền tệ mà trước đây rất lỏng lẻo, làm thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của các thành viên thị trường theo chiều hướng tích cực.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHTƯ đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%).
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHTƯ phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHTƯ đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.
III. Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của CSTT trong những năm qua
1. Những thành tựu đạt được
Mặc dù trong giai đoạn vừa qua (2007 – 2009) nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động thăng trầm, phải đối phó với lạm phát ở mức cao, phải chống chọi lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (năm 2008), sang năm 2009 nền kinh tế lại có dấu hiệu giảm phát tuy nhiên với việc thực thi CSTT linh hoạt, hiệu quả của NHTƯ đã từng bước đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và dần dần đang trên đà hồi phục. Cụ thể:
Năm 2007, với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh nhưng mặt bằng lãi suất trong năm ổn định.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
Nhìn chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm 2008 - 2009 đã thực sự thành công. NHTƯ đã có những quyết định hết sức nhanh nhạy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, … và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Cụ thể:
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được NHTƯ điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm. NHTƯ còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM.
Hình 1: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm). Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHTƯ đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB từ từ giảm xuống, cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế.
- Về tỷ giá
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
NHTƯ đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức 18.000. NHTƯ đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản:
- Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%.
- Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động.
- Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phẩm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, …
2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân
2.1 Hạn chế
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt được mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế (tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định của dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xảy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Năm 2007 dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ào ạt, việc hạn chế dòng vốn này vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTƯ, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn này.
Năm 2008, NHTƯ đã thực hiện một loạt các biện pháp mạnh nhằm trị bằng được “cơn ho” lạm phát. Việc thắt chặt tiền tệ với các biện pháp như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… là phù hợp với xu thế tự do hóa và thông lệ quốc tế, ở đó, NHTƯ cần thực thi chính sách tiền tệ của mình thông qua các công cụ gián tiếp. Thế nhưng, các liệu pháp trên vẫn chưa đủ liều và hình như chưa đủ răn đe.
Chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua việc phát hành tín phiếu trên thị trường mở thì không có gì lạ, song điều mà nhiều người dễ nhận thấy là tần suất thực hiện các liệu pháp tiền tệ là quá dày và mang tính mệnh lệnh hành chính không phù hợp với xu thế thị trường.
2.2 Nguyên nhân
Một là, NHTƯ quá bị động và đôi khi còn chủ quan trong việc thực thi chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Sự bị động này một phần là do NHTƯ thiếu tính độc lập và tự chủ trong việc quyết định và thực thi các chỉ tiêu tiền tệ. Cần tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của NHTƯ trong việc thực thi chính sách tiền tệ.Thường trước khi thông qua một số Quyết định nào đó, NHTƯ phải xin phép hoặc hỏi ý kiến Chính phủ. Điều này tất yếu dẫn đến sự chậm trễ trong việc triển khai chính sách tiền tệ, trong khi đó, các chính sách tiền tệ luôn có độ trễ của nó trừ các chính sách hành chính. Bên cạnh đó, do công tác dự báo yếu kém cộng với sự chậm trễ trong việc công bố các chỉ tiêu kinh tế nên khi hiện tượng lạm phát có khuynh hướng bùng phát nhanh thì NHTƯ không kịp trở tay.
Hai là, các công cụ chính sách tiền tệ được vận dụng không hợp lý nên bản thân chúng tỏ ra không đủ lực để kiểm soát lạm phát hiệu quả. Chẳng hạn đối với công cụ dự trù bắt buộc, NHTƯ đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi từ 5% lên 10% (tiền gửi dưới 12 tháng) bởi Quyết định số 1141 vào giữa năm 2007, trong khi đó lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu thì sau hơn 2 năm (từ tháng 12/2005 đến 1/2008) mới có điều chỉnh mới.
Việc chia các tỷ lệ dự trù bắt buộc theo các kỳ hạn tiền gửi cũng không hợp lý, bởi theo nguyên tắc thì loại tiền gửi không kỳ hạn với đặc tính rủi ro cao và khả năng tạo tiền lớn thì tỷ lệ dự trữ phải lớn hơn so với các kỳ hạn khác, trong khi đó NHTƯ áp dụng chung một mức tỷ lệ cho loại tiền gửi dưới 12 tháng kể cả tiền gửi không kỳ hạn. Chính điều này nên NHTƯ cũng không biết khả năng hệ thống ngân hàng có thể tạo thêm bao nhiêu tiền tín dụng trên 1 đồng tiền cơ sở tăng thêm. Hay nói các khác là số nhân tiền tệ đã bị bóp méo.
Bên cạnh đó là nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là một công cụ hiện đại bởi tính thị trường của nó. Trong thực tế hoạt động, số thành viên tham gia trên thị trường mở cũng hạn chế với khoảng 2 - 3 thành viên/ phiên trong số hơn 40 ngân hàng cổ phần lẫn quốc doanh đang hoạt động hiện nay tại Việt Nam (chưa kể các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh), thậm chí có phiên giao dịch không có thành viên nào.
Ba là, tính bất lực của các công cụ chính sách tiền tệ hướng thị trường. Thực tế, NHTƯ đã thay dần các công cụ chính sách tiền tệ mang tính hành chính như hạn mức tín dụng, kiếm soát trực tiếp lãi suất... Song khi hệ thống thể chế hỗ trợ thị trường còn manh nha, yếu kém và thiếu đồng bộ thì việc chuyển sang sử dụng các công cụ kiểm soát gián tiếp đã làm cho NHTƯ bị “hụt tay”. Khi đó, NHTƯ chỉ có một con đường là lại tìm về các công cụ hành chính. Quyết định 306 về việc buộc các NHTM phải mua tín phiếu và phân bổ chỉ tiêu cho từng NHTM là minh chứng rõ nét nhất.
Bên cạnh đó, do thiếu năng lực và kinh nghiệm điều hành chính sách trong bối cảnh mở cửa và hội nhập. Việc tiếp cận nền tài chính quốc tế và dòng chảy tài chính bên ngoài đổ vào tăng cao đã làm cho đồng nội tệ có xu hướng lên giá đe dọa sự thâm hụt nghiêm trọng của cán cân thương mại. Mặc dù tính chung thì cán cân thanh toán Việt Nam thặng dư do được bù đắp từ sự dồi dào của cán cân vốn, song với chiến lược khuyến khích xuất khẩu thì việc để cho tiền đồng bị lên giá là khó chấp nhận, đặc biệt với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bốn là, sự thiếu nhất quán và tính hay dao động trong việc thực thi các chính sách tiền tệ do thiếu tầm nhìn dài hạn. Việc NHTƯ ban hành Chỉ thị 03 nhằm kiểm soát an toàn trong hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán của hệ thống ngân hàng thương mại là cần thiết, điều này mặc dù có tác động lớn đến sự sụt giảm của thị trường chứng khoán, nhưng xét đến độ rủi ro của nó cũng như cái giá phải trả khi rủi ro này thực sự xảy ra cho nền kinh tế, thì việc thắt chặt là đúng.
Thực tế, không ít các ngân hàng đã tăng dư nợ tín dụng lên để đáp ứng con số 3% của NHTƯ. Hơn nữa, việc tăng nhanh dư nợ tín dụng trong điều kiện vốn tự có không tăng mấy thì sẽ dẫn đến vi phạm chỉ tiêu an toàn vốn tự có 8% trên tổng tài sản có rủi ro đã điều chỉnh - một chỉ tiêu mà không mấy ngân hàng Việt Nam đạt được.
Năm là, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý còn lỏng lẻo và thiếu cơ chế hợp tác, đặc biệt là giữa NHTƯ và Bộ Tài chính.
Trong khi NHTƯ đang ra sức thắt chặt tiền tệ bằng các giải pháp có thể thì Bộ Tài chính (cùng với Bộ Công thương) lại cùng thông quan quyết định điều chỉnh giá xăng dầu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu tiệm cận với giá thế giới là phù hợp với xu thế, song lựa chọn thời điểm nào là quan trọng.
CHƯƠNG III:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT HIỆN NAY
I. Định hướng
Bước sang thế kỷ 21, đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển, đó là: sự ổn định về chính trị - xã hội, sự phát huy các lợi thế so sánh của đất nước phục vụ cho sự phát triển. Tuy vậy, nền kinh tế của chúng ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục cao thì lại đang có xu hướng chững lại tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này. Trong xu hướng tiếp tục hoàn thiện CSTT thì việc nâng cao hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam là vấn đề cần phải quan tâm.
Một là, việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hòa nhập với thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định của Đảng và Nhà nước.
Hai là, nhất quán quan điểm cơ bản: từng bước một chuyển đổi từ việc sử dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu quả hơn.
Ba là, việc áp dụng điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực tiễn, đó là thực trạng của nền kinh tế Việt Nam và đặt trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
II. Các giải pháp hoàn thiện
1. Giải pháp về việc tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT cần được độc lập với CSTC và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần được tiếp tục được củng cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động.
Năng lực kỹ thuật của NHTƯ cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT.
Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng – tài chính để cơ chế thực thi CSTT nói chung, các công cụ của CSTT nói riêng được nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân, các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn, ví dụ: tạo thói quen thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh, thói quen sử dụng hoạt động thị trường mở của các tổ chúc tín dụng…
2. Giải pháp về hoàn thiện các công cụ của CSTT
Kinh nghiệm thực tiễn của các nước qua nhiều thập kỷ và kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế học trên thế giới cho thấy chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng trong việc góp phần cải thiện kinh tế và tăng mức sống của xã hội. Thông qua CSTT, NHTƯ tác động làm thay đổi tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ đó tác động đến lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. CSTT là một trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô chủ yếu của Nhà nước nhằm góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã đề ra cho từng giai đoạn nhất định. Do đó, việc tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ luôn được các nước đặc biệt quan tâm. Bài học rút ra từ thực tiễn của nhiều nước cho thấy để chính sách tiền tệ có hiệu quả, trước hết cần xác định rõ ràng các mục tiêu chính sách tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế; kế tiếp đó là lựa chọn, xây dựng và điều hành có hiệu quả hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ nhằm góp phần đạt được các mục tiêu cuối cùng đã đề ra. Để hỗ trợ việc nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ còn có thêm một số điều kiện như: điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ cần có tính độc lập, xác định rõ trách nhiệm và thể hiện tính minh bạch; sự phát triển của các trung gian tài chính và thị trường tiền tệ; sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN): ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Trên cơ sở mục tiêu chung đã quy định, trong các năm qua việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ luôn hướng vào việc: ổn định giá trị đồng tiền, góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ. Hàng năm, thông qua các công cụ chính sách tiền tệ NHTƯ điều tiết khối lượng tiền cung ứng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã đề ra. Nếu như trước đây NHTƯ sử dụng công cụ điều tiết tiền tệ trực tiếp (hạn mức tín dụng), đến nay đã chuyển dần sang sử dụng các công cụ điều tiết tiền tệ gián tiếp (tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, thị trường mở). Cùng với các công cụ nói trên, thì tỷ giá và lãi suất cũng trở thành công cụ hỗ trợ có hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Để nâng cao hiệu quả của quá trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn Việt Nam, phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT. Hệ thống các công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ, phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau.
Nhìn chung, NHTƯ đã kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng phù hợp với mức tăng trưởng của nền kinh tế và chỉ số giá cả; đã đổi mới trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ: chuyển dần sang sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp một cách linh hoạt và có sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ chính sách tiền tệ với nhau. Hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ ngày càng nâng lên, đã góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an sinh xã hội.
Song song với các kết quả đạt được nói trên, trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ cũng còn một số vấn đề đặt ra để nghiên cứu xử lý nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ trong thời gian đến, giai đoạn Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với các nước trong khu vực và thế giới, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm :
- Đối với công cụ chính sách tiền tệ:
Thị trường mở: thành viên tham gia trên thị trường mở chưa nhiều; hàng hoá giao dịch trên thị trường mở chưa được đa dạng; thị trường mở chưa thực sự là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo “lãi suất liên ngân hàng định hướng”. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTƯ mặc dù thời gian đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực, nhưng chưa thực sự tác động mạnh mẽ đến các ngân hàng thương mại.
- Thị trường tiền tệ chưa thật sự là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác chưa chặt chẽ, do đó dẫn đến giảm hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ.
Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian đến nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần ngăn chặn sụt giảm kinh tế:
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ:
Trong điều kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế và nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang sụt giảm, thì việc tiếp tục điều hành các công cụ chính sách tiền tệ cần chủ động, linh hoạt; theo kịp sự phát triển của thị trường tiền tệ và trong khả năng kiểm soát tiền tệ là một trong các giải pháp để đạt được chính sách tiền tệ hiệu quả.
Duy trì việc tự do hoá công cụ lãi suất. Để NHTƯ thực sự là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng, cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng: sử dụng lãi suất tái chiết khấu như lãi suất sàn; lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại trên thị trường.
Tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc một cách chủ động và linh hoạt theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ; mặt khác tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả. Trong điều kiện kiềm chế lạm phát, trong năm 2007 và năm 2008 NHTƯ nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng từ 5%, lên đến 10% và 11% là cần thiết để chống lạm phát; ngược lại trong bối cảnh ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước do ảnh hưởng của kinh tế thế giới, do đó cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nâng cao sử dụng vốn khả dụng.
Đẩy mạnh việc đổi mới điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở xem thị trường mở là công cụ được sử dụng rộng rãi nhằm duy trì lãi suất chủ đạo “lãi suất liên ngân hàng định hướng”; mở rộng việc kết nạp thành viên tham gia trên thị trường mở; đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa tổ chức tín dụng với khách hàng.
Tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường, trong mối quan hệ phối hợp với lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô: kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh hưởng lớn đến việc doanh nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
- Nâng cao tính độc lập, trách nhiệm của NHTƯ:
Đây là một trong các điều kiện tiên quyết nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. Việc nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHTƯ phải thích ứng với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp thể chế chính trị ở nước ta. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật NHTƯ theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHTƯ trong xây dựng dự án chính sách tiền tệ; chủ động trong việc sắp xếp cơ cấu tổ chức và nhân sự; tự chủ về tài chính trong bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ NHTƯ; có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích thu hút nhân tài; hiện đại hoá công nghệ quản lý trong việc tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo… phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ.
- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiền tệ:
Tiếp tục tạo hàng hoá và phát triển nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ; mở rộng thành viên tham gia thị trường; nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn của NHTƯ trên thị trường tiền tệ; hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển. Sự phát triển của thị trường tiền tệ sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và một số chính sách kinh tế vĩ mô khác:
Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài…) Trong điều kiện dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều như một số năm trước đây (trong đó có dòng vốn ngắn hạn), nếu không kiểm soát tốt dòng vốn này, sẽ ảnh hưởng đến việc chống lạm phát. Do đó, cần có sự phối hợp chặt giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài chính và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài: đánh thuế hoặc yêu cầu ký quỹ đối với dòng vốn ngắn hạn vào Việt Nam. Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới sụt giảm, thì việc điều hành chính sách tiền tệ trong quan hệ phối hợp chính sách tài chính nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước, nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát.
KẾT LUẬN
Như vậy, CSTT – đặc biệt là các công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào sử dụng và chưa thực sự phát huy hết, hoặc chư thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHTƯ, hệ thống NHTM… và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do vậy việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau.
Một lần nữa, em xin cảm ơn cô ThS. Phạm Thị Bích Duyên đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ngọc liên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Sử Đình Thành và TS. Vũ Thị Minh Hằng, Nhập môn tài chính tiền tệ, NXB Lao động xã hội, 2008.
2. TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2009.
3. Website: http: //www.sbv.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các công cụ của CSTT ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.doc