Đề án Phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở Việt Nam

Thương mại điện tử - một hiện thực và hình thức kinh doanh mới đã và đang làm thay đổi sâu sắc các hoạt động kinh tế và môi trường xã hội. Và đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực trong đời sống xã hội như thương mại bán buôn và bán lẻ, du lịch, tài chính ngân hàng . Thương mại điện tử trở thành một công cụ kinh doanh quan trọng trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đối với các công ty kinh doanh, Thương mại điện tử tạo ra động lực kinh tế, tác động đến môi trường kinh doanh, cách thức kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Các chức năng trung gian truyền thống được thay thế, các sản phẩm và thị trường mới đang phát triển, các quan hệ mới chặt chẽ hơn được tạo ra giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với khách hàng và giữa khách hàng với nhau. Thương mại điện tử đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy nhanh và làm lan toả rộng rãi hơn các thay đổi đang diễn ra trong nền kinh tế như các quá trình cải cách về mặt pháp lý, thiết lập các kết nối điện tử giữa các doanh nghiệp, toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế, đặt ra nhu cầu về người lao động có trí tuệ cao, các khuynh hướng phân ngành mới (ngân hàng điện tử, đặt chỗ trực tiếp trong du lịch, marketing đến từng khách hàng ). Đối với hoạt động bán hàng, chi phí cho một điểm bán hàng Thương mại điện tử rẻ hơn nhiều so với việc dựng và quản lý cơ sở vật chất do điểm bán Thương mại điện tử mang tính mở, có thị trường toàn cầu. Bằng cách đưa thông tin trực tiếp dưới dạng dễ truy cập, các doanh nghiệp Thương mại điện tử đã làm tăng hiệu quả của quá trình bán hàng. Ở Việt Nam, tuy cơ sở hạ tầng về kỹ thuật (mà cụ thể là internet) còn nhiều yếu kém và bất cập, Thương mại điện tử hầu như chưa được phát triển nhưng những áp lực mà Thương mại điện tử tạo ra ngày một rõ nét. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt Nam vốn đã vất vả trong việc giành giật lấy một chỗ đứng trên thị trường nội địa, hiện đang phải đối mặt với các lực lượng cạnh tranh mới từ việc mở cửa tất yếu thị trường trong xu hướng tự do hoá và hội nhập kinh tế đang phải quan tâm, lo lắng về những đối thủ cạnh tranh đến từ những nơi không xác định qua internet. Xác định lại hướng đi của mình là một việc làm hết sức cần thiết.Trong môi trường kinh doanh Thương mại điện tử các doanh nghiệp phải hiểu được nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh của mình, phải biết được những nhược điểm cố hữu của mình thì mới có thể có những chính sách và biện pháp đúng đắn nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,đặc biệt là phát triển về Thương mại điện tử. Hy vọng trong thời gian tới, Thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ phát triển đúng với quy mô và tiềm năng của thị trường. Thương mại điện tử sẽ thật sự trở thành công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp người tiêu dùng có thêm một phương thức mua sắm hiện đại và hiệu quả. TMÐT sẽ là công cụ đắc lực để đưa đất nước ta phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020.

doc53 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 6995 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịch vụ là động cơ lớn thúc đẩy doanh nghiệp tham gia Thương mại điện tử. Thương mại điện tử thay đổi các mô hình kinh doanh truyền thống; đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Thương mại điện tử đem lại phương thức tiến hành mới, hiệu quả hơn, nhanh hơn cho tất cả các hoạt động truyền thống, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, nâng cao hiệu quả, tăng lợi nhuận, giảm chi phí, duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên các ứng dụng công nghệ thông tin. Vì vậy những lợi ích mà TMĐT mạng lại cho các doanh nghiệp thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình. 3.2.5 Nhân lực Việt Nam tiếp thu công nghệ mới nhanh, đặc biệt là CNTT Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của bất cứ hoạt động nào. Nhân lực cho sự phát triển TMĐT bao gồm 2 bộ phận: nhân lực về nghiệp vụ, nhân lực về kĩ thuật. - Nhân lực về nghiệp vụ: đó là bộ phận sẽ ứng dụng TMĐT vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ phận này phải am hiểu kiến thức về nghiệp vụ thương mại, ngoại thương, sử dụng tốt ngoại ngữ trong giao dịch với đối tác nước ngoài và am hiểu các kiến thức về TMĐT - Nhân lực kỹ thuật: là bộ phận kỹ thuật đảm bảo cho hệ thống công nghệ thông tin hoạt động ổn định, có khả năng khắc phục các sự cố và phát triển các tiện ích, công cụ kỹ thuật mới đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động giao dịch thông qua các phương tiện điện tử. Thương mại điện tử là một công cụ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn ứng dụng có hiệu quả thương mại điện tử thì nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt. Do đó, nguồn nhân lực có chất lượng cao, có khả năng quản lý các hoạt động liên quan đến thương mại điện tử là yếu tố rất cần thiết trong phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nói riêng. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM 1 Sự phát triển của thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở nước ta Tại Việt Nam, mạng Internet được kết nối với cổng quốc tế từ 1997, từ đó đến nay, số lượng website của các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam, ngày càng nhiều hơn, các cơ sở hạ tầng viễn thông cũng dần được đầu tư mở rộng để phục vụ cho việc triển khai thương mại điện tử trong nước. Hiện nay, chính phủ cũng đang rất quan tâm đến việc phát triển hoạt động thương mại điện tử trong nước, như xây dựng cổng thông tin thương mại điện tử, xây dựng dự thảo pháp lệnh thương mại điện tử, khuyến khích phát triển các cơ sở hạ tầng công nghệ, kỹ thuật bảo mật, thanh toán trực tuyến Mặc dù chưa phải là thước đo trình độ triển khai ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp, nhưng số lượng và chất lượng các website kinh doanh cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển thương mại điện tử, đặc biệt trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối bỡ ngỡ với các phương thức tiến hành thương mại điện tử của thế giới.   Giai đoạn 2001-2010 được coi là thập kỷ hình thành TMĐT và có thể thấy đến cuối giai đoạn này, hạ tầng cơ bản cho ứng dụng TMĐT tại Việt Nam đã được xác lập. Thương mại điện tử Việt Nam chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển thực sự từ năm 2011. (Năm 2003: Xuất hiện; Năm 2005: Hình thành; Năm 2006 - 2010: Khẳng định sự tồn tại; Năm 2011 - 2020: Phát triển thực sự). Thanh toán điện tử đã có những tiến bộ lớn từ năm 2007, góp phần đẩy mạnh hoạt động mua bán trực tuyến thông qua Internet. Doanh nghiệp trong các lĩnh vực dịch vụ đã biết tận dụng ưu điểm của TMĐT để phát triển các kênh bán hàng trực tuyến, điển hình là các hãng hàng không, công ty du lịch, khách sạn, v.v Nhiều doanh nghiệp thiết lập website TMĐT để bán hàng hoặc để cho các doanh nghiệp, tổ chức khác tham gia bán hàng hóa hoặc dịch vụ trên website của mình. Theo Báo cáo Thương mại điện tử năm 2012 của Bộ Công Thương 42% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã xây dựng webite. 89% các website này có chức năng giới thiệu sản phẩm và 38% có chức năng đặt hàng trực tuyến. Trong khi đó, khảo sát của Công ty công nghệ thanh toán toàn cầu VISA cho biết, trong năm 2012, 71% người dùng Internet ở Việt Nam có tham gia mua hàng trực tuyến với doanh số TMĐT bán lẻ đạt khoảng 667 triệu USD. 90% trong số đó cho biết họ sẽ tiếp tục mua hàng trực tuyến trong tương lai. So với tỷ lệ 30% người tham gia khảo sát cho biết từng mua hàng trực tuyến trước đó một năm, những con số này cho thấy sự tăng trưởng nhanh chóng về mức độ tham gia TMĐT của người tiêu dùng trẻ tại các thành phố lớn. Theo báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2013 của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (VECITA, Bộ Công Thương) công bố: năm 2013, giá trị các giao dịch thương mại điện tử của Việt Nam ước đạt 2,2 tỷ USD, tương đương mức chi chi trung bình 120 USD cho mua sắm trực tuyến của mỗi người dân, con số này và có thể tăng lên hơn 4 tỷ USD vào năm 2015 nhờ lượng người dùng Internet ngày càng lớn. Tình hình sở hữu website của doanh nghiệp qua các năm 2008-2012 Có thể thấy, trong những năm tới, mức độ ứng dụng TMÐT trong doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục tăng. TMÐT đã đi vào thực chất, giúp doanh nghiệp có doanh thu cụ thể. Thực trạng phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Kinh doanh hiện nay và trong tương lai sẽ chuyển dần sang online và chiếm phần lớn doanh thu cũng như thị phần của các ngành nghề kinh doanh. Trong một tương lai không xa, việc trao đổi mua bán sẽ hoàn toàn thông qua mạng và một người hoàn toàn có thể kinh doanh và làm việc tại  nhà qua mạng mà thậm chí không cần phải ra ngoài. Điều này đã diễn ra tại các nước tiên tiến và Việt Nam cũng như vậy. Chính thức xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1997, sau 15 năm Internet đã thâm nhập sâu sắc, toàn diện vào mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Trên nền tảng đó, thương mại điện tử ở Việt Nam đã hình thành và những năm gần đây đã phát triển với nhịp độ nhanh chóng. Môi trường kinh doanh trực tuyến tạo ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong ngành. Theo cục TMĐT và CNTT năm 2012, hiện nay có tới 1/3 dân số Việt Nam truy cập Internet. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông thì số người sử dụng Internet sẽ ngày một tăng cao, dự kiến g hơn một nửa dân số sẽ truy cập Internet hàng ngày. . Vì vậy đây sẽ là nguồn mang lại giá trị lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nếu biết khai thác và ứng dụng thương mại điện tử vào trong các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả. Ngoài ra theo kết quả điều tra sợ bộ tình hình ứng dụng TMĐT của cục TMĐT, thời gian người dùng sử dụng Internet hiện nay cao gấp 2.5 lần so với xem tivi. Quyết đinh mua hàng của người tiêu dùng lệ thuộc nhiều vào Internet. TMĐT đã chứng minh được vai trò không thể thiếu, là kênh marketing tiếp xúc khách hàng nhanh chóng, thuận tiện, giảm chi phí, tăng doanh thu. Theo Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2012 của Bộ Công thương thì thấy mức độ và hiệu quả của TMĐT đối với doanh nghiệp đã rõ ràng và xu hướng ứng dụng ngày càng tăng. Có gần 90% số doanh nghiệp Việt Nam đã thiết lập hệ thống nội bộ thông qua TMĐT để nhận đơn hàng từ khách hàng. 45% số doanh nghiệp đã xây dựng trang mạng riêng, 15% doanh nghiệp tham gia vào các sàn giao dịch TMĐT. Hầu như tất cả doanh nghiệp đã có máy tính với tỷ lệ kết nối in-tơ-nét gần 100%. Có thể thấy, trong những năm tới, mức độ ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục tăng. TMĐT đã đi vào thực chất, giúp doanh nghiệp có doanh thu cụ thể. Hầu hết các doanh nghiệp thương mại dịch vụ đều đã sử dụng email trong hoạt động kinh doanh, với các mục tiêu là quảng bá sản phẩm, giới thiệu doanh nghiệp, trao đổi thông tin và chăm sóc khách hàng. Có trên 40% doanh nghiệp tham gia điều tra có website và 12% doanh nghiệp tham gia các sàn TMĐT. Hoạt động kinh doanh trên các website cho phép đặt hàng trực tuyến, 20% doanh nghiệp cho biết tham gia các sàn TMĐT mang lại hiệu quả cao. Theo thống kê của Cục TMĐT và CNTT, hiện Việt Nam có hơn 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có khoảng hơn 200.000 doanh nghiệp là có website. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 40% - 45% trên tổng số doanh nghiệp có website là có website TMĐT. Thế nhưng, chỉ có hơn 4.800 website TMĐT là làm đúng thủ tục thông báo/đăng ký. Trong đó, TP Hồ Chí Minh và Hà Nội chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ doanh nghiệp sở hữu website theo địa bàn hoạt động 2012 (Báo cáo thương mại điện tử năm 2012) Thương mại điện tử là một hình thức kinh doanh được áp dụng cho rất nhiều lĩnh vực khác nhau và nó có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tùy thuộc vào từng loại hình kinh doanh, cụ thể như sau: 2.1 Thương mại điện tử trong ngành du lịch Thương mại điện tử có nhiều tác động đến các cá nhân và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Những tác động đó có thể mở rộng ra cho cả ngành du lịch. Tại Việt Nam ngành du lịch đang được ưu tiên phát triển và là một ngành mũi nhọn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục du lịch công bố: trong 6 tháng đầu năm 2014 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt ước đạt 4.287.885 lượt, tăng 21,11% so với cùng kỳ năm 2013. Đấy là chưa kể đến khách Việt Nam đi du lịch trong nước. Việc ứng dụng TMĐT trong ngành du lịch cũng đã được chú trọng vì nó góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ngành. Du lịch Việt Nam cần tận dụng Thương mại điện tử để quảng bá, cho đặt dịch vụ qua mạng, thanh toán qua mạng, hỗ trợ du khách qua mạng không chỉ khách du lịch trong nước mà cả khách du lịch nước ngoài. Người tiêu dùng đang dần dần bỏ qua các hãng đại lý du lịch để mua vé, đặt chỗ và làm các công việc liên quan khác thông qua mạng với chi phí giảm rất nhiều. Vì thế du lịch trực tuyến đang là một xu hướng tất yếu mà các doanh nghiệp Việt Nam cần cập nhật để theo kịp với thế giới và gia tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch trong nước.  Tại Việt Nam, có hơn 5 triệu lượt tìm kiếm bằng tiếng Việt về các sản phẩm du lịch như du lịch trong nước, tour nước ngoài, đặt phòng khách sạn, các loại hình du lịch Những tháng cao điểm, con số có thể lên đến 8 triệu lượt. Chiếm tỷ lệ 98% người sử dụng dịch vụ du lịch thực hiện tìm kiếm online trước khi chọn tour (Thống kê từ Google – 2012). Trong đó: - Khu nghỉ dưỡng: trung bình có 600.000 – 800.000 lượt tìm kiếm qua Internet/tháng -Tháng cao điểm: hơn 1 triệu lượt/ tháng. - Tour du lịch: 5 – 7 triệu lượt/ tháng Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam còn phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp và tổ chức ở các quốc gia trong khu vực như Singapore, hay Malaysia, Indonesia hay Đài Loan đang sử dụng marketing online để tiếp cận với khách hàng nội địa. Qua các con số trên, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có thể thấy các phương thức giao tiếp với khách hàng cũng đã thay đổi và mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam bắt kịp với thế giới và tận hưởng những lợi ích to lớn mà nó đem lại 2.2 Thương mại điện tử trong kinh doanh trực tuyến TMĐT giúp mở ra một kênh phân phối và bán hàng mới, gọi là kênh bán hàng trực tuyến. Kênh bán hàng này, nếu làm đúng, không những không giành khách với kênh bán hàng truyền thống, mà còn tiếp cận và mang lại lượng khách hàng mới, mà kênh phân phối cũ không đáp ứng được Mua bán trực tuyến là quá trình mà người tiêu dùng trực tiếp mua hàng hoá, dịch vụ từ một người bán trong thời gian thực, mà không có một dịch vụ trung gian, qua Internet. Nó là một hình thức thương mại điện tử. Một cửa hàng trực tuyến, cửa hàng điện tử, internet cửa hàng, vatgia, cucre, cửa hàng trực tuyến, hoặc cửa hàng ảo gợi lên sự tương tự vật lý của sản phẩm, dịch vụ mua tại một cửa hàng bán lẻ gạch-và-vữa hoặc trong một trung tâm mua sắm. Quá trình này được gọi là Kinh doanh-to-người tiêu dùng mua sắm trực tuyến (B2C). Khi một doanh nghiệp mua từ một doanh nghiệp khác được gọi là Kinh doanh-to-Business mua sắm trực tuyến (B2B). Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều mặt hàng, Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tìm kiếm khách hàng trên toàn thế giới. Việt Nam có thể “xuất khẩu” hàng hoá, dịch vụ bằng cách bán qua mạng Internet. Mục đích sử dụng Internet giai đoạn 2009-2012 (Đơn vị: %) Mục đích sử dụng Internet 2009 2010 2011 2012 Tìm kiếm thông tin 89.3 100 100 87.05 Truyền nhận dữ liệu 71.4 81 92 23.87 Trao đổi thư điện tử 71.02 71 71 71.02 Mua bán qua mạng 17.9 33.3 32.4 41.57 (Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông) Theo bảng báo cáo Ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy mục đích sử dụng Internet nhằm thực hiện trao đổi mua bán qua mạng chiếm tỷ lệ tăng dần trong giai đoạn 2009-2012, từ 17.9% năm 2009 đến 41.57% năm 2012, trong khi mục đích tìm kiếm thông tin giảm nhẹ còn 87.05% và truyền nhận dữ liệu điện tử giảm mạnh chỉ còn 23.87%. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng nhu cầu mua bán qua mạng của khách hàng ngày càng tăng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến sẽ càng có nhiều cơ hội phát triển hơn trong lĩnh vực này. Mua sắm không cần đến trực tiếp cửa hàng nói chung và bán lẻ qua mạng-trực tuyến nói riêng đã và đang khởi sắc tại Việt Nam, đến năm 2013 thì "Bán lẻ trực tuyến lên ngôi". Thói quen của người tiêu dùng Việt Nam đối với mua hàng trực tuyến có sự chuyển biến rõ rệt, nắm bắt được xu hướng thay đổi này nhiều website kinh doanh theo mô hình bán lẻ trực tuyến ra đời, khiến cho thị trường này trở nên sôi động. Theo báo cáo năm 2012 của Bộ Công Thương thì doanh số ngành thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam ước tính vào khoảng 700 triệu USD. Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (thuộc Bộ Công Thương) cũng dự báo đến năm 2015 quy mô ngành TMĐT có thể đạt 1,3 tỉ USD. Theo báo cáo của VECITA: Hiện cả nước có hơn 30 triệu người dùng Internet (dân số 90 triệu người). Theo dự báo, đến 2015 Việt Nam sẽ có 40-45% dân số sử dụng mạng. "Với tốc độ phát triển kinh tế và xu hướng hạ tầng dịch vụ, thanh toán ngày càng được quan tâm, đến năm 2015 mỗi người Việt sẽ chi trung bình 150 USD cho thương mại điện tử mỗi năm, đẩy doanh thu ước tính của 2015 lên khoảng 4 tỷ USD" Cụ thể, với dân số ước tính 93 triệu người và tỷ lệ truy cập Internet để tham gia mua sắm trực tuyến cao (70%) thì doanh thu sẽ khoảng 4,3 tỷ USD. Nếu ở mức trung bình (65%) sẽ đạt 4,08 tỷ USD còn thấp (60%) là 3,7 tỷ USD. Có 61% người giao dịch trực tuyến trong năm 2013 mua hàng qua các website của bên bán, 51% thông qua website mua hàng theo nhóm, mạng xã hội chiếm 45%, 19% qua các sàn giao dịch thương mại điện tử. Ngoài ra, tỷ lệ người mua hàng thông qua các ứng dụng cài đặt trên thiết bị di động đạt 6%. Phụ nữ vẫn là đối tượng chiếm đa số trong hoạt động mua sắm trực tuyến với 59%, trong khi đó chỉ 41% nam giới cho biết có tham gia dịch vụ này. Xét về nghề nghiệp, cán bộ quản lý, nhân viên văn phòng là nhóm đối tượng thường xuyên, chiếm 41%. Theo báo cáo, nhóm này làm việc theo giờ hành chính, ít có thời gian đi mua sắm, tính chất công việc thường xuyên thao tác trên máy tính nên dễ truy cập Internet. Kế đến là đối tượng học sinh, sinh viễn (37%), những người có điều kiện tiếp cận với công nghệ. Nhóm trực tiếp sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 7%. Hầu như các doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội các nhà bán lẻ đều có hoạt đông trực tuyến song song với hình thức bán lẻ tại hệ thống các cửa hàng, cửa hiệu. Nhiều cá nhân và doanh nghiệp bán lẻ khởi đầu sự nghiệp kinh doanh bằng hình thức trực tuyến với nhiều cách làm phù hợp với thực tế Việt Nam. Đánh giá về thực trạng phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ 3.1 Thành tựu Trong những năm qua, TMÐT tại Việt Nam đã phát triển rất nhanh chóng. Thanh toán điện tử có nhiều tiến bộ lớn từ năm 2007, phương thức mua bán trực tuyến qua các trang thông tin điện tử được phổ cập trong xã hội. Một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ đã dựa vào TMÐT để phát triển kênh bán hàng chủ đạo như các hãng hàng không, công ty du lịch, khách sạn. v.v. Nhiều doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để bán hàng hóa hoặc xây dựng trang thông tin điện tử ở dạng sàn giao dịch cho các doanh nghiệp khác hoặc cá nhân tham gia bán hàng hóa hoặc dịch vụ trên sàn của mình. Những hoạt động của các doanh nghiệp này đã tạo ra một thị trường mua bán hàng hóa trên internet khá sôi động. Theo báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2013 của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (VECITA, Bộ Công Thương) công bố: năm 2013, giá trị các giao dịch thương mại điện tử của Việt Nam ước đạt 2,2 tỷ USD, tương đương mức chi chi trung bình 120 USD cho mua sắm trực tuyến của mỗi người dân, con số này và có thể tăng lên hơn 4 tỷ USD vào năm 2015 nhờ lượng người dùng Internet ngày càng lớn. Từ đó chúng ta có thể thấy được triển vọng rất từ nguồn doanh thu mà thương mại điện tử mang lại.   Ðể TMÐT phát triển thì các yếu tố hạ tầng cần được xây dựng một cách đồng bộ từ pháp lý, viễn thông, internet, thanh toán, nguồn nhân lực. TMÐT là lĩnh vực mới nên vai trò của cơ quan quản lý nhà nước ở giai đoạn đầu phát triển là rất quan trọng. Cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng chính sách, chiến lược phát triển phù hợp thực trạng và năng lực ứng dụng của các đối tượng. Ðặc biệt, cần xây dựng những chương trình nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao nhận thức và ứng dụng TMÐT.  Hoạt động TMÐT ở Việt Nam hiện khá đa dạng về hình thức, phức tạp về tính chất và có tác động xã hội rộng lớn. Trong khi đó, năng lực của các cơ quan quản lý và thực thi pháp luật chưa theo kịp với nhu cầu của thực tiễn phát triển. Ðể nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực còn tương đối mới mẻ này, cần có hệ thống văn bản pháp luật với hiệu lực đủ mạnh và tầm bao quát lớn, đặt nền tảng cho việc xây dựng cơ chế cũng như tổ chức triển khai các hoạt động thực thi pháp luật và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển TMÐT thời gian tới. Hy vọng trong thời gian tới, TMÐT ở Việt Nam sẽ phát triển đúng với quy mô và tiềm năng của thị trường. TMÐT sẽ thật sự trở thành công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp người tiêu dùng có thêm một phương thức mua sắm hiện đại và hiệu quả. TMÐT sẽ là công cụ đắc lực để đưa đất nước ta phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020. 3.2 Hạn chế và nguyên nhân Thương mại điện tử là một con dao hai lưỡi đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Nếu được triển khai ở giai đoạn đầu và với sự tham gia đông đảo của cộng đồng kinh doanh trong nước, Thương mại điện tử có thể thúc đẩy sự phát triển chung, thậm chí đối với cả những doang nghiệp không liên quan trực tiếp tới Thương mại điên tử. Mặt khác, nếu tiến hành quá muộn, thị trường giữa các nước có chi phí lao động thấp sẽ bị phân chia và bất kỳ ai tham gia vào thị trường sẽ phải nỗ lực hết mình để thu hồi thị phần từ những đối thủ cạnh tranh đã có những kinh nghiệm và quan hệ kinh doanh được thiết lập. Việc áp dụng Thương mại điện tử quá muộn hay với quy mô quá hẹp sẽ tác động tiêu cực tới kinh tế nội địa và cả tới sự phát triển của toàn xã hội do để mất thị phần trên thị trường thế giới vào tay các nước khác. Thực tế, việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện còn rất hạn chế. Quá trình ứng dụng phát triển thương mại điện tử tham gia vào thương mại quốc tế (được xác định là chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm) lại còn quá chậm và hạn chế. Nhìn chung trong cả nước, hầu hết các hệ thống mạng cũng như các cơ sở dữ liệu của các cơ quan nhà nước chỉ được xây dựng và vận hành với mục đích phục vụ trong nội bộ cơ quan, nội bộ ngành hay mang tính tuyên truyền, phổ biến cho dân chúng chứ chưa có cơ chế hướng các thông tin tới các doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp cũng tự thấy chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết, hiệu quả của thương mại điện tử và còn coi đây là chuyện xa vời. Số lượng doanh nghiệp kết nối Internet và khai thác thông tin trên mạng còn rất ít, số lượng các website cũng không nhiều. Các website của doanh nghiệp Việt Nam mới đơn thuần giới thiệu doanh nghiệp, sản phẩm chứ ít có giao dịch trực tuyến và cũng không thanh toán được. Các website này hầu hết chưa có kênh quảng bá, giới thiệu với thị trường nước ngoài bởi những hạn chế về vật chất và con người. Các thông tin hỗ trợ khách hàng cũng còn ít và không được cập nhật thường xuyên. Bên cạnh đó, việc đầu tư của các doanh nghiệp cho thương mại điện tử chưa nhiều và còn lẻ tẻ; đội ngũ cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử chưa có. Hiện nay, rất ít các doanh nghiệp sử dụng các phần mềm chuyên nghiệp cho Thương mại điện tử như phần mềm quản lý khách hàng (CRM), phần mềm quản lý hàng tồn kho (SCM), phần mềm quản lý nguồn nhân lực (HRM)... Điều này cho thấy các hoạt động của Chính phủ về tuyên truyền, đào tạo, chuyển giao công nghệ còn kém đã hạn chế đáng kể tới việc ứng dụng Thương mại điện tử của các doanh nghiệp. Thời gian qua, đã có rất nhiều các website về thương mại điện tử ra đời với các dạng doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với khách hàng hay khách hàng với khách hàng. Nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu lập các website riêng để phục vụ cho việc tiếp thị, quảng bá bán hàng, hỗ trợ bán hàng cũng như tìm kiếm thị trường, mở rộng thị trường ra khắp thế giới. Tuy nhiên, thương mại điện tử ở nước ta chưa có những bước tiến dài do người tiêu dùng và cả doanh nghiệp chưa thật sự hiểu rõ lợi ích của thương mại điện tử đem lại. Vì vậy, người tiêu dùng thì xem các trang bán hàng trên mạng là cá trò bịp, chỉ dùng để tham khảo, còn doanh nghiệp thì làm cho có, thiếu cập nhật thông tin thực tế. Theo điều tra của Vụ thương mại điện tử (Bộ Thương Mại), hiện nước ta có hơn 98,3% doanh nghiệp có website giới thiệu về doanh nghiệp mình, trong đó có đến hơn 62,5% website chỉ dùng để giới thiệu sản phẩm, dịch vụ và chỉ có khoảng 27,4% cho phép đặt hàng qua mạng trong đó số website có hỗ trợ thanh toán trực tuyến chỉ hơn 3,2%. Bên cạnh đó, một hạn chế rất lớn trong thời gian qua của thương mại điện tử nước ta là thanh toán trực tuyến, bởi mấu chốt để một thương vụ thương mại điện tử thành công là phải có hệ thống đảm bảo của ngân hàng. Yêu cầu này lại càng quan trọng hơn đối với các nước nhập khẩu hàng hóa nước ta. Do đó, để thương mại điện tử thật sự là giải pháp kinh doanh mang lại hiệu quả cao, các doanh nghiệp xuất khẩu nên liên hệ với các ngân hàng có uy tín để được họ cấp chứng nhận bảo đảm về tài chính, cũng như liên hệ với các tổ chức an ninh mạng để có chứng chỉ bảo mật, an toàn trong giao dịch điện tử. Ngoài ra, do đặc thù của hoạt động mua bán trên không gian ảo, người mua và người bán không gặp mặt trực tiếp, người sở hữu website TMĐT là người đưa ra luật lệ cho giao dịch, đề ra các điều khoản hợp đồng và cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng. Vì vậy, tính minh bạch trong giao dịch và quyền lợi của người tiêu dùng trong các giao dịch thường bị xem nhẹ. Chỉ cần một cú nhấp chuột đơn giản, người tiêu dùng đã có thể ở trong tình thế buộc phải mua sản phẩm cho dù thực tế sản phẩm có thể không giống với quảng cáo của người bán. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng TMĐT, hoạt động TMĐT cũng ngày càng đa dạng về hình thức, phức tạp về tính chất và có tác động xã hội rộng lớn. Nhiều nhóm đối tượng dựa trên nền tảng và lợi dụng tính năng riêng biệt của phương tiện điện tử để thực hiện các hoạt động thương mại phi pháp như kinh doanh đa cấp bất chính, lừa đảo Điển hình như Công ty Muaban24 chỉ trong vòng một năm đã lôi kéo hàng chục nghìn người tham gia mạng lưới kinh doanh đa cấp, với khoảng 12.000 gian hàng ảo được bán ra, kiếm lợi bất chính khoảng hơn 600 tỷ đồng. Tính chất phức tạp của mô hình kinh doanh TMĐT nói chung đòi hỏi một hành lang pháp lý chặt chẽ hơn, với các biện pháp chế tài đủ mạnh để xây dựng một tập quán thương mại hiện đại và lành mạnh cho Việt Nam. Những trở ngại khi mua sắm trực tuyến Theo Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (VECITA - Bộ Công Thương) năm 2013 Cùng với những trở ngại khi mua sắm trực tuyến, kết quả khảo sát cũng chỉ ra những lý do khiến người dân chưa tham gia mua sắm trực tuyến bao gồm: lý do khó kiểm định chất lượng hàng hóa, những thông số của sản phẩm được quảng cáo trên website không đúng với thực tế; lý do mua tại cửa hàng dễ dàng và nhanh hơn; lý do không tin tưởng người bán; lý do không có đủ thông tin để người mua ra quyết định mua; lý do không có thẻ thanh toán hoặc các loại thẻ thanh toán khác. Trên đây là một số hạn chế phổ biến khi mua hàng qua mạng ở Việt Nam mà các doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ bán hàng trực tuyến cần khắc phục để mở rộng và chinh phục thị trường Tuy nhiên, trong số 781 người tham gia khảo sát (Theo khảo sát của cục TMĐT và CNTT năm 2013) thì có 88% số người được hỏi vẫn sẽ tiếp tục sử dụng hình thức mua hàng qua mạng trong tương lai, 12% số người còn lại cho rằng sẽ trở về cách mua hàng truyền thống Tiếp tục mua hàng qua mạng hay dừng Nguồn: Khảo sát của Cục TMĐT và CNTT năm 2013 Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong lĩnh vực du lịch, với một website, hầu hết họ mới chỉ dừng lại là một kênh thông tin chứ chưa thực sự coi đó là một kênh marketing, một đại diện thương hiệu xứng tầm. Khách hàng muốn mua vé và đặt chỗ thì phải đến công ty. Các khách hàng ngày nay luôn bận rộn hơn, sẽ là một bất lợi lớn khi họ không được phục vụ từ xa. Bên cạnh đó, với một hệ thống dữ liệu rời rạc thì việc chăm sóc khách hàng cũng sẽ trở nên thiếu chuyên nghiệp. Trước những hạn chế trên, các doanh nghiệp du lịch Việt Nam nên nhanh nhạy hơn trong việc đưa ra một chiến lược marketing trực tuyến bài bản và linh hoạt nhờ áp dụng thương mại điện tử. Doanh nghiệp có thể tham khảo một số hình thức quảng cáo trực tuyến như, website (kênh thông tin – marketing – bán hàng chính thức của doanh nghiệp), Quảng cáo pay per click trên Google, tối ưu hóa website (SEO) web mobile (website phiên bản di động dành cho các khách hàng thường xuyên sử dụng smartphone, máy tính bảng để truy cập website của doanh nghiệp),phần mềm booking (đặt vé trực tuyến), quản trị du lịch (giúp quản lý bán hàng, quản lý điều hành, quản lý nhà cung cấp), email marketing định kỳđể tận dụng những ưu thế của marketing online và tạo ra một hệ thống marketing trực tuyến chuyên nghiệp hơn tại Việt Nam. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM 1 Quan điểm và mục tiêu phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở nước ta hiện nay 1.1 Quan điểm phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ 1.1.1 Phát triển Thương mại điện tử thúc đẩy thương mại và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Phát triển Thương mại điện tử sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy thương mại và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Thương mại điện tử tạo ra cơ hội mới giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường, giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian, nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng,... qua đó nâng cao sức cạnh tranh của mình. Việc tiếp tục mở cửa thị trường trong nước theo lộ trình của các cam kết quốc tế, hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội rất lớn để thâm nhập thị trường toàn cầu. Phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội mới. 1.1.2 Doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử Doanh nghiệp là người bán, người mua, người phát triển công nghệ lớn nhất. Chính mỗi doanh nghiệp sẽ tự quyết định có tham gia thương mại điện tử hay không, tham gia như thế nào, vào thời điểm nào, sẽ đầu tư nhân lực và nguồn lực ra sao, v.v... Nói cách khác, doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt đối với việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử. 1.1.3 Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển Thương mại điện tử Nhà nước có vai trò tạo ra môi trường thuận lợi, cung cấp nhiều dịch vụ công hỗ trợ cho Thương mại điện tử và tích cực ứng dụng Thương mại điện tử. Mặc dù doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò quyết định trong ứng dụng và phát triển thương mại điện tử nhưng Nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nhà nước có nhiệm vụ tạo ra môi trường thuận lợi cho ứng dụng và phát triển thương mại điện tử, xây dựng khung khổ pháp lý, thiết lập sự cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp, bí mật riêng tư, bảo vệ người tiêu dùng,... Đồng thời, Nhà nước cũng là khách hàng rất lớn của các doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng đáng kể trong các giao dịch thương mại. Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho thương mại điện tử như hải quan điện tử, thuế điện tử, đăng ký đầu tư điện tử, cấp phép nhập khẩu điện tử,.. Nếu nhà nước không hoàn thành tốt nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công này thì thương mại điện tử cũng rất khó phát triển một cách toàn diện và mạnh mạnh mẽ. 1.1.4 Nhà nước và doanh nghiệp cần chủ động, tích cực trong hợp tác quốc tế Nhà nước và doanh nghiệp cần chủ động, tích cực trong hợp tác quốc tế để tạo ra môi trường thuận lợi, thu hút công nghệ tiên tiến cho sự phát triển Thương mại điện tử. Thương mại điện tử mang tính toàn cầu. Ngay từ năm 1998, Hội nghị bộ trưởng lần thứ hai của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã nhấn mạnh thương mại điện tử trên phạm vi toàn cầu đang tăng trưởng nhanh chóng và tạo ra nhiều cơ hội mới cho thương mại. Các thành viên cũng cam kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao dịch điện tử qua biên giới. Năm 2001 WTO tiếp tục khẳng định thương mại điện tử tạo ra nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho thương mại của mọi thành viên, dù là thành viên phát triển hay đang phát triển, đồng thời WTO thừa nhận tầm quan trọng của việc tạo ra và duy trì một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thương mại điện tử trong tương lai. Đồng thời, các nước thành viên một lần nữa cam kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao dịch điện tử qua biên giới. Các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực khác như APEC, ASEM, ASEAN đều coi thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế thương mại và cố gắng tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho thương mại điện tử. Các tổ chức chuyên môn, đặc biệt là các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, AFACT,... có nhiều hoạt động để tạo ra môi trường thuận lợi trên phạm vi toàn cầu cho các hoạt động thương mại điện tử. Ngoài việc tham gia các hoạt động quốc tế đa phương và nhiều bên, chúng ta cũng cần đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương với các nước và khu vực có khoa học công nghệ tiên tiến và có quan hệ kinh tế thương mại chặt chẽ như Hoa Kỳ, EU, Nhật bản, Hàn quốc,.. 1.1.5 Phát triển Thương mại điện tử gắn chặt với ứng dụng và phát triển Công nghệ thông tin Sự phát triển của thương mại điện tử gắn chặt với sự phát triển của công nghệ thông tin và chính phủ điện tử. Trong những năm qua công nghệ thông tin ở nước ta đã phát triển khá nhanh. Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông đặt Thương mại điện tử như một trong những trụ cột chính của phát triển công nghệ thông tin trong những năm tới. Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử cần phù hợp với Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông cũng như Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam tới 2020. 1.2 Mục tiêu phát triển Thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Kế hoạch phát triển TMĐT giai đoạn 2011-2015 được Cục TMĐT và CNTT đặt ra với mục tiêu lớn hơn và tầm nhìn xa hơn dựa trên kết quả và kinh nghiệm của giai đoạn trước. Cụ thể đó là: 1.2.1 Tất cả doanh nghiệp lớn tiến hành giao dịch thương mại điện tử loại hình doanh nghiệp với doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp lớn, mục tiêu phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2011- 2015 do Cục TMĐT và CNTT đặt ra là + 100% doanh nghiệp sử dụng thư điện tử trong hoạt động giao dịch và trao đổi thông tin; + 80% doanh nghiệp có trang thông tin điện tử, cập nhật định kỳ thông tin hoạt động và quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp; + 60% các doanh nghiệp tham gia các website TMĐT để mua bán các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; + 5% doanh nghiệp tham gia các mạng kinh doanh điện tử theo mô hình trao đổi chứng từ điện tử dựa trên chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử; + 20% doanh nghiệp ứng dụng các phần mềm chuyên dụng trong hoạt động quản lý và kinh doanh 1.2.2 Tất cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiến hành giao dịch thương mại điện tử loại hình doanh nghiệp với người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp với doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì mục tiêu Cục TMĐT và CNTT đặt ra trong giai đoạn 2011- 2015 là: + 100% doanh nghiệp sử dụng thư điện tử trong hoạt động sản xuất kinh doanh; + 45% doanh nghiệp có trang thông tin điện tử, cập nhật định kỳ thông tin hoạt động và quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp; + 30% doanh nghiệp tham gia các website TMĐT để mua bán các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.3 Bước đầu hình thành các tiện ích hỗ trợ người tiêu dùng tham gia thương mại điện tử loại hình doanh nghiệp với người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, vào năm 2015, bước đầu hình thành các tiện ích hỗ trợ người dùng tham gia thương mại điện tử loại hình doanh nghiệp với người tiêu dùng. Cụ thể là: + 70% các siêu thị, trung tâm mua sắm và cơ sở sản xuất hiện đại cho phép người tiêu dùng thanh toán không dùng tiền mặt khi mua hàng + 30% cơ sở kinh doanh trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ như vận tải, văn hoá, thể thao và du lịch phát triển các kênh giao dịch điện tử phục vụ người tiêu dùng. 2 Phương hướng phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở nước ta 2.1 Nâng cao nhận thức, tuân thủ các quy định pháp luật về thương mại điện tử Thương mại điện tử Việt Nam đang trên đà phát triển nhanh. Hệ thống pháp luật liên quan tới thương mại điện tử về cơ bản đã được xác lập và đang liên tục được bổ sung. Ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang có xu hướng gia tăng. Để có thể nắm bắt kịp thời và tuân thủ đúng pháp luật, các doanh nghiệp cần thường xuyên tìm hiểu và thực hiện tốt các quy định pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh trực tuyến như các quy định về chứng từ điện tử, bán hàng qua mạng, giao kết và thực hiện hợp đồng, thương hiệu và tên miền, xử phạt hành chính, bảo vệ dữ liệu cá nhân, giải quyết tranh chấp,... Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần chủ động phát hiện, phản ảnh với các cơ quan quản lý nhà nước về các vấn đề mới nảy sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan tới thương mại điện tử và đề xuất việc xây dựng chính sách và biện pháp quản lý mới. Hiện nay, theo Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật, trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chủ trì soạn thảo phải đăng tải công khai dự thảo để xin ý kiến. Do đó, các doanh nghiệp cũng cần phát huy quyền lợi của mình trong việc đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới thương mại điện tử. 2.2 Tăng cường nguồn nhân lực về thương mại điện tử Kết quả khảo sát của Bộ Công Thương năm 2012 cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở những mức độ khác nhau và nhiều doanh nghiệp đã quan tâm bố trí cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử. Thương mại điện tử là hình thức kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ cao, đòi hỏi cán bộ của doanh nghiệp phải có một trình độ nhất định cả về kiến thức công nghệ thông tin lẫn kiến thức thương mại. Do vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư, ứng dụng thương mại điện tử, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng tăng cường nguồn nhân lực về lĩnh vực này. Ngoài các biện pháp mang tính chất tạm thời như gửi cán bộ tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn, mời giảng viên về đào tạo tại chỗ, một trong các biện pháp bổ sung nguồn nhân lực có chuyên môn phù hợp là liên kết với các cơ sở đào tạo để xác định rõ nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực về thương mại điện tử của doanh nghiệp và tiến hành đào tạo cho cán bộ của doanh nghiệp. 2.3 Chú trọng việc tham gia các sàn thương mại điện tử Theo điều tra khảo sát tình hình ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp năm 2013 và các năm trước, việc tham gia các sàn thương mại điện tử đem lại nhiều lợi ích với chi phí đầu tư rất thấp về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT qua các năm 2009-1013 (Nguồn: Khảo sát của Cục TMĐT và CNTT năm 2013) Trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có điều kiện đầu tư lớn cho việc ứng dụng thương mại điện tử. Do đó, để tận dụng ưu thế của thương mại điện tử trong việc quảng bá, giao dịch, tìm kiếm khách hàng, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào các sàn thương mại điện tử loại hình giao dịch B2B và B2C của Việt Nam cũng như của các nước khác trên thế giới. 3 Hệ thống các giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Nền kinh tế Việt nam đang đứng trước thử thách rất lớn là phải phát triển mạnh mẽ hơn hoạt động của thương mại điện tử, vì chỉ có như vậy mới có thể giúp các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở Việt nam trụ vững trong xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại. Song để làm được điều này nó đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ và cả bản thân các doanh nghiệp trong việc xóa bỏ rào cản thương mại, tham gia làm “thương mại điện tử ” toàn cầu. Hệ thống giải pháp phát triển thương mại điện tử ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt nam cần được thực hiện theo các bước sau: -Chuẩn bị: Các hoạt động như nâng cao nhận thức, kiến thức, xác định mức độ sẵn sàng đối với thương mại điện tử để biết những yếu tố cần phải thay đổi hoặc cải thiện nhằm đảm bảo thích ứng trên mọi bình diện. Các khía cạnh pháp lý, công nghệ và giáo dục phải đi trước một bước, tạo môi trường kinh doanh “mềm” cho thương mại điện tử phát triển. Quá trình này sẽ kéo dài cho đến khi xuất hiện cơ sở hạ tầng cần thiết. Đây chính là giai đoạn mà Việt nam đang bắt đầu tiến hành. -Chấp nhận: Là thừa nhận về mặt pháp lý đối với thương mại điện tử sau khi đã thích ứng các yếu tố của nó vào hệ thống nội luật và đã tạo dựng được một môi trường thuận lợi cho thương mại điện tử. -Ứng dụng: Từng bước ứng dụng thương mại điện tử vào mọi lĩnh vực hoạt động, từ từng phần tới toàn diện. Các giải pháp phát triển thương mại điện tử trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Cần phải thấy được triển vọng rất lớn từ doanh thu mà Thương mại điện tử mang lại để từ đó doanh nghiệp lựa chọn được những giải pháp đúng đắn phù hợp với khả năng và tiềm lực của mình. Theo số liệu của Cục Thống kê, Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ của Việt Nam năm 2013 là 2.6 triệu nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2012 (tính từ năm 2009 đến nay, hàng năm đều có mức tăng trưởng trên 10% so với năm kế trước), với mức tăng trường bình quân 10% một năm thì ước tính đến năm 2023 tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ của nước ta sẽ đạt khoảng 6.7 triệu nghìn tỷ đồng. Con sổ này đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển hệ thống thương mại - dịch vụ bao gồm thương mại truyền thống và thương mại trực tuyến. Ngoài ra, giao dịch thương mại điện tử chiếm 2,5% GDP của Việt Nam, tính ra khoảng gần 2 tỉ đô la Mỹ và dự kiến sẽ đạt hơn 4 ty tỉ đô la Mỹ vào năm 2015. ( Theo Bộ công thương năm 2012) . Từ đó chúng ta có thể thấy được triển vọng rất lớn mà hình thức kinh doanh áp dụng thương mại điện tử mang lại. Bới vậy doanh nghiệp cần đầu tư hơn nữa vào phát triển thương mại điện tử, thông qua hệ thống các giải pháp đúng đắn, phù hợp với điều kiện của mình. Áp dụng thương mại điện tử vào hoạt động kinh doanh có thể là đòn bẩy cho sự phát triển của doanh nghiệp những cũng có thể là nơi tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc nếu doanh nghiệp không có sự chuẩn bị kỹ càng. Vì vậy, cần nắm vững được các yêu cầu của Thương mại điện tử, các định hướng, chiến lược phát triển thương mại điện tử phải phù hợp với nhân lực và vật lực của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ bán hàng trực tuyến cần khắc phục được các gian lận trong TMĐT để mở rộng và chinh phục thị trường. Với thực tế hiện nay, do hoạt động mua bán trên không gian ảo, người mua và người bán không gặp mặt trực tiếp, người sở hữu website TMĐT là người đưa ra luật lệ cho giao dịch, đề ra các điều khoản hợp đồng và cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng. Vì vậy, tính minh bạch trong giao dịch và quyền lợi của người tiêu dùng trong các giao dịch thường bị xem nhẹ. Chỉ cần một cú nhấp chuột đơn giản, người tiêu dùng đã có thể ở trong tình thế buộc phải mua sản phẩm cho dù thực tế sản phẩm có thể không giống với quảng cáo của người bán. Vì vậy, rất người tiêu dùng bị mất lòng tin vào mua hàng trực tuyến. Do đó các doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử cần phải kiểm soát được chất lượng sản phẩm để tránh hành vi gian lận thương mại khi khách hàng mua qua các gian hàng trên mạng. Từ đó hạn chề được các vụ việc tranh chấp thương mại xuất phát từ kênh phân phối qua thương mại điện tử, làm tăng lòng tin cho người tiêu dùng khi mua hàng trực tuyến. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực TMĐT Tổ chức đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong doanh nghiệp về TMĐT theo yêu cầu của doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh; xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình đào tạo TMĐT có nội dung phù hợp với nhu cầu thực tiễn và đối r Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức về TMĐT cho cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp - Nâng cao nhận thức, trau dồi trình độ tin học, ngoại ngữ của đội ngũ quản trị và các nhân viên trong công ty. Ban giám đốc các công ty cần nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về thương mại điện tử. Hiểu hết những lợi ích mà thương mại điện tử mang lại để tận dụng và khai thác, đồng thời hạn chế và giảm thiểu những tác động tiêu cực mà nó có thể mang lại. Sau đó phải truyền lại cho toàn thể nhân viên công ty hiểu và thấm nhuần thương mại điện tử là yêu cầu tất yếu để có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể trụ vững và vươn lên trong thời gian tới, nhất là khi Việt nam bắt đầu tham gia vào lộ trình giảm thuế AFTA và sau đó là việc gia nhập WTO. Những doanh nghiệp cục bộ, không tiếp cận được với thương mại điện tử như một thứ vũ khí cạnh tranh chắc chắn sẽ không thể tồn tại. Doanh nghiệp cũng phải thường xuyên đào tạo và cho nhân viên tham dự các khoá học về tin học và ngoại ngữ. Việc đào tạo có thể dưới hình thức cấp kinh phí cho nhân viên đi học hoặc tổ chức những buổi học ngay tại công ty. - Cần tích cực tìm kiếm,học hỏi bồi dưỡng kiến thức về Thương mại điện tử, sẵn sàng tham gia Thương mại điện tử khi có điều kiện thuận lợi. - Chú ý khai thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin, cần phải biết cách chuyển đổi người mua tiềm năng khi viếng thăm trang web trở thành người mua thực tế. Muốn vậy phải có được một trình duyệt giúp khách hàng thuận lợi nhất để thực hiện mua hàng. Tiếp cận thông tin là mục đích cuối cùng của Internet. Doanh nghiệp cũng cần sẵn sàng chia sẻ thông tin, mang thông tin đến cho khách hàng, cho đối tác và công chúng. Đó là yếu tố dẫn tới thành công trong nền kinh tế điện tử. - Phải bán đúng mặt hàng mà người mua cần. Không phải tất cả các mặt hàng đều phù hợp cho việc bán hàng trực tuyến, bên cạnh đó cũng đã có rất nhiều mặt hàng đã đạt đến điểm bão hòa trong lĩnh vực thương mại điện tử. Cần nghiên cứu kỹ lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp dự định đưa vào bán hàng trực tuyến và tốt hơn hết hãy phát triển những sản phẩm mang tính “độc chiêu”. - Cần lựa chọn hình thức quảng cáo phù hợp. Bởi đây có thể là một cái bẫy đối với nhiều doanh nghiệp. Việc quảng cáo tràn lan trên thị trường có thể không phải quá tốn kém. Tuy nhiên, điều cần bàn ở đây là tính hiệu quả của hình thức quảng cáo đó. Trên thực tế, không phải hình thức quảng cáo nào cũng đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp, trong khi lại tiêu tốn khá nhiều ngân sách vốn đã eo hẹp của họ. Vì vậy, họ cần phải tìm ra các hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách có trọng điểm hơn. Bên cạnh đó, họ cần phải có chiến lược tổng thể cho các kênh phân phối của mình. Cụ thể là khi một doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử không có nghĩa là doanh nghiệp đó được phép bỏ qua các cơ hội quảng cáo cho kênh phân phối thực. Bởi hiện nay, tất cả các kênh đều đóng góp vào sự phát triển của thương mại điện tử trong chiến lược kinh doanh đa kênh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phát triển một danh mục các ý tưởng quảng cáo có tác dụng bổ sung và hỗ trợ nhau. Các bản tin qua email, các “phòng chat”, các trang web và các tạp chí in có thể là những kênh quảng cáo thích hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nâng cao trình độ hiểu biết luật pháp thương mại quốc tế để sẵn sàng đối phó với tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước khi tham gia thương mại điện tử. Để phát triển Thương mại điện tử, doanh nghiêp cũng cần chủ động và tích cực tham gia vào tiến trình cải cách hành chính Nhà nước theo hướng điện tử hoá nền hành chính quốc gia, tham gia dịch vụ công của chính phủ - Xây dựng chiến lược kinh doanh trên mạng Sau khi đã quyết định đưa doanh nghiệp lên mạng, cần thiết phải xây dựng một chiến lược kinh doanh qua mạng. Vì chi phí xây dựng và duy trì một Website là rất tốn kém nên doanh nghiệp cần có một chiến lược kinh doanh phù hợp để hoạt động của mạng thực sự đem lại hiệu quả cao. Bước đầu, để giảm chi phí về Website, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia các chương trình xây dựng Website hỗ trợ (của nhà cung cấp dịch vụ Internet như VNN, FPT) hay có thể tham gia vào siêu thị điện tử (cybermall) mà đang được xây dựng ở Việt nam để quảng bá sản phẩm của mình ra thế giới. Đồng thời cần xây dựng quan hệ tốt với đối tác qua Internet, nên tham gia vào các mạng chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc của hiệp hội ngành để có thể học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm sự giúp đỡ từ các đối tác. Bởi thực tế chứng minh rằng những doanh nghiệp tham gia vào “cụm” (cluster) các doanh nghiệp thì thường có khả năng sáng tạo hơn, năng động hơn và có lợi thế cạnh tranh cao hơn. KẾT LUẬN Thương mại điện tử - một hiện thực và hình thức kinh doanh mới đã và đang làm thay đổi sâu sắc các hoạt động kinh tế và môi trường xã hội. Và đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực trong đời sống xã hội như thương mại bán buôn và bán lẻ, du lịch, tài chính ngân hàng. Thương mại điện tử trở thành một công cụ kinh doanh quan trọng trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đối với các công ty kinh doanh, Thương mại điện tử tạo ra động lực kinh tế, tác động đến môi trường kinh doanh, cách thức kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Các chức năng trung gian truyền thống được thay thế, các sản phẩm và thị trường mới đang phát triển, các quan hệ mới chặt chẽ hơn được tạo ra giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với khách hàng và giữa khách hàng với nhau. Thương mại điện tử đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy nhanh và làm lan toả rộng rãi hơn các thay đổi đang diễn ra trong nền kinh tế như các quá trình cải cách về mặt pháp lý, thiết lập các kết nối điện tử giữa các doanh nghiệp, toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế, đặt ra nhu cầu về người lao động có trí tuệ cao, các khuynh hướng phân ngành mới (ngân hàng điện tử, đặt chỗ trực tiếp trong du lịch, marketing đến từng khách hàng). Đối với hoạt động bán hàng, chi phí cho một điểm bán hàng Thương mại điện tử rẻ hơn nhiều so với việc dựng và quản lý cơ sở vật chất do điểm bán Thương mại điện tử mang tính mở, có thị trường toàn cầu. Bằng cách đưa thông tin trực tiếp dưới dạng dễ truy cập, các doanh nghiệp Thương mại điện tử đã làm tăng hiệu quả của quá trình bán hàng. Ở Việt Nam, tuy cơ sở hạ tầng về kỹ thuật (mà cụ thể là internet) còn nhiều yếu kém và bất cập, Thương mại điện tử hầu như chưa được phát triển nhưng những áp lực mà Thương mại điện tử tạo ra ngày một rõ nét. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt Nam vốn đã vất vả trong việc giành giật lấy một chỗ đứng trên thị trường nội địa, hiện đang phải đối mặt với các lực lượng cạnh tranh mới từ việc mở cửa tất yếu thị trường trong xu hướng tự do hoá và hội nhập kinh tế đang phải quan tâm, lo lắng về những đối thủ cạnh tranh đến từ những nơi không xác định qua internet. Xác định lại hướng đi của mình là một việc làm hết sức cần thiết.Trong môi trường kinh doanh Thương mại điện tử các doanh nghiệp phải hiểu được nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh của mình, phải biết được những nhược điểm cố hữu của mình thì mới có thể có những chính sách và biện pháp đúng đắn nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,đặc biệt là phát triển về Thương mại điện tử. Hy vọng trong thời gian tới, Thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ phát triển đúng với quy mô và tiềm năng của thị trường. Thương mại điện tử sẽ thật sự trở thành công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp người tiêu dùng có thêm một phương thức mua sắm hiện đại và hiệu quả. TMÐT sẽ là công cụ đắc lực để đưa đất nước ta phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020. TÀI LIỆU THAM KHẢO “Giáo trình Kinh tế thương mại” của GS.TS Đặng Đình Đào – GS.TS Hoàng Đức Thân “Giáo trình Thương mại điện tử” của TS Trần Văn Hòe nhà xuất bản trường Đại học Kinh tế quốc dân “Báo cáo Thương Mại điện tử” của Bộ Công Thương qua các năm 2012-2013. “Kế hoạch tổng thể phát triển Thương Mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015” của Bộ Công Thương “Kiến thức Thương mại điện tử” của T/S Nguyễn Đăng Hậu_Viện đào tạo công nghệ và quản lý quốc tế - Khoa Công nghệ thông tin. “Kinh tế tri thức”, NXB CTQG, 2003. Tư liệu hội thảo : “Ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam” – Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2001 “Khía cạnh văn hóa trong TMĐT”: Nguyễn Thu Linh và Phạm Việt Long - NXB CTQG, Hà Nội, 2003. Quyết định 689/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Chương trình phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2014-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử  Các website www.vecita.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctran_tue_linh_phat_trien_thuong_mai_dien_tu_trong_cac_doanh_nghiep_kinh_doanh_dich_vu_o_viet_nam_8034.doc
Luận văn liên quan