5 Giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế xuống từ 1 đến 2% so với mục tiêu đã đề ra. Đây là liệu pháp cuối cùng, nhưng mang tính tổng thể và quan trọng nhất, vì đây chính là khâu "điểm huyệt" để giảm nhiệt nền kinh tế đang tăng trưởng nóng, ổn định vĩ mô, chuẩn bị cho sự phát triển bền vững lâu dài. Ưu tiên số 1 bây giờ không còn là tăng trưởng cao, mà là chống lạm phát cao. Vì nếu lạm phát cao thì không những sẽ triệt tiêu tăng trưởng, mà nguy hiểm hơn, lạm phát tiếp tục kéo dài và tăng mức độ trầm trọng sẽ trở thành tác nhân chính thổi căng, làm rạn nứt và cuối cùng sẽ làm nổ tung cái “bong bóng kinh tế” hiện đang có những dấu hiệu phồng to, gây ra ngày càng nhiều các hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế và cho xã hội. Muốn tăng trưởng cao và bền vững thì điều kiện tiên quyết là không thể để lạm phát tiếp tục kéo dài và ngày càng trầm trọng.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4999 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đề tài nhập môn tài chính tiền tệ (lạm phát), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế tăng lên.Lạm phát ảnh hưởng đến tổng thể nền kinh tế, điển hình là qua các mặt sau đây:
3.1 Sự gia tăng giá cả hàng hóa, dịch vụ hàng loạt.
Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ.
Khi giá cả trong nền kinh tế tăng lên điều đó có nghĩa là thu nhập thực tế của những người có thu nhập cố định hay ít thay đổi như quân nhân, cán bộ hưu trí, lương của CBCNV trong cơ quan hành chính nhà nước giảm xuống. Xét về mặt số lượng thì hàng tháng họ vẫn nhận được 1.000.000đ, nhưng 1.000.000đ tháng trước họ mua được nhiều hàng hơn tháng này do giá cả của tháng này tăng cao hơn tháng trước, như vậy là thu nhập thực tế của họ đã giảm xuống. Do đó lạm phát làm thu nhập thực tế của một bộ phận dân cư giảm xuống, đời sống khó khăn hơn.
Những ví dụ về biểu hiện của lạm phát đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3250000 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ hoặc tại Hungary sau Thế chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 41900000000000000 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ).
3.2 Sự gia tăng khối lượng tín dụng
Lạm phát có thể được hiểu là sự thừa tiền trong lưu thông. Khi mà lượng tiền cung ứng ra nền kinh tế nhiều hơn mức gia tăng lượng hàng sản xuất sẽ làm xuất hiện lạm phát.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến hết tháng 12/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vào nền kinh tế của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam tăng gần 37,8% so với cuối năm 2006, vượt xa so với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đề ra cả năm là 18 - 22% và thực tế năm 2005 chỉ tăng 19,2% và năm 2006 tăng 21,4%.
Đồng thời khi chính phủ chi tiêu quá mức cần thiết (như giải quyết các chương trình xã hội như tăng lương, tiền hưu vv...) thì xuất hiện nhu cầu phát tiền ngoài kế hoạch cho hoạt động làm tăng lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế.Chính vì vậy mà mất cân đối cung-cầu về tiền tệ làm tăng giá (giá bằng lượng tiền chia cho số lượng hàng trong phạm vi toàn xã hội)
3.3 Tỷ giá hối đoái tăng cao
Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền nước này được biểu hiện qua đồng tiền của nước khác.
Nhìn lại cách điều hành tỷ giá tiền tệ năm 2007 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (02/05/2008)
Tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền (quốc gia) tính bằng đồng tiền (quốc gia) khác. Từ tháng 9- 1985 đến cuối năm 2007, VND luôn luôn mất giá so với USD. Cụ thể tháng 9-1985, tỷ giá VND/USD là 15 VND/1 USD, đến năm 2007 thì tỷ giá đó đã là 16.115 VND/ 1 USD. Như vậy, sau 22 năm VND mất giá so với USD 16.100 VND hay 107.333,33% {[(16.115 VND - 15 VND) : 15 VND] x 100 = 107.333,33%}. Tỷ giá hối đoái chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố quan trọng nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu ngoại tệ. Khi lạm phát tăng, sức mua đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so với nội tệ tăng (hay tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm)
3.4 Giá cả các loại chứng khoán giảm
Đầu tiên, việc lạm phát tăng cao là lý do khiến giá các loại chứng khoán suy giảm.Việc lạm phát tăng cao, không được khống chế sẽ làm cho nhà đầu tư mất niềm tin và họ sẽ không dám đầu tư trên TTCK do sợ rủi ro.
Một khi nền kinh tế rơi vào lạm phát, chính phủ sẽ phải áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp hành chính để điều hành nền kinh tế nhằm kiềm chế lạm phát thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Ví dụ rõ nét nhất là thị trường chứng khoán ở Việt Nam.Khi nền kinh tế VN rơi vào lạm phát thì buộc NHNN phải có những biện pháp để hút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông.Việc NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ giữa tháng 1/2008 và phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, nhà đầu tư càng hiểu rõ vốn cho TTCK ngày càng thu hẹp đi.
Chính vì vậy lạm phát tăng cao đồng nghĩa với việc sụt giảm giá cả của các loại chứng khoán
3.5 Mọi thứ đều khan hiếm trừ tiền
Việc lạm phát tăng cao dẫn đến giá cả của hàng hóa dịch vụ không ngừng leo thang. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...).Điều này tạo nên sự khan hiếm đối với tất cả những loại hàng hóa dịch vụ.
1. Tình hình lạm phát trong giai đoạn 1975 - 1986
2. Tình hình lạm phát trong giai đoạn 1986 – 2003
3. Tình hình lạm phát trong giai đoạn từ 2004 đến hiện nay
1. Tình hình lạm phát trong giai đoạn 1975 - 1986
1.1Tình hình chung :
Năm 1972 có những sự kiện đáng ghi nhớ :
+Đồng Dollar giấy từ bỏ “kim bản vị” tức là không còn được đảm bảo bằng vàng.
+Lý thuyết hệ thống, cách tiếp cận hệ thống, các quan điểm và nguyên lý của điều khiển học xâm nhập mạnh mẽ vào một số lĩnh vực nghiên cứu và quản lý.
+Các nhà kinh tế Mác-xít ấu trĩ cuối cùng cũng đã bắt đầu nhận ra rằng, sự giảm giá không phải lúc nào cũng hay và sự tăng giá không phải lúc nào cũng dỡ, và lạm phát không phải là căn bệnh chỉ dành riêng cho CNTB. Cái mới về nội dung của lạm phát ở đây là các vấn đề về tiền tệ, giá cả, tài chính, tiền lương được xem xét như một tổng thể (quan điểm hệ thống) trong đó giá cả là vấn đề trung tâm, mối quan hệ giữa chúng không phải là mối quan hệ nhân quả mà là mối quan hệ vừa nhân vừa quả, nghĩa là mỗi yếu tố vừa là nguyên nhân vừa là hậu qủa của các yếu tố khác. Giá tăng lên là do nguyên nhân phát hành tiền và chênh lệch cung cầu, nhưng nó cũng tác động trở lại đến việc làm phát hành và làm thay đổi chênh lệch cung cầu.
+Khi đó lạm phát được miêu tả như sau: trong quá trình vận hành của nền kinh tế, nếu 4 yếu tố: tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương đạt được một sự phối hợp hài hòa , nghĩa là giữa chúng có một sự cân bằng (cân bằng động) thì lúc đó không có lạm phát, giá cả tiền tệ ổn định, cung cầu, thu chi cân bằng, tiền lương trang trãi đủ cuộc sống. Nếu không đạt được trạng thái cân bằng đó thì nền kinh tế có những biến động. Sự biến động này có thể xảy ra theo hai hướng:
Một là, giá cả tăng hơn giá trị, tiền phát hành quá mức cần thiết, bội chi tăng, tiền lương thực tế giảm, đó là khuynh hướng lạm phát.
Hai là, giá cả giảm xuống và nhỏ hơn hẳn giá trị, tiền lương phát hành ít hơn mức cần thiết, bôi chi tăng lên, tiền lương thực tế tăng, đó là khuynh hướng thiểu phát.
Điều đáng chú ý ở đây là không nhất thiết cả 4 yếu tố đều ngả về cùng một phía, rất có thể một số yếu tố ngả về phía này, còn các yếu tố khác lại ngả về hướng khác. Ngoài ra sự thiểu phát cũng gây ra những tác hại không kém gì lạm phát.
Vào những năm 1980, vàng từ mốc 450$ đã vọt lên mức 850$ chỉ trong vòng năm tuần lễ.
Giá dầu được kéo lên bởi tình hình bất ổn của Trung Đông và đồng USD rơi nhanh do lo ngại về suy thoái kinh tế.
Tại Mỹ, năm 1971 dến 1981 tỷ lệ lạm phát (tăng giá) cao hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, nói cách khác tốc độ mất giá tiền giấy lớn hơn, nhanh hơn tốc độ tăng tiền .
Chúng ta có thể nhìn nhận 1 cách chung nhất về thế giới qua biểu đồ sau :
Tỷ lệ lạm phát của 5 thành viên chính của G8
1.2 Tình hình của Việt Nam :
Cơn sốt lạm phát không biết đã ra đời trong nền kinh tế từ bao giờ, nhưng chỉ biết ngay những năm 1976 nó đã từng tồn tại. Cho dù người ta dấu diếm, che mắt và kiềm chế nó, nhưng nó cứ lớn dần lên ngoài ý muốn của con người. Năm 1985, cuộc cải cách giá- lương -tiền theo giải pháp xốc đã thất bại làm cho cơn sốt lạm phát vụt lớn nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vô hiệu hóa tác dụng đổi tiền chỉ mới tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả không chỉ tăng ở kinh tế thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị trường tổ chức. Về cơ bản giá cả đã tuột khỏi vòng tay bao cấp của Nhà Nước.
Chỉ số sinh hoạt ở năm 1985 tăng gấp 30 lần so với năm 1976 . Và đồng bạc “Ông Hồ” đã bị phá giá đến 92% so với đồng dollar USA! Lương thực, thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng vô cùng khan hiếm. Chỉ trong vòng vài tháng cuối năm 1985, giá nông phẩm vọt lên đến 10-12 lần, giá hàng công nghệ phẩm tăng vọt đến 28-30 lần. Giá cả tăng vọt theo cấp số nhân trong tình trạng lạm phát phi mã, đã đẩy nền chính trị CHXHCN Việt Nam lâm vào hoàn cảnh “tưởng chừng như sụp đổ đến nơi”.
Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2 % .
Sản xuất tăng chậm và thực chất không có phát triển, nên lạm phát ngầm diễn ra với mức độ ngày càng cao, lại gặp sai lầm "giá - lương - tiền" 1985, nên siêu lạm phát diễn ra vào năm 1986 với tốc độ phi mã, lên tới 774,7%.
Tiền mặt dự trữ không có, tiền trong lưu thông thì thiếu nghiêm trọng.
Tăng trưởng kinh tế rất thấp, bình quân năm thời kỳ 1977 - 1980 chỉ có 0,4% (trong đó 1979 giảm 2%, 1980 giảm 1,4%); thời kỳ 1977 - 1985 chỉ có 3,7%.
Dấu hiệu của nền “kinh tế bong bóng” trong lĩnh vực kinh doanh địa ốc, thị trường chứng khoán, giá vàng, giá dầu, giá thực phẩm tăng mạnh, mức độ thâm hụt cao trong cán cân ngoại thương...
Lạm phát cao gấp hơn 10 lần lãi suất tiền gửi.
1.3 Nguyên nhân :
- Những nguyên nhân chính dẫn tới lạm phát “phi mã” gồm có:
(1) Nguồn cung tiền mặt quá cao, phần lớn do in nhiều tiền để tung ra thị trường mà không đủ hàng hóa đối ứng.
(2) Nền kinh tế “thiếu” nghiêm trọng, nhất là sự thiếu thốn về các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu như lương thực, thực phẩm và các hàng hóa tiêu dùng thuộc loại nhu yếu phẩm khác, hậu quả của sự kiệt quệ sau chiến tranh, của tình trạng kinh tế tăng trưởng kém và việc chấm dứt các nguồn viện trợ từ bên ngoài.
(3) Lãi suất tiền gửi ngân hàng âm nặng so với lạm phát, khiến người dân không muốn gửi tiền vào ngân hàng, làm cho lượng tiền mặt trôi nổi trong lưu thông ngày càng tích lại nhiều mà không có lượng hàng hóa tương ứng để cân đối cung - cầu.
1.4 Giải pháp chống lạm phát:
- Thông thường, những loại giải pháp chống lạm phát tương đối phổ biến mà các nước hay áp dụng là: giảm lượng cung ứng tiền mặt, áp dụng chế độ lãi suất dương và thực thi các chính sách, biện pháp khắc khổ, nhất là các biện pháp thắt chặt tiền tệ. Đối với Việt Nam, những loại chính sách và biện pháp này cũng đã và đang được áp dụng, tuy mức độ và liều lượng khác nhau tùy theo từng thời kỳ và trong những bối cảnh khác nhau.
Trong thời kỳ trước và đầu đổi mới, các biện pháp chống lạm phát chủ yếu mà Việt Nam đã thực hiện tập trung vào những việc làm cụ thể như:
(1) Cắt giảm mạnh nguồn cung ứng tiền mặt, đặc biệt là giảm in tiền và đổi mệnh giá đồng tiền (đổi 1000đ lấy 1đ), trong hai loại biện pháp này, cắt giảm mạnh in tiền có tác dụng lớn và lâu dài, còn đổi tiền chỉ có tác dụng tức thời được vài tháng rồi mất tác dụng, thậm chí còn gây ra đầu cơ tiền mới;
(2) Tăng nhanh nguồn cung ứng các loại hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, nhất là lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm, thông qua 3 chương trình lớn là Chương trình sản xuất và chế biến lương thực, thực phẩm; Chương trình sản xuất hàng hóa tiêu dùng và Chương trình sản xuất hàng hóa xuất khẩu, ngoài ra còn tăng nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng để giảm bớt sự khan hiếm hàng hóa ở trong nước, những biện pháp này có tác dụng rất lớn, nhanh chóng giảm bớt tình trạng mất cân đối giữa cung cầu tiền mặt và cung cầu hàng hóa;
(3) Áp dụng liệu pháp mạnh thông qua việc thực hiện chế độ lãi suất dương cao, đây là biện pháp có sức hút mạnh đối với nguồn tiền gửi, khiến chỉ trong một thời gian ngắn đã có một lượng tiền lớn được gửi vào ngân hàng, vơi hẳn nguồn tiền trôi nổi trong lưu thông, nhanh chóng hạ nhiệt cơn sốt lạm phát.
1.5 Hiệu quả của các giải pháp :
Thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế
Các số liệu thống kê về xu hướng tăng tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá cả trên thị trường được ước tính bởi Quỹ tiền tệ quốc tế. Một vài cột đã được được điều chỉnh để tính toán cho sự lạm phát.
Năm
GDP
đầu người
theo sức mua tương đương
(USD)
GDP
tỉ đồng VN (danh nghĩa)
GDP
tỉ đồng VN
(đã điều chỉnh)
Tăng trưởng GDP
(đã điều chỉnh)
Lạm phát
1986
731
609.708
108,126.000
3.4%
774,5%
1987
753
2,605.109
110,882.000
2.5%
360.4%
1988
803
11,152.383
116,537.000
5.1%
374.4%
1989
880
28,093.000
125,627.000
7.8%
95.8%
+ 1986 – 1990 : Nhập khẩu tăng 28% , xuất khẩu 8,2%. Tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân mỗi năm 4,8%; thu nhập quốc dân tăng 3,9% .
2.Tình hình lạm phát trong giai đoạn 1986 – 2003
Trong gần hai thập niên qua, kể từ khi áp dụng những chính sách cải cách kinh tế toàn diện với nội dung cốt lõi là tự do hóa, ổn định hóa, thay đổi thể chế, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa ra nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã được những thành tựu đáng ghi nhận. Tăng trưởng và lạm phát là hai đỉnh của tứ giác mục tiêu (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư), vì vậy trước hết cần phải xem xét tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời gian nay. Từ chỗ hầu như không có tăng trưởng, thì ngay sau đổi mới, trong giai đoạn 1986-1990, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi và phát triển, tuy tốc độ chưa cao. Trong nửa đầu những năm 1990, nền kinh tế liên tục tăng tốc. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 (9,54%), tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam đã bị giảm sút và xuống mức đáy vào năm 1999 (4,77%), chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực. Bắt đầu từ năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã liên tục cao lên. Với đà tăng trưởng bình quân hằng năm 7,3% như trong suốt giai đoạn từ năm 1990 đến nay, thì tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam sẽ gấp đôi sau khoảng 1 thập kỉ.
2.1Giai đoạn 1986-1988:
Trong cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kì khủng hoảng kinh tế khá nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Có năm như năm 1986, lạm phát tới trên 774% ngay đối với đồng tiền mệnh giá mới đã gấp 10 lần đồng tiền mệnh giá cũ (nếu so với mệnh giá cũ năm 1985 thì mức lạm phát năm 1986 là trên 7700% = 77 lần) - Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp do kéo dài quá lâu đã trở thành vật cản và là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm trì trệ nền kinh tế đất nước sau mười một năm giải phóng - Những say sưa trên ánh hào quang chiến thắng đã dần nhường chỗ cho những lo toan trăn trở trước vận mệnh mới của đất nước: Nền kinh tế vẫn trong thế bị bao vây, cấm vận; vẫn là một nền kinh tế tiểu nông sản xuất nhỏ mang nặng bóng dáng của một thời kỳ đóng cửa, tự cấp, tự túc; lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ vừa không phát triển, vừa tự phát phân hoá thành những mạch ngầm; các hiện tượng “chợ đen”, “phá rào”, “hụi họ”, "núp bóng"... mọc lên như nấm từ những năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ 20 và đỉnh cao là cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền năm 1985 có nhiều sai lầm; sự tan rã của “phong trào” hợp tác xã nông nghiệp từ cấp thấp đến cấp cao đã bức bách đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế khoán mà sau này là “giao” lại ruộng đất thời hạn dài cho Nông dân (NQ 10 của Bộ Chính Trị năm 1988). Trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ cũng có những “đỉnh cao” riêng - Đó là cuộc đổ vỡ tín dụng dây chuyền từ năm 1988 đến 1990, gây thất thoát nhiều ngàn tỷ đồng đã làm suy giảm niềm tin trong nhân dân vào tính ổn định của đồng tiền Việt nam. Có thể nói cho đến cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, gần tròn 40 năm kể từ sau khi thành lập NHQG Việt Nam, nền tiền tệ của Việt nam vẫn cơ bản là một nền tiền tệ tài chính. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị che lấp bởi quan hệ phân phối hiện vật, đồng tiền Việt Nam chưa bao giờ có bản vị hàm lượng kim khí hoặc đá quí. Sức mua thực tế luôn luôn bị giảm sút ngay cả khi giá trị danh nghĩa được nhân lên sau mỗi lần đổi tiền. Hình ảnh bán trâu gửi tiết kiệm nhưng sau 1 hoặc 2 năm khi rút ra cả vốn lẫn lãi không đủ để mua lại 1 con gà vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 là những sự thật đau xót đã một thời hằn vào trí nhớ của nhiều người Việt nam. Trong khi đó chiến tranh biên giới, chiến tranh hải đảo liên tục đe dọa; Mặt khác vì an ninh Quốc gia và khu vực, ta vẫn phải gửi một đội quân tình nguyện với trang thiết bị, hậu cần tự túc sang giúp láng giềng Cam Pu Chia thoát họa PônPốt; quan hệ với các nước trong phe XHCN thì ngày càng bị xấu đi. Đất nước lại rơi vào một cuộc khủng hoảng cực kỳ nghiêm trọng trên mọi lĩnh vực Kinh tế, An ninh, Xã hội, Chính trị... Mức lương bình quân/ tháng của công chức Nhà nước vào những năm của hơn 10 năm sau ngày giải phóng không đủ để sống ở mức trung bình quá 10 ngày! Trong thời kỳ này, tăng trưởng kinh tế đạt thấp (như năm 1986 chỉ đạt 2,84%, năm 1987 chỉ đạt 3,63%, năm 1989 chỉ đạt 4,68%, tính ra tốc độ tăng GDP bình quân đầu người còn thấp hơn nữa). Tăng trưởng kinh tế thấp thì lạm phát cao và lạm phát quá cao lại làm cho tăng trưởng thấp. Đây là trạng thái không tốt của quan hệ lạm phát và tăng trưởng.
Có thể nói lạm phát ở thời kì nào và ở nước nào cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ sự mất cân đối trên 4 mặt chủ yếu: sản xuất và tiêu dùng; hàng và tiền; thu và chi ngân sách; xuất khẩu và nhập khẩu.
Thứ nhất, quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Một trong những đề tài gây tranh cãi gay gắt nhất lúc đó là có duy trì hay không chế độ phân phối theo định lượng, có thực thi chính sách một giá hay vẫn duy trì cơ chế hai giá? Cuối cùng đã xoá bỏ chế độ tem phiếu và chuyển sang cơ chế một giá đi đôi với việc bù giá vào lương cho những người làm công ăn lương. Kết quả là đã tiết chế được tiêu dùng, rõ nhất là về lương thực, thực phẩm vì trước đó ai cũng tận dụng hết phần mình được phân phối để bán ra chợ đen phần không dùng hết lấy chênh lệch; sau khi xoá bỏ tem phiếu, chuyển sang mua bán theo giá thị trường thì người ta chỉ mua theo nhu cầu thực tế, còn người sản xuất phấn khởi sản xuất vì không còn bị thu mua như cướp nữa. Đi đôi với những biện pháp tiết chế tiêu dùng là những quyết sách khuyến khích sản xuất như "khoán 10", "khoán 100" trong nông nghiệp, "kế hoạch ba" trong công nghiệp, xoá bỏ tình trạng "ngăn sông cấm chợ" trong phân phối lưu thông. Nhờ những biện pháp trên, tình trạng mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng đã được khắc phục về cơ bản.
Thứ hai,quan hệ giữa hàng và tiền. Đương nhiên, để kiềm chế lạm phát thì các biện pháp tiền tệ vẫn đóng vai trò cốt tử. Trong giai đoạn này, giá-lương-tiền trở thành tâm điểm nóng bỏng nhất; do xử lý không phù hợp đã đưa tới những sự đổ vỡ tai hại. Cuối cùng, cũng đã hành động theo đúng quy luật bằng cách chấm dứt việc in tiền tung vào lưu thông quá nhiều, tăng lãi suất tiền gửi cao hơn chỉ số lạm phát để hút tiền về, gia tăng vòng quay của đồng tiền, nhờ vậy đã góp phần lấy lại được sự cân bằng tương đối giữa tiền với hàng.
Thứ ba, quan hệ giữa thu và chi ngân sách. Năm 1986 thu chỉ bảo đảm 75% chi, trong đó phần chi bù lỗ cho sản xuất rất cao, do đó một trong những biện pháp chống lạm phát lúc bấy giờ là thu hẹp mạnh mẽ khoản bao cấp này, kể cả bao cấp qua giá.
Thứ tư, quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Tình trạng nhập siêu cũng là một tác nhân góp phần gây lạm phát. Năm 1986 xuất được có 800 triệu USD nhưng nhập tới 2,2 tỷ, do đó một trong những biện pháp kiềm chế lạm phát lúc đó là giảm nhập siêu bằng hai loại công cụ chủ yếu: xoá bỏ cơ chế hai tỷ giá, chuyển sang cơ chế một tỷ giá theo quy luật cung cầu trên thị trường đi đôi với việc xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương của Bộ Ngoại thương, cho phép các bộ, ngành và các địa phương kinh doanh xuất-nhập khẩu, thả lỏng việc nhập hàng phi mậu dịch.
2.2Giai đoạn 1989-1992:
Năm 1989 nền kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị trường, các chính sách đổi mới quản lí như thực hiện tự do giá cả, thả nổi tỷ giá, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu của ngân sách, đặc biệt với chương trình ổn định mà nội dung chủ yếu là áp dụng chính sách lãi suất thực dương, Việt Nam đã thành công trong việc chặn đứng siêu lạm phát. Song, kết quả này đã không bền vững: lạm phát cao đã quay trở lại trong hai năm sau đó vì thâm hụt ngân sách quá lớn và được tài trợ chủ yếu bằng việc phát hành tiền. Lạm phát ở nước ta do nhiều nguyên nhân như nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu lại mất cân đối cơ cấu, phụ thuộc nhiều vào yếu tố bên ngoài, nhất là phải dựa vào viện trợ của Liên Xô, trong khi nhu cầu chi tiêu của cả Chính phủ về dân cư đều gia tăng. Tuy nhiên, có thể cho rằng yếu tố trực tiếp, quyết định mức lạm phát cao ở Việt Nam chủ yếu vẫn là sự bành trướng cung ứng tiền tệ quá lớn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của xã hội. Có thể thấy rõ chiều hướng tăng tiền và tăng giá có mối quan hệ chặt chẽ như trong bảng số liệu sau:
Đơn vị: % so với năm trước
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
Tốc độ tăng giá cả
301
308
34
67
68
17.5
5.3
Tốc độ tăng tiền(M2)
324
445
189
53
79
34
27
Bảng2.2 Tốc độ tăng giá và tăng tiền từ 1987-2004
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát là do nội tại nền kinh tế, cho nên chúng ta phải tự tìm tòi xác định biện pháp chống lạm phát. Cách làm không giống ai và sát với hoàn cảnh và đặc điểm của nước ta với hai nhiệm vụ chính: Rút khối lượng lớn tiền mặt trên thị trường về. Tìm mọi cách để tăng hàng hóa, trước hết là sản xuất trong nước và bằng nhiều con đường, nhiều đối tượng và hình thức đưa hàng từ nước ngoài về. Ðặc trưng chung của lạm phát lúc này là lạm phát trong suy thoái. Kiên trì, bền bỉ, sáng tạo, với cách làm riêng chúng ta đã thành công rút dần lạm phát 3 con số xuống 1 con số ở mức 4-5% mức bình thường của nhiều nước.
Năm 1992, chính phủ Việt Nam theo đuổi chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng: tăng lượng cung ứng tiền tệ hằng năm với mức thích hợp, xây dựng ngày càng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ (nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu…), thâm hụt ngân sách được duy trì ở mức thấp và đặc biệt kiên quyết không tài trợ bằng cách phát hành tiền, lãi suất thực dương liên tục được duy trì. Những giải pháp này được thực hiện trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách kinh tế và chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã đưa đến những thành công đáng khích lệ: lạm phát được kiểm soát và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Các chính sách về xuất khẩu cũng đã cho thấy hiệu quả khi vào năm này nước ta đã xuất siêu (đây là năm duy nhất trong 20 năm qua nước ta xuất siêu).
2.3Giai đoạn 1993-1999:
Trong thời kỳ này, bình quân một năm GDP tăng 8,34%, còn giá tiêu dùng tăng 8,1%, bằng 0,97 lần tốc độ tăng GDP. Trong thời kỳ này, tốc độ tăng giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó có những năm hệ số chỉ ở mức rất thấp như năm 1997 là 3,6% so với 8,15% (hệ số bằng 0,44 lần), năm 1996 là 4,5% so với 9,34% (hệ số là 0,48 lần), năm 1993 là 5,2% so với 8,08% (hệ số là 0,64 lần). Tăng trưởng cao thì lạm phát giảm và lạm phát giảm đã làm cho kinh tế tăng cao lên. Đây là một quan hệ đẹp của tăng trưởng và lạm phát.
Tuy nhiên trong giai đoạn có năm có số lạm phát 2 con số là những năm khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực 1997 diễn ra từ biểu hiện không bình thường trong đầu tư và chu chuyển các dòng vốn, trước hết là ở các nước châu Á trong điều kiện chúng ta bắt đầu đổi mới, mở cửa, nền kinh tế hội nhập chưa sâu. Lúc đó chúng ta không ở tâm bão của cuộc khủng hoảng, nhưng cũng có tác động đến nhiều lĩnh vực, tới mối quan hệ tiền, hàng. Nguyên nhân chủ yếu từ ngoài dẫn đến nên các biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn các yếu tố tác động xấu hoặc gây rủi ro cho nền kinh tế đất nước. Mặt khác, chúng ta khai thác tối đa những yếu tố thuận lợi cho đất nước do cuộc khủng hoảng này gây ra, nhất là thu hút vốn đầu tư nhập khẩu thiết bị, công nghệ để phục vụ tăng trưởng.
2.4Giai đoạn từ cuối 1999 đến 2003:
Trong thời kỳ 1999-2003, hệ số giữa tốc độ tăng giá tiêu dùng so với tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp hơn nữa. Bình quân năm trong thời kỳ này, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,54%, còn tốc độ tăng giá tiêu dùng chỉ có 1,44%; hệ số chỉ đạt 0,22 lần. Lạm phát thấp đến mức thiểu phát đã làm cho tăng trưởng kinh tế đạt thấp. Đây là trạng thái không tốt của quan hệ giữa lạm phát (thực chất là thiểu phát) và tăng trưởng.
Đặc biệt vào đầu thập niên thứ nhất của thế kỷ 21 Việt Nam trải qua giảm phát nhẹ ở mức -1.6% vào năm 2000 và -0.4% vào năm 2001. Giảm phát là trường hợp ngược lại với lạm phát, có nghĩa là giá cả hạ thấp, và kết quả là làm tăng giá trị của đồng tiền so với hàng hoá và dịch vụ. Trong giai đoạn này, giảm phát đang là vấn đề toàn cầu, đối với nước ta là một thách thức lớn. Nguyên nhân quan trọng của hiện tượng này là tình trạng mất cân đối cung cầu hàng hóa và dịch vụ, việc quản lý lưu thông tiền tệ và tỷ giá hối đoái còn nhiều vấn đề, cũng như chương trình xóa đói giảm nghèo chưa mang lại hiệu quả cao. Một hậu quả của sự giảm phát là mức thất nghiệp gia tăng. Mức tiêu thụ suy giảm vì người mua có khuynh hướng đình hoãn chi tiêu để chờ đợi cho giá cả xuống thấp hơn nữa. Với chủ trương kích cầu kịp thời, nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao.
Tuy nhiên đến lạm phát bắt đầu tăng trở lại vào năm 2002, 2003 lần lượt ở mức là 4,0% và 3,6%. Ba yếu tố chính ảnh hưởng đến hiện tượng lạm phát trong giai đoạn này là mức sản xuất thực phẩm nội địa, giá thực phẩm trên thị trường quốc tế đặc biệt là giá gạo, giá xăng dầu và ảnh hưởng của nó trên chi phí chuyên chở.
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
I/Giai đoạn năm 2004:
1/Tình hình lạm phát năm 2004:
Năm 2004, tỉ lệ lạm phát tăng đột biến lên gần 2 con số (9.5%). Tỉ lệ này cao hơn 3 lần số liệu tương ứng của năm trước đó và đã chấm dứt khoảng thời gian lạm phát được giữ ở mức thấp hơn 4%- cá biệt có năm 2000 đã xảy ra giảm phát.
Lạm phát những năm 1999-2005
Ngay từ những tháng đầu năm 2004, khi xu hướng lạm phát mạnh bắt đầu có dấu hiệu manh nha, đã có rất nhiều khẳng định lạm phát cả năm tuy vượt qua con số 5% mà Quốc hội đề ra nhưng sẽ không bao giờ vượt quá con số 7,5%? Thế rồi mỗi tháng trôi qua, liên tục các dự báo đều thất bại, và cuối năm 2004 thì lạm phát gần bằng hai con số.
2/Nguyên nhân tỉ lệ lạm phát gia tăng của năm 2004:
Trong năm 2004, lạm phát được cho là không có nguyên nhân tiền tệ, ngoại trừ một số ít tranh luận về vấn đề mang tính tâm lý của việc phát hành tiền mới lúc bấy giờ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tăng mạnh của chỉ số giá tiêu dùng năm 2004: Giá cả một số mặt hàng như phôi thép, xăng dầu trên thế giới tăng lên, dịch cúm gia cầm, thiên tai, công tác kiểm soát giá cả còn nhiều yếu kém...
Trong số các nguyên nhân đó, nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao trong năm 2004 là do giá nguyên liệu nhập khấu tăng mạnh (tức do chi phí đẩy):
¯Trước hết, các số liệu thống kê của IMF cho thấy, sau hai năm biến động theo xu thế giảm, chỉ số giá nguyên liệu thế giới năm 2003 bắt đầu tăng mạnh (trên 13%), và liên tục trong 3 năm 2004-2006 đạt tốc độ tăng cao ngất ngưỡng trong khoảng 20-30%.năm 2004 cũng chính là thời điểm cơn sốt nóng giá nguyên liệu thế giới bùng phát và cũng kéo dài đến nay.
Trong khi đó, với đặc thù nổi bật của nền kinh tế nước ta, khác rất xa so với hầu hết các nước xung quanh tự chủ được nguồn nguyên liệu ở mức độ cao hơn hẳn, chúng ta phải “sống nhờ” vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, cho nên quy mô nhập khẩu sốt nóng giá cả thế giới vào thị trường trong nước ngày càng tăng. Cụ thể hơn, với quy mô hàng hoá nhập khẩu hiện bằng khoảng 75% GDP, trong đó riêng nguyên liệu nhập khẩu đã bằng khoảng 52-53% GDP, cho nên quy mô “nhập khẩu sốt nóng giá nguyên liệu thế giới” vào thị trường trong nước là cực kỳ lớn.
¯Thứ hai, cũng cần nhấn mạnh rằng, nếu cho rằng cùng trong cảnh phải “sống chung với sốt nóng giá nguyên liệu thế giới”, cường quốc nhập khẩu số 1 là Mỹ và số 2 là Trung Quốc, hoặc các nước xung quanh đều có tỷ lệ lạm phát thấp hơn nước ta nhiều lần để từ đó cho rằng sốt nóng giá nguyên liệu thế giới “có bằng chứng ngoại phạm” trước việc lạm phát cao của nước ta là sự so sánh hết sức khập khiễng.
Bởi lẽ, tuy nhập khẩu hàng hoá của Mỹ hiện lớn gấp 42,77 lần của nước ta (1.920 tỷ USD), nhưng so với “rổ GDP” hết sức khổng lồ trên 13.200 tỷ USD của họ, lớn gấp gần 220 lần của nước ta, thì độ mở ở đầu vào nhập khẩu của nền kinh tế này chỉ là 14,54%, tức là chưa bằng 1/5 tỷ lệ này của nước ta.
Hoặc “người khổng lồ” Trung Quốc cho dù đã liên tục tăng đại nhảy vọt nhập khẩu trong suốt 5 năm “hậu WTO” vừa qua và đã trở thành quốc gia nhập khẩu hàng hoá thứ 3 thế giới với kim ngạch 792 tỷ USD, cũng lớn gần 20 lần so với nước ta, nhưng so với GDP của nước này thì cũng chỉ bằng 29,68%, tức chỉ mới bằng 2/5 độ mở này của nước ta.
Hơn thế, chắc chắn tỷ lệ nguyên liệu trong “rổ hàng hoá nhập khẩu” của những cường quốc này còn thấp xa hơn nữa so với của nước ta, cho nên quy mô nhập khẩu sốt nóng giá nguyên liệu thế giới càng nhỏ hơn.
Các kết qủa tính toán từ các số liệu thống kê về hàng hoá nhập khẩu của nước ta cũng cho thấy rất rõ điều đó. Cụ thể là, trong tổng mức tăng nhập khẩu 12 loại nguyên liệu chủ yếu (gồm xăng dầu, phân bón, chất dẻo nguyên liệu, cao su, sắt thép, phôi thép và kim loại thường khác, giấy và bột giấy, bông và sợi, lúa mỳ là những mặt hàng có đủ số liệu thống kê về khối lượng và giá trị) năm 2004 là 3,277 tỷ USD và 48,75%, thì chỉ có vỏn vẹn 823 triệu USD và 12,24% là do tăng khối lượng, còn lại 2,454 tỷ USD và 36,51% là do sốt nóng giá cả thế giới khuyếch đại lên.
Năm
Giá trị (tỉ USD)
Tỉ lệ tăng (%)
Trong đó:
Tăng do khối lượng (tỉ USD)
Tỉ lệ (%)
Tăng do sốt nóng giá cả thế giới (tỉ USD)
Tỉ lệ (%)
2004
3,277
48,75%
0,823
12,24%
2,454
36,51%
2005
2,204
22,05%
0,202
2,02%
2,002
20,03%
Đó chính là biểu hiện của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới đối với lạm phát cao ở nước ta. Đó cũng chính là tác động của lạm phát do chi phí đẩy trong điều kiện “sống nhờ” vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu mà chúng ta buộc phải chấp nhận khi thị trường này “giở chứng”. Chính điều này cũng giải thích tại sao tỷ lệ lạm phát của nước ta cũng không cao hơn nhiều so với đa số các nước trong điều kiện thị trường nguyên liệu thế giới bình ổn trước khi diễn ra sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới năm 2004.
3/Giải pháp của chính phủ:
3.1Về giải pháp tiền tệ, mặc dù khẳng định không phải do nhân tố này tác động trực tiếp, nhưng để chủ động góp phần vào kiềm chế lạm phát, nhất là trước diễn biến tâm lý và sức ép của một bộ phận dư luận, giải pháp điều hành chính sách tiền tệ đã được đưa ra, Thống đốc NHNN đã có quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng. Với quyết định này, NHNN rút bớt khối lượng tiền trong lưu thông về, với mức độ thu về gấp 2 lần so với mức trước đó. Riêng đối với tiền gửi ngoại tệ tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng cao, nhằm không khuyến khích các NHTM tăng lãi suất và không khuyến khích tăng cường huy động vốn ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hóa tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng.
3.2 Giải pháp quan trọng là phải thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển liên tục và bền vững, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu... Do đó cần phải thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế.
3.3 Giảm mạnh thuế suất nhập khẩu bởi nó giúp các doanh nghiệp hạn chế tăng chi phí đầu vào nhập khẩu. Còn việc giảm thuế theo lý thuyết sẽ dẫn tới tăng thu nhập, và vì vậy, sẽ đẩy lạm phát tăng cao có lẽ là điều chưa thể xảy ra trong điều kiện giá nguyên liệu thế giới liên tục tăng “phi mã” trong những năm tiếp theo.
II/Giai đoạn 2005-2006:
1/Tình hình lạm phát giai đoạn 2005-2006:
Sau 1 năm đầy biến động với mức lạm phát tăng xấp xỉ 2 con số, tỉ lệ này có xu hướng giảm dần vào năm 2005, đạt khoảng 8.4%, giảm gần 1% so với năm 2004. Sang năm 2005, tình hình còn khả quan hơn, tỉ lệ lạm phát tiếp tục giảm xuống còn 6.6%, giảm hơn 3% so với năm 2004.
Lạm phát giai đoạn 2003-2006
2/Nguyên nhân của sự giảm dần mức lạm phát trong giai đoạn này:
2.1 Mức tăng của giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới và trong nước đều thấp hơn các năm trước
2.2 Các giải pháp để kiềm chế giá của Chính phủ và các Bộ, ngành:
(i) Điều hành giá lương thực thông qua việc đặt ra lượng gạo xuất khẩu năm 2006 không vượt quá 5 triệu tấn đồng thời chỉ đạo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo tạm ngừng việc xuất khẩu gạo trước tình hình giá lương thực tăng đột biến nhằm kiềm chế sự gia tăng của giá lương thực;
(ii) Chỉ đạo không tăng giá một số vật tư cơ bản đầu vào của sản xuất như điện, phân bón, LTTP trong năm 2006
(iii) Kiểm soát việc phân phối thuốc chữa bệnh tránh hiện tượng đầu cơ, độc quyền tăng giá không hợp lý;
(iv) Giảm thuế nhập khẩu một số mặt hàng tư liệu sản xuất như xăng dầu, linh kiện phụ tùng điện tử, linh kiện phụ tùng ô tô, đường... góp phần làm giảm chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
2.3 Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt đã phát huy tác dụng kiềm chế tăng giá:
Các mức lãi suất chỉ đạo và dự trữ bắt buộc đều ổn định so với năm ngoái, tỷ giá được điều hành giảm giá nhẹ (0.95%) nhằm khuyến khích xuất khẩu nhưng đồng thời kiềm chế lạm phat. Riêng trên thị trường mở và nghiệp vụ tái cấp vốn NHNN liên tục hút tiền về.
III/Giai đoạn 2007:
1/Tình hình lạm phát năm 2007:
12 là con số được lặp lại nhiều lần khi nói đến lạm phát trong những ngày cuối năm 2007. Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm qua. Tỉ lệ này gần như gấp đôi tỉ lệ lạm phát của năm trước đó với mức tăng khoảng 6%, xấp xỉ mức tăng của giai đoạn 2003-2004.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Như vậy, lần đầu tiên sau nhiều năm, lạm phát ở Việt Nam quay trở lại với tốc độ tăng phi mã (trên 10%)
2/Nguyên nhân tỉ lệ lạm phát gia tăng của năm 2007:
Như thường lệ, tỉ lệ lạm phát gia tăng phải do nhiều nguyên nhân cùng tác động như: phương pháp tính CPI có nhiều khác biệt so với các nước khác, điều tiết vĩ mô kém, cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, do cầu kéo, do chi phí đẩydo tâm lý dân chúng... Tuy nhiên, mức lạm phát tăng cao như vậy chắc chắn phải có 1 yếu tố tác động mang tính chủ đạo.
Xét xem yếu tố chủ yếu gây ra tỉ lệ lạm phát cao trong năm 2007:
Đúng là giá lương thực – thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao trong năm 2007. Do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại thương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI, đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt năm 2007.
Nhưng nếu giá lương thực – thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%.
Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm phát thấp hơn, như Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới cuối tháng 6 năm 2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 10,0% và 1,4%.
Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.
Về mặt nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát cao là điều không tránh khỏi.
Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc Ngân hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm nay có thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua.
So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng)
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2004 cho đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể.
Đặc biệt giai đoạn 6 tháng đầu năm 2007, trong khi GDP Việt Nam tăng chỉ gần 8%, mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng khoảng 40%, tức gần gấp 5 lần tốc độ tăng GDP. Từ đó, mức chênh lệch giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng GDP không có dấu hiệu giảm đáng kể trong 6 tháng cuối năm 2007. Ngược lại ở Thái Lan, mức cung tiền tương ứng tăng nhẹ trong giai đoạn 6 tháng đầu năm và tiến tới xấp xỉ mức tăng GDP vào tháng 6 năm 2007 đồng thời mức tăng cung tiền ổn định này vẫn được giữ cho tới cuối năm.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.
3/Giải pháp đối với tình hình lạm phát năm 2007:
Như đã nói, tỉ lệ lạm phát tăng là do nhiều nguyên nhân tác động. Do đó, cần có giải pháp thích hợp cho từng nguyên nhân để kìm hãm tôc độ gia tăng lạm phát:
3.1 Giải pháp cấp bách hiện nay là nâng lãi suất tiền gửi, có thể lên mức cao hơn mức lạm phát ít nhất từ 1 đến 2%. Nghĩa là, nếu thực tế lạm phát năm 2007 đã lên tới 12,6%/năm, lạm phát trong tháng 1 và 2 của năm 2008 tương đương 14-15%/năm, thì lãi suất tiền gửi phải được nâng lên mức 14-17%/năm để nhanh chóng rút bớt một lượng lớn tiền mặt đang lưu hành trong lưu thông, giảm bớt áp lực lạm phát.
3.2 Áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt trên cơ sở khuyến khích xuất khẩu, không “hy sinh” xuất khẩu để thúc đẩy nhập khẩu vì lợi ích trước mắt mà phạm sai lầm về chiến lược lâu dài.
3.3 Đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, cung cấp hàng hóa và dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng mới, thắt chặt cho vay kinh doanh bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng, cắt giảm mạnh các khoản chi tiêu không hoặc kém hiệu quả, ít cấp bách và ít cần thiết, nhất là các khoản đầu tư dàn trải, chậm tiến độ, không đúng trọng điểm và mang tính bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Gấp rút đưa nhưng công trình sắp hoàn thành vào hoạt động để sớm cung sản lượng cho nền kinh tế.
3.4 Đảm bảo tốt chính sách an sinh xã hội. Biện pháp này tuy trái với yêu cầu thắt chặt tiền tệ và tiêu dùng, nhưng không thể không làm, vì việc thực hiện 3 biện pháp trên liên quan đến cắt giảm chi tiêu và đầu tư sẽ dẫn đến giảm việc làm và tăng khó khăn cho người nghèo, nếu không đảm bảo an sinh xã hội sẽ làm cho những người có đời sống khó khăn càng thêm khó khăn, gây mất ổn định xã hội.
3.5 Giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế xuống từ 1 đến 2% so với mục tiêu đã đề ra. Đây là liệu pháp cuối cùng, nhưng mang tính tổng thể và quan trọng nhất, vì đây chính là khâu "điểm huyệt" để giảm nhiệt nền kinh tế đang tăng trưởng nóng, ổn định vĩ mô, chuẩn bị cho sự phát triển bền vững lâu dài. Ưu tiên số 1 bây giờ không còn là tăng trưởng cao, mà là chống lạm phát cao. Vì nếu lạm phát cao thì không những sẽ triệt tiêu tăng trưởng, mà nguy hiểm hơn, lạm phát tiếp tục kéo dài và tăng mức độ trầm trọng sẽ trở thành tác nhân chính thổi căng, làm rạn nứt và cuối cùng sẽ làm nổ tung cái “bong bóng kinh tế” hiện đang có những dấu hiệu phồng to, gây ra ngày càng nhiều các hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế và cho xã hội. Muốn tăng trưởng cao và bền vững thì điều kiện tiên quyết là không thể để lạm phát tiếp tục kéo dài và ngày càng trầm trọng.
4/Đánh giá hiệu quả của các giải pháp để ra cuối năm 2007 đầu năm 2008:
Kết quả là lạm phát đã chững lại và đang có chiều hướng giảm dần. Trong cả nước, chỉ số tăng giá tiêu dùng tháng 4/2008 có dấu hiệu chững lại và giảm dần (2,2%), giảm 0,79% so với tháng 3/2008. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong cả nước 4 tháng đầu năm tăng 16,4%, nông lâm nghiệp thủy sản vượt qua khó khăn về thiên tai, dịch bệnh tăng 4%, xuất khẩu đạt 18,26 tỷ USD, tăng 27,6%, đạt mức cao nhất từ trước đến nay
Tuy nhiên, mức tăng 2,2% của tháng 4/2008 cũng là một đột biến so với những năm gần đây; tháng 4/2007 chỉ tăng 0,49%, tháng 4/2006 chỉ có 0,2%. Sự đột biến đó đi cùng với quan ngại thực sự về một thời kỳ mới. Nhiều khả năng năm nay sẽ chứng kiến một sự bùng nổ; mốc dự báo 15,6% cả năm 2008 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) mới đây có thể là khiêm tốn.
2.5.Những biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát
Trong thời kỳ các nước công nghiệp phát triển gắn với chế độ bản vị vàng, ổn định tiền tệ là áp dụng các biện pháp để khôi phục lại quan hệ bình thường giữa tiền giấy so với vàng. Với mục tiêu đó, các nước đã từng áp dụng các biện pháp cải thiện như:
-Biện pháp loại bỏ tiền giấy không khả hoán (Annulation)
-Biện pháp khôi phục (Restoration)
-Biện pháp phá giá tiền tệ (Devaluation)
Trong thời đại hiện nay, trên danh nghĩa pháp lý, vàng không còn là cơ sở của lưu thông tiền tệ, không còn là cơ sở bảo đảm trực tiếp cho tiền giấy lưu thông trong nước nữa thì các biện pháp ổn định và kiềm chế lạm phát đã có sự thay đổi quan trọng. Ổn định tiền tệ ngày nay là ổn định sức mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn leo thang của giá cả hàng hóa bằng các giải quyết các vấn đề của mối quan hệ giữa tiền và hàng. Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì đi nữa thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không thì chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không có đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước mắt.
2.5.1.Những biện pháp cơ bản chiến lược
Biện pháp cơ bản chíến lược nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh vào tiềm tiềm lực nền kinh tế của đất nước. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển tốt và ổn định thì ở đó đồng tiền được ổn định vững chắc, lạm phát ít có cơ hội để phát triển bộc phát. Những biện pháp cơ bản chiến lược chưa thể phát huy tác dụng ngay, nhưng nếu không áp dụng biện pháp đó thì tình trạng lạm phát, tình trạng rối loạn của lưu thông tiền tệ sẽ xảy ra triền mien không lối thóat.
Những biện pháp cơ bản chiến lược có thể bao gồm những biện pháp như:
-Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn:
Ở Việt Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết, đã có tác dụng rất to lớn.
-Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn:
Ổn định cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của người lao động, do đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa, trước mắt nông-lâm-ngư nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng, phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ (ngân hàng-bưu điện-du lịch…)
Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và chắc chắn. Ngoài ra, còn phát triển ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu, bởi vì trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng, nó vừa tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.
-Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước:
Vai trò của Nhà nước đối với quản lý kinh tế rất to lớn. Nhà nước là nguời duy nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Bằng các công cụ về pháp luật, tài chính, giá cả, tiền tệ…đã tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước được coi như là biện pháp mang tính chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giảm biên chế, kiệm toàn bộ máy quản lý hành chính.
2.5.2.Những biện pháp cấp bách trước mắt
Biện pháp cấp bách trước mắt để ổn định tiền tệ và chống lại lạm phát được thực hiện trong hoàn cảnh lạm phát xảy ra nghiêm trọng, cơn sốt lạm phát cao thì có tác dụng nhưng chóng hơn. Những biện pháp như vậy được gọi là biện pháp tình thế để đối phó với thực trạng báo động của tình hình tiền tệ, giá cả.
-Biện pháp tiền tệ tín dụng: Xuất phát từ quan điểm cho rằng lạm phát bao giờ cũng là hiện tượng của tiền tệ, năm biện pháp ổn định tiền tệ và chống lạm phát phải bắt đầu từ lĩnh vực tiền tệ-tín dụng:
Quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền.
Quản lý và hạn chế thật mạnh khả năng “tạo tiền” của ngân hàng thương thương mại bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng.
Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế-xã hội, làm giảm lượng tiền cung ứng, mặt khác, nâng cao lãi suất tín dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát hành tiền mới thu hồi tiền cũ, lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ.
-Biện pháp với tài chính ngân sách: áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan trọng và then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sau khủng hoảng của hệ thống tài chính Nhà Nước, ngân sách bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiền tạo thăng bằng thu chi ngân sách bằng cách tiết kiệm chi, nhất là những khoản chi cho bộ máy quản lý hành chính, những khoản chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bớt hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng của ngân sách.
Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống thất thu thuế, đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống.
Sử dụng tín dụng nhà nước bằng cách vay trong nước và nước ngoài.
Trong nước phát hành trái khoán Nhà nước ngắn hạn, trung và dài hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ…Tăng các khoản vay và viện trợ từ bên ngoài với các điều kiện ưu đãi.
-Ngăn chặn sự leo thang của giá cả: Sự leo thang của giá cả do tác động bởi nhiều yếu tố như sản xuất xuất kém, cung cầu hàng hóa trên thị trường mất cân đối làm giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, cũng có thể do lượng tiền cung ứng tăng cao hơn tố độ tăng của sản xuất, ngoài ra còn có yếu tố tâm lý, đầu cơ…
Việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự leo thang của giá cả trước hết cần phải giải quyết ở khâu lưu thông phân phối như thực hiện mậu dịch tự do, nới lỏng hàng rào thuế quan để đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa.
Có thể can thiệp bằng vàng và ngoại tệ bằng cách bán ra để ổn định giá vàng, giá ngoại tệ, từ đó tạo tâm lý ổn địn giá cả các loại mặt hàng khác. Mặt khác, quản lý thị trường tốt, chống buôn lậu, chống độc quyền, tranh mua tranh bán…
*Những phương thức chống lạm phát ở các nước phát triển
Việc lựa chọn phương thức chống lạm phát ở các nước không hoàn toàn giống nhau, ngay cả ở một nước, trong những thời kỳ khác nhau người ta cũng áp dụng những phương thức khác nhau. Nhìn chung, có hai loại phương thức dưới đây:
-Phương thức “hạn chế tiền tệ”-kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng: phương thức này xuất phát từ luận điểm của Friedman cho rằng sự tăng trưởng kinh tế ổn định và có hiệu quả chỉ có thể dựa trên sự kiểm sóat chặt chẽ khối lượng tiền tệ phát hành trong lưu thông, nghĩa là kiểm soát sự cung ứng tiền tệ kết hợp với chính sách kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.
Phương thức hạn chế tiền tệ được áp dụng ở Mỹ trong nhiều thập niên và tỏ ra có hiệu quả, vì vậy nó được nhiều nước thừa nhận như là phương thức chủ yếu để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
-Phương thức “nới lỏng tiền tệ”-lấy lạm phát trị lạm phát: phương thức này dựa trên quan điểm của Keynes cho rằng một nền kinh tế tăng trưởng và có hiệu quả là giải quyết đầy đủ công ăn việc làm. Muốn vậy phải kích cầu bằng các chính sách vĩ mô của nhà nước. Trong đó, việc nới lỏng tiền tệ, mở rộng việc cung ứng tiền tệ sẽ kích thích mặt cầu, giải quyết được nạn thất nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ đó lạm phát sẽ được kiểm soát.
Theo quan điểm này, người ta coi lạm phát và chống lạm phát như một quá trình liên tục, nghĩa là vừa chống lạm phát lại vừa thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát. Phương thức này đựoc thừa nhận ở Mỹ vào những thập niên 40, 50, 60 sau đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước Nam Mỹ, Argentina, Peru, Brazil, Bolivia có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm lên đến trên dưới 300%, các nước khác như Urugoay, Mexico có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ bình quân hàng năm khoảng trên dưới 60% là một trong những bằng chứng vêf thực hiện quan điểm nói trên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề án nhập môn tài chính tiền tệ ( đề tài lạm phát) !.doc