Cơ chế pháp lý thật sự khó khăn trong việc quản lý các Ngân hàng mà vốn đầu tư 100%
nước ngoài. Thủ tục hành chính phức tạp khiến các nhà đầu tư e ngại. Hiện tại hệ thống
Ngân hàng ở nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, chất lượng sản phẩm dịch vụ, nợ xấu, đầu
tư kém, khi tiếp nhận vốn đầu tư ngoại, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội cải cách có
hữu hiệu thật sự từ cách quản lý chuyên nghiệp của những tổ chức đầu tư. T uy nhiên hạn
chế tỷ lệ 20% sở hữu sẽ khiến cơ hội ra các quyết định kinh doanh của các nhà quản lý nước
ngoài gặp nhiều cản trở từ phía cổ đông hiện hữu nội địa. Tại các quốc gia phát triển, như
Mỹ chẳng hạn, cơ chế gọn gàng mở cửa cho nhà đầu tư ngoại, kể cả các lĩnh vực nhạy cảm
như Ngân hàng, miễn sao thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, tôn trọng pháp luật và tạo công ăn
việc làm. Nhà nước Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa trong các điều kiện nới room vốn đầu
tư nước ngoài.
15 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
1. Một số quy định pháp lý về việc tham gia vốn nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam. ..... 1
1.1. Nhà đầu tư nước ngoài.............................................................................................. 1
1.2. Cổ đông chiến lược................................................................................................... 1
1.3. Nguyên tắc sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài...................................... 1
1.4. Điều kiện tham gia.................................................................................................... 2
2. Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam............................................ 3
2.1. Thống kề về việc đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. .................................................... 3
2.2. Tại sao các Ngân hàng Việt Nam tìm đến nguồn tài trợ vốn nước ngoài................. 6
2.3. Một số liên minh chiến lược tiêu biểu ...................................................................... 8
2.4. Thoái vốn. ................................................................................................................. 9
3. Đề cử chính sách: ........................................................................................................... 11
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 1 / 15
1. Một số quy định pháp lý về việc tham gia vốn nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam.
1.1.Nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư 2005 : Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn
để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài được quy định tại rất nhiều văn bản pháp luật từ Luật
Đầu tư năm 2005, Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày
20/04/2007) đến các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg
ngày 15/04/2009, Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg ngày 18/06/2009), Quyết định của Bộ
Tài chính (Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC ngày 02/12/2008), Thông tư của Bộ Tài chính
(Thông tư số 131/TT-BTC ngày 06/09/2010).
Ở Việt Nam, do khái niệm nhà đầu tư nước ngoài không được giải thích đồng bộ tại các
văn bản dưới luật. Tuy vậy có những ý kiến được đưa ra như sau: Nhà đầu tư nước ngoài là
cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức được thành lập
và hoạt động theo pháp luật nước ngoài trước khi đầu tư vào Việt Nam cũng như các chi
nhánh, văn phòng đại diện (không có tư cách pháp nhân) của họ.
1.2. Cổ đông chiến lược.
Theo nghị định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 “Về việc nhà đầu tư nước ngoài mua
cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam” thì:
"Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài" là tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín, có năng
lực tài chính và khả năng hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong phát triển sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại; có lợi ích
chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng Việt Nam, đáp ứng các tiêu chí
cụ thể do ngân hàng Việt Nam quy định.
Một tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được là nhà đầu tư chiến lược tại một ngân hàng
Việt Nam.
Một tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được tham gia Hội đồng quản trị tại không quá hai
ngân hàng Việt Nam.
Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan chỉ được phép chuyển nhượng
cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (kể cả trong nước và ngoài nước)
tối thiểu sau 5 năm kể từ khi trở thành là nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tại một ngân
hàng Việt Nam.
Tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan sở hữu 10% vốn điều lệ tại một ngân
hàng Việt Nam chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức,
cá nhân khác (kể cả trong nước và ngoài nước) tối thiểu sau 3 năm kể từ khi sở hữu 10%
vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
1.3. Nguyên tắc sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 2 / 15
Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cổ đông nước
ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá
30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng
nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 5% vốn
điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
Mức sở hữu cổ phần của một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan của tổ
chức tín dụng nước ngoài đó không vượt quá 10% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt
Nam.
Mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan của
nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó không vượt quá 15% vốn điều lệ của một ngân hàng
Việt Nam.
Trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ căn cứ đề nghị của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, quyết định mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và
người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó vượt quá 15%, nhưng không
được vượt quá 20% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
1.4. Điều kiện tham gia.
Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 Về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần của ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong đó Điều 11 và Điều 12 quy định:
* Ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng đủ các điều
kiện sau:
a) Vốn điều lệ tối thiểu đạt 1.000 tỷ đồng;
b) Có tình hình tài chính lành mạnh, đáp ứng các điều kiện liên quan của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam;
c) Có bộ máy quản trị, điều hành, hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ hoạt
động có hiệu quả;
d) Không bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt do vi phạm các quy định về an toàn trong
hoạt động ngân hàng trong thời gian 24 tháng đến thời điểm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
xem xét.
Đối với các ngân hàng Việt Nam không đủ điều kiện quy định trên, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có thể xem xét từng trường hợp cụ thể trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định việc bán cổ phần của các ngân hàng này cho nhà đầu tư nước ngoài.
* Tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam phải đáp ứng đủ
các điều kiện sau:
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 3 / 15
1) Có tổng tài sản Có tối thiểu tương đương 20 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm đăng ký
mua cổ phần.
2) Có kinh nghiệm hoạt động quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
3) Được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện
các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến
đổi theo chiều hướng không thuận lợi.
4) Đối với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1, 2
và 3 Điều này, phải có văn bản cam kết về việc hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong việc phát
triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công
nghệ hiện đại.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước thì theo Thông tư số 10/2011/TT-
NHNN ngày 22/4/2011 quy định tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến lược nước ngoài:
a) Là tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc tổ chức tài chính nước ngoài, có tổng tài sản tối
thiểu tương đương 20 (hai mươi) tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm đăng ký tham gia cổ đông
chiến lược;
b) Có trên 05 (năm) năm kinh nghiệm hoạt động quốc tế;
c) Được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập quốc tế (Moody’s, Standard & Poor,
Fitch Rating …) xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động
bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận
lợi;
d) Không là cổ đông chiến lược, cổ đông lớn, cổ đông sáng lập tại bất kỳ tổ chức tín
dụng nào tại Việt Nam;
đ) Có cam kết bằng văn bản về việc hỗ trợ ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa
trong các lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư này và cam kết gắn bó lâu dài với
ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa.
2. Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
2.1. Thống kề về việc đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Ngân Hàng Thời gian. Hoạt động
Sacombank
2001 Tập đoàn Tài chính Dragon Financial Holdings (Anh Quốc)
tham gia góp 10% vốn điều lệ của Sacombank.
04/08/2011 Dragon Financial Holdings chính thức thoái vốn tại Sacombank.
2002 Công ty Tài chính Quốc tế IFC góp vốn vào Sacombank.
06-2007 IFC ký kết thỏa thuận tăng vốn với Sacombank, tăng số cổ phần
nắm giữ lên 7.658% vốn điều lệ của Ngân hàng này.
15/12/2012 IFC công bố kế hoạch bán 50% số cổ phần mà tổ chức này đang
nắm giữ tại Sacombank.
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 4 / 15
Năm 2005, Ngân hàng ANZ trở thành cổ đông chiến lược lớn Sacombank,
với tỷ lệ sở hữu 9,61% vốn điều lệ.
9/1/2012
28/2/2012
Cổ đông lớn này đăng ký bán hết 103.256.415 triệu cổ phiếu
STB đang sở hữu.
ACB 1997 Dragon Capital đầu tư vào ACB. Đến nay còn giữ 6,81% cổ
phần tại ACB.
Connaught Investors Ltd đầu tư vào ACB. Đến nay còn giữ
7.26% cổ phần tại ACB.
11/12/2002 IFC đầu tư 5,5 triệu USD đầu tư mua vốn cổ phần ACB.
17/6/2005 SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB.
24/7/2008 Standar Chartered Bank (Hong Kong) Limited đã mua
16.204.879 cổ phiếu ACB từ Công ty Tài chính Quốc tế (IFC).
Techcombank 2005 Techcombank bán 10% cổ phần cho HSBC.
2007 HSBC tăng phần vốn góp lên 15%.
09/2008 Tăng tỷ lệ sở hữu của đối tác chiến lược HSBC từ 15% lên 20%.
Eximbank 07/2007 Sumitomo Mitsui Banking Corporation ký hợp tác chiến lược
với EXIMBANK
VPBank 1996 Dragon Financial Holding Limited (quỹ đầu tư do Dragon
Capital quản lý) đầu tư vào VPBank.
21/03/2006 VPBank và Oversea Chinese Banking Corporation Ltd ký kết
thỏa thuận hợp tác chiến lược.
04/08/2008 NHNN chấp thuận cho VPBank bán thêm 5% cổ phần cho
OCBC
3/2010 Dragon Capital thoái vốn. Bán 8,31% cổ phần VPBank cho một
đối tác nội địa.
VIB 2009 Ký thỏa thuận hợp tác toàn diện với ngân hàng Commonwealth
Bank of Australia (CBA).
9/2010 Ngân hàng Commonwealth Bank of Australia (CBA) trở thành
cổ đông chiến lược của VIB với tỉ lệ sở hữu cổ phần ban đầu là
15%.
SeAbank 2008 Tập đoàn Société Générale . Tham gia năm 2008. Tham gia vào
quy chuẩn sản phẩm, chất lượng dịch vụ
Phương Nam
2007 United Overseas Bank Limited (UOB) – Singapore tham gia
10%
2011 United Overseas Bank Limited tăng lên 20%
Phương
Đông(OCB)
2007 Ngân hàng BNP Paribas. Tham gia 10%.
2010 BNP Paribas tăng lên 20%
ABBank (an
bình )
9/2008 Maybank chính thức trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài
của ABBANK với tỷ lệ sở hữu là 15%
12/2009 Maybank tăng vốn lên 20%
18/4/2013 Chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu phổ thông. IFC chiếm 10%
tỷ lệ sở hữu ABBank.
Ocean bank Năm 2012: Đối tác nước ngoài Hermes Capital sẽ tham gia góp vốn tại
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 5 / 15
OceanBank
Vietcombank 09/2011 VCB ký kết hợp tác chiến lược với Mizuho Corporate Bank với
tỷ lệ góp vốn 15%, sở hữu
Vietinbank 25-1-2011 Công ty Tài chính quốc tế IFC và Quỹ cấp vốn ngân hàng IFC
ký các hợp đồng đầu tư trị giá 182 triệu đô la Mỹ góp vốn cổ
phần.
27-12-2012 The Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ ký hợp đồng mua bán cổ
phẩn với Viêt tin
2/2013 Phê duyệt The Bank of Tokyo-Mitsubishi trở thành cổ đông
chiến lược với vốn tỷ lệ góp vốn 20%.
Trước năm 2005 khi nhắc tới nhà đầu tư ngoại vào ngân hàng thương mại Việt Nam
thường chỉ nhắc đến sự đầu tư của các quỹ như Dragon Capital và IFC vào ACB,
Sacombank, VPBank... Ngoài ra sự xuất hiện nhà đầu tư nước ngoài chỉ bắt đầu khi mà
Luật Đầu Tư 2005 ra đời quy định về việc đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó có việc
góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp trong đó có các Tố chức tín dụng.
Đặc biệt năm 2007-2008 cùng với sự ra đời của nghị định 69/2007/NĐ-CP “Về việc nhà
đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam”, các ngân hàng cổ
phần đua nhau lên kế hoạch tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và coi đây như một
yếu tố làm nên thành công trong hoạt động kinh doanh cũng như quảng bá thương hiệu.
Trong giai đoạn này một loạt các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam tìm được cổ
đông chiến lược của mình (EximBank, SeABank, OCB, Phương Nam, ....).
Cuối năm 2008 đầu 2009, khủng hoảng tài chính bùng nổ, Ngân hàng An Bình
(ABBank) hoàn tất thương vụ bán cổ phần cho Maybank (Malaysia). Tháng 9/2010,
Commonwealth Bank (Australia) hoàn tất kế hoạch đầu tư vào Ngân hàng Quốc tế (VIB) và
trở thành cổ đông chiến lược ngoại... Cũng trong giai đoạn này, hầu như tất cả các nhà đầu
tư chiến lược của các ngân hàng thương mại cổ phẩn điểu nâng tỷ lệ nắm giữ của mình lên
20% đạt mức cao nhất theo quy định nhà nước.
Sau Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; các ngân hàng thương
mại nhà nước mới bắt đầu chuyển đổi thành ngân hàng thương mại cổ phần nên việc tìm
kiếm nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng này diễn ra muộn hơn so với các ngân hàng
ở khu vực tư. Đến tháng 1/2011 Vietinbank mới có cổ đông ngoại là IFC. Do các yêu cầu
cấp thiết về quy định cổ đông chiến lược cho ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước đến
ngày 22 tháng 04 năm 2011 ngân hàng nhà nước ra Thông tư số 10/2011/TT-NHNN quy
định tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến lược đối với ngân hàng thương mại nhà nước cổ phần
hóa. Sau đó 2 ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước là Vietcombank và Viettinbank công
bố 2 cổ đông chiến lược của mình là Mizuho Corporate Bank (9/2011) và The Bank of
Tokyo-Mitsubishi (2/2013).
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 6 / 15
2.2. Tại sao các Ngân hàng Việt Nam tìm đến nguồn tài trợ vốn nước ngoài.
Khả năng cạnh tranh của một ngân hàng được đánh giá qua ba yếu tố chính là tiềm lực
tài chính (khả năng có đủ nguồn vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh); năng lực quản trị
điều hành (quản trị công ty, văn hoá doanh nghiệp, đội ngũ nhân sự) và trình độ công nghệ.
Ba yếu tố này có quan hệ hữu cơ với nhau. Các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
đều gặp vấn đề với ba nhân tố này, sự yếu kém của ba yếu tố này tạo nên những nguy cơ
tiềm tàng trong các ngân hàng thương mại cổ phần. Tuy nhiên việc nâng cao các yếu tố này
không phải là một vấn đề dễ dàng.
- Việc huy động thêm một khoản vốn đầu tư lớn bền vững vào ngân hàng trong
điều kiện quy mô vốn hạn hẹp của nền kinh tế Việt Nam là một vấn đề nan giải.
- Việc thay đổi cách thức quản lý, văn hoá, tập quán kinh doanh của ngân hàng
khi gặp khó khăn là điều không thể xảy ra. Các mối quan hệ trong bản thân ngân hàng
rất phức tạp và khó gỡ, nhất là các quan hệ và xung đột lợi ích cục bộ.
- Việc đưa vào áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động kinh doanh của lĩnh vực
ngân hàng là một vấn đề rủi ro và tốn kém cần sự hỗ trợ chuyên giao kỹ thuật, kinh
nghiệm và hỗ trợ vốn.
Khi một ngân hàng đang gặp trục trặc về tiềm lực tài chính, cung cách quản lý và trình
độ công nghệ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng phát triển dài hạn,
thì cách tốt nhất là tìm các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Việc có được các nhà đầu tư
chiến lược nằm trong hội đồng quản trị sẽ là một đảm bảo rất lớn đối với công chúng về uy
tín và tính tin cậy của ngân hàng. Các nhà đầu tư chiến lược sẽ là những nhà đầu tư:
- Có tiềm lực tài chính mạnh hoặc có khả năng huy động vốn nhằm đáp ứng nhu
cầu hiện tại, và đảm bảo đủ vốn thực hiện chiến lược phát triển dài hạn.
- Có khả năng quản lý hoặc đưa ra cách thức quản lý phù hợp với ngân hàng nhằm
khắc phục những yếu kém hiện tại, đảm bảo chiến lược phát triển dài hạn.
- Am hiểu về công nghệ, có khả năng tìm ra công nghệ phù hợp với tình trạng
hiện tại của ngân hàng và chiến lược phát triển dài hạn.
- Có khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường của ngân hàng trong tương lai.
Đối tác chiến lược góp phần thúc đẩy hoạt động liên kết kinh tế và thương mại với quốc
tế; mở rộng quy mô, thị phần, cải thiện sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Nó cho phép
ngân hàng khai thác tối đa các cơ hội và tiềm năng kinh doanh có lợi trên thị trường; đa
dạng hóa hoạt động và phân tán rủi ro kinh doanh; đồng thời, cho phép đạt hiệu quả khống
chế, chi phối thị trường cao hơn với tiềm lực tai chính mạnh hơn.
Các nhà đầu tư nước ngoài mà các ngân hàng thương mại Việt Nam lựa chọn có hai loại
nhà đầu tư chiến lược chính.
+ Loại thứ nhất là các quỹ đầu tư. là những nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp. Các
quỹ đầu tư có sự am hiểu và khả năng phân tích, đánh giá thị trường rất tốt. Một ngân hàng
sẽ có được lợi thế rất lớn khi có các quỹ đầu tư tham gia, vì với tiềm lực tài chính và uy tín
của họ có thể tạo ra độ tin cậy cần thiết cho những nhà đầu tư nhỏ lẻ sẵn sàng bỏ vốn vào
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 7 / 15
doanh nghiệp. Đối với các quỹ đầu tư, có thể kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực ngân
hàng của họ không tốt bằng những ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đó. Nhưng kỹ năng
quản lý, nhất là quản lý tài chính luôn là thế mạnh tuyệt đối của họ và với những lợi thế của
mình, họ hoàn toàn có thể tìm được một nhà tư vấn, một nhà quản lý (tổng giám đốc) giỏi
biết cách quản lý, lựa chọn đúng công nghệ làm cho ngân hàng phát triển. Việc có được các
nhà đầu tư chiến lược là các quỹ đầu tư sẽ đảm bảo cho sự phát triển dài hạn của doanh
nghiệp và rủi ro bị thâu tóm cũng rất thấp.
Sự hiện diện khá sớm của các quỹ đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngân hàng Việt
Nam như Dragon Capital và IFC. Cả hai đều có góp vốn cổ phẩn và hỗ trợ kỹ thuật cho rất
nhiều ngân hàng thương mại ở Việt Nam. (ACB, Sacombank, Phương Nam, Vietinbank…)
(“IFC là bộ phận phụ trách khu vực tư nhân thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới (WB).
Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy đầu tư vào khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển
nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. IFC cung cấp trợ giúp kỹ thuật
và tư vấn cho chính phủ và doanh nghiệp, đồng thời cũng cấp vốn cho các dự án đầu tư
bằng tiền của mình và qua huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế.”)
Năm 2002 IFC và ACB ký biên bản ghi nhớ về việc IFC tài trợ 75.000 USD cho ACB
để giúp cải thiện nghiệp vụ quản lý rủi ro và qui trình phê duyệt tín dụng.
Tuy nhiên do một số hạn chế về vấn đề hỗ trợ nghiệp vụ, nên giai đoạn sau thì các quỹ
này không còn đóng vai trò là cổ đông chiến lược tại các ngân hàng nữa mà chỉ được coi
như là một nhà đầu tư nước ngoài lớn.
+ Loại còn lại là các ngân hàng quốc tế hàng đầu đầu trong lĩnh vực ngân hàng đang
thực hiện kế hoạch mở rộng hoạt động, tăng cường sức mạnh trên thị trường. Các ngân hàng
này luôn tìm mọi cách mở rộng hoạt động, gia tăng thị phần. Nhìn chung, các ngân hàng
này thường có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng quản lý tốt, trình độ công nghệ tiên tiến và
họ thường mở rộng thị trường bằng cách liên kết hoặc tham gia đầu tư vào các ngân hàng
trong nước sẵn có trên thị trường mà họ muốn mở rộng hoạt động. Nếu một ngân hàng
thương mại cổ phần trong nước muốn có một sự đổi mới, cải cách trong hoạt động của mình
thì được những nhà đầu tư loại này tham gia thì sẽ là một điều kiện và lợi thế rất lớn. Tuy
nhiên, đối với trường hợp này, ngân hàng cần phải có đủ độ sáng suốt và tạo ra sự độc lập
cần thiết, nếu không, khả năng bị thâu tóm, chi phối hay bị mua bán thù địch rất có thể xảy
ra.
Chúng ta có thể vấn đề này qua các ví dụ sau.
ACB áp dụng mô hình “Chuyên viên tư vấn tài chính cá nhân” (Personal Financial
Consultant - PFC) của Standard Chartered tại hệ thống của mình và xem đó là một kinh
nghiệm quý báu. Thậm chí ACB còn cho đặt một biển quảng cáo lớn về mô hình này trước
trụ sở của mình, xem nó như là một lợi thế bán hàng chính. Theo mô hình PFC, công tác
khai thác và chăm sóc khách hàng ngày càng được chuyên môn hoá theo hướng phân quyền
quản lý tài khoản khách hàng, trang bị cho nhân viên kỹ năng tư vấn tài chính đa dạng và
chuyên nghiệp hơn.
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 8 / 15
SeABank áp dụng các mô hình quản trị rủi ro của Societe Generale cũng là một chiến
lược hay. SeABank đã bổ nhiệm chuyên gia đến từ Pháp của Societe Generale vào vị trí
Giám đốc Khối quản trị rủi ro cũng như trao quyền phủ quyết cho các chuyên gia Pháp
trong Hội đồng Tín dụng tại ngân hàng này cho thấy các ngân hàng nội đang rất “thức thời”.
Được biết, cũng chính nhờ hỗ trợ của Societe Generale mà SeABank gia nhập hai tổ chức
thẻ thanh toán quốc tế Visa và Master nhanh hơn dự kiến.
Vietinbank tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phần phổ thông mới cho BTMU với
số cổ phần là 644.389.811 giá phát hành vào 24.000 đồng/cổ phần….
2.3.Một số liên minh chiến lược tiêu biểu.
2.3.1. Vietcombank.
Ngày 30/9/2011, Vietcombank đã ký kết thỏa thuận cổ đông chiến lược với Mizuho
Corporate Bank, một thành viên của Tập đoàn Tài chính Mizuho (Tập đoàn tài chính lớn
thứ ba tại Nhật bản và thứ 20 trên toàn thế giới) thông qua việc bán 15% vốn cổ phần cho
ngân hàng này. Sau thương vụ hợp tác giữa Vietcombank và Mizuho, tính đến 31-10-2012,
vốn điều lệ của VCB là tăng thêm 11.8 ngàn tỷ so với cuối năm 2011.
Hợp tác chiến lược toàn diện với Mizuho được kỳ vọng sẽ thúc đẩy Vietcombank hướng
đến mô hình một ngân hàng đa doanh có quy mô hoạt động toàn cầu, có tầm ảnh hưởng
trong khu vực. Bên cạnh đó, Mizuho còn hỗ trợ Vietcombank trong các lĩnh vực tài trợ
thương mại, tài trợ dự án… nhằm tăng tiềm lực tài chính cho Vietcombank, thể hiện vai trò
đầu tàu trong nền kinh tế và hỗ trợ đắc lực cho khách hàng…
Sự hợp tác này còn tạo Vietcombank cơ hội để học hỏi trao đổi kinh nghiệm. Mizuho là
một trong những ngân hàng hàng đầu trên thế giới về quy mô và mức độ tín nhiệm. Mizuho
có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, giám sát tuân
thủ, đồng thời có thế mạnh trong việc phát triển các sản phẩm ngân hàng và công nghệ hiện
đại. Chính vì vậy, trong mối quan hệ hợp tác với Mizuho, Vietcombank sẽ được đối tác
Mizuho chia sẻ kinh nghiệm trong quản trị doanh nghiệp, tiến tới xây dựng bộ máy tổ chức
hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay, Mizuho đã biệt phái cán bộ sang làm việc tại một số phòng ban TW tại Hội sở
chính. Mizuho đã tổ chức một số hội thảo bàn luận về các vấn đề kinh tế vĩ mô, chính sách
tiền tệ... để cùng chia sẻ kinh nghiệm điều hành linh hoạt theo chính sách kinh tế vĩ mô với
Vietcombank.
2.3.2. Eximbank.
Ngày 27-11-2007, Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam Eximbank và
Sumitomo Mitsui Banking Corporation SMBC đã ký kết Thỏa thuận Liên minh chiến lược.
Theo đó, SMBC đầu tư 15% vốn cổ phần của Eximbank.
Qua 5 năm, việc hợp tác liên minh chiến lược giữa Eximbank và SMBC đã đạt được
những thành quả to lớn, mở ra mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai tổ chức nhằm bổ sung
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 9 / 15
cho nhau những công nghệ và kinh nghiệm hữu ích, tiên tiến. SMBC đã cam kết hỗ trợ cho
Eximbank đối với các hoạt động then chốt như: Ngân hàng bán sỉ, Ngân hàng bán lẻ, quản
trị doanh nghiệp và các hoạt động kinh doanh khác. Cụ thể, phía ngân hàng SMBC đã cử
các chuyên gia biệt phái đến làm việc trực tiếp tại Eximbank. Đối với hoạt động quản trị
doanh nghiệp, SMBC đã tư vấn và đề xuất Eximbank nâng cao hoạt động lập kế hoạch và
hệ thống quản lý rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ đó, Eximbank đã hoàn thiện chính sách
tín dụng và mô hình quản lý tín dụng tập trung. Ngoài ra, Eximbank cũng đã tăng cường
quản lý rủi ro đối với hoạt động cấp tín dụng, kinh doanh vốn, kinh doanh vàng và kinh
doanh tiền tệ.
Đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng bán lẻ, đây được xác định là nội dung then
chốt trong hợp tác chiến lược giữa hai bên. SMBC đã hỗ trợ Eximbank lập kế hoạch phát
triển ngân hàng bán lẻ trung và dài hạn, cũng như biệt phái các chuyên gia sang Việt Nam
để cùng Eximbank triển khai các dự án cụ thể như: phát triển các gói sản phẩm mới, tăng
cường hoạt động kinh doanh thẻ, cho vay mua xe ô tô, tăng cường quản lý chất lượng sản
phẩm... nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng của khách hàng. SMBC cũng hỗ trợ
Eximbank thu hút khách hàng Nhật tại Việt Nam đến giao dịch với Eximbank nhằm mở
rộng nền tảng khách hàng cho Eximbank. Riêng đối với hoạt động đào tạo nhân sự, SMBC
đã tích cực hỗ trợ Eximbank thiết kế Trung tâm Đào tạo theo mô hình của SMBC và cung
cấp các khóa đào tạo để chia sẻ kinh nghiệm quản lý và nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán
bộ và nhân viên Eximbank. Các chuyên gia, các nhà quản lý của Eximbank cũng được cử
sang Nhật Bản thông qua các chương trình đào tạo, tham quan... để trực tiếp chứng kiến và
học hỏi những kinh nghiệm tiến bộ từ thị trường này.
Một trong những kết quả đáng kể trong hợp tác giữa Eximbank và SMBC là SMBC đã
bắc cầu hỗ trợ Eximbank tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí hợp lý và tăng cường
thanh khoản cho Eximbank bằng hạn mức cho vay liên ngân hàng, tài trợ thương mại và
bảo lãnh. Ngoài ra, SMBC còn hỗ trợ Eximbank lựa chọn và áp dụng công nghệ thông tin
hiện đại. Nhờ sự hợp tác liên minh hết sức chặt chẽ trong 5 năm qua mà Eximbank đã nâng
cao danh tiếng trên thị trường tài chính trong và ngoài nước. Có thể thấy, với sự đồng hành
và hỗ trợ hiệu quả của SMBC, Eximbank đã có sự tăng trưởng vượt bậc cả về quy mô và
chất lượng hoạt động. Từ một ngân hàng có vốn điều lệ 2.800 tỷ đồng và tổng tài sản
33.000 tỷ đồng vào năm 2007, đến cuối năm 2012, Eximbank đã trở thành ngân hàng có
vốn điều lệ đạt 12.355 tỷ đồng và tổng tài sản hơn 170.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Eximbank
đã nhận được các giải thưởng cao quý trong và ngoài nước như: “Tốp 1.000 ngân hàng hàng
đầu trên thế giới” do tạp chí The Banker trao tặng, “Ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam
2012” do tạp chí AsiaMoney trao tặng, “Sao Vàng Đất Việt 2011” do Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam và Hội Doanh nhân Trẻ Việt Nam trao tặng và nhiều giải thưởng khác…
2.4. Thoái vốn.
Thoái vốn là một hình thức rất phổ biến trong đầu tư, khi mà các nhà đầu tư cá nhân hay
tổ chức muốn rút vốn đầu tư của mình. Vậy chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản "thoái
vốn" chính là cách cá nhân hay tổ chức tham gia hùn vốn với doanh nghiêp hay với một
công ty để kinh doanh một cái gì đó mà bây giờ mình quyết định không tham gia nữa, và sẽ
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 10 / 15
rút lại phần vốn của mình thì được gọi là thoái vốn. Việc thoái vốn, dù muốn hay không,
vẫn ít nhiều gây nên những xáo trộn trong nội bộ doanh nghiệp.
Ví dụ: Dragon Capital thoái vốn ra khỏi 3 ngân hàng Phương Nam, VPBank và
Sacombank…
Một số nguyên nhân dẫn đến thoái vốn là :
- Tình hình bất ổn khó khăn của kinh tế, sự đi xuống của nền kinh tế trong những năm
gần đây chưa có dấu hiệu phục hồi. Để bảo toàn nguồn vốn và tập trung vốn đầu cho
ngành nghề chính và thị trường chính các nhà đầu tư thoái vốn đầu tư ở các lĩnh vực
khác để tái cơ cấu danh mục đầu tư.
- Sự yếu kém trong tính hình kinh doanh, công tác quản lý yếu kém đã dẫn đến sự mất
tin tưởng và thất vọng của các nhà đầu tư lớn, để tránh rủi ro và bảo đảm, nên việc
thoái vốn dịch chuyển dòng vốn sang nơi khác là điều tất nhiên.
- Trong quá trình kinh doanh thì nội bộ phát sinh ra các vấn đề như tranh giành quyền
lực, quyền kiểm soát giữa các thành viên chủ chốt với nhau, thương lượng mua bán
hay chuyển đổi quyền kiểm soát sở hữu giữa nội bộ hay bên ngoài cũng là một nguyên
nhân dẫn đến thoái vốn
- Tình hình kinh tế của một quốc gia diễn ra các cuộc tranh giành thâu tóm lẫn nhau
trong trường hợp này thì thoái vốn của một nhà đầu tư này là một bước đệm cho các
mục đích kinh tế lớn của một nhà đầu tư khác đằng sau.
Ví dụ tiêu biểu về thoái vốn diễn ra trong ngành ngân hàng
Thoái vốn ở sacombank:
Sacombank là ngân hàng cổ phần lớn tại Việt Nam với mức vốn điều lệ hơn 10.000 tỷ
đồng. Tính đến ĐHCĐ Sacombank năm 2011, những cổ đông lớn của STB gồm: REE
3,66%, Dragon Capital 6,66%, ANZ 9,78% và ban điều hành của ngân hàng này nắm 9%.
Tháng 8/2011, Dragon Capital chính thức bán toàn bộ 6,66% vốn tại Sacombank, với 61
triệu cổ phiếu sau 10 năm nắm giữ. Kể từ thời điểm này, thông tin về việc nhà đầu tư nội
thu gom cổ phiếu Sacombank để giành quyền kiểm soát lan khắp thị trường Khi đó, giá cổ
phiếu STB đã rơi xuống mức đáy là 11.600 đồng. vào tháng 8/2011, không có ai nắm giữ
tới 30% cổ phần của Sacombank. Sau Dragon Capital, 2 cổ đông chiến lược của Sacombank
là Ngân hàng ANZ và REE cùng đăng ký bán toàn bộ lượng cổ phiếu STB đang sở hữu,
chiếm tới 13,53% vốn điều lệ của Sacombank.
Ngân hàng ANZ là cổ đông chiến lược lớn Sacombank, với tỷ lệ sở hữu 9,61% vốn điều
lệ. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 9/1 đến 28/2, cổ đông lớn này đăng ký bán hết
103.256.415 triệu cổ phiếu STB đang sở hữu, theo phương thức thỏa thuận, nhằm mục đích
tái cơ cấu. Cùng thời điểm này, một cổ đông lớn khác là Công ty cổ phần cơ điện lạnh
(REE) công bố thanh lý toàn bộ 42.139.266 cổ phiếu STB. Từ mức sở hữu 3,924%, REE sẽ
không còn sở hữu bất kỳ cổ phiếu STB nào, cũng trong đầu tháng 1 năm 2012 , Công ty cổ
phần đường Biên Hòa đăng ký bán hết 1,44 triệu cổ phiếu STB (chiếm 0,134% vốn điều lệ),
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 11 / 15
với lý do thu hồi vốn đầu tư, bổ sung vốn sản xuất kinh doanh. Ngày 15/12, Công ty Tài
chính Quốc tế (IFC) công bố kế hoạch bán 50% số cổ phần mà tổ chức này đang nắm giữ tại
Sacombank. Đến nay Sacombank không còn một nhà đầu tư nước ngoài lớn nào.
Nguyên nhân Thoái vốn của các tập đoàn đầu tư nước ngoài ở sacombank :
Nguyên nhân Dragon capital thoái vốn vì tỷ trọng nắm giữ cổ phiếu ngành ngân hàng
trong các quỹ đầu tư của Dragon capital rất cao, đồng thời vượt quá các tiêu chí về quản lý
danh mục đầu tư và quản trị rủi ro được quy định bởi cổ đông nên Dragon capital thoái vốn
ở sacombank là cần thiết để xem xét và cơ cấu lại danh mục đầu tư. Nguyên nhân tiếp theo
của việc thoái vốn của Dragon capital được đưa ra là do thời hạn đầu tư cam kết với các bên
được đầu tư hay thời hạn đầu tư vốn do chính các nhà đầu tư đặt ra, khi hết thời hạn các nhà
đầu tư xem xét lại để có quyết định tiếp tục đầu tư nữa hay không hoặc kết thúc việc đầu tư
bằng thoái vốn, chuyển nhượng cổ phiếu. Cũng trong giai đoạn này Dragon Capital cũng
thoái vốn ở Ngân hàng Phương Nam và VPBank.
Cùng với đó do sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng và tình hình kinh tế lúc bấy giờ đã
dẫn đến các vụ thâu tóm mua bán sát nhập lẫn nhau, dẫn đến các việc thoái vốn, chuyển
nhượng để thực hiện các phi vụ mua bán thâu tóm đang diễn ra. Người mua số cổ phần STB
từ ANZ sau đó được xác nhận là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt
Nam (Eximbank). Với 9,61% nhận từ ANZ, Eximbank nâng tỷ lệ nắm giữ của mình tại
Sacombank lên 9,73% và là cổ đông lớn nhất của ngân hàng này. Không những thế, do 100
triệu cổ phiếu quỹ không có quyền biểu quyết nên Eximbank sẽ chiếm tới 10,27% quyền
biểu quyết tại Sacombank. Eximbank cũng chính là ngân hàng hồi cuối tháng 2/2012 tuyên
bố đại diện cho một nhóm cổ đông nắm hơn 51% quyền biểu quyết tại Sacombank và đề
nghị bầu lại toàn bộ HĐQT, Ban kiểm soát với lý do đã có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu cổ
đông của Sacombank: như sự thoái vốn của Dragon Capital, Ngân hàng ANZ, REE…, đồng
thời có sự tham gia của các cổ đông mới (trong đó có Eximbank). Và đằng sau sự mua lại
cổ phần Sacombank của Eximbank có thể có là một đề án xác nhập giữa Sacombank và
Eximbank, một đề án tốn nhiều bút mực của báo chí thời gian qua.
Sau khi hội đồng quản trị mới được bẩu, Sacombank đã ký thỏa thuận với ông Đặng
Văn Thành - nguyên Chủ tịch HĐQT và con trai là ông Đặng Hồng Anh vào ngày
5/12/2012. Sacombank đồng ý sử dụng trên 7,4% vốn (tương đương khoảng 80 triệu cổ
phiếu STB) do 2 cha con ông này đang nằm giữ để cần trừ khoản nợ các khoản cho vay, đầu
tư trái phiếu và khoản phải thu khác với tổng giá trị thỏa thuận gần 1.600 tỷ đồng. Đến ngày
31/5/2013 tổng cộng 47,8 triệu cổ phiếu STB của cha con ông Đặng Văn Thành đã được
bán. Ông Đặng Thành Tâm rút vốn hoàn toàn ra khỏi STB. Vậy đằng sau sự thoái vốn của
các nhà đầu tư lớn có thể có một phần nguyên nhân từ sự đầu tranh trong nội bộ của
Sacombank.
3. Đề cử chính sách:
Hiện nay, muốn đem vốn vào đầu tư tại các tổ chức tín dụng nói chung, các ngân hàng
Việt Nam nói riêng, các nhà đầu tư quốc tế cần phải tuân thủ các quy định trong nghị định
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 12 / 15
số 69 được Chính Phủ ta ban hành vào 20/04/2007. Theo đó, quy định này thể hiện rõ các
yêu cầu về tỷ lệ sở hữu tối đa và tổng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư tại các tổ chức tín
dụng.
Gia nhập WTO đã được một thời gian, Chính phú ta nhận thấy rõ ràng rằng việc thu hút
vốn tham gia đầu tư nước ngoài vào thị trường tín dụng trong nước quan trọng và cấp thiết.
Quá trình tái cơ cấu, phát triển hệ thống mạng lưới sẽ càng thuận lợi thực hiện hơn nếu
nguồn lực vốn của cải và con người ở tại các tổ chức tín dụng được hậu thuẫn từ phía các tổ
chức đầu tư hùng mạnh thế giới. Tuy nhiên, theo các quy tắc trong Nghị định số 69 thì có
một số hữu hạn cho khả năng tiến sâu rộng vào thị trường tín dụng ở Việt Nam đang gây
cản trở, khó khăn cho các tổ chức nước ngoài cũng như lãnh đạo tổ chức tín dụng trong
nước.
Chính phủ đã ban hành đề án 254 với nhiều điểm nội dung quan trọng nhằm mở cửa
hơn. Mới đây, Vụ cấp pháp tín dụng đã trình lên Chính phủ mong muốn chỉnh sửa lại Nghị
định 69 một số điểm nhằm giành cho các tổ chức tín dụng cơ hội tiến sâu hơn vào thị trường
ta, đó là:
- Theo nghị định 69, một nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép sở hữu cổ phần chiếm
15% vốn điều lệ TCTD, và có thể trình Chính Phủ xem xét ở mức tối đa 20%. Tuy nhiên xét
ở tốc độ tăng trưởng và nhu cầu thực tế ngày càng cao của các tổ chức, cá nhân nước ngoài,
Vụ Cấp phép tín dụng trình Chính Phủ xem xét sửa đổi ở điểm với việc nới rộng room lên
20% và không cần trình Chính Phủ.
- Để phục vụ quá trình tái cơ cấu, cũng như học hỏi kinh nghiệm lãnh đạo, các NH,
TCTD có thể trình Chính Phủ xem xét nới room trên 30% vốn điều lệ tỷ lệ sở hữu tổ chức
đầu tư nước ngoài tại các TCTD Việt Nam so với mức tối đa 30% của Nghị định 69 trước
đây.
Các ý kiến sửa đổi như trong đề án 254 kiến nghị đang được bàn bạc và chưa có kết quả
chính thức. Quyết định nới rộng room cho các tổ chức đầu tư nước ngoài vào các tổ chức tín
dụng Việt Nam là một quyết định quan trọng mang tính cấp bách nhưng vẫn rất cần sự
chính xác và khôn khéo trong quản lý.
Trong giai đoạn hiện nay với tình hình nợ xấu cao cùng nhu cầu cấp thiết tái cơ cấu lại
hệ thống ngân hàng thì sự tham gia hỗ trợ của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết. Với nguồn
vốn lớn cùng kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng thì sự tham gia của các nhà đầu tư nước
ngoài chiến lược là một yêu cầu có tính tình thế để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu và tài
cơ cấu hệ thông nhân hàng. Tuy nhiên việc thiếu minh bạch thông tin về nợ xấu đang là một
trong những rào cản lớn nhất, bên cạnh các rào cản về chi phí thời gian, thủ tục hành chính
rườm rà (như công tác bàn giao hồ sơ, thủ tục thưa kiện ra tòa, thi hành án, bán tài sản…),
và sự hợp tác của các đối tác Việt Nam. Việc cải cách thủ tục hành chính là một yêu cầu cấp
thiết để có thế nâng cao khối lượng cũng như chất lượng của các nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào hệ thống ngân hàng Việt Nam, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài đóng có vai trò
lớn hơn trong tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu.
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 13 / 15
Từ phía Chính Phủ:
Chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước cần chọn lọc các nhà đầu tư nước ngoài thật sự có
tiềm năng, có đủ lực tài chính để tái cơ cấu, phát triển các Ngân hàng yếu kém.
Sau khi thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào hệ thống Ngân hàng, Nhà nước cần
thực hiện nghiêm túc phân loại các tổ chức đầu tư để có cách giám sát, quản lý hiệu quả,
tránh tình trạng đầu cơ, thâu tóm, thao túng thị trường vì lĩnh vực Ngân hàng là khá nhạy
cảm đối với một nền kinh tế còn nhiều yếu kém như ở Việt Nam.
Cải cách các thủ tục hành chính nhiêu khê trong việc tiếp cận thị trường cho các tổ chức
quốc tế. Họ luôn thường xuyên làm trong một môi trường tư bản chủ nghĩa năng động, thủ
tục nhanh, có thể chỉ cần thuê luật sư là hoàn tất thủ tục hành chính, vì thế nếu đối diện với
quá nhiều thủ tục, nhiều cửa, các tổ chức đầu tư sẽ e dè hơn.
Nhà đầu tư nước ngoài:
Thị trường tài chính Việt Nam là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài cạnh tranh. Với
dân số gần 90 triệu dân, Việt Nam thật sự là một thị trường bán lẻ tín dụng tiềm năng, do
người dân chưa thật sự thỏa mãn hết tất cả nhu cầu.
Cơ chế pháp lý thật sự khó khăn trong việc quản lý các Ngân hàng mà vốn đầu tư 100%
nước ngoài. Thủ tục hành chính phức tạp khiến các nhà đầu tư e ngại. Hiện tại hệ thống
Ngân hàng ở nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, chất lượng sản phẩm dịch vụ, nợ xấu, đầu
tư kém, khi tiếp nhận vốn đầu tư ngoại, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội cải cách có
hữu hiệu thật sự từ cách quản lý chuyên nghiệp của những tổ chức đầu tư. Tuy nhiên hạn
chế tỷ lệ 20% sở hữu sẽ khiến cơ hội ra các quyết định kinh doanh của các nhà quản lý nước
ngoài gặp nhiều cản trở từ phía cổ đông hiện hữu nội địa. Tại các quốc gia phát triển, như
Mỹ chẳng hạn, cơ chế gọn gàng mở cửa cho nhà đầu tư ngoại, kể cả các lĩnh vực nhạy cảm
như Ngân hàng, miễn sao thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, tôn trọng pháp luật và tạo công ăn
việc làm. Nhà nước Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa trong các điều kiện nới room vốn đầu
tư nước ngoài.
Ngân hàng trong nước:
Hiện tại, quy định vốn điều lệ tối thiểu 3000 tỷ đối với các NH tại Việt Nam đang được
thực hiện nghiêm túc, các NH vốn điều lệ kém, ít vốn, quy mô nhỏ sẽ phải hợp nhất, sáp
nhập để tăng tính cạnh tranh. Vì vậy, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng vốn điều lệ là
một trong những phương pháp quan trọng. Chắc chắn các cá nhân, tổ chức nước ngoài sẽ
không chọn các tổ chức tín dụng, Ngân hàng đang tồn động tình trạng yếu kém, nguồn lực
không đủ. Thách thức cho nền kinh tế là nâng cao đồng bộ lực các Ngân hàng nhằm tạo một
nền tảng tối thiểu đủ hấp dẫn các nhà đầu tư vốn ngoại.
Đón nhận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, các ngân hàng trong nước có cơ hội tăng sức
mạnh và thực lực tài chính, có khả năng thực hiện các dự án đầu tư lớn nhằm mang lại lợi
thế cạnh tranh trên thị trường. Hơn thế nữa, cùng với việc nới room, tỷ lệ đóng gốp vốn lớn
Đề tài 5: Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam.
Nhóm 5 TCDN Đêm 4 - K22
Trang 14 / 15
của các tổ chức cũng giúp ban lãnh đạo các ngân hàng có sự hợp tác quản trị từ các tổ chức,
cá nhân nhiều kinh nghiệm trên thị trường quốc tê. Tuy nhiên cũng dễ có nguy cơ xảy ra
tình trạng bất đồng và mẫu thuẫn lợi ích, thâu tóm sáp nhập. Các ngân hàng trong nước cần
có cái nhìn xa, đánh giá lực lượng đối tác đầu tư và tự hạn chế một tỷ lệ vốn góp ngoại an
toàn cho chính doanh nghiệp mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_hoan_chinh_ver2_897.pdf