Đề án Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tại sản tại huyện Như Xuân đến năm 2020

3.2.1. Đối với Trung ương Cần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước 3.2.2. Đối với tỉnh Thanh Hóa - Chỉ đạo các ban ngành, các cơ quan chức năng, chuyên môn tăng cường chỉ đạo, kiểm tra giám sát công tác đấu tranh phòng chống tội phạm - Phân cấp mạnh mẽ hơn cho địa phương trong việc tự chủ về ngân sách, trong đó có ngân sách về phòng, chống tội phạm. - Rà soát, đánh giá lại hoạt động của các mô hình hiện nay trên toàn tỉnh, loại bỏ những mô hình thực chất không hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm. - Đề nghị Công an tỉnh, Viện kiểm sát và Tòa án tỉnh chú trọng tăng cường biên chế, phương tiện kỹ thuật cho lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm của công an huyện; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, cử cán bộ đi đào tạo chuyên ngành tại các trường đào tạo. 3.2.4. Đối với huyện ủy và Ủy ban nhân nhân huyện Như Xuân - Chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, các cơ quan chức năng tăng cường công tác đôn đốc, nhắc nhở và thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa , ngăn chặn vi phạm pháp luật. Dành ngân sách hợp lý cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm - Làm tốt công tác sơ kết, tổng kết gắn với thi đua khen thưởng, kỷ luật đối với tập thể và cá nhân

doc46 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 678 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tại sản tại huyện Như Xuân đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rái, vi phạm pháp luật. Một số đối tượng khác do cờ bạc, rượu chè, sinh ra nợ nần cũng dẫn tới con đường phạm tội. Một số ít đối tượng còn lại do chơi bời, giao du với những đối tượng xấu nên bị xúi dục, lôi kéo cũng dẫn đến phạm tội. - Nguyên nhân giáo dục: + Từ phía gia đình: Đây là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu, bởi môi trường sống trong gia đình có tác động đầu tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách của con người, vì vậy nếu môi trường giáo dục trong gia đình không tốt sẽ là nguyên nhân dẫn con cái đến con đường vi phạm pháp luật. Những thiếu sót, sai lầm từ phía gia đình có thể là do: Một là, lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục không đúng, như: thỏa mãn và đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất của con cái khi các yêu cầu này là không chính đáng, không phù hợp với lứa tuổi hoặc điều kiện kinh tế của gia đình. Sự nuông chiều thái quá, không bắt lao động, coi nhẹ hoặc bỏ qua lỗi lầm, nghĩa vụ của con cái, từ đó tạo ra thói quen, tâm lý đòi hỏi, hưởng thụ sống ích kỷ, ỷ lại. Ngược lại, có gia đình do bố mẹ thiếu hiểu biết nên khi thấy con có lỗi đã không tìm cách khuyên răn mà lại dạy con bằng cách đánh đập, hành hạ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật của người chưa thành niên. Hai là, gia đình thiếu trách nhiệm, không quan tâm trong việc quản lý và giáo dục con cái, ỷ lại cho nhà trường và xã hội như: bố mẹ lo làm ăn buôn bán, phải đi công tác xa thường xuyên, bố mẹ ốm đau bệnh tật không quản lý chặt chẽ việc học tập, sinh hoạt của con cái. Một bộ phận gia đình kinh tế khó khăn thì quan niệm chỉ cần học biết chữ, biết đếm, sau đó bỏ học đi làm kinh tế. Mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường còn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học, chơi bời hư hỏng mà bố mẹ không biết Ba là, một số gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như bố mẹ ly hôn; bố mẹ đang chấp hành án phạt tù, bố hoặc mẹ đã chết, sống với gì ghẻ hoặc bố dượng, mồ côi cả bố mẹ các em phải ở với ông bà, anh chị em ruột, sống một mình, sống lang thang. Những trẻ em rơi vào hoàn cảnh này thường bị tổn thương về tâm lý do tự ti, mặc cảm, thiếu thốn tình cảm, thiếu điều kiện học tập vui chơi, thiếu quản lý, giáo dục dẫn đến mất phương hướng khi hành động dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực, phạm tội. + Từ phía nhà trường: Nhà trường là một môi trường giáo dục quan trọng để giúp cho các em ở lứa tuổi vị thành niên hình thành nhân cách, định hướng cho các em trong cuộc sống sau này. Nếu không được giáo dục một cách toàn diện, lại sớm phải va chạm với thực tế cuộc sống khó khăn, dễ dẫn các em vào con đường phạm tội. Mặt khác, trong những năm vừa qua, nhà trường chỉ chú trọng đến công tác giảng dạy kiến thức cơ bản về văn hóa, khoa học, kỹ thuật; việc giáo dục nhân cách, hiểu biết về pháp luật chưa thực sự được quan tâm. Trong mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý, giáo dục học sinh. Bên cạnh đó, trong học đường còn có một số tiêu cực, chính những tiêu cực này đã hình thành ở các em những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội, dẫn đến lười học và bỏ học, từ đó nảy sinh tình trạng tụ tập, đàn đúm thực hiện hành vi phạm pháp. + Từ phía xã hội: Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống trong quần chúng nhân dân nhất là thanh thiếu niên chưa được coi trọng đúng mức, còn thiếu cả về bề rộng và chiều sâu. Do vậy, việc nắm vững pháp luật và thực hiện pháp luật còn hạn chế, nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về tội phạm, tính nguy hiểm của mình do không hiểu biết pháp luật. Một bộ phận không nhỏ khi thực hiện hành vi mà không biết rằng đó là hành vi phạm tội. Vai trò mờ nhạt của các đoàn thể xã hội, đặc biệt là Đoàn Thanh niên cùng với việc thiếu quan tâm của gia đình dẫn đến nhiều thanh niên sau khi trở về từ trường giáo dưỡng lại tiếp tục đi vào con đường tái phạm. Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự còn nhiều yếu kém, bất cập, thiếu toàn diện, sâu sát như quản lý đối tượng tại cộng đồng dân cư, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng, có nhiều trường hợp đối tượng đi khỏi địa phương nhiều tháng đến khi có thông báo về việc bắt đối tượng phạm tội của Công an địa phương khác thì chính quyền địa phương mới nắm được việc đi khỏi địa phương của đối tượng, đây chính là một trong những sơ hở làm tội phạm nảy sinh, tồn tại và phát triển. Các hoạt động phòng ngừa riêng của các lực lượng chuyên trách còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao. Các hoạt động quản lý đối tượng có điều kiện khả năng phạm tội còn chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống và thiếu thông tin giữa các địa bàn. Các hoạt động nghiệp vụ trinh sát trong ngăn chặn, phát hiện người phạm tội còn gặp nhiều khó khăn do một phần hạn chế của cán bộ làm công tác này. Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu chặt chẽ, các ngành, các cấp chính quyền chưa coi trọng đúng mức và chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình trong công tác phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, coi đó là trách nhiệm chủ yếu của gia đình và nhà trường. - Nguyên nhân về chính sách pháp luật: Mặc dù hệ thống pháp luật đã có nhiều về số lượng và thay đổi về chất lượng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm của xã hội, thiếu tính ổn định, đồng bộ. Hệ thống văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực quản lý nhà nước còn chậm ban hành, làm cho các ngành, các cơ quan hành chính lúng túng trong công tác quản lý. Mặt khác công tác thống kê của cơ quan tư pháp không thống nhất, các số liệu thống kê báo cáo chưa chính xác, trình độ cán bộ thống kê còn chưa cao để sai sót số liệu. Từ đó dẫn đến tình trạng đánh giá không đúng tình hình tội phạm, các biện pháp phòng chống tội trộm cắp tài sản không đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, tuy có nhiều văn bản pháp luật được xây dựng nhưng vẫn còn bất hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ những hạn chế này làm cho việc áp dụng pháp luật có nhiều khó khăn, vướng mắc không giải quyết được, từ đó làm yếu đi khả năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. Mặt khác, chính sách pháp luật của nước ta còn thiếu tính bao quát lâu dài mà thường chỉ chạy theo giải quyết gấp các vấn đề bức xúc. Vai trò, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, cơ quan hành chính có nhiệm vụ quản lý còn hạn chế, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm quản lý ở các cấp, các ngành. Công tác quản lý nhà nước ở nhiều ngành, nhiều cấp còn mang nặng tính hành chính, quan liêu xa rời thực tiễn. Tình trạng trên là một trong những nguyên nhân và điều kiện thuận lợi cho tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng phát triển. Việc nâng cao trách nhiệm và năng lực của các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong việc thiết lập lại chính sách pháp luật là một yêu cầu cần thiết. - Nguyên nhân về phía cơ quan bảo vệ pháp luật: Trong quá trình tiến hành tố tụng, chủ thể tiến hành tố tụng thiếu trách nhiệm, chủ quan, sai lầm trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Nguyên nhân do trình độ, năng lực nhận thức của cán bộ các cơ quan tư pháp về pháp luật, nhất là những tội phạm tương đối giống nhau như tội trộm tài sản, tội cướp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, ... Việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng bị hạn chế là nguyên nhân và điều kiện cho tội trộm cắp tài sản ngày một gia tăng về số lượng cũng như về quy mô, tính chất. Công tác quản lý nhà nước vẫn còn có nhiều tồn tại để bọn tội phạm trộm cắp tài sản lợi dụng trong quá trình khi gây án, tiêu thụ và trốn tránh pháp luật. Tình trạng trên là do lĩnh vực công tác này còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức và thiếu biện pháp quản lý. Có rất nhiều quan điểm khi đánh giá về một hành vi, nảy sinh những vướng mắc trong xử lý các vụ phạm tội giữa các cơ quan thi hành pháp luật. Việc vận dụng quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... trong BLHS khi truy tố, xét xử các vụ án còn thiếu chính xác. Đặc biệt trong quá trình xét xử việc quyết định hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội, không đạt mục đích giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm. Việc áp dụng Bộ luật tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự còn nhiều thiếu sót... Những thiếu sót này đã làm ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều tra, truy tố, xét xử và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. - Nguyên nhân của người quản lý tài sản Đây là một vấn đề tương đối phổ biến trên địa bàn huyện làm phát sinh tội trộm cắp tài sản, nó là môi trường, điều kiện để cho người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Nguyên nhân là do chủ tài sản hoặc người được giao trách nhiệm quản lý tài sản còn sơ hở và chưa cảnh giác, để tài sản không có người trông coi, khi ra khỏi nhà không khoá cửa, để xe đạp, xe máy không có khoá an toànđã tạo cơ hội cho bọn tội phạm trộm cắp tài sản dễ dàng thực hiện hành vi của chúng. 2.2.1.4. Thực trạng đấu tranh, mối quan hệ kết hợp giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an với Viện kiểm sát Nhân dân huyện Như Xuân trong các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản: Trong thời gian qua, hoạt động phối hợp trong quá trình điều tra các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản đã có nhiều tiến bộ, hai cơ quan đã chủ động hơn trong việc phối hợp ở từng hoạt động điều tra: khởi tố vụ án, khởi tố bị can; áp dụng và hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; thu giữ, kê biên tài sản, vật chứng; thu thập vật chứng vụ án; hỏi cung bị can; lấy lời khai nhân chứng Đối với việc xử lý tin báo tội phạm, quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan trong giai đoạn này được thực hiện theo Điều 103 BLTTHS. Theo đó, cơ quan cảnh sát điều tra và Công an huyện Như Xuân đã tổ chức phối hợp thực hiện tốt việc tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo tội phạm. Chính vì thế, số tin báo được hai cơ quan phối hợp giải quyết tốt tăng nhanh, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đều được đảm bảo đúng người, đúng tội, kịp thời, từ xác minh tin báo tội phạm đã chuyển xử lý hình sự được số lượng lớn các vụ án trộm cắp tài sản. Quần chúng nhân dân đã cung cấp cho Cơ quan chức năng số lượng tin tố giác tội phạm trộm cắp lớn, các tin có dấu hiệu tội phạm cơ bản được chuyển xử lý hình sự. Cơ quan cảnh sát điều tra đều đã có sổ theo dõi tin báo tội phạm trộm cắp tài sản bởi đây chính là tội phạm chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số vụ phạm pháp hình sự nói chung trên địa bàn huyện Như Xuân. Điều tra viên thường có sự phối hợp chặt chẽ với Kiểm sát viên ngay từ khi có thông tin về tội phạm, cùng Kiểm sát viên xem xét, đánh giá chứng cứ, có kế hoạch xác minh để củng cố lời khai, đề xuất ý kiến giải quyết hợp lý. Đối với giai đoạn điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Kiểm Sát đã chủ động phối hợp ngay từ khi có dấu hiệu phạm tội nên ngày càng phát hiện, khám phá được nhiều vụ trộm cắp tài sản, trong đó có nhiều vụ có đông đối tượng, hành vi phạm tội xảy ra trên nhiều địa bàn khác nhau, hậu quả của hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Điển hình như vụ án hình sự sơ thẩm được tòa án nhân dân huyện Như Xuân, Thanh Hóa xét xử đối với các bị cáo Cao Duy oanh và đồng phạm bằng Bản án số: 18/2016/HSST, ngày 03/6/2016 về tội trộm cắp tài sản (4 con trâu) trị giá 72.000.000đ. Điều tra mở rộng vụ án cho thấy, từ tháng giữa tháng 4/2015 đến giữa tháng 7/2015 các bị cáo đã tham gia hành vi trộm cắp 05 vụ trộm cắp trâu khác trên nhiều địa bàn khác nhau.Tổng giá trị tài sản các bị cáo đã trộm cắp là 562.000.000đ. Nhìn chung, sự phối hợp giữa Công an huyện Như Xuân với Viện Kiểm sát được thể hiện ở tất cả các khâu từ giải quyết tin báo tội phạm, khởi tố vụ án, khởi tố bị canđến truy tố tội phạm. Quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, sự phối hợp giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với Viện Kiểm Sát ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự, cơ quan cảnh sát điều tra đã từng bước nâng cao chất lượng điều tra các vụ trộm cắp tài sản. Quá trình thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án trộm cắp tài sản, Viện Kiểm Sát không ngừng nâng cao chất lượng công việc của mình, chú trọng đến phát hiện những sai sót, vi phạm của Cơ quan điều tra để đề ra các yêu cầu điều tra, tập hợp, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra khắc phục, rút kinh nghiệm. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Cơ quan điều tra và Viện Kiểm Sát vừa ức chế lẫn nhau, vừa có trách nhiệm phối hợp với nhau để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự. Trong những năm gần đây trên địa bàn huyện Như Xuân, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,diễn ra hết sức phức tạp, trong đó tội trộm cắp tài sản là tội phạm xảy ra chủ yếu nhất, gây mất trật tự an toàn xã hội, tạo cảm giác bất an, lo lắng cho người dân. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Như Xuân đã có sự nỗ lực trong phát hiện, điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản và đã thu được những kết quả khả quan. Ngoài những hoạt động theo chức năng của mỗi cơ quan, giữa Cơ quan điều tra với Viện Kiểm Sát trong nhiều năm qua, đã có sự quan hệ phối hợp chặt chẽ, tạo nên sự đồng bộ nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm Sát vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định như: Thứ nhất, có lúc, có nơi Viện Kiểm Sát và Cơ quan cảnh sát điều tra chưa chủ động trong quan hệ phối hợp giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản, biểu hiện cụ thể là ở giai đoạn điều tra, Điều tra viên không chủ động trao đổi với Kiểm Sát viên những nội dung trong từng hoạt động điều tra, những vấn đề mới phát sinh, tiến độ điều tra vụ án, ngược lại Kiểm Sát viên cũng không quan tâm, phó mặc cho Điều tra viên nên không nắm được diễn biến cũng như nội dung vụ án. Đến khi hồ sơ kết thúc điều tra, Kiểm Sát viên mới tiếp cận hồ sơ, như vậy với những vụ án lớn, phức tạp, Kiểm Sát viên bị lúng túng, đề xuất xử lý vụ án không chuẩn xác. Thứ hai, việc xử lý mối quan hệ phối hợp có khi chưa đúng mức, dẫn đến vi phạm tính độc lập của mỗi cơ quan trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tế trên có nguyên nhân khách quan là tội phạm trộm cắp tài sản đang là vấn đề của cả nước, cũng như của toàn huyện Như Xuân, tội phạm này ngày càng diễn biến phức tạp, công việc giải quyết án Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đảm nhiệm ngày càng lớn trong khi biên chế, chế độ đãi ngộ, kinh phí phục vụ nghiệp vụ chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Bên cạnh đó còn bởi nguyên nhân chủ quan là nhận thức của không ít Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố, dẫn đến va chạm, xuôi chiều; một số Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa có tinh thần trách nhiệm cao. 2.2.1.5. Thực trạng hoạt động xét xử của Toà án nhân dân huyện Như Xuân trong trong các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản: Thực hiện chức năng xét xử của mình, trong những năm gần đây Toà án nhân dân huyện Như Xuân luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và tội Trộm cắp tài sản nói riêng. Hoạt động phòng ngừa tội Trộm cắp tài sản của Toà án được thể hiện ở một số kết quả sau : - Nghiên cứu kỹ và đầy đủ hồ sơ vụ án; xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi nghiên cứu các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản, Toà án huyện luôn nghiên cứu, xem xét kỹ các đặc điểm, tình tiết của tội phạm. Điều này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nó không chỉ làm cho khả năng nắm bắt được các hành vi cụ thể của tội phạm và đề ra các biện pháp phòng ngừa cần thiết mà còn nhằm xác định đúng mức độ hình phạt đối vối người có tội. Thông qua việc xét xử các vụ án hình sự về tội Trộm cắp tài sản trong đó có cả xét xử lưu động, Toà án huyện đã phát hiện ra các nguyên nhân, điều kiện phát sinh của tội trộm cắp tài sản để kiến nghị với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tiến hành hạn chế, loại trừ để phòng ngừa tội Trộm cắp tài sản phát sinh trong tương lai. Tại phiên toà xét xử, Thẩm phán đã tuyên các hình phạt nghiêm khắc, đúng pháp luật. Điều này có vai trò giáo dục phòng ngừa lớn. Hình phạt không chỉ xử lý nghiêm minh kẻ phạm tội mà nó còn răn đe đối với những đối tượng khác có ý định phạm tội. Đặc biệt đối với việc cá thể hoá hình phạt thì Toà án đã áp dụng rất có hiệu quả trong việc xét xử, nó mang tính chất giáo dục và phòng ngừa tội phạm xảy ra. Việc hình phạt được cá thể hoá, có căn cứ pháp luật, nhân đạo và công bằng là một phương tiện tác động to lớn và quan trọng đối với tâm lý kẻ phạm tội và những người có mặt tại phiên toà. Trong trường hợp này Toà án đã đạt được mục đích phòng ngừa chung và riêng. Đây là một những phương hướng quan trọng trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội Trộm cắp tài sản nói riêng của Toà án. - Luôn tổng kết thực tiễn về tình hình trộm cắp tài sản. Kết thúc một năm xét xử thì Toà án nhân dân huyện Như Xuân luôn luôn tổng kết thực tiễn về tình hình trộm cắp tài sản, số lượng các vụ trộm cắp tài sản mà Toà án đã xét xử. Việc tổng kết này nhằm để tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm để qua đó cộng tác chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật loại trừ chúng ra khỏi đời sống xã hội; tạo cơ sở cho các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức kimh tế, các tổ chức xã hội,... để động viên tất cả mọi người dân vào hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và tội Trộm cắp tài sản nói riêng. - Luôn phối hợp với các cơ quan chức năng khác trong việc phòng chống tội phạm. Trong những năm qua, Toà án nhân dân huyện Như Xuân đã phối hợp với các cơ quan Tư pháp, Công an, Viện kiểm sát và các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội tiến hành công tác thi hành án hình sự, giáo dục quản lý những người có tội nhưng bị phạt án treo; cải tạo không giam giữ; những người mãn hạn tù trở về để hoà nhập với cộng đồng. Ngoài ra trong những báo cáo tại những cuộc họp; tại các cơ quan, đơn vị và trường học thì Chánh án Toà án nhân dân huyện Như Xuân đã thay mặt Toà án thông báo về tình hình tội phạm nói chung và tội Trộm cắp tài sản nói riêng, thông báo về các quyết định của Toà án và thông qua đó tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống tội Trộm cắp tài sản tại huyện. Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử của toà án nhân dân huyện Như Xuân còn những hạn chế như: Số vụ án trộm cắp tài sản đưa ra xét xử lưu động còn chưa nhiều chỉ mới đạt chỉ tiêu mà toà án tỉnh đưa ra. Nhiều vụ có chưa bảo đảm được tính nhanh chóng, kịp thời, thời gian tranh tụng còn ít. 2.2.2. Nội dung cơ bản đề án cần thực hiện: - Nâng cao hiệu quả của các cơ quan, tổ chức trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản, qua đó, bằng các biện pháp để khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội, nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. - Giúp các cơ quan, tổ chức làm công tác phòng, chống tội phạm, nâng cao khả năng phối hợp trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao, qua đó giúp cho nhân dân nắm và hiểu rõ các thông tin, các quy định về pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản. Nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động tự quản lý, bảo vệ tài sản trong nhân dân. - Thông qua việc nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan, góp phần cải cách lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả trong công tác, góp phần ổn định tình hình trật tự trị an trên địa bàn huyện. 2.2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân: 2.2.3.1. Các biện pháp chung: - Biện pháp về kinh tế-xã hội: Để giải quyết được vấn đề tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng, huyện Như Xuân cần phải có các chính sách để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội . Cụ thể: + Đối với vấn đề kinh tế, cần phải: Thứ nhất: Giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm cho người lao động là một trong những biện pháp quan trọng. Muốn vậy phải đa dạng hoá nền kinh tế, không chỉ chú trọng kinh tế nông nghiệp mà cả lâm nghiệp vì địa bàn huyện có diện tích rừng lớn; bên cạnh phát triển ngành trồng trọt còn phải pháp triển ngành chăn nuôi gia súc gia cầm. Những biện pháp này sẽ tạo ra nhiều việc làm, thu hút người lao động nhàn rỗi, giảm tỷ lệ thất nghiệp, bán thất nghiệp. Thực hiện chính sách cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tập trung tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế mở nhiều công ty, xí nghiệp để giải quyết công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi. Tăng cường xây dựng cơ sở dạy nghề, hướng nghiệp, từng bước mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị nhằm tạo công ăn việc làm phù hợp khả năng của từng đối tượng. Đảm bảo tới mức cao nhất khả năng dạy và tạo nghề cho mọi người Thứ hai: Các xã, thị trấn và chính quyền địa phương cần có chính sách ưu tiên hỗ trợ về kinh tế cho các gia đình nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện giúp đỡ họ làm ăn và phát triển kinh tế, hạn chế sự gia tăng dân sốđảm bảo mức sống tối thiểu, rút ngắn khoảng cách giữa giàu nghèo, tạo sự phát triển đồng bộ giữa vùng thành thị và nông thôn. Thứ ba: Phát triển hệ thống quản lý tài chính, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt mà tập trung nâng cao hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng, hạn chế giữ tiền mặt, kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân,những điều đó sẽ giúp làm giảm cơ hội trộm cắp của bọn tội phạm. + Đối với vấn đề xã hội: Cần phải tập trung vào việc giáo dục, bồi dưỡng các thế hệ trẻ, đặc biệt là các em học sinh đang ở lứa tuổi vị thành niên, dễ bị dụ dỗ vào các con đường xấu. Có chính sách tạo công ăn việc làm đối với những người mới trở về từ con đường lạc lối, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng. Tổ chức cho quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện tham gia và phát hiện các đối tượng có những biểu hiện nghi vấn, tố giác các hành vi phạm tội hoặc cùng với cơ quan chức năng phối kết hợp ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội. Phát huy sức mạnh toàn dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. - Biện pháp về giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách pháp luật: Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Như Xuân ngày càng gia tăng là do trình độ dân trí thấp, sự am hiểu về pháp luật của quần chúng nhân dân còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật trong quân chúng nhân dân rất cần thiết. Đây là công tác hết sức quan trọng trong quản lý xã hội nói chung và trong phòng chống tội trộm cắp tài sản nói riêng. Do vậy, các cơ quan trên địa bàn huyện cần có những hoạt động tích cực, hữu hiêụ để đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống tội trộm cắp tài sản. Đặc biệt, các cơ quan liên quan cần phối hợp thường xuyên tổ chức các chương trình tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về ý thức chấp hành pháp luật, đưa việc giảng dạy pháp luật vào chương trình đào tạo trong các nhà trường. Thông tin kịp thời cho nhân dân nắm bắt được tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn để từ đó nhân dân có ý thức cao trong việc cảnh giác, phòng chống loại tội phạm này. Đồng thời, thực hiện xã hội hoá công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Hình thành tình cảm và lòng tin của nhân dân đối với pháp luật, lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, vào hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật là rất cần thiết. Tạo điều kiện cho việc điều tra truy tố xét xử các vụ án được nhanh chóng và kịp thời đúng pháp luật. Để làm được điều đó cần mở rộng tính dân chủ, công khai, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực đông đảo vào hoạt động này. Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ có đủ năng lực và trình độ, phẩm chất đạo đức phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Các cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là Toà án nhân dân huyện cần đẩy mạnh công tác giáo dục và tuyên truyền bằng mọi biện pháp cách thức như: Tổ chức các phiên toà xét xử lưu động tại các địa bàn thường xuyên xảy ra tội Trộm cắp tài sản nhằm răn đe ngăn ngừa ý thức pháp luật, củng cố tinh thần đoàn kết đấu tranh phòng chống tội phạm này. - Biện pháp tăng cường hiệu lực quản lý Nhà Nước về an ninh trật tự xã hội: Để làm tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng, chính quyền huyện Như Xuân phải không ngừng củng cố, nâng cao hiệu quả quản lý đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Với điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ngày từng bước đi lên; cùng với sự phức tạp vị trí địa lý, huyện cần phải quản lý chặt chẽ địa bàn, đối tượng. Mặt khác, công tác quản lý hành chính về TTXH như: đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú phải luôn chú trọng. Không những tuyên truyền cho người dân biết nghĩa vụ khai báo tạm trú, tạm vắng mà còn phải có những biện pháp nghiêm khắc đối với những cá nhân, tổ chức không chấp hành. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về con người, trước mắt ngành Công an cần phải thực hiện tốt công tác cấp phát, quản lý giấy chứng minh thư nhân dân, cần phải làm cho mọi người dân thấy rõ và có ý thức nghĩa vụ phải làm chứng minh thư nhân dân, sử dụng đúng mục đích. Tăng cường hiệu lực quản lý các ngành nghề dịch vụ để chủ động phòng ngừa những thiếu sót, sơ hở trong việc cung cấp dịch vụ mà bọn tội phạm có thể lợi dụng. Mặt khác, công tác quản lý phải không gây cản trở cho việc phát triển kinh tế, không gây phiền hà cho nhân dân. Trước hết tăng cường quản lý một số ngành và dịch vụ như: cầm đồ, bán đồ với giá rẻ mà không có giấy tờ chứng minh (Ví dụ bán xe máy trộm). Đồng thời tuyên truyền giáo dục để người hành nghề chấp hành đúng quy định pháp luật loại trừ khả năng tiêu thụ tài sản bất hợp pháp và các vi phạm pháp luật khác của những người hành nghề này. 2.2.3.2. Các biện pháp cụ thể Tiếp tục đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao trách nhiệm, phát huy chức năng của các cơ quan Nhà Nước, các đơn vị sự nghiệp, các lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Phải gắn việc thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với Chương trình hành động phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự. Tập trung xây dựng lực lượng Công an nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác thật sự trong sạch vững mạnh để thực hiện tốt vai trò nòng cốt, xung kích trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm đối với các loại tội phạm, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản. Rà soát và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do UBND tỉnh, huyện ban hành liên quan đến lĩnh vực phòng chống tội phạm trên địa bàn huyện; đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật một cách sâu rộng trong toàn xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh để phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng, ngừa, phát hiện, tố giác và đấu tranh chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; thực hiện phối hợp phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội. Củng cố vai trò và hoạt động của các tổ dân phố, phường, cơ quan, xí nghiệp tham gia tích cực phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, giáo dục và cảm hóa những người phạm tội tại cộng đồng dân cư bằng nhiều hình thức, không ngừng giúp họ cải tạo tiến bộ, hoàn lương, tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng xã hội. Chấn chỉnh công tác giam giữ, thi hành án và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục cải tạo phạm nhân. Chủ động tiến hành các biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn, trấn áp kịp thời đối với tội trộm cắp tài sản. Tập trung phòng chống tội phạm này phải đi đôi với các loại tội phạm nguy hiểm khác như: tội buôn lậu, tham nhũng, giết người, cướp tài sản, các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, cờ bạcTăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực trật tự đô thị, quản lý các hoạt động văn hóa,tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về trật tự xã hội. Các cấp, các ngành cần phải phân công trách nhiệm trong công tác phòng chống loại tội phạm này. Trong đó:  Đối với Cơ quan điều tra huyện: Cần phải có các biện pháp chủ động phòng ngừa, đồng thời, tích cực, kiên quyết tấn công tội phạm. Cần nâng cao chất lượng tiếp nhận, phân loại và giải quyết kịp thời  tin báo, tố giác tội phạm. Trong thực tế, có nhiều người dân, người bị hại khi bị trộm cắp tài sản nhưng không báo cơ quan chức năng vì nhiều lý do, có thể vì họ không biết phải báo ở đâu, báo cho ai và vì họ nghĩ có báo thì cũng không điều tra được kẻ phạm tội nên họ đã bỏ qua. Khắc phục tình trạng này, phải xây dựng các điều kiện cơ sở vật chất như: Xây dựng các hòm thư tố giác tội phạm, các đường dây nóng, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho người dân cung cấp thông tin, tố giác tội phạm. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra. Thực hiện tốt công tác khám nghiệm hiện trường, tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, bắt, giữ, khám xét, thu giữ tang vật, vật chứng của vụ án. Trong công tác điều tra ban đầu ở hiện trường, cần phải được nâng cao năng lực, chất lượng vì hiện trường là nơi tập trung nhiều chứng cứ vô cùng quan trọng của vụ án. Cùng với việc nâng cao năng lực, trình độ, ý thức của các Điều tra viên thì đồng thời cũng cần đầu tư phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Cần có sự phối hợp tốt, chặt chẽ giữa các lực lượng lượng trong công tác điều tra như: Lực lượng trinh sát, các lực lượng chuyên ngành về  khoa học kỹ thuật hình sự, để xử lý những thông tin, những vật chứng thông qua việc giám định, các biện pháp trinh sát đặc biệt, công tác khám nghiệm, để đưa ra những kết luận có tính khoa học phục vụ cho công tác điều tra. Đối với Viện kiểm sát huyện: Viện kiểm sát (VKS) với vai trò, chức năng là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, là cơ quan trực tiếp tham gia vào quá trình kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử các loại tội phạm nói chung và về tội phạm; VKS các cấp cần chú ý làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm bằng việc kịp thời phát hiện những bất cập, vướng mắc trong các quy định của pháp luật và trong việc thực thi pháp luật của các ngành, các cấp, những sơ hở trong quản lý Nhà nước, của nhân dân để từ đó chủ động tham mưu cho các cấp uỷ Đảng và chính quyền về các biện pháp phòng ngừa tội phạm và xây dựng các văn bản pháp luật, các cơ chế quản lý Nhà nước về kinh tế, văn hoá, xã hội. Nâng cao trình độ, lý luận của kiểm sát viên để làm tốt công tác kiểm sát, mỗi kiểm sát viên phải thật sự công tâm, bản lĩnh để tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân, để cơ quan VKS thực sự là “trọng tài” trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đối với Toà án Nhân dân huyện: Trong quá trình xét xử các vụ án, Tòa án nhân dân cần phải đảm bảo sự công minh của pháp luật. Việc áp dụng cụ thể mức hình phạt phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, với nhân thân, động cơ, mục đích phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. Tòa án cần tăng cường hoạt động xét xử, đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh chống tội phạm, tránh tình trạng để án tồn đọng giải quyết kéo dài. Tổ chức xét xử kịp thời những vụ án điểm phục vụ công tác chính trị địa phương. Tòa án cần phối hợp chặt chẽ với Công an, Viện kiểm sát làm tốt công tác thi hành án phạt tù. Đảm bảo mọi bản án có hiệu lực đều được thi hành kịp thời, hạn chế thấp nhất số bị cáo còn ngoài xã hội. Quá trình xem xét cho tạm hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án và xét giảm án tha tù phải chặt chẽ, chính xác, không để tình trạng tiêu cực xảy ra. Qua đó, phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước mới có giá trị thực tế, góp phần răn đe, phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Toà án thông qua công tác xét xử các vụ án, cũng có trách nhiệm phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm, những hiện tượng tiêu cực của xã hội, những sơ hở trong công tác quản lý Nhà nước cũng như các phương thức, thủ đoạn phạm tội mới của tội phạm, để phối hợp với các cơ quan chức năng khác phòng ngừa tội phạm. Do vậy, thời gian tới, Tòa án cần đưa cả các vụ án trộm cắp tài sản đi xét xử lưu động chứ không chỉ có án mại dâm, ma túy như hiện nay, trên cơ sở đó làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật rộng rãi trong nhân dân. Đối với Phòng văn hóa thông tin huyện: Phối hợp với các cơ quan hữu quan, các tổ chức xã hội trong tuyên truyền, vận động xây dựng gia đình văn hóa, đồng thời phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng và ngành liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, trách nhiệm của công dân trong phòng chống tội phạm. Thông qua các loại hình văn hóa nghệ thuật để tuyên truyền những gương người tốt, việc tốt trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phê phán những hiện tượng tiêu cực, giúp cơ quan chức năng phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật; thường xuyên kiểm tra và khắc phục những hiện tượng không lành mạnh trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, báo chí, phát hiện các đề xuất xử lý nghiêm các hành vi vi phạm Luật báo chí, Luật xuất bản. Đài phát thanh, truyền hình huyện: Cần tăng cường lượng phát thanh về công tác phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản nhất là tuyên truyền về phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm trộm cắp tài sản. Kết hợp với phương thức vận động, tuyên truyền nâng cao ý thức, của các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân tích cực tham gia phòng chống tội phạm. Phòng Giáo dục đào tạo huyện: Phải thường xuyên quản lý giáo dục cán bộ, học sinh trong các trường học, có kế hoạch đưa nội dung giáo dục pháp luật và các quy định bảo vệ an ninh trật tự vào chương trình giáo dục ở các cấp học; phối hợp với Công an huyện tổ chức các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi trộm cắp tài sản trong khu vực nhà trường. Đặc biệt cần quản lý theo dõi, giám sát chặt các quán hoạt động kinh doanh Internet. Phòng Lao động-thương binh và xã hội huyện: Tăng cường chỉ đạo việc dạy nghề cho các đối tượng ở các trại giam, đảm bảo khi ra trại họ có trong tay nghề nghiệp để không coi việc trộm cắp tài sản như nguồn thu nhập chính. Phối hợp với Hội đồng thi đua khen thưởng nghiên cứu đề xuất với UBND huyện có chính sách khen thưởng, đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với các đơn vị, cán bộ chiến sĩ và công dân có thành tích xuất sắc trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Đối với phòng tư pháp huyện: Nghiên cứu, rà soát, kiến nghị bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật, mở chuyên mục giáo dục pháp luật thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng Các đoàn thể chính trị xã hội huyện: Tăng cường xuống địa bàn để tuyên truyền một cách sâu rộng, đa dạng, phong phú về hình thức để nhân dân có tinh thần trách nhiệm trong việc bảo vệ tài sản của chính mình, đồng thời nâng cao tinh thần cảnh giác, đề phòng tội phạm bằng các biện pháp như: không để xe máy tài sản ở những nơi không có người trông coi, trước khi đi ngủ hoặc ra khỏi nhà cần phải kiểm tra kỹ các cửa ra vào cẩn thận, không để tiền vàng, đồ trang sức có giá trị trong nhà quá nhiều...khi phát hiện các đối tượng nghi vấn hoặc khi mất trộm cần bình tĩnh giữ nguyên hiện trường và báo ngay cho Công an xã, thị trấn, Công an huyện để thu thập dấu vết, truy tìm thủ phạm. 2. 3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN 2.3.1. Những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện đề án 2.3.1.1. Thuận lợi - Các cấp ủy đảng, chính quyền luôn nhận thức vị trí và tầm quan trọng của công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản; quan tâm chỉ đạo sát sao, quyết liệt. - Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, khách quan, chính xác, đúng pháp luật. - Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng được chú trọng và tổ chức thường xuyên. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội đã triển khai một số mô hình tuyên truyền đem lại hiệu quả; công tác giáo dục, giúp đỡ, cảm hóa người phạm tội được quan tâm, chú trọng. - Lực lượng làm công tác phòng, chống tội phạm được đào tạo cơ bản, năng lực chuyên môn nghiệp vụ tương đối đồng đều, được trẻ hóa về độ tuổi, phẩm chất đạo đức tốt, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực trong thực hiện nhiệm vụ được giao. - Cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản từng bước được các ngành, các cấp quan tâm đầu tư. 2.3.1.2. Khó khăn: - Một số cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản. Công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều tồn tại, nhất là công tác quản lý địa bàn, đối tượng còn lỏng lẻo, chưa nắm được hoạt động đối tượng. - Công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các lực lượng chức năng chưa kịp thời, chặt chẽ, chưa có quy chế rõ ràng, còn có biểu hiện thành tích nên chưa phản ánh đúng tình hình. - Biên chế của các lực lượng tham gia công tác phòng, chống tội phạm còn thiếu so với hiện nay; Trình độ năng lực và kinh nghiệm của một số cán bộ có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu; Việc điều động cán bộ có nơi chưa hợp lý nên cán bộ quản lý địa bàn chưa đủ thời gian, điều kiện để nắm bắt địa bàn, đối tượng. - Cơ sở hạ tầng và điều kiện làm việc của các cơ quan tham gia phòng, chống tội phạm chưa đáp ứng yêu cầu chung, trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật phục vụ công tác phòng chống tội phạm tuy được quan tâm từng bước đầu tư nhưng còn thiếu, chất lượng không đảm bảo, chưa hiện đại. Chưa tích cực áp dụng công nghệ thông tin trong công tác phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản. - Một bộ phận cán bộ, nhân dân hiểu, nắm vững pháp luật và thực hiện pháp luật còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ về tội phạm, cũng như trách nhiệm trong đấu tranh tố giác tội phạm. 2.3.2. Các nguồn lực để thực hiện đề án - Tổng kinh phí dự kiến thực hiện đề án là 450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng chẵn) - Nguồn kinh phí: Kinh phí thực hiện đề án từ nguồn kinh phí phòng, chống tội phạm của huyện Như Xuân 2.3.3. Kế hoạch, tiến độ thực hiện đề án - Đề án được triển khai thực hiện từ năm 2017 đến hết năm 2020 (04 năm) sau khi được Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm huyện Như Xuân phê duyệt. - Các giai đoạn thực hiện đề án như sau: + Năm 2017: Xây dựng đề án, trình các cấp phê duyệt; xây kế hoạch thực hiện cụ thể. Tổ chức hội nghị tập huấn, tuyên truyền, quán triệt, triển khai đến các cơ quan, tổ chức liên quan. In ấn tài liệu cấp phát phục vụ thực hiện đề án. + Năm 2018: Tổ chức triển khai điểm tại thị trấn Yên Cát, xã Hóa Quỳ, xã Yên Lễ, xã Thượng Ninh, xã Bãi Trành, xã Bình Lương. Tổ chức sơ kết đề án, đánh giá, kết quả thực hiện, rút kinh nghiệm. + Năm 2019: Tổ chức triển khai thực hiện đề án trong tất cả 18/18 xã, thị trấn của huyện Như Xuân + Năm 2020: Tổ chức hội nghị tổng kết thực hiện đề án, phân tích các ưu, nhược điểm nhằm chỉnh sửa, bổ sung những hạn chế, khuyến điểm cho các nội dung để rút kinh nghiệm thực hiện cho các năm tiếp theo. 2.3.4. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án - Công an huyện Như Xuân phối hợp Phòng Nội vụ tham mưu thành lập Ban chỉ đạo tổ chức thực hiện đề án do Chủ tịch UBND huyện làm trưởng ban, Trưởng Công an huyện là uỷ viên thường trực, các uỷ viên còn lại bao gồm đại diện lãnh đạo: Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, Ban chỉ huy quân sự huyện,Văn phòng HĐND và UBND, Phòng tư pháp, Phòng lao động - Thương binh xã hội, Phòng Văn hóa thông tin, Phòng tài chính – kế hoạch, Phòng nội vụ, Phòng giáo dục và đào tạo, Đài truyền thanh – truyền hình huyện, Ban Dân vận huyện ủy, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã hội huyện Như Xuân - Công an huyện phối hợp với Văn phòng HĐND và UBND huyện tổ chức hội nghị triển khai kế hoạch thực hiện đề án. Tham mưu chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan và ủy ban nhân dân các xã, thị trấn xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn của từng địa phương, đơn vị, bám sát mục tiêu chỉ đạo của Đề án. Định kỳ tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện đề án thuộc phạm vi đơn vị, địa phương mình. - Thành viên Ban chỉ đạo kiểm tra, giám sát kết quả triển khai thực hiện đề án của các đơn vị, địa phương. Tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện đề án giai đoạn 2017 - 2020. 2.4. DỰ KIẾN HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN 2.4.1. Sản phẩm của đề án - Công an huyện Như Xuân là cơ quan chủ trì tham mưu cho UBND huyện phê duyệt đề án. Trên cơ sở của đề án đã được phê duyệt, tổ chức triển khai thực hiện các nội dung của đề án. Phấn đấu đến năm 2020 có 100% các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, địa phương tham gia hiệu quả việc đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản. - Từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có trình độ nghiệp vụ, phẩm chất chính trị đáp ứng tình hình thực tiễn hiện nay. - Củng cố, kiện toàn, nâng cao một bước hiệu quả hoạt động của các lực lượng bán chuyên trách và các tổ chức tự giác của quần chúng ở cơ sở. Đẩy nhanh quá trình “xã hội hóa” công tác phòng, chống tội phạm, huy động thêm nhiều nguồn lực cho công tác phòng, chống tội phạm. - Tình hình ANTT trên địa bàn ổn định, tình hình tội phạm trộm cắp tài sản được kìm chế, phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ đi vào chiều sâu. 2.4.2. Tác động và ý nghĩa của đề án 2.4.2.1. Tác động Đề án tác động đến các cơ quan, tổ chức trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Thông qua đề án, tác động đến nhận thức của nhân dân trong việc tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; tham gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội; quản lý, cảm hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư Tác động đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn, tạo sự yên tâm, khí thế thi đua trong lao động sản xuất trong nhân dân góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện. 2.4.2.2. Ý nghĩa của đề án: Nếu đề án được áp dụng thực hiện sẽ mang lại hiệu quả thiết thực và có ý nghĩa thực tiễn trong việc phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân. Qua việc thực hiện đề án, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành chức năng và cán bộ chủ chốt trong công tác phòng, chống tội phạm. Phát huy tối đa hiệu quả công tác phối hợp giữa các lực lượng chuyên trách với các phòng, ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản. Phát huy vai trò của các tầng lớp nhân dân tham gia giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện lối sống lành mạnh, đề cao ý thức tuân thủ pháp luật... Qua đó nâng cao các giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức, xây dựng con người có lối sống lành mạnh, có cách ứng xử phù hợp; hiểu, tôn trọng và chấp hành tốt pháp luật góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của huyện. Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. KẾT LUẬN Công tác đấu tranh, phòng chống tội trộm cắp tài sản có một ý nghĩa, vai trò hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nói chung, của huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa nói riêng, nó không chỉ xâm hại đến những quan hệ pháp luật mà Nhà nước bảo hộ (đó là chế độ sở hữu của Nhà nước) mà nó còn trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu của con người. Nhận thức sâu sắc được ý nghĩa và vai trò của công tác này, thời gian qua huyện Như Xuân đã không ngừng đẩy mạnh việc tìm hiểu những nguyên nhân, điều kiện cũng như thực trạng của tội trộm cắp tài sản để từ đó xây dựng và thực hiện các biện pháp phòng chống tội phạm này và đạt được kết quả nhất định, nhiều hành vi vi phạm pháp luật, các vụ án có tính chất phức tạp được phát hiện và xử lý kip thời góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị trên địa bàn huyện, tạo được niềm tin trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Như Xuân từ năm 2012-2016 diễn ra rất phức tạp, có năm tăng, có năm giảm, nhưng nhìn chung là đều có xu hướng gia tăng so với năm 2012. Đây là loại tội phạm chiếm tỷ lệ khá cao so với các tội phạm hình sự nói chung trên địa bàn huyện, tính chất và mức độ ngày càng lớn, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị của huyện. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tại sản tại huyện Như Xuân đến năm 2020” là một yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nó có tác dụng thuyết phục và tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chính quyền, vào sự nghiêm minh của pháp luật, vào hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật của huyện nói riêng, của tỉnh Thanh Hóa và cả nước nói chung. Thành công của cuộc đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn trật tự trị an, hạnh phúc và bình yên cho toàn xã hội, là điều kiện cho sự phát triển bền vững trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của nhân dân huyện Như Xuân, Thanh Hóa cũng như nhân dân cả nước. 3.2. KẾN NGHỊ 3.2.1. Đối với Trung ương Cần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước 3.2.2. Đối với tỉnh Thanh Hóa - Chỉ đạo các ban ngành, các cơ quan chức năng, chuyên môn tăng cường chỉ đạo, kiểm tra giám sát công tác đấu tranh phòng chống tội phạm - Phân cấp mạnh mẽ hơn cho địa phương trong việc tự chủ về ngân sách, trong đó có ngân sách về phòng, chống tội phạm. - Rà soát, đánh giá lại hoạt động của các mô hình hiện nay trên toàn tỉnh, loại bỏ những mô hình thực chất không hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm. - Đề nghị Công an tỉnh, Viện kiểm sát và Tòa án tỉnh chú trọng tăng cường biên chế, phương tiện kỹ thuật cho lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm của công an huyện; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, cử cán bộ đi đào tạo chuyên ngành tại các trường đào tạo. 3.2.4. Đối với huyện ủy và Ủy ban nhân nhân huyện Như Xuân - Chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, các cơ quan chức năng tăng cường công tác đôn đốc, nhắc nhở và thanh tra, kiểm tra, phòng ngừa , ngăn chặn vi phạm pháp luật. Dành ngân sách hợp lý cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm - Làm tốt công tác sơ kết, tổng kết gắn với thi đua khen thưởng, kỷ luật đối với tập thể và cá nhân TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985, 1999, 2015. 2. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” 3. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” 4. Chỉ thị số 48-CT/TW 22/10/2010 của Bộ chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” 5. Quyết định số 1217/QĐ-TTg ngày 06/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng, chống tội phạm. 6. Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội khóa XIII về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm; 7. Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của Quốc Hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Toàn án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo. 8. Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. 9. Nghị quyết 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về “Tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” 10. Chương trình hành động số 04-CTr/TU thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TƯ của Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” 11.Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự 12. Cao Thị oanh ( chủ biên), giáo trình luật hình sự Việt Nam- phần chung, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2012. 13. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh, Trần Văn Độ, Trần Đình Nhã, Nguyễn Ngọc Hòa, Đặng Quang Phương, Ngô Ngọc Thủy, Phạm Văn Tỉnh, Tội phạm học, luật Hình sự và Luật tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994. 14. Đinh Văn Quế ( 2002), Tạp chí Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, phần các tội pham ( tập 2 ), TP HCM. 15. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập I, II, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2012. 16. Võ Khánh Vinh, Giáo Trình Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội năm 2011. 17. Báo Pháp luật, báo công lý, tạp chí Toà án 18. Báo cáo tổng kết công tác xét xử và triển khai nhiệm vụ các năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016. 19. Hồ sơ các vụ án trộm cắp tài sản đã được xét sử tại toà án huyện Như Xuân. Sổ thụ lý các vụ án hình sự sơ thẩm toà án nhân dân huyện Như Xuân 20. Sổ kết quả xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm huyện Như Xuân. 21. Các số liệu thống kê về tội trộm cắp tài sản của Công an huyện Như Xuân và Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân. 22. Các trang web: luathinhsu.wordpress.com; vi.wikipedia.org; tapchikiemsat.org.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_an_nang_cao_hieu_qua_dau_tranh_phong_chong_toi_pham_trom.doc
Luận văn liên quan