Đề số 11: Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu

A) ĐẶT VẤN ĐỀ Thuế nhập khẩu là một đạo luật thuế vô cùng quan trọng của bất kỳ quốc gia nào và Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Tuy nhiên trên thực tế ở nước ta hiện nay có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Sau đây bài làm của em sẽ đi tìm hiểu có yếu tố này từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện, tạo điều kiện cho thuế nhập khẩu được thực thi trên thực tế một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Trong bài làm của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! B) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I) Khái niệm thuế nhập khẩu và pháp luật thuế nhập khẩu 1) Khái niệm thuế nhập khẩu Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhập khẩu, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận. Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào trong nước. Với cách tiếp cận này, thuế nhập khẩu được quan niệm như một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa chủ thế là tổ chức, cá nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác thuế nhập khẩu còn được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Xét về phương diện pháp lí, thuế nhập khẩu được hiểu là quan hệ pháp luật phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế) về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế xuất khaaurm thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành. 2) Khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu Pháp luật thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lí các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước với người nộp thuế. Xét từ phương diện hình thức, pháp luật vể thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội; nghị định và nghị quyết của chính phủ; quyết định và chỉ thị của Thủ tướng; quyết định, thông tư và chỉ thị của các

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3797 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề số 11: Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................16 A) ĐẶT VẤN ĐỀ Thuế nhập khẩu là một đạo luật thuế vô cùng quan trọng của bất kỳ quốc gia nào và Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Tuy nhiên trên thực tế ở nước ta hiện nay có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Sau đây bài làm của em sẽ đi tìm hiểu có yếu tố này từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện, tạo điều kiện cho thuế nhập khẩu được thực thi trên thực tế một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Trong bài làm của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! B) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I) Khái niệm thuế nhập khẩu và pháp luật thuế nhập khẩu 1) Khái niệm thuế nhập khẩu Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhập khẩu, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận. Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào trong nước. Với cách tiếp cận này, thuế nhập khẩu được quan niệm như một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa chủ thế là tổ chức, cá nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác thuế nhập khẩu còn được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Xét về phương diện pháp lí, thuế nhập khẩu được hiểu là quan hệ pháp luật phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế) về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế xuất khaaurm thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành. 2) Khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu Pháp luật thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lí các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước với người nộp thuế. Xét từ phương diện hình thức, pháp luật vể thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội; nghị định và nghị quyết của chính phủ; quyết định và chỉ thị của Thủ tướng; quyết định, thông tư và chỉ thị của các bộ… Hiện nay Việt Nam đang tích cực hội nhập quốc tế, do vậy ngoài các quy định của pháp luật trong nước thì pháp luật thuế nhập khẩu còn bao hàm cả các quy định trong pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến vấn đề thuế nhập khẩu, ví dụ như: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; hiệp định WTO hiện hành… Xét về phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như: phạm vi áp dụng (được thể hiện thông qua các quy định về chủ thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế); căn cứ tính thuế; trình tự, thủ tục tiến hành thu thuế; chế độ miễn giảm thuế; hoàn thuế, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp… II) Thực trạng áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 1) Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam Sau khi luật thuế nhập khẩu ra đời cùng với việc Việt Nam chính thức gia nhập WTO pháp luật thuế nhập khẩu đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận: Luật thuế nhập khẩu ra đời tạo nên hành lang pháp lí vững chắc cho việc thực hiện các chính sách về thuế quan góp phần thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Khi chính sách về thuế nhập khẩu ngày càng được mở rộng, mức độ mở cửa thị trường ngày càng cao đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tiến hành cải tiến khoa học kĩ thuật, nâng cao năng suất cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu. Có thể nói pháp luật thuế nhập khẩu hiện nay đã phản ánh được các chủ trương mở rộng kinh tế quốc tế, mở rộng ngoại giao “hợp tác cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau”. Với những quy định xóa bỏ hàng rào thuế quan, xác định giá tính thuế phù hợp với pháp luật quốc tế đã làm cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa diễn ra một cách dễ dàng hơn. Tác dụng này được chứng minh trong thực tế hiện nay chúng ta có mối quan hệ về kinh tế với hầu hết các quốc gia. Pháp luật nhập khẩu đã tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó thúc đẩy quan hệ ngoại giao của nhà nước. Pháp luật thuế đã thể hiện được vai trò là công cụ điều tiết, bảo hộ nền kinh tế trong nước. Từ năm 2008 đến nay nước ta luôn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên lạm phát tăng cao, giá cả leo thang, cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn. Thông qua pháp luật thuế nhập khẩu mà nhà nước liên tục điều chỉnh thuế nhập khẩu về các mặt hành thiết yếu như Thông tư số 07/2011/TT-BTC ngày 14/1/2010, mức thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng nhập khẩu giảm từ 6% xuống 0%, dầu hỏa (Kerosene) giảm từ 6% xuống 2%; dầu diesel từ 2% xuống còn 0%. Với sự điều chỉnh này đã phần nào giảm bớt gánh nặng cho người tiêu dùng. Với việc thực thi tốt luật thuế nhập khẩu đã góp phần tạo nguồn thu ổn định cho nhân sách nhà nước. Trong những năm gần đây ngành hải quan luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước được Đảng và Nhà nước giao phó. Trong nguồn thu hàng năm của ngành hải quan thì thu từ thuế nhập khẩu luôn chiếm một tỷ lệ cao. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tính từ 1/1/2011 đến ngày 31/3/2011 thu ngân sách nhà nước của ngành hải quan ước đạt 44.000 tỷ đồng, tăng khoảng 12.6% so với cùng kì năm 2010.   Trên phương diện hiện đại hóa hoạt động, Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo các đơn vị Hải quan địa phương tích cực triển khai kế hoạch mở rộng Hải quan điện tử . Đây là một công cụ hữu hiệu, tạo nên bước phát triển vượt bậc của ngành Hải quan trong thời gian qua. Quy trình thông quan đã được tự động hóa một phần, doanh nghiệp tạo thông tin khai báo trên hệ thống máy tính của mình, gửi thông tin cho Chi cục Hải quan điện tử và nhận thông tin phản hồi từ hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan. Hệ thống xử lý dữ liệu hải quan điện tử tự động tiếp nhận thông tin khai báo, tự động kiểm tra tính hợp chuẩn, hợp lệ của thông tin khai báo dựa trên một số thông tin chuẩn hóa được cải đặt trong hệ thống và tự động phản hồi kết quả xử lý của cơ quan Hải quan cho doanh nghiệp. Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, Luật Thuế xuất, nhập khẩu 2005 đã góp phần đáng kể, đẩy mạnh sự minh bạch trong hoạt động hải quan, theo hướng hiện đại phù hợp thông lệ quốc tế. Các văn bản quy phạm pháp luật về Hải quan khi soạn thảo  được lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp. Khi ban hành được phổ biến, niêm yết công khai tại các điểm làm thủ tục hải quan, để doanh nghiệp nắm vững và giám sát và quyền khiếu nại, thậm chí có thể tố cáo những biểu hiện không minh bạch của công chức hải quan.  Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng quy định nội dung về khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Người khiếu nại về thuế có quyền lựa chọn khiếu nại theo con đường hành chính hoặc khởi kiện tại tòa án để bảo đảm sự minh bạch và công bằng, đặc biệt trong khiếu nại về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.   Phương pháp quản lý hải quan truyền thống được chuyển sang phương pháp quản lý hải quan hiện đại dựa vào kỹ thuật quản lý rủi ro, rút ngắn thời gian thông quan. Kỹ thuật quản lý rủi ro bước đầu đã được ngành Hải quan thực hiện trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thương mại, trong quá trình thông quan và sau thông quan. Hiện nay ngành Hải quan đã xây dựng bộ tiêu chí rủi ro gồm 75 tiêu chí, trong đó 56 tiêu chí được cập nhật thường xuyên, gồm các tiêu chí quan trọng như: ưu tiên, phân loại doanh nghiệp, hàng hóa, xuất xứ, hình thức thanh toán, hình thức xuất nhập khẩu... Như vậy, có thể khẳng định, từ khi được ban hành năm 2005, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói chung và pháp luật về thuế nhập khẩu nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng. 2) Một số điểm còn bất cập tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu   Trong bối cảnh hội nhập kinh tế - quốc tế như hiện nay, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào tháng 1/2007, pháp luật về thuế nhập khẩu đã có nhiều điểm không còn phù hợp, gây khó khăn trong việc thực thi trên thực tế. Ví dụ như pháp luật còn nhiều bất cập, kẽ hở, thủ tục còn rườn rà, chưa thống nhất và đồng bộ theo cam kết quốc tế; cơ sở vật chất kĩ thuật còn nghèo nàn khiến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu càng khó khăn…Với những điều kiện béo bở như trên, việc trốn thuế đã trở nên ngày càng phổ biến. Theo thống kê của ngành hải quan, tính trong năm 2009, có gần 1.000 doanh nghiệp trốn thuế, số tiền nợ đọng thuế lên tới hơn 3.000 tỉ đồng. Sau khi phân loại, khoảng 2.500 tỉ đồng được xếp vào dạng nợ khó đòi... Để khắc phục tình trạng trốn thuế cần phải tìm ra căn nguyên của nó sau đó mới có thể đưa ra các giải pháp khắc phục. Sau đây, bài làm của em sẽ đi tìm hiểu cụ thể về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. III) Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 1) Pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, kẽ hở. + Thứ nhất: Có nhiều quy định còn chưa thống nhất, nhiều quy định của luật còn gây khó hiểu như quy định về thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi (điểm c khoản 2 điều 10 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005). Theo cách tư duy ngôn ngữ của người Việt thì quy định này dễ gây hiểu sang hướng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, tức là thuế suất thông thường tối đã bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170% theo cách hiểu của nhà làm luật. Theo quy định này Bộ tài chính chỉ có thể áp dụng mức thuế suất trong khoảng từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của loại hàng hóa tương ứng. Nhưng theo quy định tại điều 92 thông tư 194/2010/TT-BTC ban hành ngày 06/12/2010 thì: “Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi”. Như vậy việc áp dụng quy định này là chưa linh hoạt, chưa thực sự hợp lí với những loại hàng hóa nhập khẩu khác nhau. Đồng thời, với những quy định mâu thuẫn nhau như vậy sẽ gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Các cá nhân có thẩm quyền sẽ lúng túng khi phải lựa chọn áp dụng Luật hay Nghị định. Theo khoa học pháp lý thì Luật có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị định do vậy sẽ ưu tiên áp dụng Luật, tuy nhiên trên thực tế Nghị định lại là văn bản hướng dẫn Luật, do vậy sẽ có nhiều quy định sát thực với thực tế hơn nên trên thực tế lại ưu tiên áp dụng luật. Điều này sẽ tạo ra sự không thống nhất trong toàn bộ hệ thống, do vậy việc quy định mâu thuẫn như vậy ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực thi của pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Những quy định của pháp luật thuế còn chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực hiện và thực tế quản lí. Như quy định tại điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã đề ra những thời hạn nộp thuế rõ ràng trong khi khoản 1 điều 28 Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 lại quy định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ hải quan lấy tiêu chí ý thức chấp hành tốt luật này là chính. Khi thực hiện việc thu thuế sẽ gây ra những chồng chéo, phức tạp nhất định cho cả chủ thể nộp thuế và cơ quan thu thuế. + Thứ hai: Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật cũng chưa tương xứng với các nội dung điều chỉnh. Trong tình hình hội nhập kinh tế - quốc tế hiện nay, phạm vi của các hoạt động thương mại là rất lớn, có nhiều loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những quy định về các biện pháp về thuế bổ sung bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Bảo hộ nền sản xuất trong nước là một nội dung quan trọng của pháp luật thuế nhập khẩu nhưng trên thực tế hiện nay Ủy ban thường vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thuế tự vệ năm 2002, Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá và Pháp lệnh về thuế trợ cấp, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành nhưng có một số quy định chưa phù hợp với các hiệp định của WTO nên trên thực tế thuế chống bán phá giá, thuế đối khánh, thuế chống phân biệt đối xử, thuế tự vệ chỉ mới tồn tại trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chưa thể đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Khi Việt Nam đã gia nhập WTO như hiện nay, nếu những quy định trên không được sửa đổi, bổ sung thì sẽ là một điều bất lợi lớn cho quá trình bảo hộ một cách hợp lí nền sản xuất trong nước. + Thứ ba: hiện nay pháp luật chưa có cơ chế nào để kiểm soát việc mang hàng hóa từ nước ngoài về nước của các phi công, tiếp viên hàng không, thủy thủ…Do vậy, họ ngang nhiên mang hàng “xách tay” về nước, các mặt hàng này chủ yếu là máy vi tính, điện thoại, mỹ phẩm, sữa, rượu…Các hàng hóa này khi được xách tay về nước đã trốn được thuế nhập khẩu, do vậy gây thất thu không nhỏ cho ngân sách nhà nước. + Thứ tư: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 có quy định tại điều 15 như sau: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được hưởng ân hạn thuế trong 30 ngày hoặc 275 ngày (tùy theo loại hình xuất nhập khẩu cụ thể) kể từ ngày đăng ký hải quan. Lợi dụng chính sách này của Nhà nước, nhiều công ty “ma” đã được thành lập nên, sau đó nhập ồ ạt hàng hóa về nước, sau khi tiêu thụ hết thì bỏ trốn làm thất thu hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế của Nhà nước. Đây là một bài toán khó có lời giải cho các nhà làm luật: liệu nên bỏ hay giữ lại chính sách ân hạn thuế này? Chính sách này đã giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về vốn, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp ma đã lợi dụng chính sách này để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Đây cũng là một điểm còn chưa hoàn thiện, cần được khắc phục để pháp luật về thuế nhập khẩu phát huy hiệu quả cao nhất trên thực tế. + Thứ năm: Biểu thuế nhập khẩu hiện nay còn quá nhiều mức, cụ thể là 18 mức. Quy định này có ưu điểm là bảo hộ đến từng doanh nghiệp, từng nhóm doanh nghiệp sản xuất nhưng lại làm cho biểu thuế phức tạp, gây khó khăn cho quản lý thuế nhập khẩu là cho biểu thuế nhập khẩu mất tính trung lập. Biểu thuế được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hòa HS tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện phân loại hàng hóa. Tuy nhiên do để áp dụng phù hợp với chủ trương bảo hộ sản xuất của một số ngành nên vẫn còn có chi tiết một số mặt hàng chưa phù hợp với cách phân loại của danh mục, chúng ta chưa áp dụng toàn phần hệ thống. Ngoài ra còn có một số vấn đề như phần dịch thuật chưa chuẩn, một số mặt hàng có thể áp dụng nhiều mã số thuế gây tranh chấp giữa các đối tượng nộp thuế và cơ quan thu thuế, sẽ là kẽ hở cho gian lận, trốn thuế. Với những bất cập như trên, việc thực thi pháp luật về thuế nhập khẩu trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chính bản thân pháp luật vẫn chưa phù hợp với thực tế nên đã ảnh hưởng đến việc thực thi trên thực tế, chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Do vậy những bất cập trên cần nhanh chóng được khắc phục. 2) Thủ tục hải quan còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế cũng như gây khó khăn cho các đơn vị nhập khẩu Những quy định về khung pháp lý liên quan đến quy trình, thủ tục hải quan do các Bộ, ngành và Tổng cục Hải quan ban hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc thực thu quy trình thủ tục tại cửa khẩu. Theo thống kê, tỷ lệ các văn bản do Tổng cục Hải quan ban hành chỉ chiếm 20% tổng số các văn bản pháp quy mà cơ quan hải quan tại cửa khẩu phải thực hiện. Bên cạnh đó, bộ hồ sơ hải quan hiện nay còn nặng nề, nhiều nội dung trùng lặp gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và cán bộ Hải quan. Bộ hồ sơ theo quy định hiện nay của hải quan Việt Nam nhiều hơn 4 giấy tờ so với Công ước Kyôtô, gồm: chứng thư giám thị, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa, tờ khai trị giá. Hay như quy trình tại khoản 1 điều 15 Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì kiểm tra Hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về phạm vi pháp luật hải quan để bảo đảm quản lí nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Quy định này cho thấy một hạn chế đó là việc kiểm tra hải quan phụ thuộc lớn vào ý chí chủ quan của cơ quan hải quan. 3) Ý thức chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế chưa tốt, thiếu trung thực. Thuế là khoản thu nộp mang tính chất bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định và không hoàn lại trực tiếp.Theo tâm lí chung, các chủ thể nộp thuế rất hiếm khi tự nguyện nộp thuế mà họ tìm mọi cách để trốn thuế, giảm số thuế phải nộp. Các chủ thể nộp thuế nhập khẩu cũng vậy, họ dựa vào các quy định của pháp luật đã tìm ra vô vàn các thủ đoạn để có thể trốn thuế. Sau đây là một số thủ đoạn trốn thuế, gian lận thuế khi áp dụng các quy định cụ thể của pháp luật. a) Lợi dụng các quy định của pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu Một trong những vấn đề làm đau đầu các nhân viên hải quan tại cá cửa khẩu chính là việc xác định chính xác giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. Theo thống kê của ngành hải quan thì số các vụ trốn thuế nhập khẩu, số vụ do gian lận về giá tính thuế chiếm tỉ lệ cao nhất. Với quy định hiện hành, việc kê khai thuế chủ yếu dựa vào thái độ trung thực của người nhập khẩu và giá tính thuế nhưng không được tính theo trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa. Quy định là vậy nhưng việc áp dụng lại muôn hình vạn trạng và có rất nhiều cách gian lận về giá. Ở nội dung này, em chỉ đề cập đến một số thủ đoạn gian lận giá có tính chất phổ biến và điển hình trong quá trình áp dụng về giá tính thuế nhập khẩu. + Thủ đoạn thứ nhất là khai báo giá không trung thực: Với cách này, bên nhập khẩu sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo trị giá hàng hóa nhập khẩu thấp hơn so với trị giá hàng hóa trong thực tế. Đa số nhà xuất khẩu khi đã có quan hệ giao dịch với nhà nhập khẩu thì họ đều bảo vệ khách hàng của mình vì điều này có lợi cho nhà xuất khẩu tiêu thụ được sản phẩm. Do đó giao dịch dễ dàng được thực hiện theo hai hay nhiều hợp đồng để đối phó với cơ quan hải quan. Điển hình trong trường hợp này là vụ khai báo sai trị giá hàng hóa là điện thoại di động của công ty Đông Nam. Giám đốc của công ty này là Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công ty Đông Nam Hồng Kông mua trên 40.000 điện thoại di động, khai giá thấp hơn so với giá thực tế thanh toán từ 75USD đến 375USD/chiếc trốn thuế nhập khẩu trên 100 tỷ đồng. + Thủ đoạn thứ hai là khai thấp về chất lượng hàng hóa: Doanh nghiệp sẽ khai báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng tồn kho, hàng vỡ vụ nhiều…do vậy sẽ được giảm thuế suất so với hàng hóa cùng loại thông thường. + Thủ đoạn thứ ba là khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo: Theo công văn hướng dẫn của ngành hải quan, nếu doanh nghiệp nhập hàng hóa có kèm hàng hóa khuyến mại thì sẽ được miễn thuế đối với hàng hóa đi kèm. Lợi dụng điều này, nhiều công ty đã nhập số lượng hàng hóa khuyến mại gấp nhiều lần hàng hóa nhập khẩu chính. Ví dụ: công ty An Nam nhập khẩu 104 chai nước làm mềm da có khuyến mãi 96 chai. Toàn bộ lô hàng sau mỗi mục đều có số lượng hàng siêu F.O.C (hàng mua một tặng nhiều hơn một). Công ty này đã bị Phòng trị giá tính thuế bác bỏ trị giá giao dịch. + Thủ đoạn thứ tư là đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn. Ví dụ doanh nghiệp khai báo đồng hồ treo tường, nếu không để ý rõ, không yêu cầu doanh nghiệp xuất trình mẫu hàng hoặc ra bãi xem cụ thể thì cán bộ Hải quan dễ bị nhầm lẫn vì đồng hồ treo tường có hàng trăm loại khác nhau với giá cả rất chênh lệch. Với các thủ đoạn tinh vi như trên khiến cho công tác xác định giá gặp nhiều khó khăn, khó xác định được chính xác giá tính thuế nhập khẩu, từ đó sẽ xác định sai mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Điều này đã khiến công tác thực thi pháp luật thuế nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, không đạt được hiệu quả như mong muốn. b) Lợi dụng các quy định của pháp luật về thuế suất thuế nhập khẩu Thuế suất thuế nhập khẩu là căn cứ quan trọng để xác định số thuế nhập khẩu mà nhà nhập khẩu phải nộp cho Nhà nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta đã cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan theo lộ trình nhất định. Việc quy định thuế suất là khá rõ ràng trong các văn bản pháp luật và cam kết quốc tế, song việc áp dụng thuế suất trên thực tế lại vô cùng phức tạp. Các nhà nhập khẩu có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn thuế hoặc hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hoặc giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. + Thủ đoạn thứ nhất là gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) để hưởng thuế suất ưu đãi. Ví dụ như vụ 15 doanh nghiệp nhập khẩu tổng cộng gần 42.000 tấn thép tấm lá cán nguội (CRC) từ Phillipine vào Việt Nam với mức giá thấp hơn cả mức giá nội địa của sản phẩm tại Phillipine nhằm trốn thuế thông qua việc sử dụng C/O có lai lịch bất minh: Nội dung C/O From D có thay đổi (dao động từ 400 – 600 USD/tấn) nhưng hàm lượng ASEAN không thay đổi (cùng là 40%); hình thức của C/O From D có một số điểm không phù hợp với quy định như: lẽ ra số tham chiếu trên C/O phải có số thứ tự để thể hiện nguồn gốc chính xác của văn bản nhưng hầu hết các số tham chiếu trên C/O lại trùng nhau (nội dung khác nhau nhưng lại có cùng một số tham chiếu); con dấu cách sao theo quy định của ASEAN chỉ được đóng lên C/O trong trường hợp hải quan cấp C/O không trùng với ngày xếp hàng lên tàu. Với những nghi vấn trên, Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh đã dừng ngay việc áp dụng thuế suất ưu đãi 0% (theo quy chế dùng cho hiệp định CEFI) đối với các lô hàng là theo CRC. Theo cam kết, mức thuế MFN dành cho mặt hàng này là 7%. Trong năm 2006, 15 doanh nghiệp đã lập về Việt Nam tổng cộng 42.000 tấn thép CRC, tính ra số tiền nhà nước bị thất thu thuế lên đến khoảng 28,5 tỷ đồng. + Thủ đoạn thứ hai: thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết giảm thuế. Điển hình là trường hợp Vũng Tàu Sinhanco khai sai xuất xứ hàng hóa bột ngọt để trốn thuế nhập khẩu. + Ngoài ra còn có một số thủ đoạn gian lận khác mà nhà nhập khẩu có thể sử dụng, ví dụ như khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế suất thấp hơn. Minh chứng cho việc gian lận thuế suất này có thể lấy công ty cổ phần xuất nhập khẩu Y tế TP.HCM (Yteco) là ví dụ. Khi Yteco nhập khẩu các loại thuốc như Nimfast, Rofegessic, Ikomin,… là các loại thuốc giảm đau có thuế suất 10% (mã 3004959), Yteco đã tự sửa toa thuốc, bỏ cụm từ “giảm đau” để áp mã số thuế 30049099 có thuế suất bằng 0%. Bằng cách này, công ty đã liên tục nhập khẩu thuốc về Việt Nam mà không tốn một xu tiền thuế nào. c) Lợi dụng các quy định của pháp luật về kê khai thuế nhập khẩu. Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế nhập khẩu, việc kê khai thuế nhập khẩu là do chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà nhập khẩu phải thực hiện tự giác, trung thực, nghiêm chỉnh. Nội dung kê khai trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập khẩu và trị giá hải quan. Cả ba nội dung này trên thực tế đều không được kê khai một cách trung thực và khó có thể dựa vào ý thức “tự giác” của nhà nhập khẩu. Về vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng hóa nhập khẩu một cách chính xác, bởi lẽ hàng hóa nhập khẩu là vô cùng đa dạng về chủng loại. Về số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra tận bãi kiểm tra một cách trực tiếp thì không thể hoàn toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà nhập khẩu khai báo. Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều có số lượng thừa rất nhiều so với số lượng khai báo, đặc biệt là đối với nguyên liệu dệt may, rất khó có thể kiểm tra được chính xác số lượng mà doanh nghiệp khai báo và kèm theo trong lô hàng đó có hàng lậu hay không. Về trị giá hải quan, như đã phân tích ở trên, nhà nhập khẩu có vô vàn màn ảo thuật về giá và giá mà nhà nhập khẩu đưa ra bao giờ cũng là giá thấp nhất so với thực tế. Công tác xác định trị giá hải quan hàng nhập khẩu hiện nay vẫn còn rất nhiều khó khăn và chưa thể giải quyết dứt điểm tình trạng này. d) Lợi dụng các quy định của pháp luật về nộp thuế nhập khẩu. Mặc dù điều 15 Luật thuế xuất nhập khẩu 2005 quy định khá rõ ràng về thời hạn nộp thuế, nhưng thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế để gây thất thu thuế cho nhà nước. Một trong những ví dụ điển hình là vụ việc về “ông chủ Kinh Bắc Group”. Ngô Nhật Phương là người sáng lập ra công ty cổ phần Kinh Bắc (Kinh Bắc Group). Lợi dụng chính sách ân hạn thuế nhập khẩu (trả chậm), Phương đã thuê người thành lập công ty TNHH Ngự Bình tại Gò Vấp (TP.HCM). Thông qua tư cách pháp nhân của công ty Ngự Bình, từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2002 Phương đã nhập khẩu tổng cộng hơn 75.000 tấn giấy (trị giá gần 265.000 USD) từ Singapore, nợ thuế nhập khẩu hơn 3,8 tỷ đồng. Theo điểm đ, khoản 1 điều 15 Luật thuế xuất nhập khẩu thì Phương được chậm nộp thuế nhập khẩu trong 30 ngày. Tuy vậy, sau khi nhận và bán hàng xong, doanh nghiệp “ma” do Phương thuê người thành lập đã trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh. Trước đó, Phương đã thành lập hai công ty Thắng Lợi (huyện Hóc Môn) và Đại Phong (quận Tân Bình) bằng thủ đoạn tương tự. Các doanh nghiệp này giúp Phương trốn thuế trót lọt hơn 10 tỷ đồng. e) Lợi dụng quy định của pháp luật về miễn, giảm thuế nhập khẩu Một trong những nội dung quan trọng của quá trình hành thu thuế nhập khẩu là vấn đề xác định hàng hóa nhập khẩu nào nằm trong diện được miễn thuế nhập khẩu. Lợi dụng những ưu đãi của pháp luật, nhiều người đã nhập khẩu hàng hóa dưới chiêu bài “hàng hóa miễn thuế” trá hình. Cụ thể là: + Thứ nhất: theo quy định tại khoản 5 điều 16 Luật thuế xuất nhập khẩu 2005, hàng hóa nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lí miễn thuế của người nhập cảnh được miễn thuế. Lợi dụng quy định này của luật, Nguyễn Gia Thiều – giám đốc công ty Đông Nam đã chỉ đạo Phạm Anh Vũ – giám đốc công ty Thiên Anh và Huỳnh Tiến Dũng, Đỗ Liên Anh – nhân viên công ty Đông Nam và Nguyễn Quốc Tuấn nhập lậu điện thoại di động từ Hồng Kông về Việt Nam theo đường phi mậu dịch và xách tay qua các sân bay với thỏa thuận ăn chia lợi nhuận từ 22 đến 35 USD/chiếc. Để thực hiện trót lọt hành vi phạm tội này, bọn chúng đã móc nối với một số cán bộ nhân viên hải quan ở Hà Nội và TP.HCM, các phi công, tiếp viên thuộc hãng hàng không Việt Nam gây thất thu thuế nhập khẩu cho Nhà nước 52,2 tỷ đồng. + Thứ hai: theo quy định tại khoản 4 điều 16 Luật thuế xuất nhập khẩu 2005 thì hàng hóa nhập khẩu theo một hợp đồng gia công cho bên nước ngoài rồi xuất khẩu cũng nằm trong diện được miễn thuế. Nắm bắt tinh thần của điều luật này, bà Nguyễn Ngọc Liên – giám đốc công ty Thiên Lợi Hòa và ông Nguyễn Huy Tần – giám đốc công ty cổ phần thương mại du lịch Thành Sơn đã “vận dụng” rất thành công trong thực tế. Bà đã xây dựng một câu chuyện “bịa như thật” về việc gia công nguyên liệu cho công ty Hải Viên của Trung Quốc để nhập khẩu 3600 tấn thuốc lá nguyên liệu, trị giá 72 tỷ đồng từ Trung Quốc về Việt Nam. Theo các quy định hiện hành của Bộ tài chính và Bộ thương mại lá thuốc lá là mặt hàng do nhà nước quản lý theo hạn ngạch thuế quan. Doanh nghiệp muốn nhập khẩu phải có giấy phép của Bộ thương mại và phải có hạn ngạch hoặc được ủy thác của đơn vị có hạn ngạch mới được nhập khẩu để hưởng thuế suất trong hạn ngạch là 30%. Công ty Thiên Lợi Hòa không có giấy phép của Bộ thương mại, không có hạn ngạch nhập khẩu thuốc lá nhưng đã nhập lậu mặt hàng này bằng thủ đoạn tạo dựng một hợp đồng gia công giả mạo với doanh nghiệp Hải Viên của Trung Quốc. Theo đó, tháng 10/2005 Thiên Lợi Hòa ký hợp đồng gia công 3600 tấn nguyên liệu thuốc lá cho công ty TNHH Hải Viên và làm thủ tục nhập số hàng này vào Việt Nam. Tuy nhiên bà Chu Lệ Nga – giám đốc công ty Hải Viên cho biết, công ty Hải Viên không kinh doanh xuất khẩu thuốc lá, không ký hợp đồng với công ty Thiên Lợi Hòa, cũng không thực hiện hợp đồng xuất khẩu thuốc lá cho các doanh nghiệp VIệt Nam. Kết quả giám định mẫu dấu và chữ ký của bà Chu Lệ Nga trên các hợp đồng, giấy tờ nhập khẩu thuốc lá của công ty Thiên Lợi Hòa so với mẫu dấu của công ty Hải Viên do Đại sứ quán Trung Quốc cấp đã cho kết luận là mẫu dấu và chữ ký là giả mạo. Theo quy định của pháp luật, nếu nhập khẩu hàng hóa không có nguồn gốc xuất xứ sẽ phải chịu mức thuế suất nhập khẩu là 45%, việc làm giả hợp đồng gia công đã giúp cho công ty Thiên Lợi Hòa và công ty Thành Sơn được hưởng thuế suất ưu đãi 30%, trốn thuế 15% tương đương 7,27 tỷ đồng. + Thứ ba: lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất, nhiều doanh nghiệp đã ồ ạt nhập hàng vào Việt Nam, sau đó lén đem ra tiêu thụ tại thị trường trong nước, nhằm trốn thuế nhập khẩu. Trên đây là một số vụ việc điển hình về các thủ đoạn trốn thuế nhập khẩu được hình thành trong quá trình áp dụng thuế nhập khẩu. Theo Cục điều tra chống buôn lậu, tình trạng buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp tại các cảng biển. Tình hình này càng nghiêm trọng hơn khi Việt Nam phổ biến áp giá tình thuế theo những cam kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo, tự xác định trị giá tình thuế trên tờ khai. Chính vì vậy, các đối tượng đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, đặc biệt là việc thông đồng làm giả hợp đồng thương mại, khai báo giá trị thấp so với thực tế nhằm áp sai mã đối với những mặt hàng nhạy cảm để được hưởng mức thuế suất thấp. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân nhập khẩu đã lợi dụng chính sách thông thoáng, miễn kiểm tra hoặc kiểm tra theo tỷ lệ để nhập hàng hóa thừa so với hợp đồng khai báo hải quan, nhập nguyên liệu hàng hóa xuất khẩu nhưng lại đem tiêu thụ trái phép trong nước, giả hợp đồng gia công…Như vậy có thể thấy thủ đoạn trốn thuế ngày càng tinh vi hơn, trị giá trốn thuế ngày càng lớn. Ý thức của các chủ thể nộp thuế là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Nếu ý thức của chủ thể nộp thuế tốt, pháp luật thuế nhập khẩu sẽ được thực thi nghiêm chỉnh trên thực tế và đem lại hiệu quả cao. Ngược lại nếu chủ thể nộp thuế không có ý thức tự giác, trung thực thì pháp luật thuế nhập khẩu không đạt được hiệu quả như mong muốn. 4) Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật còn thiếu và yếu Từ ngày 1-1-2011, hệ thống khai báo từ xa mà doanh nghiệp vẫn thường khai báo không còn thực hiện nữa mà sẽ chuyển sang thực hiện hải quan điện tử Theo thông tư 222 và từ chối các hồ sơ khai báo bằng hình thức thủ công. Được biết, hải quan điện tử mang lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp như: giảm chi phí thủ tục, chi phí thời gian thay vì phải mang hồ sơ đến tận nơi. Đặc biệt, hải quan điện tử sẽ giảm việc sách nhiễu, phiền hà, tiêu cực. Thời gian qua, Cục đã mở nhiều lớp hướng dẫn cách thực hiện hải quan điện tử. Nhưng cho đến thời điểm này nhiều doanh nghiệp vẫn phàn nàn, hải quan điện tử vẫn còn nhiều phức tạp. Đơn cử, nhiều doanh nghiệp  thực hiện khai báo từ xa nhưng vẫn lỗi như bị đứt đường truyền, đường truyền chậm từ phía hải quan đã ảnh hưởng đến tiến độ của lô hàng mà công ty đã ký hợp đồng giao nhận. Để đảm bảo cho hàng thông quan đúng với quy định của hợp đồng, doanh nghiệp lại phải chờ hải quan đồng ý cho làm thủ tục hay không? Nhiều doanh nghiệp phàn nàn: “Làm thủ tục hải quan điện tử rồi nhưng vẫn phải lên gặp trực tiếp do trục trặc giấy tờ!”. Phương tiện kỹ thuật trang bị cho các cán bộ hải quan chưa được hiện đại hóa, còn lạc hậu, do vậy gây rất nhiều khó khăn cho công tác chốn buôn lậu. Đơn cử như các vụ vây bắt hàng lậu ở Quảng Ninh vào đầu năm 2011, khi mà các cán bộ Hải quan đã vây các đối tượng buôn lậu, tuy nhiên các đối tượng này dùng xuồng có công suất rất lớn nên cán bộ hải quan không thể nào tiếp cận sát được, không thể nào bám theo được nên các đối tượng đã tẩu thoát trong đêm tối. Số tàu, xuồng cao tốc được trang bị cho các Hải đội chống buôn lậu trên biển hiện đã quá cũ kỹ, có tốc tộ trên dưới 20 hải lý/1h, chỉ gần bằng 1/3 so với loại xuồng siêu tốc mà các đối tượng buôn lậu đang sử dụng. Thực tế này đang dấy lên mối quan ngại về hiệu quả ngăn chặn buôn lậu các mặt hàng nhạy cảm hiện nay, nhất là than và xăng dầu.            Việc kiểm tra hàng hóa nhập khẩu tại các cửa khẩu còn gặp nhiều khó khăn do chủ yếu vẫn là kiểm tra thủ công, khi các cán bộ hải quan trực tiếp đi kiểm tra. Do vậy sẽ tốn rất nhiều thời gian đồng thời độ chính xác không cao, khi mà nhiều chủ hàng cố tình giấu hàng lậu ở phía trong của lô hàng. Hiện nay một số máy soi container hiện đại đã được trang bị ở các hải cảng lớn, đem lại hiệu quả tích cực, độ chính xác cao. Do vậy trong thời gian tới cần tăng cường thêm và đồng bộ hóa cơ sở vật chất, kĩ thuật tại các cửa khẩu trong cả nước. Hệ thống cơ sở dữ liệu giá (GTT22) hiện chưa được hoàn chỉnh. Cơ sở dữ liệu giá này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định tên, chủng loại, mã và trị giá của hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên GTT22 hiện nay còn rất lạc hậu do thông tin chưa được cập nhật đầy đủ, không được trang bị bằng hình ảnh… do vậy gây rất nhiều khó khăn cho các cán bộ hải quan trong công tác xác định trị giá hải quan… 5) Năng lực của đội ngũ cán bộ hải quan còn yếu, một số cán bộ có phẩm chất đạo đức không tốt. Về mặt cán bộ quản lí, thực tế nhập khẩu hàng hóa cho thấy hải quan cho thấy hải quan Việt Nam còn thiếu và yếu. Lực lượng hải quan còn mỏng và chất lượng cán bộ còn chưa đồng đều. Nhiều vụ gian lận thuế, trốn thuế có sự cấu kết, thông đồng với cán bộ hải quan. Ví dụ như vụ nguyên nhân viên Chi cục Hải quan Cảng Cát Lái, TP HCM Nguyễn Viết bị các phần tử buôn lậu mua chuộc, làm ngơ cho các chuyến hàng buôn lậu của chúng. Chỉ cần “làm ngơ” cho một container xuất lậu hàng qua cửa khẩu, Nam “bỏ túi” 600 USD. Khi vụ việc bại lộ, nhân viên hải quan này đã giúp “trùm” buôn lậu gỗ quý tiêu thụ gần 1.800 m3 trị giá 26 tỷ đồng. Năng lực của một số cán bộ hải quan còn yếu kém, nhiều vụ buôn lậu chưa thể phát hiện được ra, phẩm chất đạo đức còn chưa tốt do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế, khiến pháp luật chưa đạt được hiệu quả cao. Vì vậy, muốn giảm bớt buôn lậu, trốn thuế cần nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ. IV) Các giải pháp khắc phục. Để pháp luật thuế nhập khẩu thực sự được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, đạt được hiệu quả cao nhất trên thực tế, chúng ta cần phải đưa ra các giải pháp khắc phục các hạn chế, hoàn thiện các quy định của pháp luật. Cụ thể các giải pháp đó như sau: 1) Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật + Thứ nhất: Cần bổ sung thêm một số quy định chi tiết và cụ thể hơn nữa nhằm tạo một hành lang pháp lý đầy đủ và thống nhất cho hoạt động nhập khẩu, đây là giải pháp đòi hỏi phải có tính đồng bộ nhằm tránh việc mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định của Luật và văn bản dưới luật. Trên cơ sở các cam kết của quá trình hội nhập, chúng ta phải nội luật hóa, từ đó xây dựng một hệ thống pháp luật tương thích với những quy tắc chung trong thương mại quốc tế, hướng đến một hệ thống pháp luật minh bạch, phù hợp và có tính khả thi. Cụ thể: + Thứ hai: Pháp luật thuế nhập khẩu phải xây dựng một hàng rào bảo hộ thuế quan hợp lý. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế điển hình là việc chúng ta gia nhập WTO đòi hỏi chúng ta phải cắt giảm hàng rào thuế quan, do đó cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng các loại thuế nhập khẩu bổ sung như thuế nhập khẩu để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Trong luật thuế xuất nhập khẩu 2005 thì những quy định về các loại thuế này chỉ mang tính hình thức, quy định cho có chứ chưa làm rõ và chưa phát huy được vai trò của các loại thuế này. Trong hoàn cảnh hội nhập hiện nay, khi vai trò của thuế nhập khẩu buộc phải giảm dần theo các cam kết quốc tế thì việc nâng cao vai trò của các loại thuế nhập khẩu bổ sung là vô cùng cần thiết. + Thứ ba: Về cách quy định thuế suất thuế nhập khẩu: theo quy định của luật thì “thuế suất thông thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng do chính phủ quy định”. Theo cách tư duy ngôn ngữ của người Việt thì quy định này dễ gây hiểu sang hướng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, tức là thuế suất thông thường tối đã bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170% theo cách hiểu của nhà làm luật. Do vậy luật nên đổi lại cách diễn đạt cho phù hợp và dễ hiểu, nhằm giúp những người không nghiên cứu sâu về luật có được cách hiểu đúng nhất khi đọc luật thuế xuất, nhập khẩu năm 2005. + Thứ tư: Về thời hạn nộp thuế: hiện nay luật đưa ra hai tiêu chí để xác định thời hạn nộp thuế là thời hạn xác định theo mặt hàng nhập khẩu và thời hạn xác định theo sự chấp hành pháp luật thuế của chủ thể nộp thuế. Theo em, luật chỉ nên lấy một tiêu chí là mức độ chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế. Như vậy sẽ vửa phù hợp với Luật hải quan đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, vừa khuyến khích sự chủ động, tự giác tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế. Nếu dựa trên mặt hàng nộp thuế để xác định thời hạn nộp thuế vô hình chung đã đánh đồng những người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật với những người không chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời tạo những kẽ hở cho những doanh nghiệp “ma” lợi dụng chính sách ân hạn thuế của nhà nước để trục lợi trốn thuế. + Thứ năm: Về thuế suất: hiện nay thuế suất thông thường được Bộ tài chính quy định áp dụng thống nhất ở mức bằng 150% thuế suất ưu đãi. Quy định này mang nặng tính duy ý chí và vô hình lấn át cả quy định của luật (luật cho phép dao động ở mức 100% đến 170%). Như vậy Bộ tài chính cần có những quy định cụ thể, trường hợp nào áp dụng thuế suất là bao nhiêu nhằm khắc phục sự cứng nhắc trong áp dụng thuế suất, đồng thời đảm bảo khung thế không bị áp dụng tùy tiện, chủ quan cho từng trường hợp riêng lẻ nào. 2) Các giải pháp nhằm cải cách thủ tục hải quan theo hướng giản đơn, thông thoáng, hiệu quả, hợp lý. + Thứ nhất: đối với những cải cách trong thủ tục hải quan: hiện nay ngành hải quan đang nỗ lực trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hải quan, đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động nhập khẩu được thực hiện một cách nhanh gọn, hiệu quả. Song một số quy định của Luật tuy rất tiến bộ nhưng lại chưa phù hợp với thực tế. Theo những quy định của pháp luật thuế và hải quan kể từ năm 2006 chính thức thực hiện quy trình thủ tục hải quan thực hiện kĩ thuật quản lí rủi ro. Quản lí rủi ro được hiểu là dựa vào phân tích thông tin để tiến hành các thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu từ khâu tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra hồ sơ, đăng kí tờ khai, thông quan và kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu. Thông tin này bao gồm thông tin về: lịch sử doanh nghiệp, thông tin về đối tác nước ngoài và thông tin giá cả thị trường của hàng hóa. Loại thông tin thứ nhất thì sẵn có nhưng loại thứ hai thù hợp tác quốc tế chưa thật sự hiệu quả. Loại thứ ba lại phụ thuộc khá nhiều vào hệ thống cơ sở dữ liệu giá (GTT22) mà hệ thống này lại chưa được hoàn chỉnh. Cơ sở dữ liệu giá này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định tên, chủng loại, mã và trị giá của hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên GTT22 hiện nay còn rất lạc hậu do thông tin chưa được cập nhật đầy đủ, khong được trang bị bằng hình ảnh…Do vậy, cần thiết phải cập nhật thông tin và hình ảnh một cách kịp thời, chi tiết, bám sát với sự phát triển của thị trường, có như vậy mới giúp cơ quan hải quan kiểm soát hàng hóa nhập khẩu dễ dàng hơn… + Thứ hai: Vấn đề đơn giản hóa thủ tục Hải quan, Tổng cục hải quan phải kết hợp với Bộ tài chính cải cách và phổ biến cách thức quản lý mới. Chúng ta cần đơn giản hóa bộ hồ sơ hải quan, cụ thể là bỏ bớt một số giấy tờ như giấy giới thiệu, tờ khai trị giá, bộ hồ sơ copy, hợp đồng thương mại. Đặc biệt, nhóm hàng gia công yêu cầu nộp bảng khai nguyên vật liệu cho doanh nghiệp tự cung ứng trong nước là không thực tế. Bên cạnh đó, chúng ta cần cải cách mạnh mẽ khung pháp lý quản lý hàng nhập khẩu theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch đồng thời tăng cường hiện đại hóa ngành hải quan thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin vào thực hiện thủ tục hải quan. 3) Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật Cần đầu tư phát triển cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật giúp các cán bộ hải quan hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình. Đề cập đến vấn đề này tại Hội nghị triển khai công tác chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại năm 2011, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã yêu cầu BCĐ 127 Trung ương phải khẩn trương tổng hợp và đề xuất bổ sung các phương tiện cụ thể để đáp ứng tốt hơn cho công tác chống buôn lậu trong thời gian tới.  Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nói: “Về phương tiện và trang thiết bị, tôi đề nghị các đồng chí có danh mục và đề xuất cụ thể. Trên cơ sở danh mục, đề xuất cụ thể đó, Chính phủ sẽ có chính sách để tập trung trong 1 số năm đẩy mạnh trang thiết bị cũng như công tác đào tạo cho các đồng chí để chúng ta có thể đáp ứng được yêu cầu”. 4) Các giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ hải quan + Thứ nhất: Đi đôi với việc cải cách thủ tục hành chính, chúng ta cần đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ công chức thực hiện chính sách thuế nhập khẩu vì nếu như có một hệ thống pháp luật kho học, đúng đắn nhưng người thực hiện không làm đúng, làm tốt nhiệm vụ của mình thì cũng không thể mang lại hiệu quả cao được. Theo đó, chúng ta cần lựa chọn công chức có đạo đức, trình độ để bố trí vào những bộ phận cụ thể, có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cán bộ hải quan để nâng cao trình độ nghiệp vụ của họ đồng thời xử lí nghiêm minh công chức vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu. + Thứ hai: Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu vì công tác thanh tra, kiểm tra có tác dụng bảo đảm việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu đúng đắn hơn, phát hiện những thiếu sót, hạn chế của chính sách để từ đó có thể khắc phục kịp thời, đồng thời tránh tình trạng quan liêu, cửa quyền hay lợi dụng quyền hạn để làm trái pháp luật của một số cán bộ công chức nhà nước. 5) Các giải pháp năng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thế nộp thuế + Thứ nhất: Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và chỉ đạo chính sách thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước có tham gia vào quan hệ thuế nhập khẩu để nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật thuế nhập khẩu của các doanh nghiệp. Từ đó sẽ đảm bảo cho hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu tiến hành dễ dàng và hiệu quả. + Thứ hai: Pháp luật cần quy định rõ chế tài đối với hành vi trốn thuế và hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Phạt nặng những đối tượng có hành vi trốn thuế để răn đe các chủ thể khác, buộc họ phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh. C) KẾT LUẬN Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, chúng ta buộc phải cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình nhất định đúng như cam kết. Tuy nhiên thuế nhập vẫn là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước và là một công cụ quan trọng để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Yêu cầu đặt ra là phải tìm ra các yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục kịp thời, có như vậy mới có thể đưa pháp luật thuế nhập khẩu đi vào thực tiễn, đạt được hiệu quả cao nhất có thể. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật thuế Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, năm 2010. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005. Nghị định 87/2010/NĐ-CP ban hành ngày 13/8/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005. Thông tư 194/2010/TT-BTC ban hành ngày 06/12/2010 Hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. “Thực tế áp dụng luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam”, Lê Minh Giang, khóa luận tốt nghiệp năm 2007. “Pháp luật về thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Trịnh Thu Thảo, khóa luận tốt nghiệp năm 2006. “Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, La Thị Tuyết Anh, khóa luận tốt nghiệp năm 2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề số 11- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập .doc
Luận văn liên quan