Đề tài 6: Lạm phát

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế(OECD) ngày 9/1 công bốbáo cáo cho hay tỷlệlạm phát trung bình của các nước công nghiệp phát triển thuộc tổchức này trong tháng 11/2012 ởmức 1,9%, giảm 0,3% so với cùng kỳnăm trước, nhờgiá dầu mỏdịu xuống. Theo OECD, giá dầu mỏ thế giới chỉ tăng 2,9% trong tháng 11/2012, sau đạt mức tăng 5,4% vào tháng 10. Ngoài ra, lạm phát giá lương thực của các nước thành viên OECD chỉtăng khiêm tốn 2,2% trong tháng trên, so với mức tăng 2,1% trong tháng 10. Nếu không tính tới sựbiến động của giá các loại lương thực và giá năng lượng, tỷlệ lạm phát trung bình của 34 nền kinh tếthuộc OECD gần nhưkhông thay đổi tháng thứ tư liên tiếp trong tháng 11 vừa qua, và ởmức 1,6%.

pdf49 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2620 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài 6: Lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của HSBC, lạm phát cơ bản tháng 2 tương tự như tháng 1 vẫn ở mức cao 12,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng, lạm phát cơ bản có điều chỉnh yếu tố mùa vụ so với tháng trước đã giảm 0,5% từ mức 0,9% của tháng 1. Lạm phát thực phẩm tháng 2 tăng nhẹ từ mức 1,3% của tháng 1 lên mức 1,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả là lạm phát thực phẩm tháng 2 có điều chỉnh mùa vụ so sánh theo tháng tăng 0,2% từ mức 0,6% trong tháng 1. Sau đây chúng ta cùng điểm lại tình hình lạm phát ở Việt Nam qua các năm. 100,0 100,4 104,3 107,6 115,9 125,5 134,9 146,3 179,6 192,0 209,6 248,6 271,5 98,4 100,4 103,9 103,1 107,8 108,3 107,5 108,3 123,0 106,9 109,2 118,6 109,2 50 60 70 80 90 100 110 120 130 50 100 150 200 250 300 350 400 450 500 1999 2001 2003 2005 2007 2009 2011 2013 Tỷ lệ lạm phát ở VN Lạm phát so với năm 2000 (trục chính) Lạm phát so với năm trước (trục phụ) -1,6 0,3 3,9 3,1 -5 0 5 10 15 20 25 2000 2001 2002 2003 Lạm phát và tăng trưởng GDP - 200.000 400.000 600.000 800.000 1.000.000 1.200.000 1999 2001 7,8 8,3 7,5 8,3 23,0 6,9 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tăng trưởng GDP Lạm phát 2004 2007 Lương tối thiểu 9,2 18,6 9,2 2010 2011 2012 2010 2012 Từ năm 2004, Việt Nam đã và đang trải qua giai đoạn lạm phát cao hơn, dao động lớn hơn và kéo dài hơn so với các đối tác thương mại của mình. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt Nam từ cuối năm 2009. Giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược xu thế gia tăng đáng ngại của lạm phát trong năm 2008. Khi các gói kích cầu của Chính phủ bắt đầu gia tăng từ quý II năm 2009, cung tiền cũng bắt đầu tăng mạnh và tín dụngcũng có dấu hiệu tương tự. Các ngân hàng thương mại trở nên thiếu hút tiền mặt và đều cốgắng tăng lãi suất nhằm thu hút tiền gửi. Vì vậy, cuộc cạnh 0 5.000 10.000 15.000 20.000 25.000 30.000 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Price 8.592 10.583 11.458 14.833 13.717 16.487 20.517 22.421 23.617 0 5.000 10.000 15.000 20.000 25.000 Gasoline Price tranh lãi suất đã bắt đầu khiến cho lãi suất cho vay bị đẩy lên cao (vượt trần lãi suất do các khoản phí cho vay). Trong thời kỳ 2007-2012, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 so với tháng 12 năm trước đều tăng trên 10%/năm (trừ năm 2009 và năm 2012), trong khi đó, tăng trưởng GDP chững lại, chỉ đạt khoảng 6%/năm từ năm 2008 đến nay, thấp hơn đáng kể so với mức bình quân 7-8% các năm trước đó. So sánh trong cùng thời kỳ, lạm phát của nước ta cao hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nguồn: Tổng cục Thống kê Nhìn vào diễn biến của lạm phát những năm 2004-2012 có thể thấy, tính "chu kỳ" nhất định đối với lạm phát ở nước ta. Trong 9 năm (2004-2012), vòng xoáy lạm phát lặp lại theo chu kỳ 3 năm 1 lần: 2 năm tăng vọt lên và 1 năm giảm sâu đột ngột (trong 3 năm 2004-2006: mức CPI trong các năm đó lần lượt là 9,5%; 8,4% và 6,6%; Giai đoạn 2007-2009, CPI lần lượt là: 12,6%; 19,9% và 6,5%; Giai đoạn 2010-2012: 11,8%; 18,13% và 6,81%). Nếu như tính chu kỳ của lạm phát như các năm trước đó, lạm phát năm 2013 và 2014 có thể tăng lên. Những nghiên cứu gần đây về lạm phát ở Việt Nam xoay quanh các nhân tố: CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, sản lượng,giá dầu và giá gạo thế giới. Tổng quan các nghiên cứu đã có về các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam cho thấy: - Hầu hết các nghiên cứu chỉ lấy giá dầu quốc tế (và đôi khi giá gạo quốc tế) làm đại diện cho các nhân tố cung, bỏ qua các nhân tố khác như chi phí sản xuất, giáđôn và các yếu tố cứng nhắc khác. - Hầu hết các nghiên cứu (ngoại trừ Phạm Thế Anh (2009) với số liệu cập nhật đếncuối năm 2008) đều lạc hậu về số liệu và do đó không tính đến những lần lạm phátgia tăng gần đây cũng như cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã dẫnđến một loạt những thay đổi trong môi trường và chính sách vĩ mô. - Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của tiền tệ là trái ngược nhau cóthể là do các giai đoạn nghiên cứu khác nhau, tần suất của số liệu khác nhau vàphương pháp ước lượng khác nhau. - Mặt khác, các nghiên cứu đều khá đồng nhất về vai trò quan trọng của lạm phát trong quá khứ đối với lạm phát hiện tại và vai trò rất nhỏ của tỷ giá và giá cả quốc tế. 2.2 Nguyên nhân gây ra lạ 2.2.1 Lạm phát chi phí đẩy - Giá cả hàng hóa thế g Giá cả hàng hóa thế giảm mạnh do chịu ảnh hư trong những yếu tố khiến cho 2009. Tuy nhiên, kể từ đầu biến (xem Hình) cộng với xuất nhập khẩu trên GDP l của những ngành sản xuất s nước. Hình. Diễn biến giá cả hàng Với tỷ trọng XNK/GDP trên 80%, có thể nói Việt Nam Việt Nam thuộc nhóm các khu vực, cơ cấu chi phí sản ảnh hưởng của mặt bằng không tránh khỏi. Giai đoạn m phát ở Việt Nam trong những năm g iới tăng: giới đã tăng mạnh trong nửa đầu năm ởng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế lạm phát của Việt Nam duy trì ở mứ năm 2010 trở lại đây giá cả hàng hóa việc mức độ mở cửa cao của nền kinh tế ớn hơn 150%) đã khiến chi phí nguyên v ử dụng hàng nhập khẩu tăng lên, tạo áp l hóa thế giới, giá lương thực và giá dầu 2006- 2011 đạt 160% GDP, tỷ lệ nhập khẩu/GDP khá là một nền kinh tế có độ mở cửa lớ nền kinh tế có mức độ phụ thuộc vào nh xuất phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhậ giá thế giới tới giá cả hàng hóa tron 2006 - 2011, chỉ số hàng hóa thế giới chung ần đây 2008 trước khi giới, đây là một c thấp trong năm đã tăng cao đột Việt Nam (tỷ lệ ật liệu đầu vào ực tăng giá trong thô giai đoạn cao ở mức n. Cùng với đó, ập khẩu lớn nhất p khẩu. Do vậy, g nước là điều tăng 132%, giá năng lượng tăng 90,9%, giá lương thực tăng 151,2%; với độ mở cửa nền kinh tế lớn và tỷ lệ nhập khẩu/GDP cao, những biến động về giá thế giới sẽ tác động tới nền kinh tế nước ta trên diện rộng hơn so với các nước. Giá trên thị trường quốc tế tăng tác động đến giá cả trong nước qua hàng hóa nhập khẩu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến giá cả những loại hàng hóa vừa xuất khẩu vừa tiêu thụ trong nước, đặc biệt là hàng hóa nông sản, đã góp phần làm tăng mặt bằng giá chung trong nước. - Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý: Theo các chuyên gia kinh tế, đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mất ổn định các cân đối vĩ mô và đẩy lạm phát tăng cao trong thời gian vừa qua, cụ thể: Một là, chi phí sản xuất của nền kinh tế cao. Chi phí năng lượng cho một đơn vị GDP, mặc dù giảm xuống từ năm 2006 đến 2010, nhưng vẫn tương đối cao so với các nước trong khu vực. Theo thống kê của WB, chi phí năng lượng để tạo ra 01đô la Mỹ GDP của Việt Nam giảm từ 0,119 wat năm 2006 xuống 0,065wat năm 2010, trong khi đó, Trung Quốc giảm từ 0,064 wat xuống 0,041wat, Ấn Độ giảm từ 0,046 wat xuống 0,029 wat, Thái Lan giảm từ 0,027 xuống 0,023. Chi phí vận chuyển cao do kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông còn chưa phát triển. Theo thống kê của WB, chất lượng cơ sở hạ tầng của Việt Nam xếp thứ 66, trong khi đó Trung Quốc xếp thứ 27, Ấn Độ 47, Thái Lan 36. Tiền lương tối thiểu được điều chỉnh tăng trong mấy năm qua phần nào trực tiếp làm tăng chi phí sản xuất, qua đó ảnh hưởng đến CPI. Hai là, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên mở rộng đầu tư, sử dụng nhiều vốn, trong khi hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp. Chỉ số ICOR năm 2008: 6,3; năm 2009: 7,16; năm 2010: 5,61; cao hơn nhiều so với mức 3-4 của các nước trong khu vực. Nguyên nhân của tình hình trên, là do cơ cấu đầu tư đang có xu hướng chuyển dịch và tập trung vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, cung cấp các loại dịch vụ thương mại, khách sạn, bất động sản… đây không phải là những ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh và có độ lan tỏa cao. Trong khi đó, các ngành công nghệ cao có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại lại không đáng kể. Ba là, hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả (trong khi tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khu vực này), làm cho chi phí sản xuất, giá thành và giá vốn tăng cao. Qua báo cáo, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của 81 tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2010 chỉ đạt khoảng 14,2%, thấp hơn nhiều so với lãi suất vay ngân hàng hiện nay. Những hạn chế trong công tác quản lý của khu vực này thể hiện: chưa minh bạch hóa hoạt động và công khai thông tin; chủ sở hữu nhà nước chưa thực sự trở thành một nhà đấu tư; chưa chuyên nghiệp theo kinh tế thị trường; công tác giám sát còn thiếu tách bạch giữa quản lý và điều hành, giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Bốn là, việc đầu tư tràn lan, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao và tạo gánh nặng về vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc triển khai cùng một lúc nhiều chương trình tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và tín dụng chính sách với lãi suất ưu đãi, trong khi hiệu quả đầu tư thấp cũng làm tăng thêm chi phí vốn cho nền kinh tế. - Đồng Việt Nam mất giá so với USD trong nhiều năm qua cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa trong nước, tác động đáng kể đến lạm phát. Trong giai đoạn 2006 - 2010, tỷ giá tăng 21,2%. Với cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong đó xuất khẩu phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ nước ngoài và với tỷ trọng nhập khẩu/GDP cao thì việc đồng Việt Nam mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả trong nước. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh giảm giá trị tiền nội tệ để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cũng phần nào làm tăng giá thành sản xuất, đẩy giá bán lẻ tăng cao. Sự mất cân đối về cán cân thương mại cũng gây thiếu hụt ngoại tệ, tác động đến giá cả, lạm phát trong nước. - Giá vàng thế giới liên tục tăng ở mức hai chữ số kể từ năm 2009 đến nay, cộng thêm yếu tố tâm lý, đầu cơ, đã đẩy giá vàng trong nước tăng mạnh và nhiều thời điểm tăng nhanh hơn tốc độ tăng của giá vàng thế giới (có thời điểm chênh lệch giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới trên 3 triệu đồng/lượng), khiến cho nhu cầu nhập khẩu vàng gia tăng và tạo sức ép lớn lên tỷ giá. Diễn biến này tác động đến tâm lý và lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, dẫn đến lạm phát có xu hướng tăng theo hình xoắn ốc. Với mức tăng 64,32% trong năm 2009, 30% trong năm 2010 và 15,33% trong 8 tháng đầu 2011, giá vàng trong nước đã tác động không nhỏ đến tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam trong những năm qua. 2.2.2 Nguyên nhân về phía tổng cầu - Việc nới lỏng cung tiền và tăng trưởng tín dụng trong một thời gian dài là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao ở nước ta. Tốc độ tăng cung tiền M2 của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2000 - 2010, tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam đạt mức 31,4%, trong khi đó của Trung Quốc là 17,8%, Inđônêxia 13%, Malaysia 8,7%, Thái Lan 6,2%. Do cung tiền tăng nhanh nên tỷ lệ cung tiền M2 trên GDP của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Nếu như năm 2000 tỷ lệ này ở mức dưới 60%, thì đến cuối năm 2010 đã lên đến trên 130%. Trong giai đoạn 2007-2010, M2 của Việt Nam đã tăng 2 lần, trong khi đó, GDP danh nghĩa tăng 1,73 lần và GDP thực tế tăng 1,20 lần. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam cũng luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng bình quân tăng 30,6%/năm. Hệ số dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã tăng từ 40% năm 2000, lên mức 116,14% năm 2010 (gần 3 lần). Ở Trung Quốc, hệ số này tăng 1,23 lần, Thái Lan và Malaysia hầu như không tăng. Chính việc tăng trưởng tín dụng nhanh là nguyên nhân dẫn đến M2 tăng cao. Mặc dù tăng trưởng tín dụng đã giúp tăng mức đầu tư trên GDP từ 29,8% trung bình giai đoạn 1991-2000, lên 40,7% trung bình giai đoạn 2001 - 2010, nhưng không phải toàn bộ lượng tín dụng tăng lên này được đưa vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nhằm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. So sánh giữa tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng cung tiền của các nước trong khu vực cho thấy, lạm phát có xu hướng tăng khi tốc độ tăng cung tiền tăng. Do đó, có thể nói rằng, cung tiền tăng nhanh là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao của Việt Nam trong một thập kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng tiền tệ, tín dụng của Việt Nam thời kỳ 2001-2011 (So với tháng 12 năm trước) Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 8 tháng 2011 Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2) 24,5 21,1 24,0 20,6 23,6 29,7 43,7 20,3 27,5 29,8 9,16 Tăng trưởng tín dụng 23,2 30,4 28,0 26,2 20,5 24,8 53,9 23,4 37,5 31,2 8,85 Tăng trưởng GDP theo giá thực tế 9,0 11,3 14,5 16,6 17,3 16,1 17,4 29,8 11,7 19,4 25,07 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - Bội chi ngân sách từ năm 2006 đến nay luôn ở mức cao trên 5% GDP (trừ năm 2008 đạt 4,6%), gây áp lực lên lạm phát. Trong tổng chi ngân sách, tỷ trọng chi cho đầu tư, chi cho lĩnh vực xã hội luôn ở mức khá cao, nhất là chi cho đầu tư công. Đặc biệt trong giai đoạn 2009 - 2010, nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, đầu tư công tăng rất cao, gây sức ép làm tăng tổng cầu. Đồng thời, để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ phải huy động nhiều hơn nguồn vốn trong xã hội thông qua việc phát hành trái phiếu, tín phiếu Kho bạc. Việc phát hành trái phiếu, tín phiếu này sẽ không tác động làm thay đổi M2 nếu được bán cho công chúng (hộ gia đình và doanh nghiệp). Nhưng thực tế số trái phiếu này hầu hết bán cho tổ chức tín dụng và các tổ chức tín dụng sử dụng để chiết khấu hoặc bán cho Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường mở, theo đó đã trở thành một nhân tố làm tăng M2. 2.2.3 Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Khi nền kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng cao từ năm 2001 tới năm 2006 cùng việc hội nh viên của WTO vào năm 2006, trọng trong điều hành vĩ mô đầu. Có thể nhìn nhận một công cụ chính sách ở nước vô tình làm mất hiệu lực củ Hình 4. Vay nợ Chính Để ổn định kinh tế v CSTK và CSTT, kể cả về th trong vòng 5 năm trở lại đâ cầu này. Chẳng hạn, trong soát lạm phát, song các CS mục tiêu này, mà thậm chí Nam trải qua lạm phát cao theo hướng mở rộng, chi NS cùng kỳ năm trước, trong khi chỉ tăng 3,31% so với cuối ập vào nền kinh thế giới thông qua việc tr thì Chính phủ Việt Nam nên có nhữ , việc bảo đảm ổn định kinh tế- xã hội ph thực tế là những năm qua, việc phối k ta còn khá nhiều vấn đề nổi cộm, thậm chí a nhau nhằm tác động đến các biến số kinh phủ ròng, giá trị nợ ròng và tổng nợ từ năm 2001 ĩ mô thì rất cần một sự phối hợp hài hòa ời điểm và liều lượng của hai chính sách y, điều hành chính sách kinh tế vĩ mô không một số giai đoạn, Chính phủ luôn đặ TT và tài khóa ít gắn kết nhau để hướng lại còn gây trở ngại lẫn nhau. Cụ thể, dù vào nửa đầu năm 2008, Chính phủ vẫn NN đạt 51,8% dự toán chi NSNN, tăng đó CSTT lại được điều hành theo hướ năm 2007. Hệ quả là hệ thống ngân hàng ở thành thành ng bước đi thận ải là ưu tiên hàng ết hợp giữa các chồng chéo, tế vĩ mô. đến 2010 giữa điều hành này. Tuy nhiên, đạt được yêu t mục tiêu kiểm tới thực thi tốt nền kinh tế Việt thực hiện CSTK 26,26% so với ng thắt chặt, M2 Việt Nam chịu áp lực thanh khoản, đẩy lãi suất huy động và cho vay lên cao, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nửa sau năm 2008, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái do hệ quả của CSTT thắt chặt và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, CSTT lại được sử dụng để kích thích nền kinh tế tăng trưởng trở lại, cung tiền tăng tới 20,70% so với cuối năm 2007. Như vậy, trong cùng một năm, lượng tiền trong lưu thông đã bị thu hẹp rồi mở rộng với tốc độ mạnh, khiến cho thị trường tiền tệ và thị trường vốn rơi vào tình trạng căng thẳng, rối loạn. Trong khi CSTT bị sử dụng quá mức để chống lạm phát và suy giảm kinh tế, thì CSTK không có sự điều chỉnh linh hoạt tương ứng. Sự thiếu hiệu quả trong trao đổi thông tin và thực hiện chính sách được đề cập đến như là một nguyên nhân của thực tế này. Hơn nữa, việc Chính phủ phát hành trái phiếu để tăng chi tiêu công đã dẫn tới sự phân bổ vốn không hiệu quả giữa các khu vực trong nền kinh tế; đặc biệt là việc sử dụng vốn trái phiếu chính phủ thiếu hiệu quả tại các tập đoàn kinh tế Nhà nước- nơi vốn dĩ không có sự linh hoạt trong môi trường kinh tế vĩ mô biến động như các doanh nghiệp tư nhân, không thể hiện tốt vai trò là tấm đệm cho nền kinh tế khi nền kinh tế gặp những cú sốc. Ngoài ra, việc tăng cường phát hành trái phiếu Chính phủ còn khiến cho mặt bằng lãi suất của nền kinh tế tăng lên, gây khó khăn cho việc vay vốn duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như làm giảm đi lượng vốn huy động dùng để cho vay của hệ thống ngân hang, khiến hiệu quả điều hành CSTT của NHNN bị hạn chế phần nào. Việc bội chi NSNN ở mức cao (xem hình 4) ngay cả trong thời kỳ có lạm phát cũng đã phần nào làm giảm hiệu quả của CSTK lẫn CSTT khi Chính phủ cần thực hiện các chính sách kìm chế lạm phát. 2.2.4 Một số nguyên nhân khác Ngoài những nguyên nhân như đã nêu, lạm phát của Việt Nam gia tăng còn do: - Trong điều hành chính sách, việc ghìm giữ quá lâu giá của những loại hàng hóa quan trọng như xăng dầu, điện, than… làm thu hẹp không gian chính sách, đến khi buộc phải thực hiện xóa bỏ bao cấp thì lại dồn dập vào một thời điểm, gây hiệu ứng tâm lý, làm giảm hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm phát. - Tình trạng phát triển quá nóng của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, tình trạng đô la hóa, vàng hóa nghiêm trọng, khiến cho một lượng vốn lớn của xã hội không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất hàng hóa để cân đối với với nguồn tiền; đồng thời gây ra những cơn sốt giá và lan tỏa sang giá các mặt hàng khác, góp phần làm tăng lạm phát. - Chính phủ điều chỉnh tăng lương tối thiểu, làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp và lạm phát kỳ vọng: Tiền lương liên tục được điều chỉnh trong những năm qua nhằm bảo đảm điều kiện sinh hoạt cho người lao động, cán bộ, công chức và các đối tượng hưởng lương ngân sách trong bối cảnh lạm phát cao. Bình quân giai đoạn 2006 - 2010, mức lương danh nghĩa của cán bộ, công chức tăng bình quân 16,18%/năm, làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, giá thành…; đồng thời làm tăng thu nhập và thu nhập kỳ vọng, tiêu dùng tăng. Do đó, mặc dù điều chỉnh lương thường diễn ra theo sau lạm phát, nhưng cũng có tác động đến chỉ số giá CPI và mặt bằng giá ở kỳ tiếp theo. - Do yếu tố tâm lý: Yếu tố tâm lý tác động đến giá cả, lạm phát ở nước ta mạnh hơn các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là nguyên nhân có tính lịch sử, do nước ta đã từng rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Khi kinh tế vĩ mô bất ổn, các mục tiêu kinh tế quan trọng không đạt được, phát sinh các biến cố lớn hoặc thông tin chính sách thiếu rõ ràng, thì sẽ làm gia tăng lạm phát kỳ vọng và trở thành lạm phát tâm lý, tức là tình trạng người dân phản ứng một cách thái quá trước những biến động của thị trường và qua đó đẩy lạm phát cao hơn so với mức lạm phát được hình thành do các nhân tố kinh tế. 3. CÁC GIÁI PHÁP KIỀM SOÁT LẠM PHÁT CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 3.1 Một số giải pháp kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ trong ngắn hạn và dài hạn 3.1.1 Các giải pháp trong ngắn hạn - Kiên định điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa chặt chẽ để giảm tổng cầu của nền kinh tế, ổn định giá trị đồng Việt Nam. Kiểm soát tổng phương tiện thanh toán tăng 15 - 16%, tăng trưởng tín dụng dưới 20% và sẽ hiệu quả hơn nếu đạt được mức tăng trưởng tín dụng khoảng 16%. Cần chú trọng điều phối hợp lý lượng tiền tín dụng, tránh tình trạng lượng tín dụng cuối năm tăng cao đột biến. Đối với chính sách tài khóa, kinh nghiệm các nước cho thấy, giải pháp kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn chủ yếu vẫn là chính sách tiền tệ thắt chặt. Tuy nhiên, dư địa để tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ còn rất hạn hẹp, nên việc kiềm chế lạm phát trong thời gian tới sẽ phụ thuộc nhiều vào chính sách tài khóa; trong đó yếu tố then chốt là việc nghiêm túc thực hiện cắt giảm đầu tư công, giảm chi thường xuyên và giảm bội chi ngân sách theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP. - Thực hiện các biện pháp nhằm ổn định tâm lý và cải thiện lòng tin của công chúng đối với chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế lạm phát kỳ vọng. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền và minh bạch hóa các chính sách, đưa ra cam kết chính sách rõ ràng và thực thi chính sách có hiệu quả. - Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu trong những tháng cuối năm 2011, nhất là những mặt hàng hạn chế nhập khẩu hoặc không khuyến khích nhập khẩu. - Tiếp tục lộ trình xóa bỏ tình trạng vàng hóa, đô la hóa, làm giảm sức ép phá giá đồng Việt Nam. Duy trì và phát huy kết quả đạt được trong thời gian qua. 3.1.2 Các giải pháp trong dài hạn Trong dài hạn, giải pháp căn bản để kiềm chế lạm phát là cần kiểm soát tổng cầu đảm bảo tương thích với các cân đối của nền kinh tế, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp để khai thông các nguồn lực nhằm nâng cao sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế cao hơn vào những năm tiếp theo. Một số giải pháp cụ thể: 3.1.2.1 Nhóm giải pháp kiểm soát tổng cầu: - Cần đổi mới việc xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch: Hàng năm, cần có tính toán mức tăng sản lượng tiềm năng để có cơ sở lựa chọn mục tiêu tăng trưởng GDP phù hợp. Mức tăng trưởng của nền kinh tế không nên vượt quá sản lượng tiềm năng nhằm tránh tăng trưởng kinh tế quá nóng, để từ đó làm cơ sở xây dựng mục tiêu tăng trưởng tín dụng, tiền tệ, tài khóa cũng như các cân đối khác của nền kinh tế. - Việc điều hành chính sách tiền tệ phải tạo tín hiệu cho người dân nhận thức rõ Chính phủ sẽ quyết tâm duy trì một tốc độ lạm phát ổn định, qua đó làm giảm lạm phát kỳ vọng của dân chúng, cũng như lạm phát thực tế. Vì vậy, cần chuyển đổi phương thức hoạch định chính sách tiền tệ theo hướng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, để đảm bảo nhiệm vụ ổn định giá cả. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước cam kết duy trì tốc độ lạm phát ở một mức độ nhất định. Điều kiện cần thiết để áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu là: phải xác định rõ vai trò quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước là kiềm chế lạm phát chứ không phải tăng trưởng GDP; Công khai, minh bạch các chỉ tiêu tiền tệ như cung tiền, tín dụng, lãi suất...; Tăng cường năng lực dự báo lạm phát. Hiện nay, các biện pháp kiềm chế lạm phát thường được quyết định khi lạm phát đã cao, khi kỳ vọng về lạm phát của dân chúng đã cao, khiến cho việc kiềm chế lạm phát càng thêm khó khăn. - Chính phủ cần có giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường vốn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp khai thác các nguồn lực xã hội, hạn chế phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng làm gia tăng tín dụng. - Nâng cao hiệu quả đầu tư công, tăng cường phân cấp và kiểm soát kỹ đầu tư công, kể cả vốn ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ và tín dụng nhà nước. Thực hiện cam kết chi đầu tư trong phân bổ vốn đầu tư nhà nước hàng năm nhằm tránh tình trạng phân tán, kéo dài, kém hiệu quả trong các dự án đầu tư. Nâng cao hiệu quả sử dụng và minh bạch hóa Ngân sách Nhà nước. 3.1.2.2 Nhóm giải pháp tái cấu trúc nền kinh tế: - Thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện các chính sách tái cấu trúc nền kinh tế để xử lý những yếu kém cố hữu, hạn chế hiệu quả thực hiện các chính sách tổng cầu và tổng cung, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng cho việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng kinh tế nêu trên. - Thực hiện quyết liệt tái cơ cấu sâu rộng và tổng thể toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cổ phần hóa đi kèm với việc đổi mới và nâng cao chất lượng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện nhanh việc cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế có lợi thế thị trường nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đối với khu vực doanh nghiệp. - Đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa. Hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu đầu vào, do đó chi phí sản xuất và giá trong nước cũng biến động theo giá thế giới và tỷ giá hối đoái. Do đó, cần điều chỉnh cơ cấu sản xuất, chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất. 3.1.2.3 Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền gắn với nâng cao ý thức trách nhiệm, vì cộng đồng của doanh nghiệp và người dân, khắc phục triệt để nguyên nhân lạm phát do yếu tố tâm lý. Từ tháng 6/2011, tốc độ tăng CPI của nước ta đã hạ nhiệt. Tuy nhiên, với mục tiêu tổng quát trong giai đoạn 2011 - 2015 là phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh vừa được Hội nghị trung ương 3 - Khoá XI của Đảng xác định; trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, thì việc xây dựng và thực thi có hiệu quả các giải pháp kiềm chế lạm phát luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn hệ thống chính trị trong năm 2012 và các năm tiếp theo. 3.2 Một số đề xuất của nhóm về các biện pháp kiểm soát lạm phát trong thời gian sắp tới Sau 2 tháng đầu năm 2013, mức tăng trưởng tín dụng đã giảm xuống âm; cả nước có hơn 8 ngàn doanh nghiệp ngừng hoạt động, cao hơn số doanh nghiệp mới thành lập. Diễn biến chung cho thấy rằng, nền kinh tế Việt Nam đang còn nhiều khó khăn ngay từ đầu năm 2013 Những nguyên của lạm phát trong thời gian qua về cơ bản đã được nhận diện, vậy cần phải làm gì để lạm phát trong những năm tới được kiềm giữ ở mức mong muốn nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế vừa phải, nhất là thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế, trong khi những nhân tố làm gia tăng lạm phát có tác động với cường độ mạnh hơn như: Đầu tư toàn xã hội vẫn phải duy trì ở mức cao; tiền lương trong tất cả các khu vực đã tăng cao hơn, giá dầu trên thế giới còn nhiều bí ẩn, và có thể vẫn giữ ở mức cao như hiện nay, thậm chí còn có thể cao hơn hiện nay nếu kinh tế thế giới năm 2013 và những năm sau phục hồi và nhất là tình hình khủng hoảng chính trị trong khu vực Trung Đông và Bắc Phi không được cải thiện. Một số giải pháp kiềm chế lạm phát cụ thể sau: 3.2.1 Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, giải quyết điểm nghẽn nợ xấu, hàng tồn kho. + Chính phủ cần phải tăng cường quản lý các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty mạnh để các doanh nghiệp này tập trung nguồn lực phát triển các ngành nghề chủ lực mà Nhà nước giao. Kiên quyết sắp xếp lại các tập đoàn kinh tế Nhà nước có vấn đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh như trường hợp tập đoàn Vinashin thời gian qua. Nguyên tắc chung là Chính phủ chỉ nên phát triển các tập đoàn Nhà nước trong các lĩnh lực kinh tế trọng yếu của nền kinh tế như: Năng lượng, lương thực, khoáng sản…còn các lĩnh vực khác thì nên để cho các thành phần kinh tế khác hoạt động. Chính phủ nên kiên quyết biến các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước thành các đơn vị kinh tế chủ lực, “các nấm đấm chủ lực” trong việc thực hiện nhiệm vụ ổn định và tăng trưởng kinh tế, tham gia kiềm chế lạm phát khi Chính phủ yêu cầu. Trong thời gian qua, có một thực tế là chính các tập đoàn kinh tế Nhà nước đã góp phần làm gia tăng lạm phát. Đó là trường hợp tăng giá xăng, dầu, giá điện, giá than của các tập đoàn kinh tế Nhà nước không đúng thời điểm. Thay vì để thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát của Chính phủ, các tập đoàn kinh tế Nhà nước này phải giữ giá, thậm chí là phải giảm giá thì họ đã làm ngược lại, tăng giá hàng loạt, làm cho mức giá cả chung trong nền kinh tế càng tăng cao. + Chính phủ cần phải có giải pháp khôi phục và phát triển thị trường vốn, nhất là thị trường chứng khoán. Hiện nay, vốn cho doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng thương mại. Nhưng hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chưa phân biệt được ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư nên vốn dài hạn đầu tư lại do các ngân hàng thương mại cung cấp từ nguồn vốn huy động ngắn hạn. Đây là một bất hợp lý và vô cùng nguy hiểm cho hệ thống ngân hàng thương mại, gây nên tình trạng thiếu thanh khoản cho các ngân hàng vì vốn ngắn hạn đã được cho vay đầu tư dài hạn. Để doanh nghiệp đến với kênh huy động vốn dài hạn thực sự là thị trường chứng khoán và các ngân hàng đầu tư thì nhất thiết Chính phủ phải vực thị trường chứng khoán Việt Nam dậy bằng các biện pháp như: Bơm vốn cho thị trường chứng khoán (Trung Quốc vừa bơm hàng chục tỷ USD để cứu thị trường chứng khoán Trung Quốc đang sụt giảm); cho phép thực hiện các nghiệp vụ phái sinh hiện đại trên thị trường; rút ngắn thời gian thanh toán từ T+4 hiện nay xuống T+0; tăng thời gian giao dịch lên cả ngày thay vì một buổi như hiện nay; xây dựng các bộ chỉ số index phù hợp hơn cho thị trường, phản ánh trung thực diễn biến trên thị trường; Tăng tiêu chuẩn cho các cổ phiếu niêm yết để làm tăng chất lượng sản phẩm cho thị trường; Đẩy mạnh IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn để tăng sản phẩm chất lượng cho thị trường… + Giải pháp xử lý nợ xấu Xử lý nợ xấu trước hết là của các TCTD, Nhà nước chỉ can thiệp khi các TCTD không thể tự xử lý được. Và dù áp dụng bằng hình thức nào (như thu nợ trực tiếp từ khách nợ, bán lại nợ, cơ cấu lại nợ...) cũng phải tôn trọng nguyên tắc thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh tế cho các bên tham gia, đồng thời nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các DN, vì đây là khách hàng của TCTD, bởi vì các TCTD chỉ phát triển, ổn định và có hiệu quả khi các khách hàng của mình hoạt động có lãi. Nhưng xử lý nợ xấu không có nghĩa là cứu cả các TCTD yếu kém, mà đây là một cơ hội loại bỏ các TCTD và ngân hàng yếu kém (giải thể, phá sản, sáp nhập...). Chỉ những TCTD nào có đủ năng lực mới được tồn tại và phát triển. Điều đó có nghĩa là trong giai đoạn hiện nay, xử lý nợ xấu có thể coi là công cụ để tái cơ cấu lại các TCTD, đồng thời ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ hệ thống, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Nhóm giải pháp về phía các TCTD Thứ nhất, đối với các TCTD tính thanh khoán chưa đe dọa sự an toàn của cả hệ thống: Phải tự xử lý thông qua các biện pháp đã và đang làm như: bán nợ, đòi trực tiếp, thanh lý tài sản thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng bù đắp các khoản nợ không thu hồi được, hoặc chuyển nợ thành vốn góp nếu thấy khánh nợ có tương lai phát triển. Thứ hai, đối với các TCTD yếu kém, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản: biện pháp khả thi là sáp nhập, hoặc giải thể. Các tổ chức này đi tìm, hoặc bị sáp nhập một cách cưỡng bức bởi một TCTD đủ mạnh. Nếu không sáp nhập được thì các TCTD này sẽ đặt trong điều kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng bước xử lý các tồn đọng để đi tới giải thể. Do quy mô tín dụng ngày một lớn, bản thân các TCTD phải có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro hoạt động để ngăn ngừa nợ xấu xuất hiện trở lại, như ban hành đầy đủ quy trình cho vay, năng cao năng lực quản trị, điều hành, quản trị rủi ro. Nhóm giải pháp về phía Ngân hàng Nhà nước Phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu của nợ xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD. Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách phân loại nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong các trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng sai chế độ. Đồng thời có cơ chế buộc các TCTD trong một thời gian phải đưa nợ xấu xuống một giới hạn nhất định. Đối với các TCTD có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ thống cũng như nền kinh tế và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi tự giải quyết nợ xấu vẫn còn ở mức cao, sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới hình thức góp vốn nhưng lại được hưởng lãi cố định (như cổ phiếu ưu đãi) và ngân hàng có thể rút vốn về khi tổ chức này đã phục hồi. Nhóm giải pháp về phía Bộ Tài chính Sử dụng DATC như một công cụ quan trọng để xử lý nợ xấu hiện nay. Với nguyên tắc kinh doanh có hiệu quả, DATC mua lại các khoản nợ có tài sản đảm bảo, theo cơ chế thị trường. Việc sử dụng DATC xử lý nợ xấu chỉ có hiệu quả khi hoạt động mua bán nợ gắn với mục tiêu tái cấu trúc DN, tái cơ cấu lại nợ nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh cho các khách nợ. Nguyên tắc này phải được tôn trọng, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi có sự tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế. Để DATC có thể làm được nhiệm vụ này thì việc nâng cao năng lực (tài chính, tổ chức, kỹ năng...) là việc làm cần thiết, như chính sách giảm thuế thu nhập DN cho hoạt động mua bán nợ xấu, giảm thuế giá trị gia tăng cho hoạt động bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, như đào tạo và nâng cao kỹ năng phân tích tài chính, xác định giá trị tài sản thế chấp, kỹ năng xử lý nợ... cho đội ngũ cán bộ chuyên trách. Nhóm giải pháp về phía các DN Nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý, bố trí vốn đúng nguyên tắc, sử dụng vốn có hiệu quả, ổn định lượng tiền mặt cần thiết cho cán cân thanh toán, cân đối hệ số vốn vay trên vốn chủ (D/E) không vươt quá trung bình của ngành, thường xuyên đánh giá thực trạng tài chính DN thông qua các tỷ số tài chính đặc trưng để đưa ra các kiến nghị cảnh báo về tình hình tài chính là giải pháp trước mắt cũng như lâu dài xử lý và ngăn ngừa nợ xấu. Thực hiện tái cơ cấu DNNN (là nhóm khách hàng có số dư nợ lớn nhất của ngân hàng), mà trọng tâm là tái cơ cấu tài chính DN hiện nay đang tiến hành theo đề án mà Chính phủ đã phê duyệt, nhằm nâng cao năng lực của các DNNN được coi là giải pháp tích cực. Xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các TCTD, các ngân hàng phải đi đôi với việc tiến hành tái cơ cấu DN. Không thể tồn tại một hệ thống ngân hàng mạnh trên cơ sở một nền kinh tế có các DN yếu kém. 3.2.2 Chính sách tiền tệ và tài khóa cần tiếp tục thận trọng và linh hoạt Thông qua chính sách tiền tệ để vẫn giữ lãi suất ở mức vừa phải nhằm thúc đẩy đầu tư mà vẫn kiềm chế được mức tổng cầu tiền tệ, nhất là đối với những khoản cầu tiền tệ không cần thiết cho nền kinh tế. Chính sách tiền tệ cần thực hiện một cách linh hoạt và kịp thời theo thực tế diễn biến của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đưa tiền ra và rút tiền về một cách hợp lý sẽ góp phần kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế. Có thể rút kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ của năm 2009, bởi vì, năm 2009, Chính Phủ đã thực hiện một cách thành công các chính sách vừa kiềm chế lạm phát và vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp nền kinh tế phục hồi nhanh sau khủng hoảng. Kết quả là lạm phát năm 2009 được kiềm giữ ở mức 6,52%, trong khi tăng trưởng kinh tế đạt 5,32%, được xem là mức tăng trưởng nhanh trong khu vực lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong năm 2010, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có những điểm hạn chế và gây hệ lụy cho năm 2011 làm cho lạm phát năm 2011 gia tăng đột biến, trong khi lạm phát ở các nước trong khu vực và trên thế giới không tăng cao như ở Việt Nam. 3.2.3 Giảm chi tiêu công của chính phủ + Chính phủ phải đảm bảo kỷ luật ngân sách, kiên quyết giảm dần thâm hụt ngân sách qua các năm. Thâm hụt ngân sách cao qua nhiều năm và sử dụng không hiệu quả các khoản chi tiêu công là nguyên nhân chủ quan dẫn đến lạm phát triền miên trong thời gian qua. Để kiềm giữ lạm phát ở mức một con số, Chính phủ cần kiên quyết cắt giảm các khoản chi tiêu công, nhất là các khoản chi thường xuyên như: Mua sắm xe công, xây trụ sở cơ quan công quyền, kiên quyết cắt giảm biên chế ở các cơ quan công quyền để giảm bớt chi phí nhân sự, đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, giảm bớt chi phí cho hội họp, thông qua phát triển phương thức họp trực tuyến. + Đối với các dự án công cấp thiết như xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, phải xác định những dự án cần triển khai xây dựng ngay, những dự án xây dựng trong những năm sau. Trong triển khai thực hiện các dự án, Chính phủ cần chú ý giải ngân kịp thời, nhằm hạn chế tình trạng gây sức ép tăng giá vào cuối năm khi đầu năm thì chậm hoặc không giải ngân, để đến gần cuối năm mới đẩy mạnh giải ngân làm cho một lượng tiền mặt lớn đi vào lưu thông, tác động làm tăng giá mạnh vào cuối năm. Chính phủ nên kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu của chính phủ trên tinh thần sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn ngân sách, tránh lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản. Để đạt yêu cầu này Chính phủ cần tập trung phát huy chức năng của đội ngũ các bộ phận hoạch định dự án, phân bổ nguồn vốn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án thuộc Chính phủ. Chính phủ nên tập trung chú ý đến quản trị tài chính công, tránh vết xe đổ của khủng hoảng nợ công của Chính phủ Hy Lạp và một số nước khác ở Châu Âu. 3.2.4 Mở rộng lãi suất ở mức hợp lý Về điều hành lãi suất. Lãi suất là giá cả của vốn, là chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Việc điều hành lãi suất phải linh hoạt, vừa đảm bảo kiểm soát lạm phát vừa kích thích tăng trưởng kinh tế. Năm 2011, lãi suất quá cao nhưng cũng không kiềm giữ mức lạm phát ở mức thấp như mong muốn, điều đó cho thấy mức lãi suất cao đã đẩy chi phí tăng cao. Do đó, trong năm 2013 và những năm tiếp theo phải điều hành lãi suất theo hướng giảm dần lãi suất để thúc đẩy sản xuất, tạo ra nhiều hàng hóa với giá thành hạ sẽ tạo điều kiện kéo giảm giá cả thị trường xuống và tác động giảm lạm phát. Ngân hàng nhà nước cần thực hiện ngay chính sách trần lãi suất cho vay để giúp giảm chi phí tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cần thực hiện uốn dòng vốn vào kênh sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều hàng hóa dịch vụ cho nền kinh tế, tạo thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống kinh tế - xã hội. 3.2.5 Kiểm soát giá + Chính phủ cần tăng cường năng lực của bộ máy dự báo để dự báo chính xác sự biến động giá cả trên thị trường thế giới, nhất là giá cả của các mặt hàng chiến lược như xăng, dầu, sắt, thép, lương thực, thực phẩm….để kịp thời điều chỉnh giá trong nước, tránh tình trạng phải đối phó bị động như trong năm các năm qua. Tập trung toàn bộ lực lượng quản lý, điều chỉnh giá cả một cách nhanh nhạy, bằng các biện pháp hành chính lẫn biện pháp kinh tế đối với giá cả thị trường. Chống đầu cơ nâng giá đối với mọi khu vực kinh tế, kể cả kinh tế nhà nước. + Chính phủ cần thay đổi cơ chế kiểm soát giá, nên có cơ quan quản lý giá của Nhà nước đối với các hàng hóa cơ bản như: Điện, xăng dầu, lương thực, thực phẩm…Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm soát, điều hành mặt bằng giá cả của các hàng hóa cơ bản dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. Đây là cơ quan tham mưu cho Chính phủ trong việc tăng, giảm giá các mặt hàng cơ bản chứ không phải giao cho Bộ Công thương hay Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ này như hiện nay. Có thể gọi đây là Ủy ban Giá cả thuộc Chính phủ như Ủy ban Vật giá trước đây. 4. XU HƯỚNG LẠM PHÁT NĂM 2013 VÀ SO SÁNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 4.1 Xu hướng lạm phát năm 2013 Tốc độ lạm phát năm 2012 dưới 7% là yếu tố thuận lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế song yếu tố ổn định của lạm phát còn chưa cao, lạm phát cơ bản vẫn cao, áp lực lạm phát từ các nhân tố tác động chính yếu có khả năng giảm nhẹ song áp lực đó có thể trỗi dậy nếu như Chính phủ thực hiện các chương trình hỗ trợ, kích thích tăng trưởng thông qua chính sách tài khoá và tiền tệ với một liều lượng không hợp lý và không hiệu quả. Chính vì thế, cần thiết phải thực hiện hiệu quả các giải pháp ngắn hạn đồng thời vẫn phải chú trọng tạo nền tảng vững chắc để thực hiện các giải pháp trong dài hạn trên cơ sở các nguyên tắc nên tảng đảm bảo mối quan hệ bền vững giữa tăng trưởng và lạm phát. Diễn biến lạm phát của Việt Nam trong 10 năm trở lại đây cho thấy việc dự báo lạm phát là rất khó khăn, biến động khó lường, một phần là do tác động của sự biến động hàng hóa thế giới, nhưng quan trọng hơn là các chính sách vĩ mô và các chính sách quản lý giá cả một số mặt hàng thiết yếu thiếu ổn định. Bên cạnh đó hệ thống phân phối hàng hóa chưa phát triển, nhiều khi gây ra những cú sốc về giá hàng hóa một số mặt hàng do thiếu cung một cách giả tạo. Tuy nhiên, có thể dự báo một số các nhân tố có thể tác động đến CPI năm 2013 như sau: Giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá lương thực thực phẩm vẫn tiếp tục có xu hướng gia tăng (nếu kinh tế thế giới đi theo kịch bản phục hồi), trong khi đó giá cả của nhóm hàng này ở trong nước hiện đang trong chu kỳ tăng giá của dịp lễ tết cuối năm, và đặc biệt là khi các kênh nhập lậu qua biên giới đã bị kiểm soát chặt chẽ; tín dụng có khả năng phục hồi trở lại; quá trình giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn Chương trình mục tiêu quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ đang được xúc tiến mạnh mẽ (theo tinh thần của Nghị quyết số 67/NQ-CP). Bên cạnh đó, Chính phủ còn yêu cầu các Bộ, ngành địa phương tăng cường tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo tinh thần Nghị quyết số 13/NQ-CP của Chính phủ; Các chương trình giải cứu thị trường bất động sản chủ yếu thông qua các giải pháp tài chính đang và sẽ diễn ra tích cực trong năm 2013; Và theo phân tích diễn biến các chỉ số PMI - purchasing management index, cũng như các chỉ số sản lượng của HSBC cho thấy đầu tư đang có xu hướng phục hồi. Mức sản lượng đang dần cải thiện. Tương tự, chỉ số việc làm và số lượng hàng mua đã tăng dần lên mức 50 điểm, chứng tỏ hoạt động sản xuất đã có xu hướng gia tăng. Thêm vào đó, việc xuất khẩu tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái là một tín hiệu tích cực. Tất cả những dấu hiệu trên chứng tỏ đầu tư phục hồi sẽ là một tín hiệu giúp gia tăng tổng cầu nền kinh tế -song nếu không kiểm soát chặt chẽ làm xuất hiện sản lượng đáng kể thì sẽ tạo ra áp lực lên lạm phát. Ngoài ra, việc các nền kinh tế lớn đẩy mạnh việc cung tiền để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế có thể làm cho lạm phát thế giới gia tăng tác động tới sự ổn định của giá cả trong nước... Tóm lại, diễn biến giá cả, thị trường của năm 2012 tương đối ổn định. Diễn biến lạm phát hiện tại được xem là một thuận lợi để có thể hoàn thiện hơn công tác phòng, chống, kiểm soát lạm phát. Hơn nữa, những yếu tố tạo áp lực lên lạm phát vẫn còn tiềm ẩn, vì thế, trong năm 2013 các quyết sách điều hành vẫn cần thiết phải đảm bảo thận trọng, linh hoạt và tăng cường sự phối hợp chặt chẽ. Trên cơ sở dự báo những nhân tố tác động lên diễn biến lạm phát ở trên kết hợp với yếu tố thời vụ và kết quả dự báo định lượng mô hình VAR (mô hình dự báo lạm phát trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế, cung tiền, lãi suất và tỷ giá ngoại tệ, với giả thiết các giải pháp chính sách kinh tế vĩ mô thực hiện có hiệu quả, đồng bộ như chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội năm 2013) cho thấy lạm phát sẽ có khả năng tăng trong tháng 1, tháng 2 và tốc độ tăng sẽ giảm nhẹ trong tháng 3 và quý II/2013 và chỉ bắt đầu tăng trở lại từ quý III/2013. 4.2 So sánh lạm phát ở Việt Nam với một số nước trên thế giới Theo thống kê của Trading Economics vào năm 2011, trong 70 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới hiện này thì Venezuela là nền kinh tế có mức lạm phát cao nhất với mức 29.6%. Việt Nam “về nhì” trong bảng xếp hạng này. Nền kinh tế có mức lạm phát đứng thứ 3 là Mozambique với mức 15.23%. Xu thế lạm phát trên thế giới đang tăng mạnh khi giá cả nguyên vật liệu và năng lượng tăng do kinh tế thế giới phục hồi và các bất ổn tại Bắc Phi. Ngoài ra, còn do nhiều quốc gia bơm tiền để chống suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, mức tăng quá cao như lạm phát ở Việt Nam là một điều hiếm có. Theo thống kê của Trading Economics, trong 70 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới hiện này thì Venezuela là nền kinh tế có mức lạm phát cao nhất với mức 29.6%. Nếu lạm phát của Việt Nam trong tháng 4/2011 trên 1.2% thì chắc chắn sẽ “về nhì” trong bảng xếp hạng này. Nền kinh tế có mức lạm phát đứng thứ 3 là Mozambique với mức 15.23%. Hầu hết các quốc gia láng giềng tại châu Á chỉ có lạm phát từ 0-6%, tức là thấp hơn nhiều so với Việt Nam. So sánh với Trung Quốc: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam và Trung Quốc Tại Trung Quốc, tính đến hết tháng 3/2011 lạm phát của nước này là 5.4%. Đây là một mức không cao nếu so với Việt Nam nhưng đã trở thành một vấn đề rất nghiêm trọng đối với quốc gia này. Trung Quốc đã đồng loạt thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ, tài khóa và bình ổn giá để kiềm chế lạm phát. Trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn Trung Quốc, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam lại luôn thấp hơn Trung Quốc: Điều này chứng tỏ Việt Nam sử dụng đồng vốn kém hơn Trung Quốc vì in nhiều tiền mà lại tăng trưởng thấp. Lạm phát vẫn là mối lo ở nhiều nước đang phát triển Trong báo cáo "Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2013", Liên Hợp Quốc (LHQ) cảnh báo dù lạm phát có xu hướng giảm trên thế giới, song đây vẫn là vấn đề đáng quan ngại ở một số nước đang phát triển trong năm tới. Tại châu Phi, tỷ lệ lạm phát vẫn trên 10% ở Angola, Nigeria và một số nơi khác. Lạm phát được dự đoán không thể giảm ở hầu hết các nước trong khu vực Đông Á, thậm chí còn là vấn đề đáng lo ngại ở đa số các nước khu vực Nam Á. Tại những nước này, tỷ lệ lạm phát trung bình trên 11% trong năm nay và dự kiến vẫn ở mức trên dưới 10% trong năm 2013 và 2014. Ấn Độ từng chứng kiến lạm phát cao kỷ lục trong tháng 10/2012, khi đó, chỉ số giá bán buôn – thước đo lạm phát chính của Ấn Độ tăng 7,4% trong tháng 10 so với cùng kỳ năm ngoái. Sau đó, lạm phát của nước này đã bất ngờ giảm xuống 7,24% trong tháng 11. Gần đây, Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) Châu Tiểu Xuyên nhận định rằng lạm phát sẽ là một loại rủi ro dài hạn và chủ yếu đối với người dân Trung Quốc khi nước này đang “hạ cánh mềm” và có sự chuyển giao quyền lực lãnh đạo đất nước cho thế hệ mới. Sau hai năm PBOC cố gắng giữ cho tỷ lệ lạm phát không vượt quá 4%, trong tháng 10 vừa qua, tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc đã giảm nhẹ, còn 1,7% so với 1,9% trong tháng trước đó. Singapore hiện được biết đến là một trong số những nước có tỉ lệ lạm phát tăng cao nhất trong số các quốc gia phát triển. Lạm phát của hòn đảo này đã có lần vượt quá 4% mỗi tháng kể từ tháng 11/2010, tăng hơn gấp đôi so với mức trung bình 1,9% trong hai thập kỷ qua. Nguyên nhân được cho là chi phí nhà ở, kinh doanh cùng với giao thông tăng cao. Theo báo cáo của LHQ, tại hầu hết các nền kinh tế trong khu vực Tây Á, tỷ lệ lạm phát nhìn chung khá thấp, song ở Yemen vẫn ở mức cao (10%) và rất cao (30%) ở Syria. Tỷ lệ lạm phát ở khu vực Mỹ Latinh và Caribe dự kiến khoảng 6%. Lạm phát ở các nước phát triển giảm Tỷ lệ lạm phát nhìn chung đều giảm ở hầu hết các nước phát triển. Tại Mỹ, lạm phát đã giảm từ 3,1% năm 2011 xuống 2% năm nay và dự kiến chỉ ở mức vừa phải trong năm 2013. Tại Khu vực đồng Euro (Eurozone), lạm phát cơ bản, không tính những mặt hàng dễ biến động như năng lượng, lương thực, rượu và thuốc lá, sẽ thấp hơn, khoảng 1,5%. Tại Nhật Bản, tình trạng giảm phát vẫn bao trùm, mặc dù ngân hàng trung ương nước này đã đưa ra một số biện pháp cần thiết. Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do (LDP) Nhật Bản Shinzo Abe, người sẽ trở thành thủ tướng sau chiến thắng áp đảo của đảng này trong cuộc bầu cử hạ viện ngày 16/12, đã yêu cầu Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) Masaaki Shirakawa tìm cách đạt lạm phát 2% cho chỉ số giá tiêu dùng khi họ gặp nhau ngày 18/12, chỉ một ngày trước cuộc họp chính sách của BOJ. LDP đã cam kết trong cương lĩnh tranh cử rằng sẽ cố gắng đạt mục tiêu lạm phát 2% và mức tăng trưởng kinh tế danh nghĩa 3%. Lạm phát của các nước OECD giảm Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ngày 9/1 công bố báo cáo cho hay tỷ lệ lạm phát trung bình của các nước công nghiệp phát triển thuộc tổ chức này trong tháng 11/2012 ở mức 1,9%, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước, nhờ giá dầu mỏ dịu xuống. Theo OECD, giá dầu mỏ thế giới chỉ tăng 2,9% trong tháng 11/2012, sau đạt mức tăng 5,4% vào tháng 10. Ngoài ra, lạm phát giá lương thực của các nước thành viên OECD chỉ tăng khiêm tốn 2,2% trong tháng trên, so với mức tăng 2,1% trong tháng 10. Nếu không tính tới sự biến động của giá các loại lương thực và giá năng lượng, tỷ lệ lạm phát trung bình của 34 nền kinh tế thuộc OECD gần như không thay đổi tháng thứ tư liên tiếp trong tháng 11 vừa qua, và ở mức 1,6%. OECD cho biết việc tỷ lệ lạm phát hạ xuống có thể tạo điều kiện cho các ngân hàng trung ương có thêm lý do để tiếp tục hoặc tăng cường các biện pháp kích thích kinh tế. Điều này càng được chú ý hơn khi mà vào ngày 10/1 này, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng trung ương Anh (BoE) sẽ có các cuộc họp quan trọng bàn về chính sách. Báo cáo của OECD cho biết thêm tỷ lệ lạm phát của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) trong tháng 11/2012 ở mức 2,2%, thấp hơn mức tương ứng 2,5% trong tháng trước đó. Trong khi tại Mỹ, tỷ lệ lạm phát cũng hạ từ 2,2% xuống 1,8%, còn tại Anh, tỷ lệ lạm phát vẫn duy trì ổn định ở mức 2,7%. Ngoài các nền kinh tế thuộc OECD, tỷ lệ lạm phát tháng 11/2012 tại các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc và Brazil lần lượt ở các mức 9,5%, 2% và 5,5%. DANH SÁCH NHÓM 1/ Nguyễn Minh Khánh 2/ Võ Lý Thị Nhị Nương 3/ Đỗ Thanh Sơn 4/ Nguyễn Hữu Tiến 5/ Trần Minh Phương 6/ Quách Đạo Quang 7/ Ninh Ngọc Hải 8/ Phạm Minh Quân 9/ Thái Ngọc Châu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfktvm_lamphat_nhom_6_5371.pdf
Luận văn liên quan