CHƯƠNG I- LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HÓA THEO HƯỚNG TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
I- Tổng quan về đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam
1- Chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kế hoạch hóa định hướng phát triển ở Việt Nam
2- Các hướng đổi mới công tác kế hoạch hóa
II- CÔNG TÁC KHH VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
1- Một số khái niệm liên quan
2- Sự cần thiết phải có sự tham gia của cộng đồng trong công tác kế hoạch hóa phát triển
3- Nội dung tăng cường sự tham gia cộng đồng trong công tác KHH
CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HÓA PHÁT TRIỂN CÓ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM
I- Những thành tựu đạt được
1- Những thành tựu đạt được trong lập kế hoạch
2- Những thành tựu đạt được trong tổ chức thực hiện kế hoạch
3- Những thành tựu đạt được trong giám sát, đánh giá kế hoạch
II- Những hạn chế còn tồn tại
1- Những hạn chế trong lập kế hoạch
2- Những hạn chế trong tổ chức thực hiện kế hoạch
3- Những hạn chế trong giám sát, đánh giá kế hoạch
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HÓA
I- Định hướng sự tham gia của cộng đồng trong công tác kế hoạch hóa
II- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác KHH
1- Các loại hình tổ chức sự tham vấn của cộng đồng
2 - Lý do mọi người muốn hoặc không muốn tham gia vào công tác KHH
3- Các hình thức, cấp độ tham gia của cộng đồng
4- Các cách thức tiến hành trao đổi thông tin trong quá trình tham vấn
5- Vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào công tác KHH phát triển.
6- Sự cần thiết phải đối thoại giữa những người lãnh đạo với nhân dân.
III- Giải pháp tăng cường sự tham gia cộng đồng trong công tác KHH
1- Thể chế hóa sự tham gia
2- Nâng cao trình độ cho người dân trong việc tham gia
3- Áp dụng các mô hình, phương pháp và công cụ thích hợp về tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
3.1- Mô hình lập kế hoạch phát triển thôn, bản (VDP) và lập kế hoạch phát triển xã (CDP).
3.2- Phương pháp “Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân”(PRA)
3.3- Mô hình tổ chức cộng đồng theo hình thức ban phát triển
4- Mở rộng và nâng cao chất lượng của công tác lập KH ngân sách có sự tham gia của cộng đồng
5- Khai thác thế mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng để tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào công tác KHH phát triển.
6- Phát triển mạnh các mối quan hệ đối tác giữa nhà nước – các tổ chức đoàn thể, nhà nước – doanh nghiệp, nhà nước – nhân dân.
CHƯƠNG V- KẾT LUẬN
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2611 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đổi mới công tác kế hoạch hóa theo hướng tăng cường sự tham gia của cộng đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng trưởng với XĐGN và giải quyết các vẫn đề xã hội, phát triển bền vững; Phương pháp lập KH mang tính chiến lược; Phương pháp lập KH dựa vào kết quả; Phương pháp lập KH có sự tham gia của cộng đồng; Phương pháp lập KH gắn với nguồn lực; Phương pháp gắn việc lập, thực hiện KH với giám sát đánh giá.
II- CÔNG TÁC KHH VÀ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
1- Một số khái niệm liên quan
1.1- Thế nào là công tác KHH có sự tham gia của cộng đồng?
Công tác KHH có sự tham gia của cộng đồng nghĩa là người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự tham gia vào tất cả các khâu công việc, từ thảo luận lựa chọn các vấn đề ưu tiên, các nhu cầu của cộng đồng đến việc đưa ra quyết định, lập KH, thực thi, giám sát, đánh giá KH nhằm cùng với các cơ quan chức năng cải thiện và nâng cao hiệu quả của công tác KHH.
1.2- Cộng đồng là gì?
“Cộng đồng bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt chẽ, là một nhóm xã hội có lúc khá phân tán, được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian tạm thời, dài hay ngắn như phong trào quần chúng, đám đông... Cộng đồng như một đặc thù chỉ có ở nền văn minh con người, ở đó, con người hợp tác với nhau vì những lợi ích chung thường được gọi chung là tính cộng đồng.”
Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang
1.3- Phát triển bền vững cộng đồng là gì?
- “Bền vững có nguồn gốc từ tiếng Latin, có nghĩa là duy trì, chống đỡ hoặc hỗ trợ từ bên dưới. Một cộng đồng muốn được phát triển bền vững cần có sự hỗ trợ từ bên dưới - tức là từ những người dân trong cộng đồng cả hiện tại và tương lai. Một nền tảng chắc chắn của sự kết hợp hài hoà các yếu tố vật lý, văn hoá, và những đặc tính tình cảm sẽ thúc đẩy người dân trong cộng đồng chăm sóc cho cộng đồng của chính họ...”
Muscoe Martin - Cộng đồng bền vững, 1995
1.4- Xã hội dân sự và vai trò của xã hội dân sự trong quá trình phát triển.
Trong quá trình phân công lại giữa nhà nước và thị trường người ta thấy có một số việc nhà nước không nên làm nữa nhưng thị trường cũng không làm được, phải giao cho các thể chế mới. Các tổ chức này có mặt ở tất cả các cấp, thậm chí cả mức toàn cầu, người ta gọi khu vực này là xã hội dân sự.
Tương tự trường hợp khái niệm và định nghĩa “văn hóa”, cho đến nay thuật ngữ XHDS vẫn khá trừu tượng và không có một định nghĩa thống nhất.
Từ góc độ phạm vi, XHDS “ là một không gian của các tổ chức tự tạo, nằm giữa gia đình, nhà nước và thị trường, được hình thành rõ ràng từ sự trao đổi lẫn nhau giữa nó với nền kinh tế và nhà nước”. Các tổ chức XHDS rất đa dạng, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các hội từ thiện, các nhóm cộng đồng, các nhóm hoạt động vì môi trường, các tổ chức văn hóa, giáo dục, các hiệp hội nghề nghiệp, tổ chức công đoàn, các tổ chức quần chúng…
Từ góc độ chức năng, Lee Hock Quan xác định những chức năng của XHDS ở tầm vĩ mô: 1) Nâng cao chất lượng quản lý nhà nước; 2) Quản lý quyền lực của nhân dân( hay tăng cường sự tham gia của công chúng được trao quyền; 3) Tạo điều kiện cho phát triển; 4) Thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và duy trì, củng cố một nền dân chủ lành mạnh. Vì thế, hoạt động XHDS rất rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực từ các hoạt động từ thiện, chăm sóc cộng đồng, các hoạt động nhằm mục đích phát triển xã hội như XĐGN, đấu tranh cho những người bị đẩy ra ngoài lề xã hội, cho bình đẳng giới, bình đẳng trong phân phối thu nhập…đến các vấn đề chống tham nhũng, bảo vệ nhân quyền…
Từ góc độ đối kháng, Ananta Giri coi XHDS là một lĩnh vực mang tính sáng tạo và quyết liệt đối kháng với logic của quyền lực, cái đại diện cho mọi xã hội. Sự đối kháng ở đây có thể hiểu theo nhiều mức độ khác nhau, thông thường đó là những tác động, ảnh hưởng đối với chính sách công, đòi hỏi trách nhiệm giải trình của chính phủ, tăng sự tham gia và quyền lực cho công dân theo xu hướng dân chủ hóa. “ Đối kháng” nhằm phát triển.
Qua việc tiếp cận các cách hiểu khác nhau về XHDS, có thể nhận thấy một điều: nếu biết phát huy sức mạnh của XHDS sẽ huy động được những nguồn lực phong phú, đa dạng, góp phần quan trọng vào sự phát triển của cộng đồng.
2- Sự cần thiết phải có sự tham gia của cộng đồng trong công tác kế hoạch hóa phát triển
Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác KHH sẽ mang lại những ích lợi sau:
2.1- Lợi ích chung:
- Tạo quyền: Nhờ có các không gian được tạo ra để người dân tham gia vào các quyết định ảnh hưởng tới tương lai của họ, người dân trở nên có quyền. Điều này sẽ “ lan tỏa” và có thể có tác dụng bổ sung sang cả những lĩnh vực khác như các chương trình giảm nghèo của Chính phủ.
- Bình đẳng: Tăng cường sự tham gia của mọi tầng lớp trong cộng đồng sẽ giúp người nghèo, các dân tộc thiểu số, những người bị loại trừ về mặt xã hội có được tiếng nói lớn hơn trong các chiến lược và cách tiếp cận phát triển cho chính họ.
- Minh bạch: phân cấp quyết định ngân sách xuống cho cấp địa phương đồng thời tăng cường sự giám sát của cộng đồng sẽ tạo ra chủ quyền địa phương lớn hơn, và tăng cường sự minh bạch của các giao dịch tài chính.
- Trách nhiệm giải trình: Tăng cường sự tham gia của cộng đồng để người dân có thể quyết định số phận của công chức bằng cách cho phép họ phát đơn khiếu nại và phản ánh về cách cải thiện chính quyền sẽ là áp lực khiến cán bộ công chức phải tăng cường trách nhiệm giải trình.
2.2- Những lợi ích khi cộng đồng tham gia lập kế hoạch
- Sự tham gia sẽ giúp phát huy trí tuệ của các tầng lớp dân cư, huy động được nhiều nguồn lực đa dạng, phong phú hơn cho quá trình xây dựng KH. Đồng thời, các cán bộ lãnh đạo, các chủ thể của công tác KH và thực thi chính sách...cũng có được nhiều nguồn thông tin và cách nhìn tổng thể về phát triển KT-XH. Đây chính là cơ sở để phát hiện những khiếm khuyết của KH, những “lỗ hổng” trong các cân đối tính toán trên lý thuyết, qua đó điều chỉnh cho sát với thực tế và mong muốn của người dân nhằm đạt tính khả thi cao hơn.
- Người lập KH hiểu rất rõ là nguồn lực luôn hạn chế nên cần phải có phương pháp tối ưu nhất để sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Do đó, việc đánh giá nội lực và các tác động từ bên ngoài được thực hiện rất bài bản và kỹ lưỡng trên cơ sở của sự tham gia hiệu quả của các bên liên quan nhằm đưa ra các thứ tự ưu tiên hợp lý cho các giải pháp thực hiện.
- Năng lực của người dân và cán bộ các cấp sẽ được nâng lên khi tiếp xúc với các công cụ, các thông tin về phương pháp lập KH mới.
- Sự tham gia của cộng đồng sẽ thúc đẩy việc đưa các quan điểm về phát triển và đo lường sự phát triển con người vào trong KH ở tất cả các cấp.
- Sự tham gia của khu vực tư nhân sẽ cung cấp các thông tin tốt hơn về đặc điểm, quy mô, loại hình đầu tư, xu thế phát triển của khu vực tư nhân nhờ đó tăng cường tính hiệu quả và sát thực trong việc hoạch định và áp dụng các chính sách cho khu vực cũng như có được sự cộng tác tốt hơn từ khu vực này trong quá trình thực hiện các KHPT KT-XH.
2.3- Những lợi ích khi cộng đồng tham gia tổ chức thực hiện KH
- Tham gia đầy đủ trong các khâu xây dựng KH giúp người thực hiện nắm rõ KH trong kỳ từ các mục tiêu chính cho đến các giải pháp ưu tiên cần thực hiện nhờ đó tạo sự thuận lợi cho việc triển khai KH theo đúng hướng đồng thời có thể năng động điều chỉnh cho thích ứng với tình hình mới.
- Sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan dễ mang lại sự đồng thuận cho một KH chung. Sự đồng thuận giúp gia tăng tính tự chủ của các bên liên quan. Các bên liên quan đều xem KH là sản phẩm của chính mình nên có trách nhiệm và kiên trì hơn trong việc thực hiện KH. Tinh thần tự chủ cao hơn cũng kích thích tính sáng tạo và tính tiết kiệm trong quá trình thực hiện KH để tránh việc sử dụng các nguồn lực một cách thiếu cẩn trọng và lãng phí sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chính mình.
2.4- Những lợi ích khi cộng đồng tham gia giám sát, đánh giá KH
- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác giám sát KH sẽ cung cấp một bức tranh hiện trạng hoàn thiện - là cơ sở cho việc đánh giá các chương trình, dự án trong tương lai; Những vấn đề nảy sinh được xác định và sớm có thể đề ra giải pháp; Những tiêu chuẩn được đảm bảo: đúng quy định, đúng mục tiêu, đúng tiến độ, có hiệu quả và chất lượng công trình bảo đảm; Nguồn lực được sử dụng hiệu quả, phòng, chống lãng phí, thất thoát các nguồn lực; Góp phần phòng, chống xâm hại lợi ích cộng đồng, ô nhiễm môi trường.
- Đánh giá KH có sự tham gia của cộng đồng sẽ giúp những người trong cuộc có cơ hội trao đổi và hiểu biết về nhau; nâng cao được kỹ năng đánh giá và đưa ra được những quyết định tốt hơn. Đồng thời thông tin thu được qua quá trình đánh giá còn giúp ích cho việc quản lý chương trình, dự án đang tiến hành.
3- Nội dung tăng cường sự tham gia cộng đồng trong công tác KHH
3.1- Sự tham gia của cộng đồng trong lập kế hoạch
- Người dân, doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể (gọi tắt là cộng đồng) cung cấp các thông tin và đóng góp ý kiến, nhận xét về tình hình thực hiện KH của kỳ trước, tác động của việc thực hiện KH đối với sự phát triển KT-XH của địa phương cũng như của cả nước.
- Cộng đồng tham gia thảo luận, đưa ra ý kiến về các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường mà họ mong muốn cũng như thứ tự ưu tiên của các mục tiêu đó. Đây là cơ sở để các nhà lập KH lựa chọn ra các mục tiêu góp phần quan trọng vào sự phát triển cộng đồng.
- Cộng đồng đóng góp ý kiến, đề xuất các chính sách, giải pháp để thực hiện mục tiêu KH và thứ tự ưu tiên của các giải pháp trên cơ sở của việc đánh giá kỹ lưỡng nội lực cũng như các tác động từ bên ngoài
3.2- Sự tham gia của cộng đồng trong tổ chức thực hiện kế hoạch
Cộng đồng trực tiếp tham gia cung ứng nguồn lực để thực hiện KH hoặc giám sát, đánh giá thường xuyên việc triển khai, thực hiện KH trên địa bàn.
3.3- Sự tham gia của cộng đồng trong giám sát, đánh giá kế hoạch
- Cộng đồng thu thập thông tin, số liệu về tình hình triển khai thực hiện KH cũng như tác động của việc thực hiện KH đối với sự phát triển KT-XH của địa phương, đất nước để cung cấp cho các bộ phận có liên quan đến việc xử lý và đánh giá KH.
- Cộng đồng tham gia đánh giá KH cùng với các cơ quan chức năng.
CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HÓA PHÁT TRIỂN CÓ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM
I- Những thành tựu đạt được
Chính phủ Việt Nam đã thể hiện rõ ràng quyết tâm đổi mới công tác KH thông qua Chỉ thị số 33/2004/CT-TTg ngày 23/9/2004 của Thủ tướng Chính phủ và các Công văn 2215/ BKH-TH, 7681/BKH-TH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư yêu cầu đổi mới việc xây dựng KH một cách toàn diện, chú trọng đến công khai và mở rộng đối tượng tham gia. Những văn bản pháp lý này, được hỗ trợ bằng hàng loạt các văn bản khác về tăng cường phân cấp, trao quyền cho địa phương (như Luật Ngân sách Nhà nước 2002, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), mở rộng dân chủ ở địa phương (Nghị định 79/2003/NĐ-CP về Dân chủ cấp cơ sở)… Pháp lệnh số: 34/2007/PL-UBTVQH ngày 20/4/2007 về việc thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đã và đang hình thành nên một cơ sở thể chế vững chắc cho sự nghiệp đổi mới công tác KHH.
1- Những thành tựu đạt được trong lập kế hoạch
- Theo quy định của Nghị định dân chủ cơ sở, lập KH tham gia sẽ diễn ra ở mọi địa bàn cấp thôn và xã. Người dân được tạo cơ hội để bàn bạc thảo luận về các lĩnh vực sau: KHPT KT-XH của xã; quy hoạch các khu dân cư mới; các KH dự án huy động và sử dụng đóng góp của nhân dân trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng; thi hành các chương trình mục tiêu quốc gia ở cấp xã và KH đền bù đất; sử dụng đất ở địa phương cũng như việc quản lý quỹ đất công... Chính quyền xã có nghĩa vụ chuyển tải ý kiến của người dân địa phương lên cấp chính quyền cao hơn.
- Lập KH có sự tham gia của người dân lần đầu tiên được đưa vào Việt Nam trong khuôn khổ của một số dự án nhỏ của tổ chức phi chính phủ quốc tế và nhà tài trợ nhằm xây dựng năng lực địa phương để địa phương tham gia nhiều hơn vào sự phát triển. Một số những dự án được nhiều người biết tới nhất là dự án cấp vốn phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (RIDEF) của Quỹ Phát triển Vốn Liên hợp quốc, trong đó đưa ra ý tưởng về khoán chi cho xã; Chương trình Phát triển nông thôn miền núi Việt Nam – Thụy Điển (MRDF) trong đó nhấn mạnh các phương pháp nghiên cứu tham gia trong giảm nghèo; và một vài dự án phát triển nông thôn của Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), thiết lập các cơ chế tham gia đối với hạ tầng cơ sở nông thôn.
- Trong những năm gần đây, người dân tham gia tham vấn trong các chương trình, kế hoạch lớn hơn:
+ Sự tham gia mạnh nhất có thể thấy là trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và Chương trình 135 về cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ ở cấp xã. Trong một cuộc điều tra (năm 2004) được thực hiện với 3.700 hộ về chương trình XĐGN và chương trình 135, 75% số người trả lời nói rằng danh sách người nghèo được hưởng lợi ích của chương trình là do chính người dân lập ra trên cơ sở tham vấn. Trong khuôn khổ của chương trình 135, quy định có nêu rõ rằng ‘các hoạt động dự án và các đầu tư công trình cơ sở hạ tầng cần phải được thảo luận và quyết định tại cấp xã. Phải hỏi ý kiến người dân địa phương về nội dung KH và mức độ đóng góp của cộng đồng trước khi phê quyệt’. Các xã sẽ chuẩn bị KH chiến lược 5 -10 năm cho các đầu tư thuộc chương trình 135 trên cơ sở yêu cầu của từng thôn. Tiếp đó KH của xã sẽ được đệ trình lên huyện và gộp lại thành KH tổng thể của chương trình 135 cấp tỉnh.
+ Đợt tham vấn cộng đồng về KH 5 năm 2006-2010 của quốc gia đã được thực hiện tại 15 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước. Mỗi nhóm đối tượng tham vấn có quy mô từ 8-10 người, bao gồm nhóm dân cư tại cộng đồng; nhóm cán bộ lãnh đạo; nhóm doanh nhân, được phân chia theo giới tính, nghề nghiệp, chức vụ. Ước tính khoảng 7.500 người được huy động tham gia hoạt động tham vấn đợt đầu tiên. Khung tham vấn gồm 8chủ đề: việc làm, các dịch vụ xã hội, XĐGN, dân tộc thiểu số, bình đẳng giới và bảo vệ môi trường, năng lực của cán bộ cơ sở; môi trường kinh doanh và môi trường kêu gọi đầu tư. Đối với các vấn đề mang tính vĩ mô thì tập trung tham vấn đối tượng lãnh đạo.
+ Một số tỉnh, huyện, xã cũng đã tổ chức tham vấn cộng đồng về KHPT KT-XH của quốc gia và của địa phương mình. Có thể đơn cử một số ví dụ:
• Tỉnh Trà Vinh đã tổ chức lấy ý kiến người dân trong việc lập KHPT KT-XH tỉnh năm 2007.
• Tỉnh Đồng Tháp tổ chức thu thập ý kiến đóng góp của cộng đồng vào KHPT KT-XH tỉnh năm 2009 tại phường 2 của Thành phố Cao Lãnh và xã Bình Thạnh Trung của huyện Lấp Vò. Thời gian tham vấn kéo dài từ ngày 11/10 đến 18/10/2008
• Sở KHĐT tỉnh Hòa Bình với sự giúp đỡ của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản(JICA) đã phối hợp với nhóm tư vấn(CDI) tiến hàng tham vấn bản KHPT KTXH 5 năm 2006-2010 của Quốc gia và của tỉnh Hòa Bình. Đối tượng tham vấn là các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, một số doanh nghiệp, 2 huyện, 4 xã và người dân ở 8 thôn bản. Đến năm 2006, tiếp tục tham vấn bản KHPT KTXH năm 2007 của tỉnh, một số huyện và một số ngành.
- Người dân tham gia xây dựng các KHPT KT-XH.
Trong những năm qua, người dân đã bước đầu làm quen với việc tham gia lập KH phát triển thôn, xã như trường hợp ở một số địa phương sau:
• Được sự hỗ trợ Tổ chức Helvetas của Thụy Sỹ, từ năm 2003 xã Ngổ Luông, Quyết Chiến huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình đã tiến hành lập KHPT xã, thôn với sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân, trên cơ sở định hướng các chỉ tiêu KT- XH của huyện. Kết quả KHPT thôn (VDP) và KHPT xã (CDP) ở xã Ngổ Luông được đánh giá cao, khẳng định đây là phương pháp lập KH khoa học và nên được nhân ra diện rộng. Với tinh thần đó năm 2004 UBND huyện Tân Lạc đã triển khai thử nghiệm phương pháp lập KH có sự tham gia tại 4 xã ngoài vùng Dự án là: Tuân Lộ, Bắc Sơn, Lỗ Sơn và Mãn Đức, bước đầu được người dân hoàn toàn ủng hộ và đánh giá tốt.
• Người dân trực tiếp tham gia vào lập KH lồng ghép phát triển xã năm 2007 tại 76 xã của 7 huyện tỉnh Quảng Ngãi.
• Người dân xã Tiên Yên, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Ngãi tham gia lập kế hoạch chiến lược phát triển xã năm 2008: tham gia xác định các vấn đề hoạt động ưu tiên của cộng đồng dân cư.
• Dự án Giảm nghèo sử dụng vốn của Ngân hàng Thế giới (2002-2007) thực hiện tại tỉnh Hòa Bình: người dân tự lựa chọn các phương án, công trình đầu tư thông qua các cuộc họp dân ở thôn, bản; sau đó xã tổng hợp lại và trình cấp trên phê duyệt. Các công trình được lựa chọn thường có quy mô rất nhỏ, chỉ trong khoảng vài triệu đến hơn chục triệu đồng mà các dự án của Nhà nước không đầu tư đến nhưng rất hữu ích với người dân.
2- Những thành tựu đạt được trong tổ chức thực hiện kế hoạch
- Bước đầu có sự tham gia của người dân vào việc thực hiện kế hoạch thông qua việc tự nguyện đóng góp bằng ngày công hay vật liệu để xây dựng các công trình tùy theo tính chất của từng chương trình, dự án. Đây là hình thức mà người dân đã tham gia thực hiện KHPT KT-XH ngắn hạn năm 2008 tại xã Tiên Phong, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
- Người dân tự lựa chọn dự án, coi dự án là của chính họ và trực tiếp thực hiện các dự án. Có thể kể đến trường hợp dự án giảm nghèo sử dụng vốn Ngân hàng Thế giới(2002-2007) ở tỉnh Hòa Bình. Người dân tự lựa chọn các công trình đầu tư, khi danh mục các công trình đã được phê duyệt, xã tự thiết kế và lập dự toán cho công trình, sau đó tổ chức đấu thầu lựa chọn những nhóm dân tại các thôn để thực hiện công trình.
3- Những thành tựu đạt được trong giám sát, đánh giá kế hoạch
- Ở nhiều xã đã có Ban giám sát dự án, được thành lập qua Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và Chương trình 135 hoặc trong khuôn khổ các dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ. Các ban này có nhiệm vụ giám sát các dự án xây dựng ở xã.
- Một số nơi, ‘thẻ báo cáo’ đang được thử nghiệm để đo lường mức độ tiến bộ hướng tới thực hiện Nghị định dân chủ cơ sở và chất lượng dịch vụ nói chung. Một dự án như thế đã bắt đầu từ năm 2004, do một số nhà tài trợ kể cả Ngân hàng Thế giới hỗ trợ nhằm tạo điều kiện để công dân phản ánh về dịch vụ hành chính ở 4 tỉnh: Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nam Định và Hải phòng
II- Những hạn chế còn tồn tại
1- Những hạn chế trong lập kế hoạch
- Có nhiều báo cáo về chuyện người dân địa phương không được tham gia lập KH. Ở một số nơi, cán bộ xã chỉ định một số người dân, những người được coi là nói năng lưu loát và có kiến thức để ‘đại diện’ cho các thôn tham gia thảo luận theo các quy định của Nghị định dân chủ cơ sở. Những người này được yêu cầu thu thập ý kiến người dân và truyền đạt lên xã. Nhưng dân làng than phiền rằng những vị đại diện này không tham khảo ý kiến của người khác trước khi đi dự các cuộc họp. Những người được mời này trong một số trường hợp bị gọi là ‘nghị gật’ vì họ tán thành tất cả những gì mà người lãnh đạo cuộc họp đề xuất. Ở một số nơi khác, tất cả mọi người dân trong thôn đều được mời họp, nhưng các cuộc cuộc thảo luận không cởi mở, chất lượng thảo luận không cao. Ví dụ, tỷ lệ tham gia có thể đạt khoảng 90% tại một số phường ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng có thể là chưa đầy một nửa số dân trong thôn ở các vùng khác. Một cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh nói các gia đình thường bảo con tới dự họp cốt để "lấp chỗ trống" và yên tâm là gia đình đã có đại diện đi họp.
- Còn có các động thái quyền lực diễn ra tại các cuộc họp thôn. Người nghèo và người bị đẩy ra ngoài lề xã hội có thể gặp khó khăn để đi dự các cuộc họp lập KH tham gia vì họ sống ở xa hoặc không có thời gian. Một đánh giá PPA ở Đắc Lắc cho thấy trong nhiều cuộc họp thôn tỷ lệ tham gia của nam giới chiếm tới 75 - 85%. Ngay cả khi phụ nữ đi dự các cuộc họp thôn, họ cũng thường không tham gia phát biểu.
- Người tham gia họp đã là một vấn đề, song họp cái gì lại là một vấn đề khác: “Một câu hỏi lớn, nhất là đối với KH phát triển làng, là: việc tổ chức họp lập KH mỗi năm một lần như thế thật sự phản ánh ưu tiên của địa phương đến đâu? Có nguy cơ họp là để đưa ra một danh mục mong muốn tranh thủ tài trợ. Kiểu lập KH như thế trở thành biểu quyết về sự tiêu tiền chứ không liên quan gì đến cái nhìn của dân chúng địa phương về tương lai cả”. Thậm chí còn có “nguy cơ tổ chức họp, nhưng rồi sau đó chẳng có chuyện gì xảy ra”, “lãnh đạo không nghe theo ý kiến nhân dân.”
- Mặc dù khuyến khích các thôn dành thời gian lập KH có sự tham gia, nhưng cấp trên lại không rót kinh phí để thực hiện KH đó khiến người dân chán nản. Lập KH địa phương vẫn còn bị hạn chế bởi cơ chế xin – cho, tức là địa phương phụ thuộc, trông chờ trung ương cấp phát.
- Chất lượng của lập KH tham gia có vẻ yếu nhất trong các vấn đề đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Trong các lĩnh vực này phần lớn các KH được quyết định ở các cấp cao hơn cấp xã và trong nhiều trường hợp, thậm chí còn cao hơn cấp huyện. Ví dụ, Ở một xã thuộc huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình, năm 2003, tỉnh đã ra quyết định thành lập một Lâm trường quốc doanh mới trên mảnh đất trước đó đã được giao cho các hộ gia đình để tái tạo rừng. Diện tích của lâm trường chiếm tới 3/4 diện tích đất của toàn xã. Chính quyền xã nói rằng họ không có tiếng nói trong vấn đề này vì vấn đề này đã được quyết định từ cấp cao hơn. Họ chỉ được thông báo về chuyện này, và không thể đưa người dân địa phương tham gia thảo luận hay có ý kiến phản hồi gì cả.
- Một số dự án người dân tự lập KH, do trình độ dân trí thấp nên khi tham gia họ không thể nhìn xa trông rộng được vì vậy KH lập ra đôi khi phiến diện.
2- Những hạn chế trong tổ chức thực hiện kế hoạch
- Hiện tại sự tham gia trong tổ chức thực hiện KH mới chủ yếu thể hiện qua việc đóng góp ngày công, tham gia lao động để có thu nhập trong các chương trình, dự án. Việc sử dụng lao động sẵn có ở địa phương cũng chưa triệt để.
- Công tác đấu thầu và thực hiện thầu các chương trình, dự án còn mang tính hình thức, việc tổ chức đấu thầu hạn chế, cộng đồng hầu như đứng ngoài cuộc. Chính vì vậy, nhiều hạng mục người dân hoàn toàn có thể đảm đương được lại được giao cho các nhà thầu thực hiện và trong quá trình thực hiện họ lại khoán lại cho người dân.
3- Những hạn chế trong giám sát, đánh giá kế hoạch
- Đang có một lỗ hổng lớn trong việc thông tin về các chương trình, dự án đối với cấp cơ sở: rất ít người dân nắm được trên địa bàn xã có các chương trình nào đang được triển khai, diễn ra trong bao lâu, do ai thực hiện và lợi ích của người dân được hưởng từ chương trình là những gì. Đối với cán bộ cơ sở (cấp xã) tình hình cũng không khá hơn là bao. Điều này đã ảnh hưởng không ít đến hình thức và mức độ tham gia của cộng đồng đồng thời cũng hạn chế và gây trở ngại cho công tác GSĐG.
- Việc tham gia GSĐG gặp nhiều khó khăn do thiếu năng lực, trình độ. Cả ban giám sát lẫn ban thanh tra đều được xem là còn quá yếu, nhiều ban chưa có được kỹ năng kỹ thuật để có thể thẩm định chất lượng công trình được thực hiện. Một nhóm trọng điểm ở Hà Tây nói rằng tuy những người có chân trong ban giám sát coi công việc của mình là ‘nhiệm vụ nghiêm túc’, nhưng họ lại không có khả năng đọc hết mọi thứ văn bản, nhất là các thông số kỹ thuật. Cho nên vai trò chính của họ chỉ dừng lại ở chỗ đảm bảo là đường xá được xây không có những khiếm khuyết hiển hiện hay dễ thấy.
- Trung bình 1 xã có khoảng 10 đến 15 các ban dự án, ban thanh tra, ban giám sát…Quá nhiều ban cùng tồn tại dẫn đến sự chồng chéo trong vai trò chức năng cũng như tình trạng bối rối và thiếu hiệu quả. Các ban này cũng không thể hiện tính tham gia mà thường chịu ảnh hưởng mạnh từ Uỷ ban Nhân dân. Những người dân là thành viên của các ban này đôi khi do Uỷ ban Nhân dân chỉ định, chứ không phải do dân bầu. Một số ban thanh tra /giám sát không có bất cứ một đại diện nào của nhân dân mà chỉ toàn quan chức.
- Những trường hợp thí điểm “ thẻ báo cáo” đều có vấn đề. Nhà tài trợ muốn Hội đồng Nhân dân xây dựng và theo dõi thẻ báo cáo, bởi vì Hội đồng với tư cách cơ quan dân cử có chức năng giám sát. Tuy nhiên, Hội đồng không muốn đảm nhiệm trách nhiệm này, và thay vào đó thẻ báo cáo được chuyển sang cho Uỷ ban Nhân dân, chính là nơi cung cấp dịch vụ được đánh giá.
CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HÓA
I- Định hướng sự tham gia của cộng đồng trong công tác kế hoạch hóa
- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong suốt quy trình KHH: từ khâu lập KH, tổ chức thực hiện KH cho tới khâu GSĐG KH.
- Tất cả mọi người đều được khuyến khích tham gia, bao gồm cả những người ngoài cuộc (nhà nghiên cứu, nhà khoa học, doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể và cá nhân độc lập) và người trong cuộc (cán bộ dự án, cán bộ địa phương, các đối tác phối hợp, ban chỉ đạo quản lý dự án v.v.)
Mở rộng đối tượng tham vấn đến mọi công dân, tới cả những người đã qua độ tuổi lao động, chú trọng hơn tới người nghèo, phụ nữ. Chẳng hạn: hiện nay tuổi lao động của phụ nữ chỉ tính đến 55, nhưng tuổi lao động của nam giới là 60. Nếu chọn đối tượng tham gia tham vấn theo độ tuổi lao động thì vô hình trung tạo nên một rào cản cho nhóm phụ nữ được tham gia vào quá trình tham vấn KHPT KT-XH, cơ hội tham gia vào một công việc có ý nghĩa, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống của họ.
- Sự tham gia của cộng đồng là 1 hoạt động tự nguyện, có tổ chức; không nên cưỡng chế, bắt buộc mà chỉ nên động viên, khuyến khích tham gia.
- Sự tham gia phải phù hợp với những quyền giám sát của cộng đồng được quy định tại Nghị định dân chủ cơ sở.
- Sự giám sát của cộng đồng không được gây cản trở việc thực hiện KH.
II- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác KHH
1- Các loại hình tổ chức sự tham vấn của cộng đồng
+ Tham vấn đa ngành: tổ chức tham vấn giữa các ban ngành, đoàn thể, các cơ quan và tổ chức trong và ngoài khối nhà nước.
+ Tham vấn quần chúng: tham vấn rộng rãi với người dân, các doanh nghiệp, cán bộ khoa học và nhà giáo, v.v...
2 - Lý do mọi người muốn hoặc không muốn tham gia vào công tác KHH
Nếu chúng ta muốn khuyến khích sự tham gia nhiều hơn nữa của người dân vào các hoạt động phát triển cộng đồng, chúng ta cần xem xét tất cả các nguyên nhân vì sao người dân muốn hay không muốn tham gia và đưa những vấn đề này vào quá trình lập KH
Điều gì khiến mọi người muốn tham gia?
Điều gì khiến mọi người không muốn tham gia?
• Nếu họ thấy được lợi ích cụ thể đối với gia đình và cá nhân họ
• Nếu gia đình và bạn bè họ cùng tham gia
• Nếu họ cảm thấy được chào đón
• Nếu họ đã có những kinh nghiệm có ích từ những công việc trước đây
• Nếu họ thấy rằng họ có thể đóng góp điều gì đó cho các hoạt động này
• Nếu họ được thông báo đầy đủ về mục đích của các hoạt động này
• Nếu họ cảm thấy họ sẽ được lắng nghe
• Nếu thời gian không thuận lợi
• Nếu họ cảm thấy việc tham gia này là lãng phí thời gian
• Nếu họ không có đầy đủ thông tin về các hoạt động này
• Nếu họ thấy rằng họ không đóng góp được gì cho các hoạt động này
• Nếu họ thấy rằng những vấn đề này quá khó hiểu đối với họ
• Phụ nữ có thể không muốn tham gia nếu họ cho rằng nam giới sẽ giữ vai trò chủ yếu
• Người nghèo sẽ không muốn tham gia nếu họ nghĩ rằng đó là nơi chỉ dành cho những người giàu
• Nếu có vấn đề về mặt ngôn ngữ
• Nếu người dân không biết chữ.
3- Các hình thức, cấp độ tham gia của cộng đồng
Sự tham gia của cộng đồng có thể được tổ chức theo nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Tùy theo từng trường hợp mà lựa chọn hình thức cho phù hợp nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất.
Mức độ tham gia
Đặc điểm của mỗi loại
Tham gia thụ động
Mọi người được tham gia theo kiểu được nghe thông báo về sự việc sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra. Thông thường là một thông báo đơn phương từ bộ phận hành chính hoặc quản lý dự án mà không cần lắng nghe các ý kiến phản hồi. Nội dung thông tin được chia sẻ phụ thuộc vào các chuyên gia từ bên ngoài.
Tham gia kiểu cung cấp thông tin
Người dân tham gia bằng cách trả lời các câu hỏi do các nghiên cứu viên dùng bảng hỏi để khảo sát hoặc những phương pháp tương tự. Người dân không có cơ hội ảnh hưởng tới quá trình, vì các kết quả nghiên cứu được mang đi nơi khác để phân tích mà không cần phản hồi.
Tham gia kiểu được tham gia góp ý kiến
Người dân tham gia góp ý, những người ngoài cộng đồng lắng nghe và ghi lại. Những chuyên gia bên ngoài này tự xác định cả vấn đề và giải pháp, cũng có thể thay đổi theo hướng người dân phản ánh. Như vậy một quá trình hỏi ý kiến không chấp nhận bất cứ việc chia sẻ nào trong việc ra quyết định, và các chuyên gia không có trách nhiệm phản ánh toàn bộ quan điểm của người dân.
Sự tham gia qua các hình thức khuyến khích
Người dân tham gia thông qua các hình thức đóng góp, ví dụ như lao động, thức ăn, tiền hoặc các hình thức khuyến khích khác. Điều này thường được gọi là sự tham gia, tuy nhiên người dân không được kéo dài hoạt động khi các hình thức khuyến khích này kết thúc.
Sự tham gia chủ động
Người dân chủ động tham gia vào các khâu công việc: xác định vấn đề, phân tích vấn đề, xây dựng dự án, thực hiện dự án, kiểm tra giám sát dự án.
Sự tự huy động
Người dân tham gia bằng cách đưa ra những ý kiến về phát triển với các cơ quan, tổ chức độc lập bên ngoài. Họ phát triển các mối liên hệ với các cơ quan bên ngoài để tìm kiếm sự hỗ trợ về tài chính hoặc hỗ trợ về kỹ thuật họ cần mà vẫn giữ quyền kiểm soát việc sử dụng các nguồn hỗ trợ đó.
4- Các cách thức tiến hành trao đổi thông tin trong quá trình tham vấn
Việc lựa chọn hình thức trao đổi thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác tham vấn. Trong từng trường hợp, phải căn cứ vào ưu, nhược điểm của từng hình thức để có được sự lựa chọn khôn ngoan.
Loại thông tin
Ưu điểm
Nhược điểm
Bằng miệng: điện thoại, nói trực tiếp với từng cá nhân, thảo luận nhóm, thuyết trình hoặc diễn văn, loa phát thanh
• Thông tin được truyền và nhận ngay lập tức
• Nhanh
• Thông tin hai chiều
• Không cần phải biết chữ
• Dễ quên
• Có thể gây khó hiểu do các vấn đề ngôn ngữ: cách phát âm, ngữ điệu, các từ ngữ được dùng
• Cũng có thể chỉ là thông tin một chiều
Truyền thông qua hình ảnh như tranh ảnh, băng video, áp phích, các minh hoạ
• Mọi người dễ nhớ những gì nhìn thấy hơn là những gì nghe thấy
• Thú vị
• Cần có sự chuẩn bị kỹ càng
• Có thể gây hiểu lầm
Trao đổi thông tin bằng chữ viết, thí dụ như thư từ, sách, tài liệu, tờ rơi…
• Có thể sử dụng để tham khảo
• Nhiều thông tin
• Có thể có vấn đề về cách diễn đạt cũng như chữ viết
• Phải soạn thảo rồi mới tiến hành truyền đạt
• Thông tin một chiều
5- Vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào công tác KHH phát triển.
Thu nhận và truyền phát thông tin là chức năng cơ bản của TTĐC. TTĐC là cửa sổ nhìn ra thế giới mà qua đó công chúng biết được những thông tin, những sự kiện quan trọng. Nguồn thông tin của TTĐC không chỉ đa diện mà còn bao gồm nhiều cung bậc. Với các phương tiện hiện đại như internet, truyền hình, phát thanh, TTĐC có khả năng cung cấp thông tin cho công chúng một cách nhanh chóng, chính xác, cập nhật từng ngày, từng giờ, thậm chí từng phút.
Với khả năng kiểm soát thông tin, TTĐC không chỉ đơn giản là phản ánh thực tế hay tường thuật những gì đã và đang xảy ra; hơn thế, TTĐC còn đưa ra cách giải thích, những bình luận, đánh giá mà mức độ, cường độ của nó tùy thuộc vào tính chất, ý nghĩa của từng vấn đề. Công việc này không thể thiếu ý kiến của những chuyên gia, các nhà chính trị có uy tín được phản ánh thông qua những cuộc phỏng vấn hay các diễn đàn trên truyền hình và báo chí. Công chúng tuy có những suy nghĩ riêng, song lại luôn có tâm lý muốn trở thành người lựa chọn thông thái nên thường bị ảnh hưởng rất lớn từ những ý kiến bình luận trên TTĐC. Và tiếp đó, TTĐC lại hỗ trợ các nhà lãnh đạo nắm bắt được tâm lý của công chúng về các vấn đề trong nước cũng như quốc tế đặt ra thông qua các cuộc thăm dò dư luận hay sự phản hồi của dân chúng để từ đó có những đối sách thích hợp. Mặt khác, sự tập trung của TTĐC vào một vấn đề nào đó buộc các quan chức phải chú ý và khi sức ép của công chúng quá lớn thì vấn đề đó phải được xem xét giải quyết. Như vậy, các chương trình của TTĐC cộng với sự quan tâm của công chúng sẽ hình thành thứ tự ưu tiên trong các chương trình chính sách của Nhà nước.
6- Sự cần thiết phải đối thoại giữa những người lãnh đạo với nhân dân.
Những người lãnh đạo đều được một đội ngũ đông đảo các quan chức tham mưu, giúp việc. Các vấn đề của dân, nỗi lòng của dân không phải bao giờ cũng có thể phản ảnh trực tiếp được với lãnh đạo, mà thường là bị “khúc xạ” qua đội ngũ các quan chức nói trên, “tam sao thất bản” là chuyện thường rất khó tránh khỏi trong quá trình “bẩm báo”.
Đối thoại trực tuyến được với dân là để các nhà lãnh đạo gửi được thông điệp đến cho dân. Với quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc hơn và với cơ chế thị trường vận hành ngày càng đầy đủ hơn, quyền tự quyết của người dân và doanh nghiệp sẽ ngày càng to lớn. Trong một môi trường như vậy, lãnh đạo bằng thông điệp là rất quan trọng. Không gì có thể định hướng được hành vi của hàng triệu con người bằng những thông điệp anh minh và mạch lạc.
Đối thoại trực tuyến với dân để có thể lý giải được các chính sách cho dân. Người dân có thấu hiểu thì các chính sách mới có được sự ủng hộ cần thiết để thành công.
Đối thoại trực tiếp với dân sẽ nâng cao tính tích cực chính trị của dân. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu người dân lại tỏ ra thờ ơ với đời sống chính trị. Ngược lại, nếu người dân tích cực tham gia thì chính sách sẽ được ban hành tối ưu hơn, phù hợp hơn. Nếu người dân tích cực tham gia vào công tác KHH thì công tác KHH sẽ ngày càng có hiệu quả hơn.
III- Giải pháp tăng cường sự tham gia cộng đồng trong công tác KHH
1- Thể chế hóa sự tham gia
- Ở nhiều nơi, cán bộ chỉ coi Nghị định dân chủ cơ sở là một trong hàng loạt những điều cần phổ biến cho người dân – chứ không xem nó như là một cách hoàn toàn mới để làm việc với người dân. Việc nâng cấp Nghị định dân chủ cơ sở thành luật do Quốc hội thảo luận và thông qua sẽ khiến Nghị định dân chủ cơ sở hiển hiện rõ rệt hơn và có cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn.
- Chính phủ nên ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định địa vị pháp lý, vai trò và hoạt động rõ ràng cho các tổ chức XHDS, tạo điều kiện cho người dân sử dụng các tổ chức này như là một công cụ quan trọng để tham gia vào quản lý nhà nước, phát triển cộng đồng.
- Có thể ban hành quy định về một loại bằng khen đặc biệt cho việc thực hiện tốt Nghị định dân chủ cơ sở với một loạt các chỉ số chặt chẽ. Sự tham gia của hộ gia đình vào quá trình lập KH và lập ngân sách làng có thể được đưa vào thành tiêu chí bổ sung khi xét danh hiệu ‘gia đình văn hoá’, hiện là danh hiệu dành cho những gia đình làm theo quy định về kế hoạch hoá gia đình, chống tệ nạn xã hội và các quy định khác. Nhiều người lập luận rằng sự tham gia sẽ đem lại lợi ích trực tiếp cho chính các hộ gia đình, thế nhưng trong khi những lợi ích đó còn chưa bộc lộ rõ rệt thì có thể cần có những động cơ bổ sung như bằng khen và chứng nhận ‘gia đình văn hoá và tham gia’ để duy trì sự tham gia của các hộ cho tới khi họ thấy được tác động lớn hơn.
- Việc đổi mới phương pháp lập KH có thể được tiến hành thử nghiệm cho các cơ quan cấp tỉnh: HĐND, UBND, sở KH & ĐT tỉnh, các sở, ban, ngành và ở cả cấp huyện, cấp xã của một số địa phương. Tuy nhiên, trước mắt mới triển khai dưới dạng thí điểm, cần ban hành một cơ chế đặc biệt cho phép một số tỉnh xây dựng và thực hiện thí điểm KH kiểu mới. Ví dụ: cho phép thay đổi hình thức, cách tiếp cận, nội dung, bố cục bản KH theo tinh thần đổi mới, công nhận tính pháp quy của bản KH đó. Trong giai đoạn đầu, chỉ nên áp dụng thí điểm ở 1 số xã, sau đó đến cấp huyện và cấp tỉnh. Sau khi áp dụng thử nghiệm thành công, cần tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm để nhân rộng ở các địa phương khác và phải được thể chế hóa bằng các văn bản pháp quy phù hợp.
2- Nâng cao trình độ cho người dân trong việc tham gia
Việc đào tạo, nâng cao trình độ được tiến hành bằng các hình thức sau:
- Mở các hội nghị, hội thảo, các lớp tập huấn chuyên về nghiệp vụ KH, các phương pháp và công cụ mới áp dụng trong việc xây dựng KH và tiến hành tham vấn. Đối tượng tham dự các chương trình, các lớp tập huấn không chỉ có cán bộ KH mà nhất thiết phải có thành phần lãnh đạo cấp tỉnh, ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài ra, những cán bộ nòng cốt và cán bộ lãnh đạo của tỉnh cần được đào tạo, tham quan, chia sẻ và học tập kinh nghiệm ở nước ngoài.
- Đào tạo thông qua công việc lập KH trên thực tế. Năng lực của người dân và cán bộ các cấp sẽ được nâng lên khi tiếp xúc thực tế với các công cụ, các phương pháp lập KH.
- Tư vấn trực tiếp để chuyển giao kỹ thuật: chuyên gia (có thể bao gồm cả chuyên gia địa phương sau khi đã được chuyển giao kỹ thuật) tham gia trực tiếp vào việc lập KH của các đối tượng (từ cấp tỉnh đến xã). Việc tham gia trực tiếp của các chuyên gia vào quá trình lập KH của các đối tượng được hưởng lợi được coi như một chu trình học tập cho người lớn, qua đó chuyển giao kiến thức, kỹ năng, thông tin,... về lập KH theo phương pháp mới.
3- Áp dụng các mô hình, phương pháp và công cụ thích hợp về tăng cường sự tham gia của cộng đồng.
3.1- Mô hình lập kế hoạch phát triển thôn, bản (VDP) và lập kế hoạch phát triển xã (CDP).
Hiện nay, các nhà tài trợ gồm Đức, Thuỵ điển, Ô-xtrây-li-a, Canada, WB, ADB và một số tổ chức phi chính phủ quốc tế như Plan International và Helvetas đã có một phiên bản nhất định của VDP. Kế hoạch phát triển làng được thực hiện như sau: trước chu kỳ KH của chính phủ thì ở thôn sẽ có cuộc họp để lập KH mà tất cả các hộ trong thôn đều được mời tham gia, cuộc họp sẽ có người hướng dẫn.(Trong một số hệ thống VDP thì các tổ chức đoàn thể đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các cuộc họp như thế này, với một số hệ thống VDP khác thì vai trò của tổ chức đoàn thể không quan trọng bằng.) Thoạt tiên là một nhóm dân làng sẽ dành ra vài ngày để xây dựng KH dự kiến hàng năm (thường là bị chi phối bởi số kinh phí mà các nhà tài trợ cam kết), và sau đó họ đệ trình nó ra để cả làng biểu quyết. Sau đó kết quả lại được gửi tiếp lên xã để được đưa vào KH phát triển của toàn xã.
Hiện nay, ở một số địa phương của Việt Nam như tỉnh Hòa Bình, tỉnh Quảng Ngãi… cũng đã áp dụng phương pháp lập KH này. Trong thời gian tới nên tiếp tục triển khai áp dụng phương pháp VDP, CDP ở các địa phương khác.
3.2- Phương pháp “Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân”(PRA)
- PRA là một quá trình học hỏi lẫn nhau một cách linh hoạt giữa người dân địa phương và những người từ nơi khác đến (người ngoài cộng đồng). Nói cách khác PRA là một “tập hợp” các phương thức và phương pháp giúp cho người dân địa phương trao đổi và phân tích kiến thức đã có về điều kiện cuộc sống của chính họ để lập KH và hành động.
- PRA là quá trình bao gồm nhiều người, nhiều chuyên môn, nhiều thành phần tham gia với các trình độ khác nhau. Nếu như biết phát huy thế mạnh của những người tham gia, hạn chế những nhược điểm của từng thành phần thì công việc sẽ tiến hành thuận lợi, thu được kết quả mong muốn. Nếu không, chúng ta sẽ găp rất nhiều khó khăn trong công việc. Sau đây là một số kỹ năng khi thực hiện PRA để mọi người tham khảo khi tiến hành PRA tại hiện trường:
+ Kỹ năng giao tiếp
• Phải cởi mở chân thành, lắng nghe ý kiến người dân, quan tâm đến những gì mà người dân đang quan tâm.
• Phải cố gắng lắng nghe hết ý kiến người dân, tuyệt đối không ngắt lời, thường xuyên có cử chỉ bày tỏ sự đồng tình và có lời khen khi cần thiết.
• Nêu vấn đề và đặt câu hỏi mở, dễ hiểu, hỏi với thái độ nhẹ nhàng, khiêm tốn, tuần tự từng câu hỏi một, tạo cho người dân có điều kiện trả lời và tham gia một cách chủ động, vừa trả lời, vừa thảo luận.
• Nói chậm, rõ ràng, dễ hiểu. Tránh lối giao tiếp áp đặt, một chiều.
• Cần chủ động mời những người ít nói, rụt rè bày tỏ ý kiến quan điểm của họ, tránh tình trạng một vài người nói hết phần người khác.
• Cần tạo ra sự chú ý và gợi nên sự ham muốn của người nghe.
• Cần chú ý đến đặc điểm dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán, trình độ văn hoá, tuổi tác, giới tính để có cách giao tiếp sao cho phù hợp.
+ Kỹ năng tổ chức cuộc họp nhóm
• Địa điểm, thời gian, chủ đề cuộc họp phải được thông báo trước.
• Nội dung cuộc họp và những vấn đề thảo luận cần được chuẩn bị trước.
• Phải phân công người điều khiển cuộc họp, người ghi chép để ghi lại tất cả các ý kiến của các thành viên. Nên cố gắng dứt điểm từng vấn đề một.
• Nhóm không nên quá lớn thường chỉ 15 - 20 người là vừa, thời gian họp chỉ nên kéo dài từ 1.5 đến 2 tiếng là cùng.
• Khéo léo dung hoà các ý kiến đối lập và giữ hoà khí trong cuộc họp.
• Sử dụng các công cụ hỗ trợ để cho cuộc họp thêm sinh động và dễ hiểu như bảng đen, tranh ảnh, phiếu màu, sa bàn...
• Trước khi chuyển sang vấn đề mới, cần tóm tắt, nhắc lại những vấn đề đã bàn bạc thống nhất.
• Cần biết kết thúc cuộc họp đúng lúc đúng giờ.
3.3- Mô hình tổ chức cộng đồng theo hình thức ban phát triển
Mô hình này được Trung tâm dịch vụ phát triển nông thôn RDSC thực hiện tại các xã ở huyện Thanh Thuỷ, Phú Thọ. Dự án xây dựng tại mỗi xã hưởng lợi một Ban Phát triển xã. Cơ cấu gồm: Trưởng Ban do Chủ tịch xã đảm trách; Phó Ban là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã, một cán bộ chuyên trách Ban Phát triển và một số thành viên khác. Cán bộ chuyên trách điều phối toàn bộ công việc thường ngày của Ban. Đây là cơ quan đại diện của xã làm đối tác trực tiếp của Dự án tại cơ sở. Ban Phát triển có nhiệm vụ phối hợp với các tổ chức cộng đồng triển khai các hoạt động cụ thể của Dự án: lập kế hoạch, thúc đẩy, giám sát hoạt động của các tổ chức cộng đồng. Thông qua Ban Phát triển, báo cáo cấp cơ sở sẽ được chuyển lên văn phòng cấp huyện để tổng hợp báo cáo định kỳ cho trụ sở chính của RDSC đóng tại Hà Nội. Các thành viên Ban Phát triển thường được tập huấn, nâng cao năng lực phát triển. Họ cũng là những người được xây dựng thành cán bộ chủ chốt trong xã sau này, đặc biệt là cán bộ chuyên trách của Ban.
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Huế cũng đang từng bước ứng dụng mô hình này vào dự án SFIC-03 tại xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bước đầu, Ban Phát xã triển đã có một số đóng góp nhất định làm giảm bớt khối lượng công việc cho cán bộ Dự án tại thực địa.
Thiết nghĩ đây là một mô hình quản lý tốt, đảm bảo tính bền vững của dự án tại địa phương vì RDSC đã chuyển giao được Dự án cho cộng đồng bởi tính chủ động lập KH và triển khai các hoạt động phù hợp với mục tiêu và nhu cầu của cộng đồng đã được Ban Phát triển xã thực hiện tốt. Đây cũng chính là yếu tố tạo nên tính bền vững trong hoạt động phát triển. Vì vậy, nên học tập kinh nghiệm và nhân rộng mô hình này trong các dự án phát triển khác.
4- Mở rộng và nâng cao chất lượng của công tác lập KH ngân sách có sự tham gia của cộng đồng
- Có thể sử dụng ngân sách cơ sở hạ tầng xã như là chất xúc tác để tạo quyền cho các thể chế tham gia ở cấp cơ sở, tạo việc làm và nguồn vốn địa phương. Nghĩa là, có thể sử dụng ngân sách cơ sở hạ tầng chi dùng cho đào tạo, giáo dục, đầu vào sản xuất, hoặc dịch vụ xã hội chứ không nên coi nó như một hoạt động riêng lẻ để xây dựng một hai công trình cơ sở hạ tầng như tình trạng đang diễn ra ở một số địa phương hiện nay.
- Hình thành cơ chế khuyến khích sự tham gia: cộng đồng được phép giữ lại bất cứ khoản tiết kiệm nào mà họ để dành ra được so với chi phí đã được chấp thuận nhờ đóng góp địa phương nhiều hơn và/hoặc nhờ làm việc chăm chỉ hơn và sử dụng ngân quỹ hiệu quả hơn.
- Ngoài những cơ chế khuyến khích sự tham gia, cần phải tiếp tục thúc đẩy mạnh minh bạch tài chính đặc biệt là ở các cấp trên cấp thôn và xã. Khi không có sự minh bạch tài chính, thật khó có thể yêu cầu người dân địa phương tham gia lập kế hoạch và lập ngân sách. Ngược lại, sự cởi mở về tài chính có thể sẽ dẫn tới các kết quả tích cực về quản lý.
5- Khai thác thế mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng để tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào công tác KHH phát triển.
Buổi đối thoại trực tuyến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng với nhân dân trong và ngoài nước, ngày 9/2/2007, tại trụ sở website chính phủ, với chủ đề của cuộc đối thoại là "Vì một Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; hội nhập thành công, phát triển bền vững", đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu người, với 20 nghìn câu hỏi đã được gửi cho Thủ tướng. Các câu hỏi gửi đến đối thoại với Thủ tướng đề cập đến hầu hết những lĩnh vực của đời sống chính trị, KT-XH của đất nước: các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế; các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế; hội nhập quốc tế; cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí;.... trong đó không ít câu hỏi được dư luận cho là khá "nóng" và "nhạy cảm". Theo thống kê từ hệ thống của website chính phủ, 80% bạn đọc theo dõi buổi đối thoại trực tuyến của Thủ tướng từ Việt Nam, 20% bạn đọc theo dõi từ nước ngoài (46 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới).
Từ việc tổ chức cuộc đối thoại này nổi lên một điều rất đáng mừng, đó là ý thức chính trị, sự quan tâm của nhân dân với đất nước rất lớn. Hơn 2 vạn ý kiến là tập hợp của tất cả các tầng lớp giai cấp: Công nhân, nông dân, trí thức, Việt kiều cả trong nước và nước ngoài. Và điều bất ngờ lớn nhất là câu hỏi từ lớp trẻ (dưới 30 tuổi) chiếm tới hơn 70%. Điều này cho thấy lớp trẻ thực sự quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, đặc biệt là các cơ chế chính sách, những quyết sách phát triển đất nước nhanh, mạnh và bền vững. Những cuộc đối thoại như thế này sẽ là những cơ hội thuận lợi cho mọi công dân được bày tỏ ý kiến về các lĩnh vực phát triển KT- XH của đất nước.
Vì vậy, trong thời gian tới nên tiếp tục tổ chức các diễn đàn chính trị, các cuộc đối thoại trực tiếp hoặc đưa thông tin trên các phương tiện truyền hình, truyền thanh, internet, các tờ báo, tạp chí để đông đảo quần chúng nhân dân biết về các chương trình, chính sách, mà chính phủ đã và đang chuẩn bị thực hiện. Tại các địa phương, nên tiếp tục hình thành các nhóm đầu mối đối thoại chính sách cấp tỉnh như các nhóm đã được hình thành và hoạt động tại các tỉnh An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Thái Nguyên, Thanh Hóa. Qua đó, cộng đồng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc thảo luận, đóng góp ý kiến, phản ánh thực trạng và đưa ra những kiến nghị, đề xuất về các giải pháp cụ thể.
6- Phát triển mạnh các mối quan hệ đối tác giữa nhà nước – các tổ chức đoàn thể, nhà nước – doanh nghiệp, nhà nước – nhân dân.
Hiện nay có một số nhóm công tác ‘đối tác’ giữa chính phủ và các nhà tài trợ cùng một số tổ chức phi chính phủ quốc tế. Tuy nhiên, những nhóm này nằm ở Hà Nội, và chủ yếu thảo luận tới chính sách cấp trung ương. Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và các bộ phận XHDS khác như các tổ chức đoàn thể và người dân ít khi tham gia vào những diễn đàn này. Do đó, trong tương lai, cần mở rộng các quan hệ đối tác mới vào các cấp địa phương ngoài Hà Nội và tạo ra quan hệ đối tác công dân - chính quyền để đánh giá những lĩnh vực KT-XH quan trọng khác. Các cuộc họp công khai của những quan hệ đối tác này có thể có tác dụng khuyến khích các cơ quan chính quyền khác tổ chức họp công khai theo kiểu như vậy và khuyến khích phổ biến thông tin cho người dân.
CHƯƠNG V- KẾT LUẬN
Tăng cường sự tham gia của cộng đồng là một nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác KHH định hướng thị trường. Đây không phải là một phương pháp mới đối với nhiều nước trên thế giới nhưng lại là một phương pháp còn quá mới mẻ đối với hầu hết các địa phương ở Việt Nam. Lâu nay, các tỉnh, địa phương vẫn quen với kiểu lập KH 2 lên – 1 xuống bao cấp, lạc hậu nên việc áp dụng phương pháp mới sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngay cả các tỉnh đã tiến hành thực hiện phương pháp này cũng không tránh khỏi những bối rối, hạn chế, tồn tại nhất định. Điều này đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan kế hoạch phải đưa ra được những lựa chọn đường lối, chính sách và các giải pháp thông minh, sáng suốt để công tác KHH có sự tham gia của cộng đồng trở thành một “ thói quen tốt” của các tỉnh, các địa phương. “ Cũng như cây cọ là công cụ giúp người họa sĩ vẽ tranh, cây kim là công cụ giúp người thợ may may áo, KH là công cụ giúp các nhà quản lý thực hiện tốt hơn vai trò quản lý sự phát triển KTXH trên địa bàn. Tuy nhiên, cũng là những công cụ đó, nếu người họa sĩ biết sử dụng một cách thuần thục thì có thể trở thành nổi tiếng, người thợ may có thể thu hút được nhiều khách hàng, còn nếu không thì chỉ là những người thợ bình thường. KH cũng vậy. Nhà quản lý nào biết sử dụng công cụ này một cách nhuần nhuyễn và đúng cách thì nó sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý. Ngược lại, nếu chúng ta tiếp tục sử dụng nó một cách hình thức thì bản KH soạn thảo ra sẽ không có nhiều ý nghĩa đóng góp vào việc nâng cao chất lượng quản lý ở địa phương” ( Th.s. Vũ Cương, phó trưởng Bộ môn Kinh tế công cộng, Khoa Kế hoạch và phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Kinh tế học cho thế giới thứ ba ( Michael P.Todaro), Nhà xuất bản giáo dục
2- Đổi mới ở Việt Nam – nhớ lại và suy ngẫm ( Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn ), Nhà xuất bản Tri Thức
3- Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô ( TS. Đặng Đức Đạm), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
4- Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong tiến trình hội nhập( PGS.TS.Ngô Thắng Lợi, THS. Vũ Cương), Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2007
5- Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế: Kinh nghiệm Nhật Bản, Asean và Việt Nam ( Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992)
6- Sự cộng tác đại chúng đã làm thay đổi thế giới như thế nào ( Don Tapscott, Anthony D.Williams)
7- Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 12(93), 2007 và số 4(91), 2008 ( Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Nghiên cứu Châu Âu )
8- Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, số 38(181) ngày 18/9/2007
9- Tạp chí Quản lý kinh tế, số 21(7+8/2008)
10- Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 143(12/2007)
11- Kế hoạch cải cách khu vực công của Hồng Kông
12- “Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân ở Việt Nam”, Văn Kiện Đối thoại Chính sách 2006/1, Hà Nội, tháng 6/2006
13- Báo cáo “Đánh giá các mô hình lập kế hoạch có sự tham gia của cộng đồng tại các tỉnh của Dự án Giảm nghèo Khu vực miền Trung
(CACERP)”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( Bản thảo thứ nhất, 28/04/2003)
14- Tài liệu đào tạo “Áp dụng công cụ PRA lập kế hoạch phát triển thôn/bản và kế hoạch phát triển xã (VDP & CDP)” của Dự án Hỗ trợ kỹ thuật Nâng cao năng lực Xoá đói giảm nghèo Khu vực Miền Trung-(CACERP)
15- Tạp chí Cộng sản điện tử, số 18(162) năm 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa theo hướng tăng cường sự tham gia của cộng đồng.doc