Nếu như trên thì cách xác định thời gián sử dụng của TSCĐ thuê tài
chính còn chưa tính tới đầy đủ các tiêu chuẩn để một tài sản là TSCĐ thuê tài
chính. Nếu hợp đồng thuê TSCĐ tài chính là ở trong trường hợp hai tiêu chuẩn
đầu, mà thời gian sử dụng quy định ở đây là thời gian thuê tài sản thì khi kết
thúc hợp đồng, TSCĐ thuê tài chính đã khấu hao hết, lúc đó tài sản thuê thực sự
trở thành của bên đi thuê có còn ý nghĩa nữa hay không?
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3108 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số vấn đề về hạch toán tài sản cố định thuê tài chính tại đơn vị đi thuê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huê tối thiểu (đối với cả bên cho thuê và bên đi thuê) bao
gồm tiền thuê tối thiểu ghi trong hợp đồng theo thời hạn thuê và khoản thanh
toán cần thiết cho việc mua tài sản đó.
- Gía trị hợp lý: Là giá trị tài sản có thể được trao đổi hoặc gía trị một
khoản nợ được thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy đủ hiểu biết
trong sự trao đổi ngang giá.
- Gía trị còn lại của tài sản cho thuê: Là giá trị ước tính ở thời điểm khởi
đầu thuê tài sản mà bên cho thuê dự tính sẽ thu được từ tài sản cho thuê vào lúc
kết thúc hợp đồng cho thuê.
- Gía trị còn lại của tài sản thuê được đảm bảo:
+ Đối với bên thuê: Là phần giá trị còn lại của tài sản thuê được bên
thuê hoặc bên liên quan với bên thuê đảm bảo thanh toán cho bên cho thuê (gía
trị đảm bảo là số tiền bên thuê phải trả cao nhất trong bất cứ trường hợp nào).
+ Đối với bên cho thuê: Là phần giá trị còn lại của tài sản thuê được
bên thuê hoặc bên thứ ba có khả năng tài chính không liên quan với bên cho
thuê, đảm bảo thanh toán.
- Gía trị còn lại của tài sản thuê không được đảm bảo: Là phần gía trị
còn lại của tài sản thuê được xác định bởi bên cho thuê không được bên thuê
hoặc bên liên quan đến bên thuê đảm bảo thanh toán hoặc chỉ được một bên liên
quan với bên cho thuê, đảm bảo thanh toán.
- Thời gian sử dụng kinh tế: Là khoảng thời gian mà tài sản được ước
tính sử dụng một cách hữu ích hoặc số lượng sản phẩm hay đơn vị tương đương
có thể thu được từ tài sản cho thuê do một hoặc nhiều người sử dụng tài sản.
- Thời gian sử dụng hữu ích: Là khoảng thời gian sử dụng kinh tế còn
lại của tài sản thuê kể từ thời điểm bắt đầu thuê, không giới hạn theo thời hạn
5
hợp đồng thuê.
- Đầu tư gộp trong hợp đồng thuê tài chính: Là tổng khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu theo hợp đồng thuê tài chính (đối với bên cho thuê) cộng giá
trị còn lại của tài sản thuê không được đảm bảo.
- Doanh thu tài chính chưa thực hiện: Là số chênh lệch giữa tổng khoản
thanh toán tiền thuê tối thiểu cộng gía trị còn lại không được đảm bảo trừ giá trị
hiện tại của các khoản trên tính theo tỉ lệ lãi suất ngầm định trong hợp đồng thuê
tài chính.
- Đầu tư thuần trong hợp đồng thuê tài chính: Là số chênh lệch giữa
đầu tư gộp trong hợp đồng thuê tài chính và doanh thu tài chính chưa thực hiện
- Lãi suất ngầm định trong hợp đồng hợp đồng thuê tài chính: Là tỷ lệ
chiết khấu tại thời điểm thuê tài chính, để tính giá trị hiện tại của khoản thanh
toán tiền thuê tối thiểu và gía trị hiện tại của giá trị còn lại không được đảm bảo
để cho tổng của chúng đúng bằng giá trị hợp lý của tài sản thuê.
- Lãi suất biên đi vay: Là lãi suất mà bên thuê sẽ phải trả cho một hợp
đồng thuê tài chính tương tự hoặc là lãi suất tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản
mà bên thuê sẽ phải trả để vay một khoản cần thiết cho việc mua tài sản với một
thời hạn và với một đảm bảo tương tự.
- Tiền thuê có thể phát sinh thêm: Là một phần của khoản thanh toán
tiền thuê, nhưng không cố định và được xác định dựa trên một số yếu tố nào đó
ngoài yếu tố thời gian, ví dụ: phần trăm trên doanh thu, số lượng sử dụng, chỉ số
giá, lãi suất thị trường.
2.2. Một số quy định chung đối với hoạt động thuê tài chính.
2.2.1. Công ty cho thuê tài chính:
Công ty cho thuê tài chính là một loại công ty tài chính, hoạt động chủ
yếu là cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác.Theo Nghị định số
16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Thủ tướng chính phủ thì cho thuê tài chính
6
chỉ được thực hiện thông qua các công ty cho thuê tài chính còn các Doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh đều không được cho thuê tài chính.Công ty cho thuê
tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam bao gồm:
1. Công ty cho thuê tài chính do Ngân hàng, Công ty tài chính hoặc Ngân
hàng, Công ty cho thuê tài chính cùng với doanh nghiệp khác của Việt Nam
thành lập. Vốn pháp định của công ty thuê tài chính này là 55 tỷ VNĐ.
2. Công ty tài chính liên doanh giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều
Ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp khác với bên nước ngoài gồm một
hoặc nhiều Ngân hàng, Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính và các tổ
chức tài chính quốc tế. Vốn pháp định là 5 triệu đô la Mỹ.
3. Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài của ngân hàng, Công
ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính của nước ngoài. Vốn pháp định là 5 triệu
đô la Mỹ.
Thời gian hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam tối đa
không quá 70 năm. Trường hợp cần gia hạn hoạt động phải được Ngân hàng
Nhà nước chấp thuận. Mỗi lần gia hạn không quá thời hạn lần đầu. Ngân hàng
nhà nước Việt nam là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động cho thuê tài
chính, có nhiệm vụ cấp và thu hồi giấy phép hoạt động, ban hành các văn bản
quy định về nghiệp vụ, quản lý, giám sát và thanh tra hoạt động các công ty cho
thuê tài chính tại Việt Nam. Các ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp
khác muốm hoạt động cho thuê tài chính phải có đầy đủ uy tín, kinh doanh 3
năm liên tục có lãi, phải thành lập Công ty cho thuê tài chính độc lập theo các
quy định của pháp luật.
2.2.1. Phân loại thuê tài sản:
Việc phân loại tài sản được căn cứ vào mức độ chuyển giao các rủi ro và
lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê từ bên cho thuê cho bên thuê. Rủi
ro bao gồm khả năng thiệt hại từ việc không tận dụng hết năng lực sản xuất
7
hoặc lạc hậu về kỹ thuật và sự biến động bất lợi về tình hình kinh tế ảnh hưởng
đến khả năng thu hồi vốn. Lợi ích là khoản lợi nhuận ước tính từ hoạt động của
tài sản thuê trong khoảng thời gian sử dụng kinh tế của tài sản và thu nhập ước
tính từ sự gia tăng gía trị tài sản hoặc giá trị thanh lý có thể thu hồi được.Việc
phân loại thuê tài sản là thuê tài chính hay thuê hoạt động phải căn cứ vào bản
chất các điều khoản ghi trong hợp đồng. Ví dụ các trường hợp thường dẫn đến
hợp đồng thuê tài chính là:
+Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi hết thời
hạn thuê;
+Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, bên thuê có quyền lựa chọn mua lại
tài sản với mức giá ước tính thấp hơn gía trị hợp lý vào cuối thời hạn thuê.
+ Thời hạn thuê tài sản chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài
sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu.
+Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, gía trị hiện tại của khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn gía trị thanh lý của tài sản thuê.
+Tài sản thuộc loại chuyên dụng mà chỉ có bên thuê có khả năng sử dụng
không cần có sự thay đổi, sữa chữa lớn nào.
2.3.2. Ghi nhận thuê tài sản trong báo cáo tài chính tại đơn vị đi thuê:
Bên thuê ghi nhận tài sản thuê tài chính là tài sản của nợ phải trả trên
Bảng cân đối kế toán với cùng một giá trị bằng với giá trị hợp lý của tài sản thuê
tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản. Nếu giá trị hợp lý của tài sản thuê cao hơn
giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiêu cho việc thuê tài sản là
lãi suất ngầm định trong hợp đồng thuê thì sử dụng lãi xuất biên đi vay của bên
thuê tài sản để tính giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu.
Khi trình bày các khoản nợ phải trả về thuê tài chính trong báo cáo tài
chính, phải phân biệt nợ ngắn hạn và dài hạn.
Chi phí trực tiếp phát sinh ban đầu liên quan đến hoạt động thuê tài
8
chính, như chi phí đàm phán ký hợp đồng được ghi nhận vào nguyên giá.
Khoản thanh toán tiền thuê tài sản thuê tài chính phải được chia ra
thành chi phí tài chính và khoản phải trả nợ gốc. Chi phí tài chính phải được
tính theo tong kỳ kế toán trong suốt thời hạn thuê theo tỷ lệ lãi suất định kỳ cố
định trên số dư nợ còn lại cho mỗi kỳ kế toán.
Thuê tài chính sẽ phát sinh chi phí khấu hao tài sản và chi phí tài chính
cho mỗi kỳ kế toán. Chính sách khấu hao tài sản thuê phải nhất quán với chính
sách khấu hao tài sản cùng loại thuộc sở hữu của doanh nghiệp đi thuê. Nếu
không chắc chắn là bên thuê sẽ có quyền sở hữu tài sản khi hết hợp đồng thuê
thì tài sản thuê sẽ được khấu hao theo thời gian ngắn hơn giữa thời hạn thuê
hoặc thời gian sử dụng hữu ích của nó.
Khi trình bày tài sản thuê trong báo cáo tài chính phải tuân thủ các quy
định của Chuẩn mực kế toán “TSCĐ hữu hình”.
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của bên đi thuê:
- Có quyền lựa chọn thương lượng và thoả thuận với bên cung ứng tài sản
thuê về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, việc bảo hiểm, cách thức và thời
hạn giao nhân, lắp đặt và bảo hành tài sản thuê.
- Được trực tiếp nhận tài sản thuê từ bên cung ứng.
- Trường hợp hợp đồng bị huỷ bỏ trước khi tài sản thuê được giao cho
bên thuê do lỗi của bên thuê bên thuê phải hoàn trả mọi thiệt hại cho Công ty
cho thuê tài chính.
- Phải sử dụng tài sản thuê theo đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp
đồng.
- Phải chịu mọi rủi ro về mất hỏng đối với tài sản thuê và những rủi ro mà
tài sản thuê gây ra cho bên thứ ba.
- Phải chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sữa chữa tài sản thuê trong thời hạn
thuê;
9
- Không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho bên thứ ba nếu
không được công ty cho thuê tài chính đồng ý trước bằng văn bản;
- Không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp;
- Bên thuê có nghĩa vụ trả tiền thuê đúng thời hạn được quy định trong
hợp đồng và về nguyên tắc phải chịu các khoản chi phí có liên quan đến tài sản
thuê như : chi phí nhập khẩu, thuế , chi phí đăng ký hợp đồng và tiền bảo hiểm
đối với tài sản thuê;
- Có nghĩa vụ hoàn trả tài sản thuê cho Công ty cho thuê tài chính khi kết
thúc thời hạn thuê và chịu mọi chi phí liên quan đến việc hoàn trả tài sản thuê,
trừ trường hợp được quyền sở hữu, mua tài sản thuê hoặc tiếp tục theo quy định
trong hợp đồng
3. NHỮNG THAY ĐỔI CỦA CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN:
Sau hơn năm năm đi vào thực tế nghị định 64/CP “Ban hành quy chế tạm
thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam”, ngày
/10/1995 của Chính phủ đã tỏ ra còn nhiều bất cập đối với hoạt động cho thuê
tài chính. Vì vậy ngày 2/5/2001 Chính phủ đã ban hành nghị đinh số
16/2001/NĐ-CP về “ tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính”. So
với nghị định cũ, nghị định mới đã tháo gỡ được cơ bản những vướng mắc trong
hoạt động kinh doanh của công ty cho thuê tài chính.
- Việc mở rộng đối tượng cho thuê, theo đó không chỉ các doanh nghiệp
mà các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam đều là đối tượng cho thuê của
các công ty cho thuê tài chính. Việc mở rộng các đối tượng cho thuê sẽ tránh
cho các công ty cho thuê tài chính những phiền hà không đáng có, phù hợp với
thông lệ quốc tế. Trước đây, cá nhân muốn thuê máy móc thiết bị từ phía các
công ty tài chính phải “lách luật” bằng cách đội lốt một doanh nghiệp nào đó,
tuy nhiên nếu rủi ro xảy ra thì việc thu nợ xử lý tài sản sẽ trở nên rất phức tạp.
- Việc cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp
10
những máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và động sản tạo điều kiện cho các
công ty cho thuê tài chính chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của người đi
thuê, giảm chi phí đầu vào và hạ lãi suất cho thuê.
- Đối với tài sản thuê là phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ
sản có giấy chứng nhận đăng ký, công ty cho thuê tài chính giữ bản chính giấy
chứng nhân đăng ký, bên thuê khi sử dụng phương tiện được dùng bản sao có
chứng nhận của công chứng Nhà nước và xác nhận của công ty cho thuê tài
chính để sử dụng phương tiện trong thời hạn cho thuê. Điểm mới này nhằm đảm
bảo an toàn tài sản cho thuê của công ty cho thuê tài chính vì các phương tiện
vận tải thường hoạt động trong phạm vi cả nước, khó quản lý, khó theo dõi.
- Về huy động vốn, công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi có kì
hạn, phát hành trái phiếu từ một năm trở lên để huy động vốn của các tổ chức cá
nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng nhà nước ( Nghị
định cũ quy định công ty cho thuê tài chính không được nhân tiền gửi dưới mọi
hình thức). Quy định này đã phần nào giải quyết được khó khăn về vốn cho các
công ty cho thuế tài chính liên doanh hay 100% vốn nước ngoài cũng như các
công ty cho thuê tài chính thuộc các Ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho
các công ty chủ động về nguồn vốn với chi phí thấp hơn.
- Nghị định mới thừa nhận nghiệp vụ mua và cho thuê lại theo hình thức
cho thuê tài chính, một nghiệp vụ quan trọng được sử dụng phổ biến trong hoạt
động cho thuê tài chính. Với nghiệp vụ này, các doanh nghiệp có sẵn cơ sở vật
chất kĩ thuật, máy móc, thiết bị tốt, làm ăn hiệu quả nhưng lại thiết vốn lưu
động, có thể tận dụng nguồn vốn cố định của mình bằng cách bán máy móc,
thiết bị cho các công ty cho thuê tài chính rồi thuê lại.
- Thuế đối với máy móc thiết bị, các phương tiện vận chuyển và các
động sản khác mà công ty cho thuê tài chính mua trong nước hoặc nhập khẩu để
cho thuê được áp dụng như trường hợp bên thuê mua trực tiếp hoặc nhập khẩu
11
các tài sản này. Quy định này đã tạo sự bình đẳng cho khách hàng giữa đi vay
các Ngân hàng thương mại và đi thuê của các công ty cho thuê tài chính. Trong
trường hợp quyền sở hữu tài sản cho thuê được chuyển cho bên thuê khi kết
thúc thời hạn thuê thông qua việc nhượng bán tài sản cho thuê, bên thuê không
phải nộp thuế trước bạ.
- Công ty cho thuê tài chính không được đầu tư vào TSCĐ của mình quá
50% vốn tự có còn ở nghị định cũ quy định không quá 25%. Điều này tạo điều
kiện cho các công ty cho thuê tài chính trang bị cơ sở vật chất, mua sắm TSCĐ,
nhất là hệ thống tin học phục vụ yêu cầu kinh doanh ngày càng phát triển. Công
ty cho thuê tài chính có quyền nhập khẩu trực tiếp máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải và động sản mà bên thuê được phép mua nhập khẩu và sử dụng theo
quy định của pháp luật. Điểm này tạo điều kiện thuận lơi cho hoạt động của
công ty cho thuê tài chính hạ thấp được giá thuê vì không phải bỏ thêm chi phí
khi nhập khẩu uỷ thác.
- Và một điểm nữa là tài sản cho thuê tài chính phải đăng ký tại trung
tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm. Quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài sản
cho thuê của các công ty cho thuê tài chính, tránh sang nhượng mua bán khi
chưa sự đồng ý của bên cho thuê. Hợp đồng cho thuê tài chính không phải đăng
ký tại Ngân hàng nhà nước và cơ quan quản lý. ( Nghị định trước kia quy định
phải đăng ký tại Ngân hàng nhà nước.)
4. Những ưu điểm của chuẩn mực kế toán Việt nam phần "TSCĐ thuê tài
chính" đối với đơn vị đi thuê.
Chuẩn mực 06 phần thuê tài sản mới ban hành theo Quyết định số
165/2002/QĐ-BTC đã có nhiều ưu điểm hơn so với các chuẩn mực đã ban hành
trứơc đó.
12
Trước hết, xét về sự thay đổi trong việc tính tiền lãi thuê TSCĐ mà bên
thuê phải trả.Trước đây, tại thời điểm thuê, toàn bộ lãi thuê phải trả trong suốt
thời gian đi thuê lãi thuê lại được ghi nhận cùng một lúc vào tài khoản 142(1421-
Chi phí trả trước).Về thực chất số lãi này mới được thoả thuận theo hợp đồng
thuê chứ chưa trả. Hơn nữa tài khoản 1421 được dùng để theo dõi các khoản trả
trước có thời gian phân bổ trong vòng 1 năm trong khi tổng số lãi thuê quá lớn
thậm chí nhiều hợp đồng số lãi này còn lớn hơn cả số gốc( lãi suất trên thế giới
tại thời điểm này phổ biến ở mức 11%). Sự thay đổi trong việc tính lãi vay đã
làm cho giao dịch thuê tài sản được chính xác. Đó là việc phản ánh lãi thuê vào
Tài khoản 635- chi phí tài chính.
Chuẩn mực mới ban hành cũng có sự thay đổi trong tính thuế GTGT ở bên
đi thuê trong điều kiện áp dụng luật thuế GTGT. Số thuế GTGT của TSCĐ thuê
tài chính do bên cho thuê nộp khi mua hoặc nhập khẩu tài sản sẽ được bên đi
thuê trả dần trên cơ sở hợp đồng thuê tài chính. Như vậy về phía nhà đi thuê
ngoài việc trả tiền thuê còn phải trả tiền thuế GTGT mà bên cho thuê đã thanh
toán cho nhà cung cấp tài sản ( nếu mua trong nước) hoặc đã nộp ngân sách nhà
nước( trường hợp nhập khẩu).Toàn bộ thuế GTGT đầu vào của tài sản thuê mà
bên cho thuê đã thanh toán được bên thuê ghi nhận cùng lúc với việc ghi tăng
TSCĐ. Sau khi hạn thuê kết thúc tài sản thuê được chuyển quyền sở hữu thì khi
đó tài sản này lại được tính thuế GTGT thêm một lần nữa. Như vậy đơn vị thuê
TSCĐ thuê tài chính đã phải chịu hai lần thuế trước bạ. Một lần bên cho thuê
tính vào giá mua trong thời gian thuê và một lần được tính khi kết thúc hợp đồng
thuê chuyển quyền sở hữu. Điều bất hợp lý này đã được sửa đổi trong chuẩn mực
mới ban hành. Khoản thuế mà đơn vị thuê phải chịu khi thuê tài sản sẽ được
khấu trừ dần theo hợp đồng và doanh nghiệp đi thuê chỉ thực sự chịu thuế khi
13
mua lại tài sản thuê.
5. So sánh giữa chuẩn mực kế toán Quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt nam
về TSCĐ thuê tài chính.
Phần lớn quy định hiện hành về TSCĐ thuê tài chính ở Việt nam tương
thích với nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế và có sự tiếp thu từ chuẩn mực
kế toán quốc tế để ngày càng hoàn thiện.
Hầu hết các đơn vị đi thuê và đơn vị cho thuê đều áp dụng theo yêu cầu
của chuẩn mực và đem lại thuận lợi cho các công ty tham gia vào hoạt động tài
chính. Việc phân loại cho thuê là thuê hoạt động hay thuê tài chính được xác
định ngay tại thời điểm khởi đầu cho thuê.
Việc kế toán của bên thuê cũng hạch toán như nhau:Tại thời điểm khởi
đầu thuê tài sản, tài sản và nợ tương ứng cho việc thanh toán tiền thuê sau này
được ghi nhận theo cùng một giá trị trong bảng cân đối kế toán. Các chi phí trực
tiếp ban đầu liên quan đến hoạt động thuê được vốn hoá vào tài sản. Thanh toán
tiền thuê bao gồm chi phí tài chính và nợ phải trả.
Bên đi thuê có trách nhiệm tính, trích khấu hao TSCĐ và chi phí sản xuất
kinh doanh theo định kỳ trên cơ sở áp dụng chính sách khấu hao nhất quán với
chính sách khấu hao của tài sản cùng loại thuộc sở hữu của doanh nghiệp đi thuê
( theo quy định của Chuẩn mực kế toán'Tài sản cố địnhhữu hình' và chuẩn mực
kế toán' Tài sản cố định vô hình').
Chuẩn mực kế toán quốc tế đã quy định điều kiện một tài sản thoả mãn là
thuê tài chính là thời hạn cho thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu ích của
tài sản. Chuẩn mực kếtoán mới ban hành ở Việt nam cũng quy định điều này.
Các thông tin trên báo cáo tài chính của bên thuê tài chính đều phải đảm
14
bảo các chỉ tiêu: Tiền thuê phát sinh thêm được ghi nhận là danh thu trong kỳ;
phải lập dự phòng luỹ kế cho các khoản phải thu khó đòi về khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu; giá trị còn lại của tài sản thuê không được đảm bảo theo tính
toán củabên cho thuê; diễn giải khái quát về những thoả thuận cho thuê quan
trọng. Đồng thời trên báo cáo tài chính của bên đi thuê cũng phải có các chỉ tiêu:
Giá trị còn lại của tài sản là đối tượng của hợp đồng thuê tài chính tại thời thời
điểm lập báo cáo; Tiền cho thuê bất thường được ghi nhận là chi phí trong kỳ;
diễn giải khái quát về những thoả thuận cho thuê quan trọng.
Bên cạnh đó còn có một số khác biệt giữa hai chuẩn mực trên:
+Xét về hình thức trình bày chuẩn mực: IAS 17 trình bày các vấn đề theo
các tiêu thức cụ thể có liên quan đối với từng bên thuê và bên cho thuê: khoản
thanh toán tiền thuê tối thiểu, Giá trị còn lại của tài sản thuê được đảm bảo; ghi
nhận thuê tài sản trong báo cáo tài chính và trình bày báo cáo tài chính. Trong
khi đó chuẩn mực kế toán Việt nam( chuẩn mực 06) lại trình bày mỗi vấn đề cho
từng bên.
+Xét về nội dung:
Chuẩn mực kế toán Việt nam quy định rằng việc phân loại tài sản thuê nên
dựa vào bản chất của nghiệp vụ khôngnên dựa vào hình thức của hợp đồng trong
khi đó theo chuẩn mực kế toán quốc tế việc phân loại chỉ mang tính hướng dẫn,
phần lớn các tiêu thức này chỉ mang tính chất định tính vì vậy rất khó áp dụng.
Việc xác định giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu cũng
có sự khác nhau. Chuẩn mực kế toán Việt nam quy định khoản tiền này chiếm
phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê trong khi chuẩn mực kế toán quốc tế lại
yêu cầu khoản thanh toán này xấp xỉ giá trị hợp lý của tài sản cho thuê.
15
Về các chỉ tiêu được trình bày trên báo cáo tài chính ở bên đi thuê cũng có
sự khác biệt. Trong IAS 17 có quy định thêm một số chỉ tiêu như: Yêu cầu đối
với nhà xưởng, máy móc và thiết bị cho thuê; Số tiền thanh toán thuê lại tối thiểu
trong tương lai dự tính thu được dưới hình thức cho thuê lại không thể huỷ bỏ
vào ngày lập bảng cân đối kế toán.
6. Hạch toán TSCĐ thuê tài chính:
6.1. Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi tình hình đi thuê TSCĐ dài hạn, kế toán sử dụng tài khoản
212 – TSCĐ thuê tài chính.
Bên nợ: Phản ánh nguyên giá TSCĐ thuê tài chính tăng.
Bên có: Phản ánh nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính giảm do chuyển
trả lại cho bên cho thuê khi hết hạn hợp đồng hoặc mua lại thành TSCĐ của
doanh nghiệp.
Số dư bên nợ: Phản ánh nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính hiện có.
5.2. Sơ đồ hạch toán:
16
KẾ TOÁN TSCĐ THUÊ TÀI CHÍNH
(Trường hợp khoản nợ phải trả xác định theo
giá mua chưa có thuế GTGT)
623,627
641,642
Khi trích
TK 111, 112 TK 142
Khi phát sinh
các chi phí trực
tiếp ban đầu khi
nhạn TSCĐ
h ê
TK 244
Khi chi tiền ký
ỹ đảm bảo
thanh toán
tiền thuê
qu
TK 635
Định kỳ nhận được
đơn chi tiền trả nợhoá
Nợ
TK 133
Nợ lãi
Thuế
GTG
623,627,641,64
GTG
Thuế
(PP khấu trừ)
(PP trực tiếp)
TK 315
Khi chi tiền trả nợ
thuê TSCĐ chính
TK 342
Cuối kỳ k/c số nợ
đến hạn trả vào kỳ
Khi nhận
Số nợ phải
trả kỳ này
TSCĐ
TK 111,112
NGUYÊ
GIÁ
SẢN
CỐ
ĐỊNH
THUÊ
TÀI
CHÍNH
N
TÀI
CP trực
tiếp phát
sinh khi
ận
Đ
nh
TSC
TK 212
Khi hết thời hạn
trả TSCĐ thuê cho
bên cho thuê
TK 2141
TK 2142
KHTS
thuê tài
K/c số chi phí trực tiếp ban đầu
phát sinh khi nhận TSCĐ thuê
chính
K/c số
Khấu hao
TSCĐ
TK 211
Khi mua lại TS thuê
TK
Khi phải trả
thêm tiền
17
KẾ TOÁN TSCĐ THUÊ TÀI CHÍNH
(Trường hợp khoản nợ phải trả xác định theo
giá mua có cả thuế GTGT)
Phương pháp kế toán bán và thuê lại tài sản là thuê tài chính
K/c số chi phí trực tiếpban đầu
phát sinh khi nhận TSCĐ thuê
TK 111, 112 TK 142
Khi phát sinh các chi
phí trực tiếp ban
đầu trước khi
nhận TSCĐ
th ê
TK 244
Khi chi tiền ký quỹ
đảm bảo thanh
toán tiền thuê
Nguyên giá
TSCĐ thuê
TK 212
Trả lại TSCĐ thuê
cho bên cho thuê
Khi hết hạn thuê
TK 2142
623,627
641,642
Khi trích
KHTS thuê
Tài chính
TK 2141
K/c số
Khấu hao
TSCĐ thuê
TK
CP trực tiép
Phát sinh
khi nhân
TSCĐ
TK 111, 112
Trả
thêm tiền
TK 211
K/c giá trị TSCĐ
Thuê khi hết hạn
thuê đơn vị mua
l i
TK 315
Khi nhận được
Hoá đơn
chi tiền
trả luôn Cuối kỳ K/c số nợ
đến hạn trả
vào kỳ sau
Nhận hoá đơn
CHƯ
TK 342
TK 635
Nợ lãi
TK 138
Định kỳ nhận hoá
đơn tính thuế GTGT
Vào chi phí
SXKD (PP trực
iế
TK 133
623,627,641,642
Định kỳ nhận hoá
đơn tính thuế
GTGT vào chi
phí SXKD
Số nợ phải trả kỳ này
Số nợ phải trả
Các kỳ tiếp theo
Số thuế GTGT
đầu vào
TK 111,112
TK
Giá bán
TK
Nợ dài
Số phải
kỳ này
Giá chưa
thuế
Thuế
được khấu tr
TK 212
TK 133
ừ
TK 212 TK 818
GTCL
18
TK 711
Giá trị còn
c
e
19
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
VỀ THUÊ VÀ CHO THUÊ TSCĐ
1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.1. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế.
-Hoạt động cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh
tế.Trong xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp
phần giúp nước ta đa dạng hoá việc thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài cho
đầu tư phát triển thông qua các loại máy móc, thiết bị thuê mà chúng ta nhận
được. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế còn thấp thì hoạt động cho thuê tài
chính càng có vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng
máy móc, thiết bị giúp các doanh nghiệp hiện đại hoá sản xuất, tăng năng lực
hoạt động, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Mặt khác cho thuê tài chính
là họat động tín dụng có mức độ rủi ro thấp hơn các hình thức tín dụng khác vì
bên cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản nên bên đi thuê không may bị phá
sản thì bên cho thuê mặc nhiên thu hồi tài sản của mình. Do đó có thể khuyến
khích các tổ chức kinh doanh tiền tệ (các ngân hàng thương mại,công ty tài
chính) đầu tư vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Và để thực hiện hoạt
động cho thuê tài chính các tổ chức kinh doanh tiền tệ phải tìm cách để thu hút
vốn nhàn rỗi ở các đối tượng khác nhau trong nền kinh tế phục vụ cho hoạt
động này.
-Cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Thông qua hoạt
động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị hiện đại có điều kiện để đưa
vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, đáp ứng
được nhu cầu đổi mới công nghệ với tốc độ nhanh từ đó đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
20
1.1 Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người cho thuê.
-Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ vốn có độ an toàn cao.Trong hình
thức tài trợ này, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc người cho thuê vì vậy họ có
quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Trường hợp có biểu hiện đe doạ
sự an toàn của tài sản cho thuê thì người cho thuê có thể thu hồi tài sản. Do vậy
người cho thuê tránh được thiệt hại có thể mất vốn đầu tư.
Khoản vốn đầu tư qua hoạt động cho thuê tài chính chắc chắn sẽ được sử
dụng đúng mục đích, vì vậy đảm bảo khả năng trả nợ của người đi thuê,điều nay
cũng có nghĩa là đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư của người cho thuê. Mặt
khác do cho thuê tài chính là hình thức tài trợ bằng hiện vật nên hạn chế được
ảnh hưởng của lạm phát, người cho thuê có thể bảo toàn được giá trị của vốn
đầu tư.
- Cho thuê tài chính là phương thức kinh doanh cho phép người cho thuê
linh hoạt trong kinh doanh. Do tiền thuê và lãi thuê được người đi thuê trả dần
hàng kỳ, vì vậy trong thời gian cho thuê, vốn đầu tư được thu hồi dần cho phép
người cho thuê tái đầu tư vốn vào các hoạt động kinh doanh khác để kiếm lời và
luôn giữ được nhịp độ hoạt động.
1.3 Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người đi thuê.
-Nhờ có hoạt động cho thuê tài chính mà người đi thuê có thể gia tăng
năng lực hoạt động trong điều kiện hạn chế về khả năng tài chính.Người đi thuê
trong quan hệ thuê tài chính thường là các doanh nghiệp có nhu cầu tăng năng
lực hoạt động trong khi khả năng tài chính hạn chế. Nếu doanh nghiệp di vay
theo các thể thức tín dụng thông thường thì khó thực hiện vì có thể thiếu tài sản
thế chấp, hiện tượng này thường xảy ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(loại hình doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn ở nước ta). Thông qua hoạt động
thuê tài chính, các doanh nghiệp này có thể từ tay không mà vẫn có được máy
móc, thiết bị phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng lực hoạt
21
động và nhờ đó, nếu sử dụng có hiệu quả các máy móc, thiết bị này thì sau một
thời gian thì có thể có được một số tài sản nhất định.
-Hoạt động cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp chưa đủ các điều
kiện để vay vốn của các tổ chức tín dụng cũng có thể nhận được vốn tài trợ để
thoả mãn nhu cầu vốn cố định cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với các
doanh nghiệp chưa có uy tín với các tổ chức tín dụng trong khi tài sản để thế
chấp không nhiều, họ khó thoả mãn các điều kiện dể được nhận tài trợ vốn bằng
các thể thức tín dụng thông thường nhằm thoả mãn nhu cầu bổ sung vốn cố
định.Trong khi đó, do đặc thù của hoạt động cho thuê tài chính là người cho
thuê vẫn nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản cho thuê, nên người cho thuê
vẫn sẵn sàng thoả mãn nhu cầu vốn cố định của khách hàng ngay cả khi vị thế
tài chính và uy tín của họ có hạn chế.
-Hoạt động cho thuê tài chính có thể giúp doanh nghịêp đi thuê không bị
đọng vốn trong tài sản cố định. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính được
phát huy ngay cả đối với các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành lạnh
nhưng muốn giành vốn tích luỹ cho mục đích kinh doanh khác. Trong trường
hợp này, khi họ có nhu cầu về tài sản cố định thì vẫn có thể thực hiện được
thông qua thuê tài sản theo phương thức thuê tài chính. Điều này gíup các doanh
nghiệp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố đinh.
-Thuê tài chính là cách để các doanh nghiệp (người đi thuê) rút ngắn thời
gian triển khai đầu tư, đấp ứng kịp thời điều kiện khai thác các cơ hội kinh
doanh. Là hình thức tín dụng có mức độ rủi ro thấp, vì vậy các thủ tục và điều
kiện để được thuê tài sản đơn giản, nhanh chóng, các công ty cho thuê tài chính
dễ dàng tài trợ vốn cho người cho nhu cầu vốn(người đi thuê) bằng cách cho
thuê tài chính, cho phép người đi thuê rút ngắn thời gian đầu tư thiết bị, máy
móc để kịp thời khai thác các cơ hội kinh doanh. Mặt khác, các công ty cho thuê
tài chính thường có chuyên môn sâu trong lĩnh vực tài sản cho thuê nên họ có
22
thể tổ choc cung ứng tài sản cho thuê theo phương thức khép kín: cho thuê thiết
bị gắn với phụ tùng, linh kiện và tư vấn về kỹ thuật công nghệ… cho người đi
thuê. Từ đó giúp người đi thuê kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng tài sản, tận
dụng cơ hội kinh doanh.
-Thông qua khai thác, sử dụng tài sản thuê, người đi thuê thực hiên hiên
đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới. Đổi mới máy
móc, thiết bị để theo kịp đà phát triển nhanh chóng của công nghệ mới trong bối
cảnh hiện nay là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế
thị trường. Nhưng đây là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp nước ta
hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thông qua thuê tài chính, các
doanh nghiệp có thể có được những máy móc, thiết bị hiện đại để hiện đại hoá
sản xuất, thậm chí có thể nhận được lời khuyên từ công ty cho thuê chuyện
nghiệp nên áp dụng trình độ ở mức độ nào cho phù hợp với điều kiện cụ thể của
doanh nghiệp, với thị trường mà vẫn phù hợp với xu thế phát triển công nghệ
mới.
-Thông qua thuê tài sản theo phương thức thuê tài chính cho phép các
doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Người cho thuê trong quan hệ
thuê tài chính có thể là các công ty thuê mua quốc tế với 100% vốn nước ngoài
hoặc các công ty liên doanh thuê mua hoạt động ở Việt Nam, do đó thông qua
họat động thuê máy móc, thiết bị của các công ty này các doanh nghiệp có thể
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác mức lãi suất ngoại tệ trên thị trường
vốn quốc tế thấp hơn lãi suất ở Việt Nam, vì vậy khi thuê tài sản ở các công ty
nước ngoài, doanh nghiệp thuê không chỉ thu hút được vốn đầu tư mà còn nhận
được vốn tài trợ với mức lãi suất thấp hơn so với thị trường vốn tính bằng Đồng
ngân hàng Việt Nam.
1.4 Vai trò của họat động cho thuê tài chính đối với nhà cung cấp máy
móc, thiết bị.
23
Một trong các phương thức cho thuê tài chính là phương thức cho thuê có
ba bên tham gia. Theo phương thức thuê này, ngoài bên cho thuê và bên đi thuê
còn có một bên nữa là nhà cung cấp máy móc, thiết bị. Quan hệ giữa ba bên liên
quan trong hợp đồng thuê tài chính này có thể hiểu như sau:
+ Bên thuê lực chọn nhà cung cấp máy móc, thiết bị và thoả thuận với họ
về mẫu mã, kiểu dáng, thông số kỹ thuật, giá cả, điều kiện bảo trì, lắp đạt…của
thiếet bị muốn thuê.
+ Bên đi thuê và bên cho thuê ký hợp đồng thuê máy móc, thiết bị.
+ Trên cơ sở các điều kiện mà bên thuê và nhà cung cấp đã thoả thuận,
bên cho thuê ký hợp đồng mua thiết bị với nhà cung cấp.
+ Nhà cung cấp giao máy móc, thiết bị cho bên đi thuê.
+ Bên cho thuê thanh toán tiền mua thiết bị cho nhà cung cấp.
+ Bên đi thuê có nghĩa vụ trả tiền thuê cho bên bên cho thuê và cùng bên
cho thuê thực hiện các điều khoản trong hợp đồng thuê.
Từ những quan hệ này cho thấy, thông qua hoạt động cho thuê tài chính –
hình thức tài trợ vốn có độ an toàn cao, với những ư thế vốn có của nó, có tác
dụng kích cầu, tạo điều kiện để nhà cung cấp (các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh máy móc, thiết bị) tiêu thụ được nhiều hàng hoá. Hoạt động
cho thuê tài chính càng phát triển, càng tạo cơ hội để các nhà cung cấp máy móc
thiết bị mở rộng thị trường và phát triển kinh doanh.
Như vậy hoạt động cho thuê tài chính có vai trò to lớn đối với nền kinh tế
và với các bên tham gia vào hoạt động này. Song vai trò đó chỉ có thể phát huy
đầy đủ ở môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, với môi trường pháp lý đầy đủ, rõ
ràng
2. THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG THUÊ TÀI CHÍNH HIỆN NAY:
Qua một thời gian thực hiện, nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại hiệu
quả, góp phần giảm những khó khăn cho các doanh nghiệp về nguồn vốn đầu tư
24
dài hạn vào máy móc thiết bị, đồng thời tạo điều kiện cho DN tiếp cận với thiết
bị và công nghệ hiện đại. Cho thuê tài chính tỏ ra rất thích hợp đối với các DN
trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền công nghệ. Tuy vậy, hiện
nay hoạt động cho thuê tài chính chưa phát triển ngang tầm với những ưu thế
của nó, điều này có thể do những nguyên nhân sau đây:
- Giá cho thuê tài chính cao hơn lãi suất đi vay khoảng 20% vì đa số các
công ty đều phải đi vay vốn trung dài hạn để mua thiết bị máy móc động sản để
cho thuê mà không được huy động tiền gửi thêm vào đó là chi phí hoạt động
của công ty cho thuê tài chính như phí thẩm định dự án bảo hiểm. Đó là điều bất
lợi khiến cho các công ty cho thuê tài chính không hấp dẫn người thuê nhất là
trong điều kiện các doanh nghiệp còn rất khó khăn, do vật đi thuê tài chính chỉ
là phương án lựa chọn cuối cùng sau mua thiết bị trả chem. nước ngoài, vay vốn
các ngân hàng.
- Hiện nay ở nước ta khung pháp lý để hoạt động chưa đầy đủ. Tuy pháp
luật đã có những quy định bảo vệ quyền sở hữu của công ty thuê mua đối với tài
sản cho thuê nhưng trên thực tế quyền này chua được đảm bảo về mặt pháp lý,
luật pháp chưa đưa ra các biện pháp hữu hiệu nào để đảm bảo tuyệt đối ngăn
chặn việc các doanh nghiệp đi thuê đánh tháo tài sản thuê mang tài sản thuê đi
cầm cố thế chấp. Bởi lẽ Việt Nam chưa có cơ quan nào được chỉ định đứng ra
đăng ký tài sản cho thuê chứng thực quản lý hợp đồng thuê mua công nhận và
ký hiệu sở hữu mà công ty thuê mua đính vào tài sản mang cho thuê của mình.
Vấn đề cần tháo gỡ ở đây là phải giải quyết mối quan hệ giữa công ty thuê mua
tài chính với các cơ quan quản lý nhà nước trong đó quan trọng nhất là việc
đăng ký quản lý chứng thực hợp đồng để giúp các công ty thu mua nắm giữ
quyền sở hữu trọn vẹn không chỉ về mặt pháp lý mà cả về mặt thực tế, nên
chăng cơ quan nào tiến hành đăng ký hợp đồng thì cơ quan đó có trách nhiệm
quản lý hợp đồng. Vấn đề chuyển quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng: nếu nộp
25
thuế tước bạ lần nữa thì doanh nghiệp đi thuê phải nộp thuế hai lần, một lần khi
chuyển quyền thuê và một lần khi chuyển quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý để xử lý
các trường hợp tranh chấp hợp đồng cho thuê hiện còn bỏ ngỏ, đến nay hợp
đồng cho thuê tài chính mới chỉ được đăng ký tại ngân hàng nhà nước còn cơ
quan nào đứng ra quản lý hợp đồng, có trách nhiệm phân xử trong các trường
hợp xảy ra tranh chấp vẫn còn là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Những quy định
về bắt buộc phải đăng ký tài sản cho thuê là phương tiện vận tải tại tỉnh thành
phố nơi công ty tài chính đóng trụ sở là không phù hợp và quá cứng nhắc vì một
công ty cho thuê tài chính tại Hà Nội vẫn có quyền hoạt động cho thuê tài chính
tại thành phố Hồ Chí Minh hoặc bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam.
- Nghiệp vụ cho thuê tài chính là một nghiệp vụ mới ở Việt Nam, chưa
được xã hội chấp nhận rộng rãi vì nó như là một hàng hoá mới mẻ không chỉ
với người tiêu ding mà ngay cả với người bán.Việc tuyên truyền quảng cáo về
những lơi ích, tác dụng của nghiệp vụ này chưa được sâu rộng trong các doanh
nghiệp và dân cư.
- Và vấn đề là nội tại của công ty cho thuê tài chính. Điều kiện được
thuê còn quá chú trọng đến lịch sử người thuê hơn là tương lai của dự án thuê.
Ngoài ra thủ tục cho thuê của các công ty cho thuê quá chặt chẽ, phức tạp, chưa
có nhiều hình thức cho thuê thích ứng với điều kiện hiện tại của các Doanh
nghiệp tại Việt nam
- Phạm vi hoạt động cho thuê TSCĐ thuê tài chính quá hẹp chỉ gồm các
doanh nghiệp trực tiếp sử dụng tài sản thuê theo mục đích kinh doanh đã đăng
ký, trong khi đó nhu cầu đi thuê tài sản theo hình thức cho thuê tài chính còn
nảy sinh từ nhiều tổ chức cá nhân khác như các trường học, bệnh viện, các hộ
kinh doanh cá thể…
- Việc đánh giá giá trị hiện tại của khoản tiền thanh toán tối thiểu chỉ ghi
26
"chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản cho thuê" và việc xác định một tài sản
là thuê tài chính căn cứ vào thời gian cho thuê chiếm " phần lớn " thời gian sử
dụng hữu ích của tài sản.Thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính không được
đưa ra một các rõ ràng. Phải chăng việc xác định thời gian sử dụng của tài sản
thuê tài chính được xác định là:
Thời gian thuê TSCĐ ghi trong hợp đồng?
Thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính được xác định căn
cứ vào các tiêu chuẩn như trong điều 15 của chế độ quản lý sử
dụng trích khấu hao TSCĐ quy định cho TSCĐ hữu hình?
Việc xác định thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính không rõ ràng
do đó việc tính khấu hao TSCĐ thuê tài chính lại càng khó hơn. Các con số
đánh giá các tiêu chuẩn trên rất khó xác định thậm chí khá " trừu tượng". Điều
này dễ tạo điều kiện cho các bên tham gia hoạt động thuê tài chính "lách
luật"dẫn đến những hành vi tiêu cực.
4. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài chính và kế
toán TSCĐ thuê và cho thuê tài chính:
Để khắc phục những tồn tại nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho
thuê tài chính, em xin kiến nghị một số giải pháp sau:
Về bên thuê và các đối tác trong cho thuê tài chính: theo các văn bản
hiện hành thì bên thuê chỉ là các doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật
Việt Nam. Căn cứ vào thực tế hiện nay, em nghĩ nên mở rộng đối tượng “ bên
thuê” là mọi tổ chức, đơn vị và các nhân chứng minh được khả năng thanh toán
tiền thuê của mình. Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính
không nên chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp trong nước mà nên bổ sung thêm đối
tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài. Việc các doanh nghiệp
27
không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã
trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Sự tham gia của các doanh nghiệp nước
ngoài trong đối tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty
trong nước tiếp tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện
đại trên thế giới. Tuy nhiên đối tác là các tổ chức tín dụng phải chiếm tỷ lệ vốn
đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty.
Nên sớm thành lập cơ quan xác định giá trị máy móc thiết bị mới và cũ.
Khi cân nhắc một giao dịch cho thuê tài chính, một trong những điểm quan
trọng mà các bên tham gia cho thuê tài chính muốn biết là giá trị còn lại của tài
sản cho thuê và khả năng bán lại nó trên thị trường. Đối với một số máy móc
thiết bị công nghiệp như máy phát điện, nồi hơn, máy dệt… hoặc các loại
phương tiện giáo thông vận tải, thị trường máy móc cũ tương đối phổ biến. Tuy
nhiên hiện vẫn chưa có một cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền, uy tín nào cung
cấp các dịch vụ giám định, đánh giá giá trị máy móc một cách chuyên nghiệp.
Việc đánh giá chỉ thực hiện theo cảm tính, dễ nảy sinh nhiều vấn đề tranh chấp
do thiếu tính khách quan, khoa học trong định giá. Nên chăng Nhà nước giao
chức năng này cho các cơ quan giám định chất lượng Việt Nam và hỗ trợ bằng
pháp lệnh về thành lập cũng như hoạt động của các tổ chức này về việc giám
định chất lượng, định giá tài sản cũ và mới.
Cho phép các công ty cho thuê tài chính được thực hiện các dịch vụ tài
chính khác nhằm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ kinh doanh của mình, có
như vậy mới giảm thiểu được rủi ro do chỉ thực hiện một nghiệp vụ là cho thuê
tài chính. Đây cũng là cách thức mà hầu hết các công ty cho thuê tài chính lớn
trên thế giới áp dụng, họ không bao giờ chỉ thực hiện đơn thuần một nghiệp vụ
là cho thuê tài chính.
Một vấn đề nữa là nâng cao nhận thức đối với doanh nghiệp và cá nhân
khi tiếp cận dịch vụ cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là dịch vụ còn mới
28
mẻ đối với các chủ thể vay vốn. để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kênh tiếp
vốn này, cần phải có chương trình phổ biến kiến thức cơ bản về cho thuê tài
chính thông qua các lớp tập huấn, hội thảo, bằng các phương tiện thông tin như
truyền hình, báo, đài, tờ rơi để các thành phần kinh tế biết và hiểu sâu sắc dịch
vụ cho thuê tài chính này. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tư vấn về
những vấn để có liên quan đến cho thuê tài chính, đẩy mạnh công tác tiếp thị,
định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng… qua đó giúp khách hàng hiểu biết và sử
dụng dịch vụ cho thuê tài chính một cách hiệu quả nhất.
Về quy định trong việc chuyển giao quyền sở hữu:
Theo quy định thì bên thuê được nhận quyền sở hữu tài sản thuê hoặc
được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận khi kết thúc hợp đồng thuê. Hay khi kết
thúc hợp đồng thuê, bên thuê được nhận quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo
giá danh nghĩa thấp hơn giá trịn thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
Như vậy, xét về lâu dài, quy định đó sẽ không thuận lợi đối với người đi
thuê (chủ yếu là các doanh nghiệp thiếu vốn ở Việt nam). Trong trường hợp họ
muốn mua lại TSCĐ đi thuê thì cũng phải chờ cho đến khi kết thúc hợp đồng
thuê. Lúc đó, với sự tiến bộ của kĩ thuật mới, liệu họ còn muốn mua lại TSCĐ
đi thuê nữa không? Mặt khác, với những TSCĐ thuê trong thời gian dài và giá
trị lớn, bên thuê thay vì có thể nhận được quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng
thuê thì lại phải bỏ tiền ra tiếp tục thuê (nếu muốn). Mặc dầu hoạt động cho thuê
còn mới lạ ở Việt Nam nhưng trên thế giới, hoạt động này đã xuất hiện từ rất
lâu. Các quy chế và điều kiện cho thuê đã hình thành, được các công ty cho thuê
xây dựng và thông qua. Vì vậy, hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam cũng
cần tuân thủ các quy chế và thủ tục đó, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam. Do đó, chúng ta nên quy định: Khi kết thúc hợp
đồng thuê, quyền sở hữu tài sản phải được chuyển cho bên đi thuê, hoặc khi kết
29
thúc hợp đồng thuê hay tại bất kỳ một thời điểm nào đó, bên đi thuê được phép
lựa chọn mua TSCĐ đi thuê với giá thấp hơn giá trị thực tế của TSCĐ thuê.
Về phương pháp tính khấu hao TSCĐ thuê tài chính:
Việc tính khấu hao TSCĐ theo chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu
hao TSCĐ la phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Mức khấu hao được xác
định dựa trên thời gian sử dụng của tài sản và nguyên giá của tài sản. Thời gián
sử dụng của TSCĐ thuê tài chính có thể được xác định là:
+ Thời gian thuê TSCĐ ghi trong hợp đồng
+ Thời gian sử dụng của TSCĐ thuê tài chính được xác định căn cứ vào
các tiêu chuẩn quy định trong chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ
quy định cho TSCĐ hữu hình.
Nếu như trên thì cách xác định thời gián sử dụng của TSCĐ thuê tài
chính còn chưa tính tới đầy đủ các tiêu chuẩn để một tài sản là TSCĐ thuê tài
chính. Nếu hợp đồng thuê TSCĐ tài chính là ở trong trường hợp hai tiêu chuẩn
đầu, mà thời gian sử dụng quy định ở đây là thời gian thuê tài sản thì khi kết
thúc hợp đồng, TSCĐ thuê tài chính đã khấu hao hết, lúc đó tài sản thuê thực sự
trở thành của bên đi thuê có còn ý nghĩa nữa hay không? Vì vậy việc xác định
thời gian sử dụng của TSCĐ phải làm cơ sở cho việc tính khấu hao TSCĐ thuê
tài chính một cách phù hợp, chúng ta nên phân việt rõ thời gian sử dụng để khấu
hao TSCĐ thuê tài chính trong hai trường hợp:
Trường hợp 1: Nếu hợp đồng thuê tài sản tài chính thoả mãn một trong
hai điều kiện đầu thì thời gian sử dụng để xác định khấu hao TSCĐ thuê tài
chính là thời gian sử dụng hữu dụng thực sử của tài sản thuê đó. Vì thường khi
kết thúc hợp đồng thuê, tài sản thuê sẽ thuộc về bên đi thuê.
Mức khấu hao bình quân năm =
Nguyên giá
Thời gian sử dụng
30
Thời gian sử dụng xác định theo quy định cho từng loại tài sản cụ thể
tỏng khung thời gian sử dụng các loại TSCĐ ban hành kèm theo quyết định số
166/1999/QĐ-BTC
Trường hợp 2: Nếu hợp đồng thuê TSCĐ thuê tài chính thoả mãn một
trong hai điều kiện cuối thì thời gian sử dụng để xác định khấu hao TSCĐ thuê
tài chính ở bên đi thuê ngắn hơn thời gian trong hợp đồng thuê hoặc thời gian
hữu dụng của tài sản thuê thì khi kết thúc hợp đồng, tài sản thuê vẫn thuộc về
bên thuê.
31
KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu đề tài thuê tài chính ở Việt Nam em thấy cho thuê tài
chính là một biện pháp cực kỳ hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp thoát khỏi
tình trạng thiếu vốn và đổi mới đựơc công nghệ phục vụ kịp thời cho sản xuất.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, thuê tài chính sẽ ngày càng được phát triển
rộng rãi là một tất yếu vì lợi ích của cho thuê tài chính là rất lớn , nó tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới, tiếp cận được với
các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.Mặt khác cho thuê tài chính còn góp phần thu hút vốn đầu tư
cho nền kinh tế.
Có thể khẳng định rằng, mặc dù hoạt động cho thuê tài chính còn khá mới
mẻ ở Việt Nam nhưng trong tương lai không xa, loại hình này sẽ phát triển
nhanh chóng để hội nhập với sự phát triển chung của kinh tế thế giới. Điều đó
cũng phù hợp với nhu cầu của thị trường trong nước ta hiện nay. Tuy Bộ tài
chính, Chính phủ đã đưa ra những văn bản hướng dẫn, quy định khá chi tiết về
hoạt động thuê mua tài chính và bước đầu đã khuyến khích được hoạt động này
phát triển nhưng một trong những đòi hỏi cấp thiết hiện nay là Việt Nam phải
thường xuyên theo sát thực tế để có một chế độ kế toán hoàn chỉnh hơn, tạo
điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mới mẻ này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do kiến thức, trình độ chuyên môn cũng
như kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên đề tài của em còn nhiều hạn chế. Vì
vậy em rất mong nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô, đặc biệt là
thầy giáo Trần Quý Liên cùng bạn bè để đề án môn học của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
32
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ THUÊ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH .........2
1- Tài sản cố định (TSCĐ) ....................................................................................... 2
1.1-Khái niệm TSCĐ............................................................................................................................2
1.2-Phân loại TSCĐ : ...........................................................................................................................2
2. Tài sản cố định thuê tài chính. ........................................................................................3
2.1. Một số khái niệm thuê tài chính và tài sản cố định thuê tài chính. ......................3
2.2. Một số quy định chung đối với hoạt động thuê tài chính. ........................................6
2.2.1. Công ty cho thuê tài chính: ..................................................................................................7
2.2.2. Phân loại thuê tài sản.............................................................................................................................8
2.2.3. Ghi nhận thuê tài sản trong báo cáo tài chính tại đơn vị đi thuê ................ 8
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của bên đi thuê: ................................................................................9
3. Những thay đổi của chế độ kế toán:................................................................ 10
4. Những ưu điểm của chuẩn mực kế toán Việt nam phần "TSCĐ thuê tài chính"
đối với đơn vị đi thuê.........................................................................................................................12
5. So sánh giữa chuẩn mực kế toán Quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt nam về
TSCĐ thuê tài chính...........................................................................................................................14
6. Hạch toán TSCĐ thuê tài chính: ..................................................................... 16
6.1. Tài khoản sử dụng ........................................................................................ 16
6.2. Sơ đồ hạch toán ......................................................................................................................................16
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ THUÊ VÀ CHO THUÊ TSCĐ ....................20
1. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trường Việt nam
hiện nay................................................................................................................ 20
33
1.1. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế................................21
1.2. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người cho thuê. ........................21
1.3 Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với người đi thuê. ...........................22
1.4 Vai trò của họat động cho thuê tài chính đối với nhà cung cấp máy móc, thiết
bị. .................................................................................................................................................................23
2. Thực trạng của hoạt động thuê tài chính hiện nay: .......................................... 24
3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài chính và kế toán
TSCĐ thuê và cho thuê tài chính:................................................................................................27
KẾT LUẬN..............................................................................................................................32
34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ĐỀ ÁN- Một số vấn đề về hạch toán tài sản cố định thuê tài chính tại đơn vị đi thuê.pdf