MỤC LỤC
Mở đầu
Nội dung
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản
I. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và mối quan hệ .
2. Các chỉ tiêu phản ánh.
3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH
II. Sự lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống, PLXH trong quá trình phát triển kinh tế của các nước
1. Quan điểm tăng trưởng trước , bình đẳng sau
2. Quan điểm ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng
3. Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng
III. Kinh nghiệm rút ra từ một số nước
IV. Quan điểm của Đảng về vấn đề tăng trưởng kinh tế với nâng cao đời sống và PLXH cho nhân dân
Chương II: Thực trạng về tăng trưởng kinh tế và đời sống vật chất , PLXH cho người dân ở Việt Nam
I. Đánh giá thực trạng
1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế
2. Thực trạng về đời sống và PLXH
II. Đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với nâng cao đời sống vật chất, PLXH ở nước ta
1. Những thành tựu đạt được
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Chương III: Phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất , PLXH ở nước ta
I. Phương hướng và mục tiêu phát triển KT-XH Việt Nam trong kế hoạch 2001-2005
1. Các mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
2. Các mục tiêu xã hội
II. Giải pháp
1. Phương hướng để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và PLXH
2. Các giải pháp chủ yếu.
Kết luận
MỞ ĐẦU
Kể từ sau đại chiến thế giới thứ hai, nền kinh tế thế giới có những bước tiến vượt bậc. Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, nó thôi thúc mọi quốc gia, mọi khu vực tham gia vào cuộc tranh đua quyết liệt vì sự phát triển. Trong cuộc đua ấy, sự tụt hậu về kinh tế sẽ đẩy đất nước ra khỏi quỹ đạo phát triển. Tuy nhiên không phải quỗc gia nào cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng để tham gia vào cuộc đua này, một số ít quốc gia sẽ nhanh chóng vươn lên trở thành giàu có và kéo theo một bộ phận dân cư cũng trở thành giàu có bỏ lại một số quốc gia tụt hậu đằng sau với đại bộ phận dân cư phải sống trong nghèo khổ. Thực tế chứng minh , theo thống kê Việt Nam năm 1996, hơn 30 năm qua, nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng rất cao, GNP/người tăng 3 lần, GNP toàn thế giới tăng 6 lần từ 4000 tỷ(năm 1960) lên 23000 tỷ (năm 1994). Tuy nhiên hố ngăn cách giàu nghèo cũng có xu hướng gia tăng. Khoảng ba phần tư dân số của các nước kém phát triển có mức thu nhập âm. Chênh lệch giữa các nước phát triển và các nước thế giới thứ ba về thu nhập tăng hơn 3 lần. Thu nhập của 20% dân số nghèo nhất thế giới chiếm 1,4% tổng thu nhập toàn thế giới còn 20% người giàu nhất lại chiếm tới 85% thu nhập thế giới quả là một sự chênh lệch quá lớn.
Trong vài thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với sự tiến bộ và CBXH được đặt ra mang tính chất toàn cầu bởi vấn đề này không chỉ cần thiết đối với các nước nghèo mà còn đối với tất cả những nước phát triển. Đặc biệt đối với nước ta, đây là giải pháp cần thiết, tất yếu trong sự nghiệp cải cách, đổi mới nhằm khắc phục tình trạng suy thoái kinh tế , sức ỳ và sự trì trệ xã hội do những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp ở nước ta. Là nhà hoạch định kinh tế trong tương lai, tìm hiểu về vấn đề này là rất thiết thực , vì vậy em chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH cho nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam”. Do khả năng còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót , em mong cô giúp đỡ để bài viết này của em được hoàn thiện hơn.
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2458 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và pháp luật xẫ hội cho nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm trong GDP của các nước là rất lớn như ở Malaixia chiếm 1/3 chi tiêu công cộng . Nếu tính theo HDI thì sự chênh lệch về mức độ phát triển nguồn lực đã thu hẹp từ năm 1970 (Tại năm 1970 HDI của người Mãlai chỉ bằng 70% của người Hoa nhưng đến 1991 là 82%). Việc chú trọng đầu tư vào giáo dục , chăm sóc sức khoẻ và dịch vụ xã hội khác đã làm cho HDI của người Mãlai tăng 1,5 lần so với người Hoa. Do đầu tư mạnh vào giáo dục, người lao động ở Malaixia có khả năng tiếp thu công nghệ mới, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước. Với Hàn Quốc, do chính phủ ý thức được sự cần thiết phải tạo ra các cơ hội bình đẳng cho con em của mọi tầng lớp dân cư, vì vậy giáo dục ở Hàn Quốc luôn luôn là nhân tố cơ bản, quan trọng trong việc tạo nguồn lực cần thiết cho phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật . Hàn Quốc là nước có tỉ lệ người biết chữ cao nhất thế giới và chính những người có trình độ học vấn cao đã là nhân tố cơ bản giúp Hàn Quốc vượt bậc trong những năm gần đây. Như vậy , Hàn Quốc và Malaixia coi giáo dục là yếu tố cơ bản cấu thành tăng trưởng .
IV/ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG, PLXH CHO NGƯỜI DÂN.
Đại hội IX đề ra mục tiêu : đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại .
Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là tập trung lực lượng , tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế đa thành phần. Quan điểm của Đảng ta là phát triển nhanh và bền vững , tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ , công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
* Phát huy cao độ mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm , ngành , lĩnh vực mà ta có lợi thế , đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng nhanh, cao hơn mức bình quân chung, đóng góp lớn vào tốc độ tăng trưởng của cả nước và lôi kéo , hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển . Tăng trưởng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng .
* Tăng trưởng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ , đẩy mạnh giáo dục và đào tạo , phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ tốt yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về kinh tế và công nghệ , tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm chủ lực .
* Phát huy nhân tố con người , mở rộng cơ hội cho mọi người đều có điều kiện phát huy tài năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng những thành quả phát triển; đồng thời có trách nhiệm góp sức thực hiện dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh , giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn , ở , đi lại , phòng và chữa bệnh , học tập , làm việc , tiếp nhận thông tin , sinh hoạt văn hoá.
* Phát triển kinh tế , xã hội phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên và xã hội . Chủ động phòng tránh và khắc phục tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và giải quyết hậu quả chiến tranh còn để lại đối với môi trường sinh thái . Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội ; tăng cường quản lí Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức của mọi người dân.
Chương II THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PLXH Ở VIỆT NAM
I/ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
1)Thực trạng tăng trưởng kinh tế .
Thời kỳ 1976-1985 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm thấp (2%) trong khi tốc độ tăng dân số bình quân là 2,4%, làm không đủ ăn , chủ yếu dựa vào nước ngoài , phân phối thu nhập đầu người rất thấp. Tại Đại hội VI Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế , chuyển đổi cơ cấu kinh tế , cơ chế quản lý kinh tế . Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế đã có những chuyển biến rõ rệt .
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 91-95 là 8,2% , 96-2000 là 6,7%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi : nếu như năm 1990 tỉ trọng công nghiệp /GDP là 22,7% , nông nghiệp là 38,7% , dịch vụ là 38,6% thì đến năm 2000 lần lượt là 36,9%, 24,2% , 38,9%, tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm.
Toàn bộ tích luỹ tài sản so với GDP được nâng từ 27,1% năm 1995 lên 29% năm 2000 (bình quân 5 năm 1996-2000 là 28,4%). Tỉ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 17,2% năm 1995 tăng lên 25% năm 2000. Tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm hơn 5% , tiêu dùng bình quân đầu người tăng hàng năm gần 4%.
Trong nông nghiệp sản lượng lúa tăng nhanh và vững chắc. Năm 1998 đạt 29,1 triệu tấn , tăng 4 triệu tấn so với năm 1995. Mức lương thực đầu người từ 280 kg năm 1987 tăng lên 408 kg năm 1998. Năm 1998 , sản lượng lương thực cả nước đạt gần 34,25 triệu tấn , bảo đảm an ninh lương thực tăng dự trữ và xuất khẩu. Năm 1999 , sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 440 kg. Cùng với sản xuất lương thực , các mặt hàng khác trong ngành trồng trọt , chăn nuôi đều có mức tăng trưởng khá.
Trong công nghiệp , tăng trưởng bình quân 5,9% giai đoạn 86-90 tăng lên 13,7% những năm 91-97 và 10,4% năm 1999. Các ngành thương mại , dịch vụ , vận tải , y tế , giáo dục cũng có tốc độ tăng trưởng cao.
2)Thực trạng về đời sống và PLXH .
2.1 Thực trạng về đói nghèo
Tổng số hộ đói nghèo năm 1998 là 2387050 hộ chiếm 15,7% tổng số hộ trên toàn quốc . Phần lớn số hộ nghèo sống ở vùng nông thôn (91,5%) trong đó tập trung đông nhất là ở khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh, đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảng 1 : Số hộ nghèo đói theo vùng
Vùng
1997
%
1998
%
1.Miền núi phía Bắc.
2.Đồng bằng sông Hồng.
3.Bắc Trung Bộ
4.Duyên hải miền Trung
5.Cao nguyên Trung Bộ
6.Đông Nam Bộ
7.Đồng bằng sông CửuLong.
Cả nước
638400
302460
544926
358260
180400
103900
493750
2622906
25,32
9,81
27,84
22,44
27,84
5,50
15,65
17,68
570445
272160
500225
291815
171915
91400
489090
2387050
22,39
8,38
24,62
17,80
25,65
4,75
15,37
15,70
Nguồn : Bộ Lao động thương binh và xã hội.
Phân tích số hộ đói nghèo theo các vùng cho thấy vùng 1,3 và 5 có tỉ lệ hộ đói nghèo năm 1998 còn trên 22%. Cả nước có 1715 xã đặc biệt khó khăn (trên 40% hộ nghèo trở lên và thiếu hoặc yếu kém hạ tầng cơ sở).
Để phản ánh mức độ đói nghèo và phát triển không đều giữa các vùng , có thể thông qua chỉ số phát triển theo vùng dựa trên các chỉ tiêu về số người đến trường, tuổi thọ bình quân và thu nhập ở các vùng, như sau(coi bình quân của toàn quốc là 100).
Bảng 2 : Chỉ số phát triển theo vùng
Vùng
Chỉ số
1.Miền núi phía Bắc
2.Đồng bằng sông Hồng
3.Bắc Trung Bộ
4.Duyên hải miền Trung
5.Tây Nguyên
6.Miền Đông Nam Bộ
7.Đồng bằng sông Cửu Long
89
114
88
96
99
128
93
Chỉ số này cho thấy rõ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng miền núi xa xôi hẻo lánh và kém phát triển ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ so với vùng miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng trù phú.
Sự phân cực giàu nghèo ngày càng tăng. Theo kết quả điều tra mức sống nhóm hộ có thu nhập cao so với nhóm hộ có thu nhập thấp chênh nhau 7,3 lần năm 1996 và tăng lên 11,26 lần (năm 1998) . Hệ số chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn hiện nay khoảng 5-7 lần. Mức thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn hiện nay mới chỉ bằng 50% thu nhập của dân cư thành thị.
Các chỉ tiêu về cải thiện đời sống còn rất thấp so với mục tiêu đề ra, đặc biệt là các chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (năm 1998 số trẻ suy dinh dưỡng còn 36,68% , tỉ lệ phát triển dân số còn ở mức 1,7%, miền núi phía Bắc , Tây Nguyên còn rất cao 2,5-3% , tỉ lệ biết chữ ở các vùng sâu , vùng xa chỉ vào khoảng 50% , ở nông thôn chỉ có 43% số hộ gia đình được dùng nước sạch ...)
Hàng năm số người phải cứu tế đột xuất do thiên tai, mất mùa vào khoảng từ 1-1,5 triệu người (1998 có 2,3 triệu người thiếu đói, trong đó đói gay gắt là 0,3 triệu) . Tỉ lệ tái đói nghèo năm 1998 khoảng 3,5-5% tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo.
Năm 1999, cả nước vẫn còn 34 vạn hộ nghèo. Theo chuẩn mực nghèo đói được công bố 1997, nước ta hiện còn khoảng 2,65 triệu hộ nghèo đói, chiếm tỉ lệ 17,7%, trong đó có300000 nghìn hộ thường xuyên thiếu đói ( chiếm 2%). Tổng số người nghèo đói là khoảng 14 triệu. Về xã nghèo ( có 40% số hộ nghèo đói trở lên ),hiện còn khoảng 1498 xã và 1168 xã thiếu hoặc chưa có các công trình cơ sở hạ tầng: điện , đường , trường học , trạm y tế , chợ , nước sạch . Khoảng 1,2 triệu người ở 987 xã cần được định canh định cư và 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cần được hỗ trợ trực tiếp. Thu nhập bình quân theo đầu người thành thị hàng tháng cao hơn nhiều lần so với nông thôn (năm 1995 là 2,6 lần , năm 1996 là 2,7 lần , năm 1997 là 2,8 lần . Nếu so sánh giữa thành phố lớn và nông thôn thì tỉ lệ trên là 3,3 lần, 3,5 lần , 3,7 lần). Khoảng cách thu nhập giữa 20% số hộ giàu và 20% số hộ nghèo bình quân hàng năm là 6,39 lần. Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao, ở thành thị khoảng 7-9%. Tình trạng đói nghèo ở nông thôn và các vùng ở nông thôn và các vùng bị thiên tai, rủi ro dẫn tới dòng người đi lang thang kiếm sống ở các thành phố và khu công nghiệp tăng lên.
2.2 Thực trạng về vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng
Vấn đề dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và tiềm ẩn không ít nguy cơ. Sản lượng lương thực của chúng ta tăng đều qua hàng năm, không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dư hàng triệu tấn để xuất khẩu. Thế nhưng một bộ phận gia đình nghèo, thu nhập thấp vẫn không có đủ lương thực để ăn. Tỉ lệ gia đình bị thiếu ăn kinh niên vẫn còn cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi , vùng dân tộc ít người. Nhìn chung, bữa ăn của người việt Nam hiện nay còn thiếu về số lượng( dưới ngưỡng cần thiết 2300 kcalo/người/ngày) và mất cân đối về chất lượng. Lượng tiêu thụ thức ăn động vật rất thấp, lượng sữa, hoa quả chín không đáng kể.Tỉ lệ ăn gạo quá cao và sự thiếu thực phẩm đa dạng trong bữa ăn dẫn đến thiếu đạm, thiếu nhiều chất dinh dưỡng(vitaminA,sắt ,iốt...).Ngược lại, một bộ phận các gia đình( chủ yếu là các đô thị ) bắt đầu giầu lên, có mức sống cao nhưng do thiếu kiến thức dinh dưỡng cần thiết nên ăn theo những khẩu phần không hợp lí . Tình hình vệ sinh thực phẩm ở nước ta đang ở mức báo động. Việc sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật không theo đúng qui định không những ảnh hưởng đến nền nông nghiệp phát triển bền vững mà còn làm ô nhiễm nguồn nước và để lại dư lượng hoá chất độc hại trong lương thực , thực phẩm. Nhiều loại thịt bán trên thị trường không qua kiểm tra thú y . Việc sản xuất các loại thức ăn chế biến sẵn, sản xuất các loại bánh kẹo , nước giải khát... bung ra không kiểm soát nổi về chất lượng.Các quầy hàng ăn uống mọc lên khắp nơi nhưng không bảo đảm những tiêu chuẩn vệ sinh tối thiểu.
2.3 Thực trạng về văn hoá-giáo dục
Có thể nói giáo dục - đào tạo là một mắt khâu quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước, nó quyết định tốc độ và chiều hướng phát triển trong việc thực hiện chiến lược ấy. Đánh giá về vai trò của giáo dục -đào tạo, Nghị quyết TW2 (khoá VIII) khẳng định : “Giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí , đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học , trung học và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu KT-XH và an ninh, quốc phòng.” Qua 3 lần mở chiến dịch chống nạn mù chữ : lần 1 (1945-1954) có 10 triệu người được xoá mù chữ, lần 2(1955-1959) ở miền Bắc đã xoá xong mù chữ,93% dân số từ 12- 50 tuổi biết đọc , biết viết, lần 3 (1975-1979), chủ yếu thực hiện ở miền Nam đã có 85% dân số trong độ tuổi biết chữ. Năm 1989, giáo dục phổ thông đã thống nhất trong cả nước bao gồm 12 năm. Một chương trình quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được triển khai từ năm 1990.
Ngân sách dành cho giáo dục tăng từ 6,21%(năm 1985) lên 9,4% (năm 1994) , 13%(năm 1999), đào tạo được 273 ngành trong số 579 ngành cần đào tạo sau đại học ; năm 1999 cả nước có hơn 9000 tiến sĩ và phó tiến sĩ, hơn 900000 người có trình độ đại học , cao đẳng, gần 4 triệu cán bộ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, có 4000 thợ bậc 7. Năm học 1997-1998 có 47 tỉnh , thành phố trong cả nước đạt chuẩn quốc giavề phổ cập giáo dục tiểu học; cả nước có 130 trường đại học , cao đẳng, 244 trường trung học chuyên nghiệp ,174 trường dạy nghề chính quy, hơn 500 trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp, 200 trường lớp dạy nghề dân lập , tư thục, 15 trường đại học dân lập với hơn 50000 sinh viên chiếm6,5% tổng số sinh viên cả nước. Trong vòng hơn 10 năm(1986-1998) số sinh viên các trường đại học tăng hơn 6,6 lần, riêng quy mô đào tạo không tập trung tăng hơn 10 lần. Riêng năm 1999, có 420000 học sinh tốt nghiệp PTTH, 100000 tốt nghiệp bổ túc văn hoá và 20000 thí sinh tự do thi vào đại học, cao đẳng. Năm học 1997-1998, cả nước có khoảng 22 triệu học sinh, sinh viên từ mầm non đến đại học. Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học , cao đẳng từ 10475 người (năm học1976-1977) đã tăng lên 23500 người (năm học1997-1998). Năm 1998, số học sinh nghèo được miễn phí là 682999 người với 1692638 triệu đồng, số học sinh được cấp sách giáo khoa là 352043 người với kinh phí 5782 triệu đồng. Theo ước tính , hàng năm có khoảng 50 vạn sinh viên đại học , cao đẳng , 10 vạn học sinh THCN và hơn 40 vạn học sinh học nghề ra trường, mỗi năm cung cấp cho xã hội khoảng 1 triệu lao động qua đào tạo ...
Nước ta có thành tích xoá mù chữ, nhưng nếu vào năn 1989 tỉ lệ biết chữ cả nước đối với nam là 93%, nữ 84% thì năm 1993 con số tương ứng là 91,4%, 82,41%. Như vậy tỉ lệ mù chữ mấy năm nay không giảm mà lại có chiều hướng tăng lên. Khi các chi phí cho việc học tập của con cái tăng, sự bao cấp của Nhà nước giảm , nhiều gia đình không có tiền để đóng góp lại đông con, nên phải cho con bỏ học , đặc biệt là các em gái. Hiện tượng bỏ học thường ở những năm chuyển cấp. Theo niên giám thống kê 1992, số học sinh trong nước đã giảm từ 13,3triệu(năm học 1986-1987) xuống còn 12,2 triệu(năm học 1989-1990), sau đó tăng lên 12,8 triệu(năm học 1991-1992) trong khi dân số hàng năm tăng và số trẻ em đến tuổi đi học các cấp đều tăng. Năm 1991 tỉ lệ bỏ học cấp I là 13,4%, cấp II là 32%. Các bậc cha mẹ cũng mong muốn con cái được học tập, có trình độ văn hoá để có cuộc sống đỡ khổ nhưng “lực bất tòng tâm”, họ không tạo được điều kiện, thời gian cho con cái học tập được vì trình độ văn hóa bị hạn chế và bận làm ăn, do đó các con cái của họ học kém , dốt, sẵn sàng bỏ học làm việc nhà .Như vậy, trình độ học vấn của người dân nhìn chung kém đi so với sự gia tăng dân số.
2.4 Thực trạng vấn đề bất bình đẳng .
Thứ nhất, về bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn trên toàn quốc. Với hơn 75% dân số sống ở nông thôn , tỉ trọng nông nghiệp trong GDP cao và tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng trong xuất khẩu cao, Việt Nam là một nước nông nghiệp với mức bất bình đẳng ở nông thôn thấp và thấp hơn ở thành thị. Sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn nhỏ , hệ số Gini của nông thôn và thành thị ước tính tương ứng là 0,29 và 0,30 (năm 1998).
Thứ hai , bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế –sinh thái cho nhiều điều đáng chú ý. Trước hết, sự chênh lệch giữa các vùng khá cao, từ 0,25 đến 0,37 đối với các vùng thuộc nông thôn và 0,25 đến 0,41 đối với các vùng thuộc thành thị (bảng 3). Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế , trong khi các yếu tố khác không đổi, những vùng kinh tế năng động , có nhiều thuận lợi trong tiếp cận và huy động các nguồn lực tăng trưởng , sẽ đi trước. Bảng 3 cho thấy quan hệ thuận giữa tốc độ tăng trưởng GDP và hệ số Gini. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng giữa các vùng ở khu vực nông thôn là rõ ràng. Đối với khu vực thành thị , quan hệ đó không rõ lắm. Tuy nhiên nếu liên hệ bất bình đẳng với mức độ năng động kinh tế của vùng (đo bằng tỉ lệ xuất khẩu của vùng/GDP) thì xu hướng trên vẫn được giữ vững (bảng 4): Tỉ lệ xuất khẩu /GDP đồng biến với hệ số Gini.
Bảng 3: Bất bình đẳng và tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 1992-1993
Hệ số Gini
Tăng trưởng GDP (%, 1993)
Nông thôn
Trung du Bắc Bộ
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Thành Thị
Trung du Bắc Bộ
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Duyên hải miền Trung
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng sông Cửu Long
Việt Nam
0,25
0,26
0,25
0,31
0,30
0,37
0,30
0,25
0,31
0,31
0,31
0,33
0,41
0,36
3,08
4,60
2,50
6,28
11,34
14,3
7,73
3,08
4,60
2,50
6,28
16,15
7,73
8,1
Nguồn :WB (1995)
Bảng 4: Tỷ lệ xuất khẩu trong GDP, 1992
Tỷ lệ xuất khẩu trong GDP (%)
Hệ số Gini nông thôn
Hệ số Gini thành thị
Trung du BắcBộ
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
0,4
0,9
1,0
2,6
1,6
5,9
4,9
0,25
0,26
0,25
0,31
0,30
0,37
0,30
0,25
0,31
0,31
0,31
-
0,33
0,41
Nguồn :TCTK (1997),WB(1995).
II/ ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA TTKT VỚI NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ PLXH Ở NƯỚC TA.
1) Những thành tựu đạt được .
1.1 Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nền kinh tế đã đạt được mức tăng trưởng khá cao nhờ đó đời sống của nhân dân nói chung được cải thiện rõ rệt so với trước.
a/.Về công tác xoá đói giảm nghèo .
Việc xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh (tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 20% năm 1995 còn 11% năm 2000), đạt được mục tiêu đề ra và nước ta được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỉ lệ nghèo đói tốt nhất.
Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn và ngay trong những năm kinh tế giảm sút, chúng ta đã thực hiện mạnh mẽ hơn các chính sách bảo đảm xã hội (nâng lương tối thiểu , tăng phụ cấp hưu trí ...), mức sống của cán bộ viên chức , người về hưu, gia đình có công với cách mạng đã được nâng lên một bước. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Mức tiêu dùng bình quân đầu người tính theo giá hiện hành tăng từ 2,6 triệu đồng năm 1995 lên 4,3 triệu đồng năm 2000. Mỗi năm tạo thêm 1,2-1,3 triệu việc làm mới . Tỉ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của nước ta) giảm từ trên 30% xuống 11%.
b/.Về công tác y tế – sức khoẻ cộng đồng.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ , đặc biệt là trong lĩnh vực y tế dự phòng. Các chỉ số sức khoẻ cộng đồng được nâng lên .
Chúng ta đã giảm hẳn được tỉ lệ mắc các thể suy dinh dưỡng nặng như suy dinh dưỡng thể phù , thể teo đét, bệnh khô mắt do thiếu vitamin A gây mù loà....Các thể suy dinh dưỡng vừa và nhẹ cũng giảm rõ rệt . Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 38% (năm 1995) xuống 33-34% (năm 2000). So với các nước như Thái Lan , Trung Quốc thì ta không bằng nhưng so với nhiều nước Nam á (mà ấn Độ , Bănglađet là chính) thì ta khá hơn.
Các bệnh bại liệt , uốn ván sơ sinh cơ bản được thanh toán vào năm 2000. Các bệnh sốt rét , bướu cổ năm 2000 đã giảm gần 60% so với năm 1995. Một số bệnh viện được nâng cấp , cải tạo hoặc xây dựng mới ; hầu hết các xã đã có trạm y tế. Trung tâm y tế chuyên sâu ở Hà Nội và T.p Hồ Chí Minh được hình thành bước đầu, trang thiết bị y tế đã được nâng cấp ở các tuyến. Các chính sách về bảo hiểm y tế và chế độ thu một phần viện phí đã góp phần khắc phục những khó khăn của ngành.
c/.Về văn hóa-giáo dục.
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng , hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
Từ một nước có hơn 95% số người mù chữ đến nay chỉ còn 9% dân số mù chữ. Đến hết năm 2000 có 100 tỉnh , thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện chương trình phổ cập THCS. Qua 3 lần cải cách giáo dục (1950,1956,1979) đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân đã bao gồm đủ các bậc học : tiền học đường , tiểu học , trung học, đại học và sau đại học. Quy mô học sinh tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học , ngành học , đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân . Phong trào học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật , nghiệp vụ quản lý, ngoại ngữ tăng nhanh đặc biệt là ở những vùng trước đây chưa phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp , cải thiện. Hầu hết các xã , kể cả các xã vùng cao đã có trường tiểu học, phần lớn các xã ở đồng bằng có trường THCS. Hệ thống các trường dân tộc nội trú tỉnh, huyện được củng cố và mở rộng. Mạng lưới các trường đại học , cao đẳng , các trường chuyên nghiệp , dạy nghề đang từng bước được tổ chức , sắp xếp lại .
Chất lượng giáo dục-đào tạo có chuyển biến bước đầu. Số đông học sinh , sinh viên có năng lực tiếp thu nhanh các kiến thức. Tỉ lệ giáo viên phổ thông đạt tiêu chuẩn tăng lên. Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng giáo dục được cải tiến.
Tóm lại: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với nâng cao đời sống xã hội đã làm giảm bớt bất bình đẳng trong xã hội, sự tiến bộ của con người thể hiện một cách rõ rệt: năm 1996 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,54 xếp thứ 121/174, nhưng đến năm 1999 chỉ số HDI là 0,664 đã tăng 11 bậc so với năm 1996 tức là đứng thứ 110/174 nước, trong khi đó chỉ số HDI của 3 nước đứng đầu và cuối là:
Canada 0,932
Nauy 0,927
Mỹ 0,927
Xiera 0,254
Nigie 0,298
Etiopia 0,298
Như vậy chỉ số HDI của Việt Nam là ở mức trung bình so với nước xếp hạng.
1.2 Tăng trưởng kinh tế đã đi đôi với vấn đề phân phối thu nhập.
Theo kết quả khảo sát do Viện Xã hội học ( Trung tâm KHXH & NVQG) tiến hành từ tháng 10-1992 đến tháng 11-1994 tại một số địa phương thì tình hình phân phối thu nhập như sau:
Bảng 5: Hệ số Gini và thu nhập trung bình đầu người một tháng ở các địa phương.
Địa phương
Hệ số Gini
Thu nhập trungbình (đ)
Thành phố Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Cần Thơ
Thành phố Đà Nẵng
Thị xã Hải Dương
Nông thôn Cần Thơ
Nông thôn Quảng Nam-Đà Nẵng
Nông thôn Hải Hưng
Chung
0,44
0,35
0,32
0,29
0,25
0,40
0,70
0,27
0,34
224520
491390
265580
148300
181900
188430
135370
100590
165000
Với chỉ số Gini là 0,34 , mặc dù báo cáo khảo sát không nói rõ phương pháp cụ thể để tính toán chỉ số này, nhưng cũng gần sát với kết quả tính toán hệ số Gini toàn quốc theo Tổng điều tra mức sống của Tổng cục thống kê là 0,36; có thể xem đây là mức chênh lệch tương đối thấp về phân phối thu nhập.Kết quả này về cơ bản cũng phù hợp với báo cáo của Oxfam International qua khảo sát số liệu của thời kỳ 1980-1993 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6: Tăng trưởng và công bằng – Một so sánh quốc tế.
Nước
Tăng trưởng thu nhập/người (%/năm-1980-1993
Hệ số Gini (Trung bình từ năm 1980-nay)
Đông á
6,2
0,36
Hàn Quốc
Trung Quốc
Đài Loan
Việt Nam
Xingapo
Thái Lan
Inđônêxia
Malaixia
Philippin
Ấn §é
B¨ngla®Ðt
Mü Latinh
8,2
7,8
6,1
6,1
6,4
6,6
5,4
5,5
-1,4
3,0
2,0
-0,2
0,29
0,28
0,32
0,34
0,37
0,43
0,30
0,41
0,47
0,33
0,35
0,52
H¹ Sahara
-1,2
0,44
Theo b¸o c¸o nµy ,râ rµng lµ ViÖt Nam thuéc vµo nhãm c¸c níc võa cã tèc ®é t¨ng trëng cao , l¹i võa cã ®é chªnh lÖch thÊp trong ph©n phèi thu nhËp (hÖ sè Gini nhá h¬n 4).
2) Những hạn chế và nguyên nhân:
2.1 Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu vẫn còn những mặt yếu kém , bất cập , chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của nhân dân và đất nước.
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây chậm dần. Năm 2000 có chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt được tốc độ tăng trưởng cao như giữa thập kỷ 90. Nền kinh tế còn kém hiệu quả và sức cạnh tranh. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế và sức mua trong nước còn thấp , cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Xu hướng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống kế hoạch , tài chính, ngân hàng đổi mới và phát triển chậm, chất lượng thấp , chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Cơ chế , chính sách phân phối còn nhiều mặt chưa hợp lý, chưa tạo được động lực thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư phát triển.
- Sự nghiệp giáo dục-đào tạo nước ta đang đứng trước những khó khăn , mất cân đối và mâu thuẫn cần khắc phục. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu học của xã hội với khả năng đáp ứng của ngành , giữa nhu cầu phát triển với kinh phí Nhà nước và sự huy động các nguồn lực cho giáo dục-đào tạo , giữa cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư, giữa cơ cấu giáo dục và cơ cấu KT-XH , giữa lý thuyết và thực hành, giữa đào tạo và sử dụng,....Trình độ học vấn ở một số vùng còn quá thấp. Các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục vẫn còn nhiều, nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn nhân lực.
Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa tuy có phát triển nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Chi phí học tập còn cao so với khả năng thu nhập của dân cư, quy chế đóng góp chưa rõ ràng, hợp lý là trở ngại lớn đối với học sinh, nhất là các gia đình nghèo.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới ở mức dưới 20% (so với 50% trở lên ở nhiều nước ) làm cho khả năng tiếp thu kỹ thuật , công nghệ mới gặp nhiều khó khăn.
- Nhiều vấn đề xã hội đặt ra rất bức xúc. Lực lượng lao động tăng tự nhiên mỗi năm khoảng 1,2 triệu người, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn ở mức 7,4% ( khoảng 1 triệu người ) và tình trạng thiếu việc làm nông thôn còn khá cao, đang trở thành vấn đề gay gắt , nổi cộm nhất hiện nay. Bất bình đẳng trong thu nhập ở nông thôn và thành thị khá cao( khoảng 7 lần).
Đời sống của nhân dân ở một số vùng sâu , vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn rất khó khăn. Vấn đề dinh dưỡng hiện nay còn nhiều thách thức: Một là các vấn đề sức khoẻ do thiếu dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm như suy dinh dưỡng trẻ em, các bệnh do thiếu vi chất dinh dưỡng (đặc biệt là thiếu vitamin A, iốt , sắt,...) ; hai là sự gia tăng nhanh các bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng như béo phì , đái đường , một số bệnh tim mạch,... trong điều kiện nền kinh tế phát triển.
Tỷ lệ đói nghèo trong toàn quốc mấy năm gần đây tuy đã giảm mạnh nhưng chưa vững chắc, nếu gặp thiên tai , mất mùa thì nhiều hộ vẫn có thể rơi vào tình trạng đói nghèo trở lại.
Tình trạng buôn lậu , gian lận thương mại và tệ tham nhũng không giảm. Các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nhất là nạn ma tuý, tiếp tục tăng và lan rộng đang là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng lớn đến trật tự , an toàn xã hội. Cuộc đấu tranh chống các thói hư , tật xấu , nọc độc văn hoá, hủ tục mê tín dị đoan, thoái hoá đạo đức,... còn mang nhiều tính hình thức, chậm đưa lại hiệu quả thiết thực.
Cơ sở vật chất của ngành y tế tuy có được cải thiện nhưng vẫn thiếu thốn và lạc hậu, nhất là ở tuyến huyện , xã. Tình hình dịch bệnh cục bộ vẫn xảy ra ở một số nơi, số người nhiễm HIV tiếp tục tăng. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vẫn là vấn đề nổi cộm hiện nay.
Môi trường đô thị, khu công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Cơ chế chính sách về môi trường còn bất cập , nhận thức về bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư còn nhiều hạn chế.
2.2 Nguyên nhân:
- Tiềm lực kinh tế còn yếu kém: Sau nhiều năm xây dựng và phát triển , nền kinh tế đã có bước tăng trưởng nhất định nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ bé, thu nhập bình quân đầu người thấp. Cơ sở hạ tầng hiện có mới chỉ ở mức trung bình của các nước đang phát triển , chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu hiện tại, chưa thể đáp ứng được cho tương lai. Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa quan trọng nhưng lại bị hạn chế rất nhiều. Các công trình thuỷ lợi kém về chất lượng , thiếu về số lượng gây khó khăn cho bà con khi gặp bão lũ, năng lực tưới tiêu rất thấp. Trong các doanh nghiệp trình độ máy móc, công nghệ còn lạc hậu nên năng suất lao động và hiệu quả thấp, chưa tận dụng hết tiềm năng và công suất. Việc huy động vốn là rất khó khăn do Nhà nước có rất nhiều khoản chi khác, do vậy nguồn đầu tư phụ thuộc nhiều vào tích luỹ nội bộ và đầu tư nước ngoài nhưng tích luỹ nội bộ thấp , đầu tư nước ngoài bị hạn chế.
- Hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp: Mặc dù có rất nhiều tiềm năng về đất đai, tài nguyên và nguồn lao động nhưng việc sử dụng chúng đem lại hiệu quả thấp. Trong tổng diện tích đất tự nhiên , đất trồng lúa chỉ chiếm 4,2 triệu ha. Đất gieo cấy trong năm chỉ có 153366 ha chiếm 3,6% tổng diện tích trồng lúa. Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng nhưng thời gian qua do khai thác quá mức nên đất đai bị xói mòn ,canh tác không hiệu quả. Lợi thế và tiềm năng của các vùng kinh tế chưa phát huy được là bao. Các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động nhưng do nhiều lý do khác nhau nên các khu công nghiệp chưa phát huy được tác dụng. Sự phát triển các thành phần kinh tế , đa dạng hoá các hình thức sở hữu do triển khai thiếu đồng bộ , không lành mạnh cho nên hiệu quả không cao. Kinh tế ngoài quốc doanh tuy được khuyến khích nhưng lại tăng trưởng chậm , có xu hướng giảm dần qua các năm do ít vốn , máy móc cũ kỹ , kinh nghiệm quản lý chưa cao, sức cạnh tranh thấp. Các cơ quan Nhà nước có sự thiên vị giữa doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi mở rộng quy mô sản xuất . Sức cạnh tranh hoạt động kinh tế đối ngoại chưa tương xứng với khả năng . Kim ngạch xuất khẩu nhỏ bé chủ yếu dựa vào xuất khẩu sản phẩm thô và qua sơ chế nên khả năng thu lời không cao. Hiệu quả kinh tế của các ngành , lĩnh vực then chốt như vậy làm năng suất lao động xã hội không cao, tích luỹ bị hạn chế về quy mô và trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế .
- Những bất cập về con người : Nền kinh tế chuyển dịch chậm, cơ chế quản lý chưa theo kịp tiến trình đổi mới , năng suất lao động thấp và hiệu quả kinh tế thấp , tệ nạn xã hội gia tăng đều có nguyên nhân là do sự hiểu biết kém của con người . Do xuất phát điểm thấp , những năm dài ở cơ chế tập trung để lại hậu quả nặng nề cho đội ngũ cán bộ , công nhân ỷ lại , cường quyền , chậm đổi mới , không chịu học hỏi . Hiện nay đang thiếu những chuyên gia kinh tế và đội ngũ quản lý giỏi , đội ngũ công nhân có tay nghề . Mặc dù ta đã tiến hành cải cách bộ máy quản lý hành chính nhưng chưa có hiệu quả . Công cụ quan trọng để phát triển kinh tế là kế hoạch định hướng nhưng các kế hoạch hiện nay vạch ra chỉ mang tính cân đối hiện vật , các chỉ tiêu được xây dựng trên tư duy chủ quan . Trình độ tay nghề của người lao động ở mức thấp , chủ yếu là lao động phổ thông , số người qua đào tạo là ít . Trong kinh tế thị trường mở cửa người lao động không biết nghề thì rất khó cho họ khi tìm việc làm và nền kinh tế khó phát triển nhanh. Như vậy, thiếu hụt về nhân tố con người đang là trở ngại lớn cho phát triển kinh tế .
Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, PLXH Ở NƯỚC TA.
I/ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KT-XH VIỆT NAM TRONG KẾ HOẠCH 2001-2005.
1) Các mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm ít nhất là 7% . Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995.
- Giá trị sản xuất nông, lâm , ngư nghiệp tăng trên 4%/năm .
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng trên 12%/năm.
- Giá trị dịch vụ tăng trên 7%/năm.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 12-14,5%.
- Lạm phát dự kiến 5-6%.
Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến :
- Tỷ trọng nông , lâm, ngư nghiệp 20-21%.
- Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39%.
- Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41-42%.
Dự kiến cơ cấu lao động trong tổng số lao động có việc làm đến năm 2005:
- Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp 56-57%.
- Lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng 20-21%.
- Lao động trong lĩnh vực dịch vụ 23-24%.
2) Các mục tiêu xã hội .
- Tỉ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỉ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 40% vào năm 2005. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục giáo dục trung học cơ sở.
- Giảm tỉ lệ sinh bình quân hàng năm 0,4-0,5‰ ; tốc độ phát triển dân số vào năm 2005 khoảng 1,23%.
- Tạo việc làm , giải quyết thêm việc làm cho 7,5-8,0 triệu lao động, bình quân 1,5-1,6 triệu lao động /năm ; nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
- Cơ bản xoá hộ đói , giảm tỉ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam) xuống còn 5% vào năm 2005.
- Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh sản xuất trong nước, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 20-25% vào năm 2005. Nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi.
- Cung cấp nước sạch cho 80% dân số nông thôn.
II/ GIẢI PHÁP
1 ) Phương hướng để giải quyết tốt mối quan hệ.
Một là , thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết PLXH . Phát triển kinh tế với tốc độ cao là điều kiện cần thiết để đảm bảo PLXH , ngược lại giải quyết tốt các vấn đề PLXH sẽ tạo nên sự ổn định và tạo động lực cho phát triển kinh tế , góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của xã hội .
Cần khắc phục quan niệm hẹp hòi cho rằng PLXH chỉ là hoạt động cứu tế, bảo hộ, trợ cấp , giúp đỡ cho những người khó khăn.Thực tế các yêu cầu PLXH sẽ chi phối cân bằng cung , cầu xã hội , chi phối các kế hoạch phát triển kinh tế . Hiện tại các vấn đề xã hội ở nước ta chưa được xem xét toàn diện, đồng thời với các vấn đề kinh tế , nhất là trong các dự án đầu tư. Bên cạnh các biện pháp nhằm đổi mới nhận thức, cần có một hệ thống chính sách , các quy chế của Nhà nước để khắc phục tình trạng này.
Hai là , thực hiện tốt việc xã hội hoá các vấn đề PLXH . Trước đây trong thời kỳ bao cấp , chúng ta cho rằng Nhà nước phải đứng ra chăm lo giải quyết các vấn đề PLXH . Nhưng thực tế ở nước ta, cũng như kinh nghiệm của nhiều nước khác cho thấy Nhà nước không đủ sức bao sân , mà PLXH phải là sự nghiệp của cả nước, cộng đồng , gia đình và cá nhân cùng tham gia đóng góp , xây dựng. Nhà nước phải có quỹ PLXH dồi dào, phân phối công bằng , hợp lý. Vấn đề bộ máy và quản lý là rất quan trọng. Bộ máy phải có hiệu lực và hiệu quả cao, cán bộ có tài , có đức được nhân dân nể trọng.
Ba là , đa dạng hình thức và phong phú về loại hình nhưng mục tiêu phải thống nhất: các hoạt động PLXH đều là hoạt động phi lợi nhuận,đều phấn đấu cho chất lượng, hiệu quả phục vụ cao. Cần phải khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường vào các lĩnh vực xã hội , nhất là khuynh hướng thương mại hóa thuần tuý trong tổ chức các hoạt động PLXH .
Bốn là , cần có chiến lược, cơ chế , chính sách để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và mở rộng PLXH . Chỉ có trên cơ sở phát triển kinh tế mạnh mẽ và vững chắc mới có điều kiện để thực hiện mở rộng và nâng cao chất lượng PLXH .
Chiến lược PLXH phải toàn diện , có bước đi thích hợp và tương thích với phát triển kinh tế . Trên phạm vi toàn xã hội cũng như trong từng phương án đầu tư, phải quán triệt quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội để có tỷ lệ hợp lý cho đầu tư giải quyết các vấn đề xã hội cũng như các vấn đề kinh tế . Khuyến khích các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia cung cấp các dịch vụ y tế , văn hóa, giáo dục , thể dục thể thao, giới thiệu việc làm và đa dạng hoá các hình thức hoạt động trong các lĩnh vực đó .
Năm là, tăng cường quản lý Nhà nước đối với công tác PLXH . Cần đưa ra chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển các lĩnh vực phúc lợi, các văn bản pháp quy, hệ thống cơ chế chính sách , những quy định và công tác kiểm tra , kiểm soát....Ngoài chức năng định hướng , kiểm soát , Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động phúc lợi cụ thể ở từng lĩnh vực và địa điểm cụ thể.
Sáu là , tổ chức tốt việc đào tạo bồi dưỡng toàn diện cho cán bộ làm công tác PLXH .Chương trình đào tạo phải triển khai trên cả 2 mặt : rèn luyện đạo đức nghề nghiệp và học tập chuyên môn. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ , học tập kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng chiến lược, kế hoạch giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và mở rộng, nâng cao chất lượng PLXH , xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách , lựa chọn và phát triển các hình thức tổ chức PLXH .
2) Các giải pháp chủ yếu .
2.1 Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
- Đối với khu vực thành thị:
Khu vực thành thị bao gồm các trung tâm đô thị, thị trấn và các khu công nghiệp , do có nền tảng phát triển nên cơ chế đầu tư chủ yếu là huy động từ cộng đồng và vốn vay, tạo nên thị trường nội địa vùng làm đầu mối giao lưu giữa các vùng trong toàn quốc . Trong thời gian tới tiếp tục thực hiện các chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn nhất là ở các địa bàn có điều kiện lập khu chế xuất , khu công nghiệp tập trung . Từng bước cải thiện cơ chế pháp lý để các doanh nghiệp trong và ngoài nước tích cực tham gia vào các khu công nghiệp . Phát triển các tập đoàn sản xuất mạnh của Nhà nước ở các vùng hoặc trên quy mô cả nước. Nếu như kinh tế ở khu vực này tăng trưởng mạnh sẽ tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế ở nông thôn.
- Đối với khu vực nông thôn:
Khu vực này bao gồm các vùng đệm ở giữa các đô thị , vùng sâu, vùng xa. Đây là khu vực tập trung đại bộ phận dân cư đói nghèo có thu nhập thấp. Để tránh sự tụt hậu cần nâng cao trình độ dân trí , tiến tới xoá đói giảm nghèo đưa nền kinh tế dần tăng trưởng mới hy vọng giảm thiểu khoảng cách .
2.2 Giải pháp về phân phối thu nhập ,việc làm , giảm nghèo đói.
a/. Về phân phối thu nhập .
Phân phối lại thu nhập trong các tầng lớp dân cư.Tăng trưởng kinh tế luôn gắn với công bằng xã hội là chủ trương của ta. Công bằng xã hội thể hiện ở cả phân phối tư liệu sản xuất hợp lý lẫn kết quả sản xuất cũng như việc tạo điều kiện phát triển toàn năng của mọi thành viên. Thực hiện nhiều hình thức phân phối , lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác như vốn , tài sản , tri thức, sáng kiến kỹ thuật vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua PLXH đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi người lao động. Nhà nước thông qua các sắc thuế đặc biệt là thuế thu nhập để giảm bớt chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và huy động sự đóng góp của người có thu nhập cao vào sự phát triển xã hội .
b/. Về vấn đề việc làm .
Đẩy mạnh các biện pháp giải quyết việc làm vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp thiết trong giai đoạn tới . Cần tổ chức lại toàn bộ lao động xã hội để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế .Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ là chính với việc phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xúc tiến hợp tác lao động với nước ngoài , tổ chức “đào tạo” lại đội ngũ lao động hiện có và phổ cập nghề nghiệp cho lao động xã hội (thanh niên ) nhằm hình thành đội ngũ lao động có cơ cấu , số lượng và chất lượng phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và đòi hỏi của thị trường , coi trọng và khuyến khích các hình thức thu hút nhiều lao động và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
c/. Về công tác xoá đói giảm nghèo .
c.1 Hỗ trợ trực tiếp hộ nghèo đói
Hỗ trợ tín dụng cho khoảng 2,65 triệu hộ nghèo đói vay với mức bình quân 2 triệu đồng /hộ, lãi suất thấp , không cần thế chấp .
Hướng dẫn cách làm ăn và chuyển giao kỹ thuật cho người nghèo, tạo cho họ kiến thức và kinh nghiệm sản xuất , tiêu thụ sản phẩm .
Hỗ trợ cho 375000 hộ đói nghèo thiếu đất hoặc không có đất sản xuất ở nông thôn do cầm cố , chuyển nhượng , ...có lại đất để sản xuất thông qua các biện pháp : cấp mới , giao đất giao rừng , chuộc lại đất v.v...
Hỗ trợ người nghèo trong dạy nghề , tạo việc làm(gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn ), trong các chính sách về giáo dục , y tế như miễn giảm học phí , cấp học bổng , sách , vở học tập cho gần 2 triệu học sinh con em các hộ nghèo đói , ...
Hỗ trợ lương thực , thực phẩm , thuốc chữa bệnh ... cho 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn và gần 1,1 triệu người trong diện vận động định canh, định cư các điều kiện sản xuất ổn định và nâng cao mức sống.
c.2 Hỗ trợ trực tiếp xã nghèo .
Gồm hỗ trợ đầu tư 7 công trình cơ sở , hạ tầng thiết yếu : điện , đường ô tô, trường học , bệnh xá, chợ , nước sạch, trên nguyên tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm . Trong đó tập trung ưu tiên hỗ trợ cho 1000 xã nghèo nhất thuộc khu vực miền núi , biên giới , hải đảo.
c.3 Tạo nguồn lực.
Các hình thức huy động vốn cho chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo cần được đa dạng hóa , từ nhiều nguồn khác nhau, gồm : vốn trích từ ngân sách trung ương và địa phương; vốn huy động cộng đồng và các tổ chức kinh tế –xã hội thông qua Ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ xoá đói giảm nghèo, đồng thời Bộ lao động – Thương binh – Xã hội phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu việc phát hành trái phiếu xoá đói giảm nghèo ; vốn từ lao động công ích của nhân dân và có thể thu hút sự tham gia của lực lượng vũ trang trên địa bàn ; vốn lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác và nguồn vốn từ hợp tác quốc tế(chính phủ và phi chính phủ), trong đó có nguồn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới .
c.4 Một số giải pháp khác.
Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy chỉ đạo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo từ trung ương đến phường , xã . Xây dựng quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo chương trình ở các cấp . Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức , đoàn thể thành viên trong việc lập danh sách, huy động nguồn lực , vận động xây dựng phong trào v.v...đồng thời , phải phân công cụ thể , phát huy vai trò của tất cả các cấp , các ngành có liên quan đến công tác xoá đói giảm nghèo.
Tăng cường đào tạo , tập huấn nâng cao trình độ , năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách xoá đói giảm nghèo các cấp , đặc biệt là cán bộ xã , phường.
Tổ chức lồng ghép có hiệu quả xoá đói giảm nghèo với các chương trình mục tiêu khác có nội dung liên quan đến xoá đói giảm nghèo như: chương trình 327, chương trình việc làm , nước sạch và vệ sinh môi trường v.v....nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp , tiết kiệm nguồn lực , nâng cao hiệu quả đầu tư đối với mỗi chương trình.
2.3 Giải pháp liên quan đến các lĩnh vực xã hội .
a/. Phát triển giáo dục - đào tạo
Nếu muốn xoá bỏ bất bình đẳng ở nông thôn thì không thể bỏ qua vấn đề giáo dục - đào tạo . Cụ thể có các chính sách hỗ trợ con em dân tộc , gia đình nghèo có điều kiện đi học , phát triển hơn nữa các trường nội trú , bán trú, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên bằng các chính sách đãi ngộ khuyến khích , mở rộng hơn nữa các trường dạy nghề ở địa phương, tăng nhanh tỷ trọng dạy nghề dưới đại học, phát triển các trường đại học, cao đẳng ở địa phương để đáp ứng nhu cầu học tập và phát huy nguồn nhân lực tại chỗ,…
Đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhằm huy động được tối đa số lượng người tham gia học tập, mở rộng các cơ hội học tập cho mọi người .
Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, nâng dần chất lượng để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên ở tất cả các cấp đặc biệt là dạy nghề .
Tuyển chọn , bồi dưỡng , sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo . Tăng cường thanh tra, kiểm tra để đảm bảo tính công bằng , dân chủ .
b/.Tăng cường công tác kế hoạch hoá gia đình.
Một trong những nguyên nhân của nghèo đói là dân số tăng nhanh, mọi nhu cầu chăm sóc phụ nữ , trẻ em không được đáp ứng nhất là với gia đình đông con. Vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta phải thực hiện tốt công tác dân số , giảm tỉ lệ tăng dân số thì tăng trưởng kinh tế mới đạt hiệu quả cao.
c/.Giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.
Thực hiện phương châm bảo đảm trẻ em sinh ra khoẻ mạnh , đủ cân , được chăm sóc để không bị suy dinh dưỡng là chính .Do đó các hoạt động cần tập trung vào chăm sóc người mẹ có thai để giảm nguy cơ trẻ sinh ra bị thiêú cân , thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý.
Thực hiện tích cực một nhóm các hoạt động chăm sóc tối thiểu tại hộ gia đình cho các đối tượng bà mẹ có thai và cho con bú , trẻ em dưới 2 tuổi (nuôi con bằng sữa mẹ, uống vitamin A….)
Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thông nhằm nâng cao nhận thức chung của cộng đồng về vấn đề này, đồng thời với việc hướng dẫn các hành vi cụ thể thích hợp với các đối tượng, các vùng sinh thái khác nhau.
Củng cố màng lưới giám sát dinh dưỡng ở các cấp , coi các chỉ tiêu về tình trạng dinh dưỡng trẻ em nằm trong yếu tố các chỉ tiêu cơ bản về phát triển kinh tế –xã hội .
Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng đòi hỏi phải được xã hội hoá cao.
d/.Về môi trường.
Phải gắn chặt chính sách kinh tế với chính sách bảo vệ môi trường, huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp dân cư , của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội vào lĩnh vực bảo vệ môi trường , tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về môi trường , các chính sách môi trường thích hợp , nhất là chính sách thuế , phí môi trường , các loại quỹ môi trường….
e/. Chống tham nhũng, buôn lậu.
Đây là các hoạt động có ảnh hưởng tiêu cực đến công bằng xã hội góp phần tăng nhanh sự phân hoá giàu nghèo .Nhiều người giàu lên nhờ làm ăn bất chính . Sự giàu lên này gắn với ngân sách thất thoát do đó các khoản đầu tư vào các dịch vụ công cộng bị giảm , xói mòn kỷ cương.Đó là mặt trái của cơ chế thị trường. Nếu không có biện pháp sẽ tạo căng thẳng trong xã hội , mọi chính sách kinh tế bị vô hiệu hoá , lòng tin của người dân giảm sút.
f/.Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ ở khu vực nông thôn như y tế , giáo dục , xây dựng cơ sở hạ tầngv.v…Những dịch vụ này khi đến với người có nhu cầu sẽ làm tăng lợi ích cho xã hội . Hơn nữa các hộ gia đình nhiều khi không bảo vệ được mình trong rủi ro như thiên tai , ốm đau…Vì vậy Nhà nước cần giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra mạng lưới bảo hiểm để bảo vệ họ trước rủi ro. Việc cung cấp các dịch vụ này một cách bình đẳng vừa đem lại công bằng xã hội vừa đem lại hiệu quả rất thiết thực, nó đóng góp vào mục đích tăng trưởng lâu bền và giảm đói nghèo .Chỉ có chính phủ mới thực hiện các dịch vụ này một cách có hiệu quả vì tư nhân khó có thể làm được.Do vậy chính phủ phải đứng ra thực hiện các hoạt động này nhưng do ngân sách hạn hẹp vì vậy cách tốt nhất để thực hiện là chính phủ và nhân dân cùng làm. Nếu như các hoạt động này được thực hiện tốt nó sẽ đóng góp rất lớn vào quá trình thực hiện giảm bất bình đẳng ở khu vực nông thôn.
KẾT LUẬN
Tóm lại , tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất , PLXH là một trong những mối quan hệ cơ bản , điển hình nhất của quá trình phát triển . Có thể nói thực chất của quan điểm phát triển hiện đại là tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội . Tăng trưởng là điều kiện tiên quyết , quan trọng nhất của sự phát triển nhưng nó chưa đưa tới sự phát triển . Phát triển chỉ có được khi tăng trưởng tạo ra được những chuyển biến trong cơ cấu kinh tế và cấu trúc xã hội mà ở đó mỗi người dân đều được hưởng những thành quả của tăng trưởng và có thể phát triển cá nhân mình. Công bằng xã hội chỉ có thể đạt được trong điều kiện ở đó mỗi cá nhân có đầy đủ các điều kiện như tham gia vào các hoạt động cộng đồng.
Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, nền kinh tế đã đạt được mức tăng trưởng khá cao làm thay đổi hẳn diện mạo kinh tế so với giai đoạn suy thoái và khủng hoảng của thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhờ kinh tế tăng trưởng, đời sống của nhân dân nói chung được cải thiện rõ rệt hơn so với trước , tuy rằng vẫn còn là một trong những nước có thu nhập tính theo đầu người thấp nhất thế giới và mức độ chênh lệch về thu nhập tính theo chỉ số Gini tương đối thấp. Tuy nhiên , đó mới là tình hình của hiện tại . Còn tương lai , liệu rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập của Việt Nam sẽ vận động theo hướng nào và chế độ phân phối thu nhập hiện tại có đóng được vai trò là một trong những động lực căn bản cho sự tăng trưởng kinh tế cao liên tục và bền vững hay không, chắc hẳn còn phụ thuộc vào việc giải quyết không ít những vấn đề đã, đang và sẽ còn phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế vận hành nền kinh tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế phát triển – Tập I.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX.
Tạp chí Cộng sản :
Số 6 , 12 , 19 , 22 , 23 ( Năm 1998).
Số 5 , 6 , 7, 8 ,11, 15 ( Năm 1999).
Số 1 , 2 , 6 , 7 , 18, 22 ( Năm 2000).
Con số và sự kiện :
Số 11 (Năm 1999)
Số 4 , 6 ,7 (Năm 2000).
Số 1+2 (Năm 2001)
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế :
Số 6 ,9 ,10 ( Năm 1999).
Số 8 (Năm 2000).
Số 5 (Năm 2001).
Tạp chí Nghiên cứu lý luận:
Số 11 ( Năm 1998).
Số 6 , 11 ( Năm 1999)
Tạp chí Phát triển kinh tế :
Số 10 ( Năm 1998).
Số 3+4 , 99 ( Năm 1999).
Số 114 , 118 (Năm 2000).
Tạp chí Thông tin lý luận :
Số 11 ( Năm 1999 ).
Số 1 , 2 ,6 ,7 (Năm 2000).
Tạp chí Giáo dục lý luận :
- Số 4 ( Năm 2000).
Thời báo kinh tế Việt Nam :
Số 75 , 89 , 103 (Năm 1998).
Số 62 ,87 (Năm 1999).
Số 53 , 76 ,90 ( Năm 2000).
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Nội dung
2
Chương I : Những vấn đề lí luận cơ bản
2
I/ Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH .
2
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế , phát triển kinh tế và mối quan hệ .
2
2. Các chỉ tiêu phản ánh.
3
3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH .
4
II/ Sự lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống , PLXH trong quá trình phát triển kinh tế của các nước .
6
1. Quan điểm tăng trưởng trước , bình đẳng sau.
6
2. Quan điểm ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng .
7
3. Quan điểm tăng trưởng đi liền với công bằng.
7
III/ Kinh nghiệm rút ra từ một số nước.
8
IV/ Quan điểm của Đảng về vấn đề tăng trưởng kinh tế với nâng cao đời sống và PLXH cho nhân dân.
9
Chương II : Thực trạng về tăng trưởng kinh tế và đời sống vật chất , PLXH cho người dân ở Việt Nam.
11
I/ Đánh giá thực trạng .
11
1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế .
11
2. Thực trạng về đời sống và PLXH .
11
II/ Đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với nâng cao đời sống vật chất, PLXH ở nước ta.
17
1. Những thành tựu đạt được .
17
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
19
Chương III : Phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất , PLXH ở nước ta.
23
I/ Phương hướng và mục tiêu phát triển KT-XH Việt Nam trong kế hoạch 2001-2005.
23
1. Các mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
23
2. Các mục tiêu xã hội .
23
II/ Giải pháp
23
1. Phương hướng để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và PLXH .
23
2. Các giải pháp chủ yếu.
25
Kết luận .
29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất và PLXH cho nhân dân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam.doc