Ban hành các nghị quyết, nghị định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn thi
hành chỉ đạo đồng thời phải phối hợp với các cơ quan chính quyền địa phương
để triển khai. Chú trọng công tác bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, loại
bỏ hình thức cho vay ưu đãi, ưu tiên vay vốn, sử dụng tài nguyên đối với các
doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp không cần thiết, nhằm tạo ra môi
trường thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
31 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2759 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Lý thuết tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thường trên thị trường trái được phân loại như sau:
2.31 Căn cứ vào việc có ghi danh hay không :
* Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên
chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính
theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và
mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang
chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
* Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái
chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể
chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi.
Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái
phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận
bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
2.32. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu đó
* Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm
mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc
làm công cụ điều tiết tiền tệ hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là
loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 9
chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các
công cụ nợ khác có cùng kì hạn
* Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn
cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ
tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ
trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành
*Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn
dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được
tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không
được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được
nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên
thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều
nhiều hình thức đảm bảo cho vay. Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
- Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản
thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu
này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có
quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
- Trái phiếu không đảm bảo: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo
bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá
sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ
có ba bảo đảm, nhưng trước cổ đông.
Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền
chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy
định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ
vào những thời điểm cụ thể xác định. Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái
phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa
nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại: cho phép người phát hành mua lại chứng
khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát
hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất
cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 10
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được
quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền
chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu
này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người nắm giữ nó có thể
chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người
chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào
nhóm hàng hoá chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đâ:
2.4. Lợi ích của đầu tư trái phiếu
- Dù làm ăn thua lỗ, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc
bỏ như cổ phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được
trả tiền trước người có cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường. Nhưng nếu
công ty có lợi nhuận cao, công ty có thể chia thêm cổ tức cho người có cổ phần,
thì trái chủ vẫn được hưởng ở mức đã định.
- Trái phiếu có loại được miễn thuế thu nhập (trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu chính quyền địa phương). Đối với những người có thu nhập cao, mua trái
trên vẫn có lợi
- Trái phiếu trên thị trường thứ cấp có giá lên xuống đối nghịch với lãi suất
thị trường. Nếu biết tính toán phân tích để thực hiện mua bán thì vẫn có lợi.
2.5. Bất lợi đầu tư trái phiếu
- Khi nhận được tiền lãi phải lo đầu tư số tiền đó vì rất ít công ty có -
chương trình tái đầu tư tiền lãi trái phiếu. Trong khi đó, nhiều công ty có
chương trình tái đầu tư cổ tức. Cổ đông có thể mua thêm cổ phần được miễn sở
phí, và có khi còn được mua cổ phần với giá rẻ hơn giá thị trường.
- Giá trái phiếu công ty cũng biến động khá mạnh trên thị trường: khi lãi
suất suất thị trường lên cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ hạ. Khi cơ
quan đánh giá xếp loại doanh nghiệp, đánh giá công ty phát hành từ loại
AAA(3A) xuống AA(2A) hoặc xuống BBB(3B) thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ.
Hoặc khi có sự mất mát thị trường, vỡ nợ… thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ giá
và giá trái phiếu cũng sẽ giảm đi khi ít người mua.
2.6. Những điều cần chú ý khi đầu tư vào trái phiếu.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 11
Trước khi mua trái phiếu cần tìm hiểu hai điều: Chiều hướng hay xu
hướng lên của lãi xuất và uy tín của công ty phát hanh. Nên mua trái phiếu lúc
lãi suất đang ở thời điểm cao nhất và đang trên đà giảm dần. Và nên mua trái
phiếu dài hạn để có thể được hưởng lãi suất cao trong một thời gian dài. Ngược
lại, lúc lãi suất đang ở mức thấp nhất và bắt đầu tăng, nên bán trái phiếu dài hạn
đi để mua vào trái phiếu trung và dai hạn.
3. Chứng khoán có thể chuyển đổi
3.1 Chứng khoán có thể chuyển đổi
Khái niệm: Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho
phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định
có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi là:
- Cổ phiếu ưu đãi
- Trái phiếu chuyển đổi
3.2 Mục đích của phát hành trái phiếu chuyển đổi.
Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi là nhăm mục đích huy động
thêm vốn váo những thời điểm chưa thích hợp cho việc phát hành cổ phiếu
thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi cũng có thể nhằm mục
đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị trường trái phiếu
và cổ phiếu ưu đãi đang xuống giá.
3.3 Lợi ích của phát hành trái phiếu chuyển đổi
* Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền
chuyển đổi trái phiếu này ra cổ phiếu thường khi đến hạn:
+ Nếu là trái phiếu: Bên phát hanh sẽ phát hành trái phiếu ra với lãi suất
thấp
+ Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được
các khoản cố định phải trả, đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty,
một chỉ báo có lợi cho danh tiếng công ty.
* Đối với nhà đầu tư:
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp
được tính an toàn của trái phiếu (thu nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ
phiếu thường.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 12
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo
hiểm trước tình trạng lạm phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tuỳ thuộc nhiều
vào giá chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi, và tương quan giá giữa công cụ có thể
chuyển đổi với những công cụ mà chúng có thể chuyển đổi thành. Đó là những
yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người đầu tư.
Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng
được đổi lấy một cổ phần của cổ phiếu thường, thì giá chuyển đổi là 50.000
đồng; hệ số chuyển đổi là 1.000.000 đồng: 50.000 đồng = 20 cổ phần.
Ví dụ 2: Giả sử trái phiếu trên đang có giá là 1.045.000 đồng ; được chuyển
thành 100 cổ phần của một cổ phiếu thường. Giá tương đương chuyển đổi là
1045000 đồng : 100 = 10450 đồng.
Điều đó có nghĩa là giá trị trường của cổ phiếu ít nhất phải bằng 10.045
đồng thì việc nắm giữ trái phiếu và chuyển đổi nó thành cổ phiếu mới được coi
là tương đương về mặt giá trị. Nếu giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá
tương đương chuyển đổi thì việc chuyển đổi sẽ đem lại một phần lợi nhuận.
Trên thực tế rất có thể có giá cổ phiếu không lên đến mức mà người nắm giữu
trái phiếu có thể chuyển đổi trái phiếu để thu lợi nhuận.
4. Chứng khoán phái sinh.
4.1 Khái niệm: Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác
nhau như: phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận,…
4.2 Các loại chứng khoán phái sinh.
4.21 Quyền chọn (Option).
* Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó
được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất
định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ
số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
* Những yếu tố cấu thành một quyền chọn:
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
- Loại quyền ( chọn mua hay chọn bán)
- Thời hạn của quyền
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 13
- Mức giá thực hiện quyền
* Những mức giá liên quan một quyền là:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở đó.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền
- Giá quyền lựa chọn
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của
chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền, tức là người có
quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị
trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn, và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền
Đối với quyền chọn bán: ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu
giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất
tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện
quyền được gọi là giá trị nội tạ. Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại
bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá
bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị
nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị
theo thời gian. Nói cách khác, khi đó: Giá trị theo thời gian của quyền chọn =
Giá quyền – ( Giá thị trường – giá thực hiện).Ví dụ : Giá của một quyền chọn
mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường của XYZ là 42.000 đồng. Người giữ
quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức
là mua 100 cổ phần ( mức giá được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000
đồng, cũng theo mức giá thực hiện theo quyền là 40.000 đ một cổ phần; sau đó
bán ngay với giá thị trường, thu về 4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là
200.000 đồng. Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá nội tại =
400.000 đồng – 200.000 đồng = 200.000 đồng. Người mua vẫn sẵn sàng trả
phần phụ trội cho các quyền lựa chọn vì họ nhận được nhiều lợi ích từ một
quyền lựa chọn.
* Ứng dụng của quyền chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư
cao nhất. Ví dụ : Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000
VND/cổ phần, và bạn dự đoán sau nửa năm nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 14
mạnh, lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa chọn có liên quan đến giao
dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn mua cổ
phiếu XYZ được niêm yết với giá 40.000 VND/ cổ phần. Trong vòng 6 tháng
giá cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người bán
giao 100 cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán chúng
ra thị trường với giá 50.000 đồng.
Như vậy, bạn đã tạo ra một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đã thu được lợi
nhuận 60.000 đồng trên khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong
đó khoản thời gian là 6 tháng
Quyền lựa chọ được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận. Ví dụ: Với XYZ đang
có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu 100 cổ phần XYZ bán một
quyền chọn XYZ 44.000 với gía 400.000 đồng, người bán sẽ được bảo vệ trước
các khoản thua lỗ nhờ có 40.000 đồng từ người bán quyền chọn.Nếu XYZ tiếp
tục giảm giá thì đương nhiên người bán sẽ mất tiền. Như vậy khoản thu 40.000
đồng từ việc bán quyền lựa chọn tạo ra một sự bảo vệ cụ bộ đối với tình trạng
sụt gía.
Nếu trong 6 tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được
thực hiện. Khoản thu phụ trội 40.000 đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng
đầu tư.
4.22 Quyền mua trước.
Khái niệm: Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất
ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn
bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông
mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian
xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang
lưu hành được kèm theo một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới
được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới. Giá cổ phiếu ghi trên quyền
thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Giá của quyền tính bằng chênh
lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ
phần mới theo quyền, chia cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 15
có giá thị trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần
mới cổ phần thì giá của quyền được xác định theo công thức:
Vr = (Po – Pn)/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền
Po là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành
Pn là giá thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua cổ
phiếu đang lưu hành.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị
trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong
khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu.
4.23 Chứng quyền
Khái niệm: Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định
của một cổ phiếu, với một giá xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền
này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty
muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ
phiếu ưu đãi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những
điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra
của cổ phiếu thường.
Đặc điểm: Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn,
do công ty đã phát hành công cụ cơ sở phát hành đồng thời với công cụ cơ sở.
Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng quyền được thực hiện, nó tạo
thành dòng tiền vào cho công ty và tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành trên thị
trường. Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu
mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên chứng chỉ: Các điều kiện
của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi
chứng quyền (thườnglà 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ phiếu; tại thời điểm
chứng quyền được phát hành, giá này bao giờ cũng cao hơn giá thị trường của
cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời
hạn của quyền, đa số là 5-10 năm.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 16
4.24. Hợp đồng kì hạn
Khái niệm: Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua
và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng
xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá vào ngày
hôm nay. Hàng hóa ở đây có thể là bất kì thứ hàng háo nào từ nông sản, các
đồng tiền, chứng khoán. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc
ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang
tính các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao
nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký
kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã
cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị
trường.
Như vậy, bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều
giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình.
Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy
nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị
trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực
hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên
rất có thể không chính xác.
4.25 Hợp đồng tương lai.
Khái niệm: Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc
phục được những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một
cách thức tốt hơn để rào chắn rủi ro trong kinh doanh
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng
kỳ hạn là:
- Niêm yết tại sở giao dịch: Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung
được xử lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành
hợp lý hơn, do các bên mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.
- Xoá bỏ rủi ro tín dụng: Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được
niêm yết trên sở giao dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối
tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung
gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho công ty thanh toán bù trừ, và
người mua cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một trong hai bên
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 17
không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không ảnh hưởng gì đến bên kia.
- Tiêu chuẩn hoá: Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng
hoá bất kỳ, khối lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận
chung giữa hai bên bán, mua. Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên
sở giao dịch đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ
thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định
trước.
- Điều chỉnh đánh giá theo mức giá thị trường (Marking to market)
Trong các hợp đồng kỳ hạn, các khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến
hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng
ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận
(giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền
cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, vì không bên nào biết về
đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho công ty
thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 18
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HÀNG HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HÀNG HOÁ
1. Chủng loại hàng hoá
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời ngày 20-7-2000 và thực hiện
phiên giao dịch từ ngày 28-7-2000 chỉ với 2 cổ phiếu được niêm yết trên thị
trường là REE và SAM, với giá trị thị trường ban đầu chỉ đạt 444.000.000, đến
ngày 27/11/2005 có đến 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng số vốn là 1086
tỷ đồng, hai loại trái phiếu công ty với số vốn là 157 tỷ đồng và 50 loại trái
phiếu chính phủ với số vốn 54000 tỷ đồng. Như vậy, tại thời điểm này có 73
loại chứng khoán được lưu hành trên thị trường với số vốn khoảng 6600 tỷ
đồng. Sau 5 năm ta có thể nhận thấy trong thời kì này thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển rất chậm, số lượng chứng khoán lưu hành còn quá ít. Điều
này không có gì là khó hiểu bởi đây là giai đoạn mà thị trường của chúng ta còn
sơ khai, non trẻ, mới đi vào hoạt động. Trong khi đó trình độ hiểu biết của dân
cư về chứng khoán còn rất hạn chế, tâm lý e ngại của doanh nghiệp không
muốn tham gia vì phải chụi sự quản lý của UBCKNN, phải công bố thông tin,
kiểm toán, điều này đã góp phần làm cho thị trường khá là nguội, số cổ phiếu
tham gia niêm yết ít.
Đến thời điểm cuối tháng 12 năm 2006 thị trường đã có những bước tiến
vượt bậc: tại TTGDCKTP.HCM đã có tới 61 cổ phiếu niêm yết ( tăng 2.9 lần 5
năm trước đó), 2 chứng chỉ quỹ và khoảng 350 trái phiếu công ty và trái phiếu
Chính phủ. Như vậy, chỉ trong một năm thị trường có bước chuyển mình rất
lớn, điều này đã phản ánh thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước
đi đúng đắn, hợp lý. Nhưng bên cạnh đó cũng phải thừa nhận thị trường trong
giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, trình độ hiểu biết của dân
cư về thị trường vẫn còn nhiều hạn chế, đầu tư theo tâm lý bầy đàn, hàng hoá có
chất lượng tốt không nhiều.
Từ thời điểm cuối năm 2006 và đầu năm 2007 Việt Nam tổ chức thành
công hội nghị APEC và là thành viên chính thức của tổ chức WTO, đã tác động
rất lớn đến thị trường chứng khoán Việt Nam, chỉ số Vn-Index liên tục tăng
trong một thời gian dài trước và sau tết nguyên đán, đã có thời điểm chỉ số thị
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 19
trường đã tăng độ biến lên đến 1.170 điểm, HASTC đạt 450 điểm vào ngày
12/3/2007. Điều này đã tạo lên cơn sốt hàng háo trên thị trường, mọi người đổ
sô đi mua chứng khoán tìm cơ hội kiếm lời làm cho cung không đủ cầu, hàng
hoá trở nên khan hiếm, các doanh nghiệp thấy được lợi ích của việc lên sàn nên
liên tục đăng kí niêm yết, phát hành cổ phiếu huy động vốn. Điều này làm cho
số lượng cổ phiếu trên thị trường liên tục tăng và tính cho đến thời điểm bây giờ
cả thị trường đã có 219 mã chứng khoán niêm yết. Trong đó tại Sở giao dịch
chứng khoán Hồ Chí Minh là 125 mã chứng khoá, 2 chứng chỉ quỹ, tại trung
tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội là 94 mã cổ phiếu. Bên cạnh đó là hàng loạt
các cổ phiếu có chất lượng tốt, tính thanh khoản cao liên tục lên sàn qua các
đợt IPO như: Bảo Việt, Đạm Phú Mĩ,…. Và đặc biệt là trong thời gian tới là các
đại gia ngành Ngân hàng như: Vietcombank, BIDVbank, Agribank, Habeco,
Mobifone,…. điều này làm cho thị trường trở nên sôi nổi, tính thanh khoản của
thị trường được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó là trình độ hiểu biết của dân cư về
chứng khoán, tâm lý đầu tư bầy đàn đã bị hạn chế, thị trường sau một thời gian
tăng trưởng nóng đã có những bước điều chỉnh rất tích cực Vn-index dao động
xung quanh mức điểm 1000 điểm và đến ngày 14/11/2007 sau 8 phiên điều
chỉnh liên tục Vn-index mất 102.33 điểm và đạt tại mức 973,59 điểm. Sự điều
chỉnh này làm cho thị trường mất khá nhiều điểm nhưng đây là sự điều chỉnh
cần thiết, điều này sẽ giúp thị trường phát triển ổn định và bền vững trong tương
lãi, tránh được những rủi ro khi mà thị trường phát triển quá nóng.
2. Khối lượng giao dịch.
2.1 Cổ phiếu
- Khi thị trường mới đi vào hoạt động phiên giao dịch đầu tiên ngày
28/7/2000 chỉ có 2 cổ phiếu giao dịch với giá trị là 444 triệu đồng thì đến cuối
thời điểm tháng 12 năm 2006 tổng khối lượng cổ phiếu niêm trên thị trường là
900 triệu cổ phiếu tổng giá trị giao dịch trên 10% GDP. Đến tháng 9/2007 tại
TTGDCKTP.HCM tổng khối lượng cổ phiếu giao dịch bình quân hàng ngày là
6,1 triệu cổ phiếu tăng 15% so với tháng 6/2007. Tại TTGDCK Hà Nội tổng số
lượng cổ phiếu giao dịch trong tháng 9/2007 đạt 39,45 triệu cổ phiếu gấp hơn 2
lần số lượng cổ phiếu giao dịch tháng trước đó ( 19, 42 triệu cổ phiếu). Giá trị
giao dịch tăng mạnh lên tới 3.649,26 tỷ đồng tăng gấp đôi so với giá trị giao
dịch 1.836,8 tỷ đồng một tháng trước đó. Bình quân mỗi ngày có khoảng 2,076
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 20
triệu cổ phần thực hiện giao dịch là 192 tỷ đồng. Đặc biệt là thời gian cuối
tháng giá trị giao dịch tăng lên rõ rệt đạt 400 tỷ so với 80 – 90 tỷ đồng so với
thời gian tháng 7.
- Giao dịch nhà đầu tư nước ngoài: Trong tháng 9 tổng lượng giao dịch
của Nhà đầu tư nước ngoài tháng này giảm 30,12% so với tháng trước. Tuy
nhiên xét về tương quan mua bán thì trong tháng này nhà đầu tư mua vào nhiều
hơn là bán ra. Chênh lệch mua bán lên tới 1,092 triệu cổ phần. Các cổ phiếu
được nhà đầu tư nước ngoài mua vào nhiều nhất là SSI với 1,048 triệu cổ phần,
với tương quan là 2,66% khối lượng giao dịch mua bán của toàn thị trường, tiếp
đến là BMI với 337.700 cổ phần được mua vào, đứng thứ 3 là NTP với 334.300
cổ phần.
- Số tài khoản giao dịch tăng lên nhanh chóng: Nếu như tính đến tháng
6/2006 cả thị trường chỉ có 22.000 tài khoản tham gia giao dịch trên thị trường
thì tính đến thời điểm cuối năm 2006 cả thị trường con số này tăng lên 52000 tài
khoản, riêng tháng 8 năm 2007 tới 28 tổ chức và 573 nhà đầu tư nước ngoài mở
tài khoản tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự tăng lên
nhanh chóng cuả tài khoản giao dịch làm cho các giao dịch khống chế, làm giá
trên thị trường giảm xuống, tính thanh khoản thị trường tăng lên
- Chỉ số P/E: Trước khi giai đoạn thị trường có những điều chỉnh các nhà
quản lý, các chuyên gia trong và ngoài nước đều đưa ra lời nhận xét rằng giá cổ
phiếu quá cao so với giá trị thực của nó. Chỉ số P/E trung bình của 20 cổ phiếu
niêm yết có vốn hoá lớn nhất là : 54,98 trong khi đó chỉ số này ở thị trường các
nước khác khu vực châu á là:
Bảng 1: Chỉ số P/E ngày 29/3/2007
Thị trường Chỉ số P/E
Năm 2006 Năm 2007
Hồng Kông 16,5 14,5
Ấn Độ 19,8 16,7
In-đô-nê-xi-a 17,2 13
Malaysia 18 16,1
Philipin 16,4 15,9
Thailan 11,1 10
Đài Loan 16,4 13,3
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 21
Như vậy, so với các nước thì P/E của chúng ta là rất cao. Khả năng sinh
lời bị giảm do mua ở cổ phiếu ở mức giá qúa cao so với thị trường các nước
trong khu vực. Điều này sẽ gây tâm lý lo lắng e ngại cho các nhà đầu tư, đặc
biệt là nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam vì mức độ rủi ro là rất
lớn.
2.2 Trái phiếu
Trong năm 2002 tình hình giao dịch trái phiếu còn có phần ảm đạm hơn.
Chính phủ trong thời gian qua đã rất cố gắng tạo nguồn hàng cho thị trường
chứng khoán với phương châm trong giai đoạn đầu chủ yếu là giao dịch trái
phiếu chính phủ nhằm tạo đà bôi trơn cho sự vận hành của thị trường chứng
khoán Việt Nam còn rất mới mẻ. Nhưng thực tế, trái phiếu Chính phủ được giao
dịch với khối lượng rất ít. Sau hơn 3 tháng thị trường giao dịch chứng khoán
hoạt động, đã có mặt 3 loại trái phiếu chính phủ được niêm yết nhưng có 2 loại
CP1-0200 và CP1A-0100 chưa thực hiện được giao dịch nào. Còn loại trái
phiếu CP1-0100 thì được giao dịch với khối lượng rất thấp với tổng số hơn
396 trái phiếu đạt giá trị giao dịch khoảng trên 39.206.000 đồng. Đặc biệt, trong
nhiều phiên giao dịch không một trái phiếu nào được thực hiện giao dịch.
Đến thời điểm tháng 9/2006 TTGDCK Hà Nội đã tổ chức thành công 4
phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ TPCP tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu là
1.500 tỷ đồng. Tổng khối lượng trái phiếu tham gia đăng kí đấu thầu là 4.183 tỷ
đồng ( gấp 2,78 lần khối lượng gọi thầu) kết quả khối lượng trái phiếu trúng
thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến thời điểm tháng 9/2006 số trái phiếu phát hành
theo phương thức bảo lãnh phát hành của Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát
triển Việt Nam đăng kí giao dịch trên TTGDCK Hà Nội có 38 loại tổng gía trị
giao dịch là 7.027 tỷ đồng trong đó Kho bạc Nhà nước đạt 3.042 tỷ đồng ( 8
loại) và 30 loại của NHPT Việt Nam đạt 3.985 tỷ đồng. Tính đến cuối năm
2006 cả thị trường đã có tới 350 loại trái phiếu tham gia thị trường. Nhưng cũng
có điều nhận thấy mặc dù số trái phiếu niêm yết là khá nhiều nhưng tham gia
giao dịch lại quá ít, nó chỉ diễn ra chủ yếu là giữa các ngân hàng với nhau trong
khi đó nhà đầu tư cá nhân tham gia lại quá ít.
Nguyên nhân:
- Tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ là rất thấp, đơn điệu chưa
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư; phương thức giao dịch chủ yếu
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 22
là phương thức giao dịch thoả thuận, thị trường chưa có một hệ thống nào cung
cấp thông tin đầy đủ về các giao dịch mã trái phiếu như: khối lượng, gía trị giao
dịch. Trong khi đó việc tiến hành giao dịch chỉ được thực hiện qua 2 TTGDCK
rất dễ gây sự nhầm lẫn và khó khăn cho nhà đầu tư khi theo dõi.
- Khi nhà đầu tư vào trái phiếu sẽ phải đối mặt với 3 loại rủi ro: thứ nhất:
Là rủi ro về tín dụng; thứ 2: Tính thanh khoản bởi vì hiện nay trái phiếu có tính
thanh khoản rất thấp đặc biệt là về thời gian của nó thường rất dài đa số là 10
năm và 5 năm, thứ 3: Rủi ro về lãi suất vì TPCP hiện có lãi suất cố định do đó
có sự hoán đổi lãi suất cố định sang lãi suất thả nổi.
Như vậy ta có thể thấy trong thời gian qua khối lượng và gía trị giao dịch
trên 2 trung tâm chứng khoán Hà Nội và TP.HCM đã tăng rõ rệt cả về số lượng
và gía trị giao dịch. Lược cung hàng hoá đã phần nào đáp ứng được cầu, hàng
hoá đa dạng cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là việc IPO của một số đại
gia: Đạm Phú Mỹ, Bảo Việt,… làm cho thị trường tăng tính linh hoạt, tính
thanh khoản được nâng cao. Giai đoạn đầu năm 2007 thị trường được dẫn dắt
bởi các nhà đâu tư nước ngoài, nhưng đến thời điểm hiện nay các nhà đầu tư
trong nước đã tham gia tích cực vào thị trường, có nhiều phiên nhà đầu tư nước
ngoài tham gia giao dịch chỉ chiếm 10,5% đây là điêu hết sức bất ngờ, tâm lý
đầu tư bầy đàn đã giảm sau nhiều phiên điều chỉnh của thị trường.
Hiện nay cả nước hàng ngàn doanh nghiệp, nhưng con số hiện nay cho
thấy trên thị trường chỉ có 219 Cổ phiếu được niêm yết trên thị trường thì đó
quả là con số quá ít so với tiềm năng và quy mô của toàn thị trường. Vậy đâu là
nguyên nhân của tình trạng này, ta phải làm gì để tăng cường hàng hoá nhiều
hơn nữa cho thị trường chứng khoán Việt Nam? Để giải quyết tình trạng này ta
cần phải giải quyết các vấn đề:
II. Nguyên nhân
1. Nền kinh sôi động.
Nền kinh tế và thị trường chứng khoán có quan hệ mật thiết với nhau, thị
trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế ngược
lại. Thị trường chứng khoán muốn phát triển thì không thể thiếu một nền kinh tế
tăng trưởng vững chắc. Bởi nền kinh tế có tác động to lớn tới thị trường chứng
khoán như: người tham gia đầu tư, chủ thể niêm yết, cung cấp nguồn hàng hoá
cho thị trường chứng khoán …
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 23
Một nền kinh tế khó khăn sẽ tạo ra sự khó khăn cho hoạt động thị trường
chứng khoán nói chung và sự khan hiếm hàng hoá nói riêng và thị trường chứng
khoán Việt Nam cũng đang vấp phải khó khăn đó.
Trong những năm 1998, 1999, 2000 nền kinh tế vẫn còn chịu hậu quả của
cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á. Điều này đã tác động rất lớn đến thị
trường chứng khoán ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chững lại trong
giai đoạn 1998-2000. Sang giai đoạn 2001-2006 cùng với sự ra đời của thị
trường chứng khoán Việt Nam nền kinh tế đã có những khởi sắc rất tích cực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức ổn định trung bình là 7,7%. Lượng
vốn hoá đầu tư vào thị trường chứng khoán đến tháng 8/2007 là 4,8 tỷ USD
điều này đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Năm 1998 1999 2000 2001- 2006
Tốc độ tăng
trưởng
5,8%
4,8%
6,7%
7,7%
Qua đó ta cũng nhận thấy, sự khó khăn của nền kinh tế trong giai đoạn
1998-2000 đã tác động rất lớn đến thị trường hàng hoá. Mức cung hàng hoá
luôn lớn hơn cầu dẫn tới đọng hàng hoá, điều này dẫn đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các công ty rất khó khăn, thị trường chứng khoán ra đời nhưng
không thể phát triển được trong thời gian dài. Sự tăng trưởng những tháng đầu
năm 2001- 2006 là rất tốt nhưng tâm lý e ngại niêm yết của các công ty, nàh
nước chưa có chính sách rõ ràng để phát triển dẫn đên lượng cung tính từ thời
điểm28/7/200 đến tháng 12 năm 2006 có 61 cổ phiếu niêm yết và đặc biệt là sau
khi Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC và là thành viên của WTO thì
lượng hàng hóa không ngừng tăng lên đến thời điểm hiện tại toàn thị trường có
tới 219 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết
2. Nguyên nhân từ các doanh nghiệp cổ phần
2.1. Các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết chưa sẵn sàng tham gia
thị trường:
Hiện nay theo quy định của nhà nước thì công ty được niêm yết phải thoả
mãn ít nhất hai điều kiện sau :
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 24
- Vốn pháp định trên 10 tỷ VNĐ.
- Hai năm liên tục làm ăn có lãi, không có lỗ luỹ kế tính đên năm chào
bán
- có phương án phát hành và sử dụng vốn.
Với điều kiện đó hiện nay chúng ta có rất nhiều Công ty đủ điều kiện
niêm yết và tạo ra một thị trường hàng hoá phong phú và sôi động tuy nhiên
những doanh nghiệp đó vẫn đứng ngoài sân chơi
Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó chính là sự ngần ngại chưa muốn tham gia
vào thị trường. Sự ngần ngại đó bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan của
doanh nghiệp.
* Nguyên nhân khách quan:
- Doanh nghiệp chưa muốn tham gia vào thị trường chứng khoán bởi
trong điều khiện môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiêù khó khăn, môi trường đầu
tư kém hấp dẫn, khả năng hoạt động có hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp
đều bị hạn chế . Đối với phần lớn các doanh nghiệp hiện nay là làm sao tạo ra
đầu ra hiệu quả của đồng vốn của mình hơn là huy động tăng nguồn vốn và mở
rộng sản xuất.Còn với những các doanh nghiệp làm ăn tốt thì nếu cần vốn để
mở rộng sản xuất thì việc huy động nguồn vốn không hề khó khăn (như vay vốn
của hệ thống Ngân hàng) bởi nguồn vốn đó có lãi xuất thấp (ổn định) trong khi
thu hút vốn qua thị trường chứng khoán lại có lãi xuất cao hơn .
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một vấn đề khác không ít các công ty nhà doanh nghiệp lo ngại là nếu
doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán thì doanh nghiệp dễ bị thao
túng. Khi doanh nghiệp thực hiện niêm yết thì cổ phiếu của công ty sẽ được
mua bán rộng rãi trên thị trường, các cổ đông của công ty liên tục thay đổi và
khi đó rất khó quản lý.Một nhà đàu tư có ý đồ có thể mua gom số cổ phiếu của
công ty đến khi đủ số lượng cần thiết thì có nhẩy vào điều hành doanh nghiệp.
- Khó khăn khác là các doanh nghiệp Việt Nam ,các nhà kinh tế Việt
Nam thường làm việc với cách làm ăn mà sổ sách thông tin mập mờ,cách thức
làm ăn còn theo lề nếp cũ . Do vậy khi tham gia thị trường chứng khoán thì họ
phải chấp nhận thay đổi và chấp nhận nguyên tắc (công khai thông tin) có nghĩa
các công ty niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ, tức thời hay
theo yêu cầu một cách chính xác, trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư .Các
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 25
tổ chức phát hành phải có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính xác nhận của cơ quan
Kiểm toán độc lập được chấp thuận, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh và
các loại báo cáo khác khi tham gia thị trường thì doanh nghiệp phải chấp nhận
(công khai thông tin) .Doanh nghiệp có sẵn sàng chấp nhận vấn đề đó không khi
mà họ quen với các quy định hiện hành
Tóm lại : Những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết tuy rằng lợi ích
tham gia là chưa rõ ràng ,nhu cầu chưa cấp bách bản thân thị trường mới đi vào
hoạt động trong khi đó tham gia thị trường thì gặp không ít khó khăn. Do vậy
họ có tâm lý dè dặt và tạm làm “ khán giả trên khán đài”
3. Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra quá chậm :
Sau khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước thì một vấn đề đặt ra và được thực hiện ngay khi đó lá cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nước. Đa số các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ,
kém hiệu quả, đặc biệt từ năm 1996 chuẩn bị cho thị trường chứng khoán ra đời
thì tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh và thực tế
cũng đã cung cấp cho thị trường chứng khoán 4 loại hàng hoá : REE, SAM,
LAF, TMS . Tiến trình cổ phần hoá mặc dù đạt được những kết quả đáng khích
lệ nhưng con rất nhiều hạn chế. Cho đến nay, cả nước mới có trên 4000 doanh
nghiệp được cổ phần hoá, trong khi đó còn hàng nghìn doanh nghiệp khác chưa
tiến hành cổ phần, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90-91 . Quá
trình cổ phần hoá diễn ra chậm là do bới các nguyên nhân cơ bản sau:
- Tâm lý của Giám đốc… không muốn cổ phần hoá vì sau khi cổ phần
hoá họ còn được giữu “chiếc ghế” đó hay không!
- Các doanh nghiệp chậm chễ cổ phần hoá nhằm hưởng ưu đãi của Nhà
nước cho việc cổ phần hoá.
- Trong khi cổ phần hoá thì gặp nhiều khó khăn như thanh toán các khoản
nợ của công ty, định giá tài sản …
- Các văn bản pháp luật có khi chưa sát thực tế dẫn đến khó cho việc vận
dụng.
- Trong mỗi ngành các doanh nghiệp có sự khác nhau do vậy cổ phần hoá
doanh nghiệp nó mang tính khó khăn đặc thù của từng nghành…
4. Môi trường pháp lý:
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 26
Trong thời gian vừa qua với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, Luật
chứng khoán đã tạo ra môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Một
số doanh nghiệp ra đời đủ làm sôi động phần nào nền kinh tế. Nhưng bên cạnh
đó còn mắc phải một số vấn đề:
+ Phần cổ phần của Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần thì chiếm quá
lớn
+ Nhà nước hạn chế sự đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay là
chưa phù hợp, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu tối đa 49%, còn đối với
ngành tài chính ngân hàng là 30% tổng giá trị cổ phiếu.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì chưa có một cơ sở pháp
lý cụ thể nào cho họ tham gia thị trường Mà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thì có vốn lớn … nếu họ tham gia thì thị trường hàng hoá chắc chắn sẽ sôi
động và nền kinh tế chắc chắn sẽ có một dòng vốn lớn để phục vụ cho việc phát
triển đất nước.
+ Chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều bất cập
…đặc biệt là công tác thẩm định giá, xác định giá trị doanh nghiệp còn chưa
chính xác, gây lãng phí nguồn lực cho nhà nước.
Vậy trong thời gian tới nhà nước cần có những chính sách cụ thể, đứng
đắn hơn để khơi thông khó khăn cho việc tạo hàng hoá cho thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 27
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TẠO HÀNG HOÁ CHO THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Định hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam :
Mục đích cơ bản của thị trường chứng khoán là tạo nguồn vốn trung và
dài hạn cho đầu tư và phát triển đất nước. Trong đó việc thu hút nguồn vốn
nhàn rối trong các tầng lớp dân cư, các nhà đầu tư trong và ngoài nước là rất
quan trọng phụng vụ cho hoạt động tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước.
Bên cạnh đó thị trường chứng khoán cũng là nơi tập dượt thói quen “công khai
tài chính” tiến tới lành mạnh hoá nền tài chính nước nhà, là cánh của mở ra để
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài đưa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế
giới. Để thực hiện những mục tiêu này chúng ta phải từng bước xây dựng một
thị trường chứng khoán quy mô và hiện đại với hàng hoá đa dạng và phong phú.
Mục đích cơ bản trong giai đoạn này là giúp công chúng và giới doanh
nghiệp cũng như các nhà đầu tư làm quen với thị trường chứng khoán với các
hoạt động giao dịch của thị trường, tạo dựng niềm tin đối với công chúng.
Hàng hoá tham gia giao dịch trên thị trường phải đảm bảo số lượng và chất
lượng cần thiết cũng như các điều kiện khác hướng thị trường chứng khoán thực
nơi huy động nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nên kinh tế phục vụ cho
Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá.
Tạo hàng hoá do đó không chỉ là một nhiệm vụ cấp bách mà còn mang
tính chiến lược lâu dài quyết định xu hướng phát triển của thị trường cần phải
có các giải pháp tức thời, đồng bộ đảm bảo duy trì hoạt động và mở rộng tầm
hoạt động cũng như sự sôi động của thị trường giao dịch.Đồng thời phải có giải
pháp về lâu dài taọ nguồn cung tiềm năng và ổn định cho thị trường.
Đó không chỉ là mong muốn của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, của giới
đầu tư và ngay cả các doanh nghiệp . Vậy để thực hiện được mục tiêu đó thì bản
thân mỗi chủ thể của thị trường chứng khoán cần phải làm gì? Làm như thế nào
để đạt được những thành công như mong muốn
II – Giải pháp:
1. Ổn định kinh tế vĩ mô và phát huy nhịp độ tăng trưởng của nền kimh tế:
Đây là giải pháp cơ bản bao trùm vì hoạt động của thị trường chứng
khoán không chỉ phụ thuộc vào bản thân nó mà sâu xa hơn là nó phụ thuộc vào
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 28
chính môi trường nền kinh tế mà nó tồn taị; thật vậy một nền kinh tế tăng
trưởng vững chắc sẽ cung cấp cho thị trường những hàng hoá có chất lượng cao,
số lượng nhiều và chủ thể tham gia vào thị trường. Ngược lại một nền kinh tế
suy thoái hay kém năng động … thì sẽ tác động tiêu cực đến thị trường chứng
khoán. Số lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường sẽ ít và kém chất lượng. Khi
đó thì thị trường hoạt động kém hiệu quả và bất ổn. Hiện nay nên kinh tế Việt
Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển ổn định. Từ năm 2002 đến
nay hàng năm tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 7,7%/năm, mục tiêu trong năm
2008 là 8,3% và năm 2009 là 9,1% năm. Để đạt được tốc độ này đòi hỏi phải có
một lượng vốn đầu tư lớn vào nên kinh tế Việt Nam, chính điều này sẽ thúc đẩy
các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu, phát hành trái phiếu huy động vốn phục vụ
cho kế hoạch kinh doanh của mình. Vì vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước cũng như
các Bộ nghành cần phải làm sao duy trì tốc độ tăng trưởng vững chắc như hiện
nay, có chính sách khuyến khích đầu tư, tiêu dùng để kích cầu,...
2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp cổ phần:
2.1.Đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết chưa tham gia :
Để khơi thông sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường chứng khoán thì
chúng ta không thể không lôi khéo các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết vào
thị trường . Để thực hiện được điều này không hề đơn giản mà cần phải có sự lỗ
lực của cả hai phía đó là Nhà nưóc và các doanh nghiệp. Đối với các doanh
nghiệp phải thay đổi tư duy kinh tế: Đó là sự minh bạch tài chính,có chiến lược
trước hết là để tồn tại và sau đó phát triển trên thị trường ,các cán bộ của doanh
nghiệp phải thấy được vai trò to lớn trên thị trường chứng khoán ,phải thấy
được lợi ích mà thị trường mang lại còn những tiêu cực của thị trường thì chúng
ta phải nhận rõ để hạn chế nó chứ không thể để nó che mất đi lợi ích khi tham
gia thị trường . Phải từ bỏ chính sách bảo hộ, trợ cấp của Nhà nước bởi:
- Trong kinh tế thị trường các doanh nghiệp tự quyết định chiến lược kinh
doanh, hạch toán độc lập của mình.
- Nhà nước không phải lúc nào cũng có thể tạo ra những điều kiện thuận
lợi nhất cho doanh nghiệp hoạt động.
dựng được lòng tin với giới đầu tư .
2.2 Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần chưa đủ điều kiện niêm yết
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 29
Hiện nay con số này trong nền kinh tế là rất lớn và chủ yếu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nó chiếm tới 90% số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá, tồn
tại, kinh doanh dưới ở nhiều ngành nghề khác nhau . Các doanh nghiệp này làm
ăn năng động và khá có hiệu quả. Tuy nhiên để tham gia thị trường thì họ lại
không đủ điều kiện vì các doanh nghiệp này có vốn điều lệ khá nhỏ. Để giải
quyết vấn đề này thì Uỷ bán chứng khoán Nhà nước cần xem xét lại tiêu chuẩn
đựoc niêm yết. Giả sư vẫn để tiêu chuẩn niêm yết như hiện nay, nhưng đối với
các doanh nghiệp có từ 7-8 tỷ đồng vẫn cho niêm yết nhưng bắt họ phải cam kết
sau một thời gian nhất định phải đạt tối thiểu vốn điều lệ là 10 tỷ ( ví dụ sau 18
tháng). Điều này bắt buộc các doanh nghiệp phải làm do đó họ phải tiến hành
triển khai kê hoạch kinh doanh sao cho có hiệu quả để đạt mức vốn tối thiểu đề
ra, nếu không sẽ bị phạt.
3. Đẩy mạnh,nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tạo ra nguồn hàng hoá
cho thị trường chứng khoán sau này, vậy để thực hiện được điều đó chúng ta
phải có những giải pháp đồng bộ:
- Lựa chọn đúng doanh nghiệp Nhà nước để tiến hành cổ phần hoá. Đây
là công việc có ý nghĩa quyết định lựa chọn đúng giúp cho cổ phần hoá diễn ra
nhanh chóng đúng tiến độ mà còn làm cho xã hội quan tâm và việc bán cổ phần
thuận lợi. Vì thế cần động viên doanh nghiệp Nhà nước nào thấy mình có đủ
điều kiện cổ phần hoá thì chủ động đăng ký thực hiện. Điều kiện lựa chọn các
doanh nghiệp để cổ phần hoá cần phải theo những tiêu chuẩn khách quan như
mức lãi trên vốn Nhà nước qua một số năm nên là 3 năm ổn định sản phẩm đầu
ra được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận, có mức doanh thu bán hành
tương đối ổn định trong một số năm, tình hình công nợ không lưu cữu lâu năm
mà là nợ những năm gần nhất, nguồn gốc công nợ, khả năng thanh toán rõ ràng,
khả năng rõ rệt về sự quan tâm của xã hội và khả năng tiêu thụ cổ phiếu dễ
dàng.
- Làm tốt công tác tư tưởng trong công tác cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước trên địa bàn các cấp các ngành phải tuyên truyền giải thích trong
nhân dân chủ trương chính sách của Nhà nước về cổ phần hoá các doanh nghiệp
Nhà nước. Khuyến khích công nhân thấy được lợi ích khi tham gia cổ phần. Có
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 30
biện pháp thực sự cứng rắn đối với các doanh nghiệp làm chậm tiến trình để
hưởng lợi từ sự ưu đãi của nhà nước trong thời gian cổ phần.
- Công tác huy động mua cổ phần khi doanh nghiệp thực hiện cổ phần
hoá song song với việc tuyên truyền, Ban lãnh đạo các doanh nghiệp được cổ
phần hoá cũng phải phát huy sáng kiến trong việc huy đống vốn và sử dụng vốn
cũng như giải thích rõ quyển lợi và nghĩa vụ của cổ đông khi mua cổ.
- Ban hành các nghị quyết, nghị định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn thi
hành chỉ đạo đồng thời phải phối hợp với các cơ quan chính quyền địa phương
để triển khai. Chú trọng công tác bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, loại
bỏ hình thức cho vay ưu đãi, ưu tiên vay vốn, sử dụng tài nguyên đối với các
doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp không cần thiết, nhằm tạo ra môi
trường thúc đẩy các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và thị trường chứng
khoán.
Xây dựng hàng lang pháp lý đối với các công ty ĐMTN, đặc biệt là các
quy định liên quan đến công khai minh bạch thông tin, chế độ kiểm toán, kế
toán, quy định về quản trị công ty, các quy định về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
nói chung,… Trên nền tảng đó nên kinh tế sẽ minh bạch hơn và các công ty
niêm yết sẽ là các công ty hàng đầu thực sự đại diện cho nền kinh tế, còn các
công ty đại chúng không đủ điều kiện niêm yết sẽ được giao dịch tại thị trường
phi tập trung. Vấn đề liên quan phát sinh là phải thực hiện tốt công tác giám sát,
thực thi pháp luật với các tổ chức có chứng khoán được phát hành và giao dịch
rộng trong công chúng.
5. Phát triển các tổ chức tài chính trung gian
Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tài chính trung gian trên thị
trường nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn phát hành, niêm yết và định
gía chứng khoán. Đây là tổ chức làm chức năng phổ biến kiến thức về TTCK,
tuyên truyền, và tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán một các hiệu quả, dài
hơn cần phải xây dựng hàng lang pháp lý cho các công ty ĐMTN từng bước
xây dựng và hoàn thiện hành lang cho việc phát hành và giao dịch chứng khoán
phái sinh.
6. Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực cho thị trường chứng khoán Việt
Nam
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ
Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16 31
- Con người là chủ thể quan trọng nhất quyết định sự thành công của tổ
chức cũng như hoạt động của tổ chức đó. Do vậy đào tạo nguồn nhân lực cho
thị trường chứng khoán là giải pháp tối ưu nhất. Chúng ta nâng cao đạo đức
cũng như trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ cho thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó chúng ta phải tăng cường đào tạo đội ngũ trẻ cho thị trường chứng
khoán về chất cũng như về lượng bằng cách đưa môn thị trường chứng khoán
vào nghiên cứu giảng dạy tại các trường Đại học ,Cao đẳng và cần thiết chúng
ta có thể thành lập các khoa Thị trường chứng khoán tại các trường đặc biệt là
các trường thuộc khối kinh tế bởi vì đây là những nhân tố tiềm năng xây dựng
và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai .
- Phổ biến tuyên truyền kiến thức về thị trường chứng khoán cho các tổ
chức kinh tế, các nhà kinh tế, nhân dân hiểu rõ về chức năng cũng như vai trò
của thị trường. Từ đó sẽ tạo ra nguồn các nhà đầu tư chứng khoán cho thị
trường trong tương lai cũng như nguồn hàng hoá cung cấp cho thị trường chứng
khoán Việt Nam .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề án- Lý thuết tài chính tiền tệ.pdf