ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ĐỀ TÀI
Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO một cánh cửa mới
đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam, bắt đầu những nỗ lực lớn hơn và khó khăn nhiều hơn bội phần. Đặc biệt
là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam sẽ bước vào “sân chơi” hoàn toàn mới. Ở sân
chơi quốc tế với “luật chơi” công bằng hơn sẽ làm cho hệ thống NHTM Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội
và thách thức lớn.
An ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM không phải là một khái niệm hoàn toàn mới, nhất là
an ninh tài chính trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Liệu rằng các NHTM Việt
Nam có giữ vững được an ninh tài chính đối với hoạt động của mình trong giai đoạn hội nhập hay
không ? Một vấn đề đặt ra cho toàn ngành ngân hàng Việt Nam. Mỗi chiến lược đảm bảo an ninh tài
chính phải thực sự là vấn đề sống còn của chính họ. Nó phải chặt chẽ, mang tính đặc thù và phải có tầm
nhìn chiến lược phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Có như vậy NHTM Việt Nam mới có thể tự
khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc gia và quốc tế. Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước
là mục tiêu xuyên suốt và lâu dài hiện nay.
Xuất phát từ những phân tích trên, đề tài: “An ninh tài chính đối với hoạt động của ngân hàng
thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập” sẽ giúp các NHTM Việt Nam tìm ra giải pháp cho NH
mình trong bối cảnh hội nhập. Chủ yếu là thực trạng huy động vốn và cho vay trước thềm hội nhập kinh tế
đồng thời đề ra các giải pháp cơ bản cho vấn đề này. Ngoài ra, đề tài còn có một số giải pháp khác để đảm
bảo an ninh tài chính cho hoạt động của NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
2. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với ngân hàng thương mại Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề chung cơ bản của ngân hàng thương mại, các quy chế hoạt động
của NHTM để đi vào nghiên cứu những vấn đề có thể tác động đến an ninh tài chính của NHTM trong
tiến trình hội nhập từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo an ninh tài chính đối với các NHTM hiện nay.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử , phương pháp thống kê, phương pháp quan sát lịch sử .Phương pháp phân tích so sánh tổng hợp đi
từ trừu tượng đến cụ thể và kết hợp với kiến thức các môn học và số liệu từ NHTM , sử dụng kinh nghiệm
của các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tiền tệ – ngân hàng , những tài liệu trong và ngoài nước đã giúp cho
đề tài được phong phú , mở rộng và thể hiện tính thiết thực hơn của đề tài.
50 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2735 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài An ninh tài chính đối với hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o tín dụng
trong các nhận định cấp tín dụng. Đồng thời, ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin và phân tích thông
tin toàn diện, cung ứng nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy cho các bộ phận chuyên môn có liên quan.
Sự hợp tác một cách toàn diện giữa các ngân hàng trong xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin về
doanh nghiệp, về ngành là con đường ngắn nhất để hoàn thiện hệ thống thông tin và giảm chi phí khai thác
thông tin một cách hợp lý nhất.
Nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thực
hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách
khách hàng về giới hạn tín dụng, áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín dụng
với từng khách hàng.
Ngành Ngân hàng Việt Nam đang ở chặng đường đầu của sự phát triển, cần có nhiều đổi mới và phát
triển để đạt được những chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu và ứng dụng có chọn lọc
những kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là con đường ngắn nhất để thực hiện mục
tiêu này. Nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu có thể xem là một trong những cơ sở nền tảng khi xây dựng
mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại Việt Nam để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và phục vụ cho sự phát triển
kinh tế đất nước.
34
3.3.4 Các phương pháp đo lường rủi ro theo Basel 2 và khả năng áp dụng tại Việt Nam
Về bản chất, Basel 2 chỉ đơn thuần làm tinh xảo hơn cách thức đo lường và tính toán những rủi ro này
nhằm giúp các ngân hàng quản lý rủi ro. Ngoài rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã được qui định tại Basel
1, Basel 2 bổ sung thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro hoạt động (rủi ro xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ
thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận hành không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên
ngoài. Đây là một trong những rủi ro trầm trọng mà ngân hàng thường phải đối mặt trong quá trình hoạt
động).
Theo Basel 2, các phương pháp đo lường rủi ro bao gồm:
a. Các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng
Phương pháp chuẩn hóa: phụ thuộc vào đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập;
Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ cơ bản: Các ngân hàng đưa ra những khoản rủi ro
ngầm định;
Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ tiên tiến: Các ngân hàng đưa ra một loạt thông tin
đầu vào về rủi ro.
b. Các phương pháp đo lường rủi ro thị trường
Phương pháp chuẩn hóa: Do cơ quan quản lý ngân hàng thiết lập;
Phương pháp sử dụng các mô hình nội bộ: Các ngân hàng áp dụng các mô hình nội bộ.
c. Các phương pháp đo lường rủi ro hoạt động
Phương pháp dùng chỉ tiêu cơ bản: Một chỉ tiêu áp dụng cho một qui định;
Phương pháp chuẩn hóa: Nhiều chỉ tiêu áp dụng cho một qui định;
Phương pháp đo lường nội bộ nâng cao (AMA): Các ngân hàng áp dụng các mô hình nội bộ.
Trong phương pháp đo lường rủi ro họat động thì phương pháp chỉ số cơ bản và phương pháp chuẩn hóa
chủ yếu áp dụng đối với những ngân hàng không phải đối mặt với mức độ rủi ro lớn về hoạt động do nội
dung hoạt động hay do phạm vi hoạt động. Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp chuẩn hóa, ngân hàng phải
có hệ thống quản lý rủi ro hoạt động đáp ứng đầy đủ những yêu cầu tối thiểu qui định tại Basel 2.
Cả hai phương pháp đều đòi hỏi ngân hàng phải duy trì số lượng vốn tương ứng với một tỉ lệ phần trăm
nhất định so với tổng giá trị rủi ro hoạt động xác định được.
Theo phương pháp chỉ số cơ bản, để tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo đối với rủi ro hoạt động,
ngân hàng lấy tổng thu nhập bình quân hàng năm trong 3 năm gần nhất nhân với 0,15 (hệ số này do Ủy ban
Basle qui định, thể hiện tương quan giữa mức vốn tối thiểu chung của toàn hệ thống với mức chỉ số chung
của toàn hệ thống).
Vốn tối thiểu cần đảm bảo Tổng thu nhập bình quân X 0.15
đối với rủi ro hoạt động 3 năm gần nhất
35
Tổng thu nhập này bằng thu nhập thuần từ tiền lãi cộng với thu nhập thuần không phải từ tiền lãi, là thu
nhập trước khi trích lập dự phòng, không bao gồm các khoản lỗ/lãi thu được từ kinh doanh chứng khoán,
bảo hiểm và các khoản thu nhập bất thường.
Theo phương pháp chuẩn hóa, các nội dung hoạt động của ngân hàng được chia thành 8 lĩnh vực. Theo
đó, ngân hàng sẽ tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo cho từng lĩnh vực kinh doanh bằng cách nhân
thu nhập thuần từ lĩnh vực kinh doanh đó với các hệ số tương ứng theo qui định của Ủy ban Giám sát ngân
hàng thuộc BIS :
Lĩnh vực kinh doanh Hệ số (%)
Tài trợ doanh nghiệp 18
Các hoạt động mua bán 18
Hoạt động ngân hàng bán lẻ 12
Hoạt động ngân hàng thương mại 15
Thanh toán 18
Dịch vụ đại lý 15
Quản lý tài sản có 12
Môi giới bán lẻ 12
Lượng vốn tối thiểu đối với rủi ro hoạt động của toàn ngân hàng sẽ bằng tổng vốn tối thiểu của từng lĩnh
vực kinh doanh.
Đối với phương pháp đo lường nâng cao, mức vốn tối thiểu ngân hàng cần duy trì sẽ tương đương với
mức rủi ro mà ngân hàng tính toán được bằng hệ thống đo lường rủi ro hoạt động nội bộ của ngân hàng. Tuy
nhiên, để áp dụng phương pháp này, một ngân hàng phải đảm bảo các tiêu chuẩn định tính và định lượng do
Ủy ban đề ra và phải được cơ quan thanh tra giám sát chấp thuận.
Basel 2 cho phép TCTD sử dụng các phương pháp nội bộ để tính toán các yêu cầu về vốn đối với rủi ro
tín dụng và rủi ro hoạt động, nhưng cũng qui định các TCTD phải công bố thông tin đầy đủ cho các thành
viên tham gia thị trường, giúp các thành viên tham gia thị trường hiểu biết về mối quan hệ giữa danh mục
rủi ro và vốn của một ngân hàng cũng như sự lành mạnh của nó so với các thành viên tham gia thị trường.
Công bố thông tin phải phản ánh được tình hình tài chính của ngân hàng, trong đó yêu cầu đầu tiên là đủ
vốn và sau đó là các danh mục rủi ro tương ứng nhằm đảm bảo tính minh bạch và bình đẳng trong cạnh
tranh và giảm thiểu rủi ro hệ thống, góp phần củng cố sự lành mạnh và an toàn cho hệ thống ngân hàng và
thị trường tài chính.
Vấn đề áp dụng Basel 2 tại Việt Nam
Mặc dù sau năm 2010 Việt Nam mới áp dụng Basel 2, nhưng Basel 2 đã ảnh hưởng lớn đến các NHTM
Việt Nam, nhất là yêu cầu về quản lý rủi ro. Việc áp dụng Basel 2 đòi hỏi chi phí khá cao, các TCTD phải
sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, bao gồm các qui trình, thủ tục và công nghệ thông tin để đánh
36
giá khách hàng với mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Vì thế, mức rủi ro của các ngân hàng lớn có thể giảm,
nhưng của các ngân hàng nhỏ và yếu kém có thể tăng lên. Khi đó, các ngân hàng nhỏ sẽ chịu chi phí đầu
vào tăng, nên lãi suất đầu ra sẽ tăng hoặc chênh lệch lãi suất thấp hơn, gây ảnh hưởng bất lợi đến lợi nhuận
của ngân hàng. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải hợp nhất hoặc sáp nhập để hạn chế rủi ro. Điều
này dường như đã được các NHTM Việt Nam xác nhận và nhiều ngân hàng đã xây dựng chiến lược kinh
doanh riêng, trong đó chú trọng mở rộng qui mô về vốn và loại hình dịch vụ theo hướng sáp nhập thành
ngân hàng lớn hơn và liên doanh, liên kết với các ngân hàng nước ngoài.
Riêng đối với phương pháp đo lường nâng cao, phần lớn các NHTM Việt Nam chưa đáp ứng được các
tiêu chuẩn định tính và định lượng do Ủy ban Giám sát ngân hàng thuộc BIS đề ra, nên việc áp dụng
phương pháp này đòi hỏi phải có thời gian. Trong khi hoạt động ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đáng lo
ngại do hệ thống quản trị điều hành và quản trị kinh doanh của các NHTM còn nhiều yếu kém, các ngân
hàng cần thường xuyên đánh giá thực trạng tình hình tài chính để kịp thời có biện điều chỉnh và can thiệp
cần thiết, qua đó có thể ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro.
3.4. THIẾT LẬP VÀ CỦNG CỐ CÁC QUĨ BẢO ĐẢM AN NINH TÀI CHÍNH
3.4.1 Dự trữ bắt buộc ( DTBB):
DTBB vào lượng tiền cung ứng và năng lực cấp tín dụng ra nền kinh tế của hệ thống ngân hàng của một
quốc gia là một khoản thuế vô hình mà NHTW có quyền sử dụng để đánh vào nguồn vốn huy động của
NHTM nhằm kiểm soát hệ số nhân tiền thông qua lượng tiền cung ứng. Vì vậy, đây là một công cụ hành
chính trực tiếp. Bằng nghiệp vụ của mình, NHTW hoàn toàn có thể gián tiếp tác động có hiệu quả rõ rệt và
“lập tức” vào cấu trúc tổng năng lực cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng ra nền kinh tế để tham gia vào
việc điều tiết và kiểm soát lạm phát.
Theo quyết định số 187/QĐ-NH ngày 16/01/2008 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc điều
chỉnh dự trử bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng quy định như sau:
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ hạn
< 12 tháng
>12 tháng Không kỳ hạn
< 12 tháng
>12 tháng
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm
NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính
11% 5% 11% 5%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
8% 4% 10% 4%
37
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác,
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
4% 4% 10% 4%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ
bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ
sở, Ngân hàng Chính sách xã hội
null% null% Null% null%
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong thời gian qua, đặc biệt là vào thời gian cuối 2007, 6 tháng đầu năm 2008 tình trạng lạm phát trên
thị trường Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng ở mức đáng báo động (đến nay là 22%), NHNN đã phải
sử dụng đồng bộ các giải pháp chống lạm phát như: tăng lãi suất tái cấp vốn, tăng DTBB và phát hành tín
phiếu bắt buộc đối với bộ phận lớn các NHTM cho vay trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, tiêu dùng (gồm
41 NHTM, ngoài khu vực dịch vụ cho nông dân, vùng sâu, vùng xa). Trong số các giải pháp trên, việc tăng
DTBB và tăng lãi suất tái cấp vốn là những nghiệp vụ quan trọng và mang tính phổ biến của NHTW nói
chung và NHNN VN nói riêng. Các giải pháp này khẳng định quyền lực và trách nhiệm trực tiếp của NHNN
đối với việc bảo vệ giá trị sức mua của đồng tiền do NHNN phát hành ra với tư cách là NHTW.
3.4.2 Bảo hiểm tiền gửi
a. Bảo hiểm tiền gửi (DIV).
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG và
người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia
BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
b. Lợi ích DIV mang lại cho các NHTM khi tham gia BHTG.
- DIV góp phần củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với tổ chức tham gia BHTG (NHTM), góp phần
thúc đẩy việc huy động tiền gửi cho đầu tư phát triển, tăng cường uy tín của các tổ chức tham gia BHTG và
tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng phát triển bền vững.
- Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ giám sát an toàn tài chính - ngân hàng quốc gia, thực hiện kiểm soát
rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG bằng các hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, DIV góp
phần thúc đẩy quá trình củng cố, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức tham gia BHTG.
- DIV thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG có khó khăn tạm thời về
tài chính tránh nguy cơ đổ vỡ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống
tài chính- ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế- xã hội.
3.4.3 Dự phòng rủi ro
Quyết Định 493 yêu cầu trích lập hai loại dự phòng là dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng
chung cho tất cả các khoản nợ của mình bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo
cách phân loại tại Quyết Định 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về phân loại tỷ lệ
nợ. TCTD không phải là NHTM nhà nước phải thực hiện ngay việc trích lập dự phòng cụ thể theo quy định
38
nhưng chỉ phải trích lập đủ số tiền dự phòng chung trong thời gian 5 năm kể từ ngày quyết định 493 có hiệu
lực thi hành (ngày 15 tháng 5 năm 2005).
Tỷ lệ trích lập và công thức tính dự phòng cụ thể
Theo các quy định trước đây, số tiền dự phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích dự phòng nhân với tài sản có
từng nhóm. Trong khi đó, Quyết Định 493 đưa ra công thức tính số tiền dự phòng hoàn toàn mới khác với
cách tính dự phòng quy định tại các quy định trước đây như sau:
R = max {0, (A-C)} x r
Trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với phần trăm do QĐ 493 quy định đối với TS bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Như vậy, số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng,
mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần
trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực
tế không phải lập dự phòng cho khoản nợ đó.
Cần lưu ý giá trị tài sản bảo đảm "ghi trên hợp đồng bảo đảm" sẽ là căn cứ để tính số tiền dự phòng cụ
thể cho phần lớn các loại tài sản bảo đảm (về cơ bản trừ vàng và các loại chứng khoán). Vì giá trị tài sản bảo
đảm ghi trên hợp đồng không được dùng để xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không trả được nợ, nên
trên thực tế các ngân hàng thường quy định giá trị danh nghĩa trong hợp đồng bảo đảm.
Sử dụng dự phòng
Dự phòng rủi ro được sử dụng trong trường hợp khách hàng bị giải thể, phá sản hoặc chết hoặc mất tích.
Dự phòng cũng được dùng để xử lý rủi ro ngay khi các khoản nợ được xếp vào nhóm 5. Việc sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro được thực hiện theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ trước,
phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mại tài sản không đủ bù đắp thì mới được sử
dụng dự phòng chung.
3.5 XÂY DỰNG MỐI LIÊN HỆ THÔNG TIN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI
NHAU VÀ GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH KHÁC
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO thì càng có thêm nhiều ngân
hàng nước ngoài ,chi nhánh ngân hàng nước ngoài ra đời tạo sức ép cạnh tranh cho các ngân hàng nội địa .
Vì vậy các tổ chức tín dụng nên có biện pháp cùng nhau xây dựng mối liên hệ thông tin; xây dựng mối liên
hệ giữa các ngân hàng thương mại với nhau, giữa các ngân hàng với các định chế tài chính khác để nâng cao
năng lực tài chính cũng như năng lực canh tranh trên thị trường. Làm được điều này sẽ giúp các TCTD ở
những khía cạnh: có được những thông tin tốt về nhìn nhận đánh giá các khách hàng đúng đắn hơn; ngăn
ngừa sự ham muốn mưu lợi bất chính của khách hàng; nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của các TCTD với
nhau; tăng mối đoàn kết trong cộng đồng TCTD, việc này cho đến nay vẫn chưa được nhìn nhận một cách
39
thấu đáo, thậm chí đã có một số bộ phận giữa các TCTD với nhau gây tai tiếng cho nhau để cạnh tranh
không lành mạnh, gây tổn thương sự ổn định của cả hệ thống NHTM; tạo thêm năng lực cạnh tranh khi Việt
Nam gia nhập WTO, làm thống nhất trong một số nghiệp vụ cho vay hay chính sách tín dụng hoặc chính
sách lãi suất nhằm giảm bớt sự biến động không nên có trên thị trường tài chính tiền tệ; tạo niềm tin cho
khách hàng khi bước chân đến bất cứ một TCTD nào
3.6 HOÀN THIỆN HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH:
Tại Việt Nam, hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán của các NHTM được xây dựng và vận hành trên
cơ sở Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 và Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 03/01/1998 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về Quy chế kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các TCTD. Mặc dù luật pháp
quy định bắt buộc đối với các DNNN, trong đó có các NHTM NN phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát,
kiểm toán nội bộ. Nhưng, do những bất cập của các quy định pháp luật như đã nêu về mô hình tổ chức
không phù hợp với thông lệ quốc tế; do nhận thức chưa đầy đủ về sự cần thiết, những lợi ích của hệ thống
kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ nên chất lượng hoạt động của công tác này trong các DNNN nói
chung và trong các NHTMNN nói riêng rất kém hiệu quả. Quốc hội cũng đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật các TCTD đã tách bạch được hai chức năng kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ. Tuy
nhiên vẫn còn bất cập.
Bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, các NHTM Việt Nam đang phải đối mặt với những tồn tại: Năng lực
quản trị điều hành kém, vốn tự có thấp, công nghệ thông tin lạc hậu, nợ xấu lớn…đòi hỏi các NHTM Việt
Nam phải cải cách đổi mới toàn diện, phải “thay máu” để nâng cao năng lực cạnh tranh, để có thể đứng
vững và phát triển an toàn trong nền kinh tế hội nhập quốc tế. Một trong những yêu cầu cấp bách nhất trong
công cuộc đổi mới là phải nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm toán kiểm soát nội bộ .
Để xây dựng được một hệ thống kiểm soát ngân hàng đạt được hiệu quả cao đồng thời phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế thì :
3.6.1 Nâng cao hiệu quả giám sát của ngân hàng thương mại:
NHNN cần nghiên cứu về mô hình tổ chức của bộ máy kiểm soát nội bộ chuyên trách sao cho vừa phù
hợp với điều kiện cụ thể vừa phù hợp với thông lệ tốt nhất. Điều có thể là NHNN nên đưa ra một lộ trình
cụ thể (khoảng 2 - 3 năm) để các ngân hàng đủ thời gian xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ chuyên
nghiệp, đủ mạnh đảm bảo thực hiện tốt mọi chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ. Khi đủ điều
kiện, các NHTM phải thiết lập mô hình tổ chức của hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ phù
hợp với thông lệ tốt nhất, tức là tập trung về một mối hệ thống kiểm toán nội bộ, không còn bộ phận
kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách.
Bổ sung quy định về số năm công tác trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán và số năm kinh nghiệm
trong ngành Ngân hàng đối với cán bộ làm kiểm toán nội bộ nói chung. Đặc biệt với các chức danh
Trưởng, phó kiểm toán nội bộ, nên tăng số năm kinh nghiệm (tối thiểu phải 5 năm) làm việc trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng.
40
Để nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động kiểm toán nội bộ, NHNN cần nghiên cứu ban hành các
chuẩn mực về kiểm toán nội bộ; Kết hợp với Bộ Tài chính tổ chức các khoá đào tạo để cấp chứng chỉ
kiểm toán viên nội bộ.
NHNN cần quy định số giờ đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ tối thiểu trong năm đối với kiểm toán viên nội
bộ, nhằm liên tục trang bị các kiến thức và kỹ năng mới cho mỗi cán bộ kiểm toán nội bộ, đáp ứng tốt
yêu cầu công việc.
Nâng cao hiệu quả điều chỉnh vĩ mô của chính sách tiền tệ trên cơ sở phát triển đồng bộ hệ thống công
cụ và thị trường tài chính.
Toàn cầu hoá làm cho biến động tiền tệ rất phức tạp, do đó phải đặc biệt chú trọng chính sách tiền tệ; đề
cao trách nhiệm kiểm soát lạm phát, trách nhiệm tổ chức môi trường tiền tệ trong cả nước của Ngân hàng
Nhà nước; tăng cường năng lực dự báo; phát triển hệ thống công cụ điều chỉnh thị trường tài chính nhằm
mở rộng môi trường tác động và thực thi chính sách tiền tệ.
3.6.2 Đối với mỗi ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm soát và kiểm toán nội bộ NHTM:
Một là, cần có nhận thức đúng về vai trò quan trọng và những lợi ích của hệ thống này trong công tác
quản trị kinh doanh. Đối với HĐQT và Ban điều hành, cần quan tâm, ưu tiên nguồn lực một cách thích đáng
cho việc hình thành, hoàn thiện và phát triển của hệ thống này. Đối với các bộ phận, phòng ban trong ngân
hàng, cần phải hiểu rằng: kiểm toán nội bộ hỗ trợ trong việc thực hiện trách nhiệm của mình về kiểm soát
nội bộ và trao đổi thông tin về các sáng kiến kinh doanh và các thông lệ tốt nhất nhằm đạt được các mục
tiêu đề ra để có sự phối hợp tốt trong công việc.
Hai là, xây dựng lộ trình càng sớm càng tốt để hình thành một mô hình tổ chức của hệ thống kiểm soát,
kiểm toán nội bộ theo thông lệ tốt nhất đó là: không còn bộ phận kiểm tra, kiểm soát chuyên trách mà tập
trung sức mạnh cho hệ thống kiểm toán nội bộ cũng như thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ hoàn
thiện.
Ba là, xây dựng và ban hành điều lệ kiểm toán nội bộ, với những yêu cầu cơ bản:
- Chỉ ra mục tiêu và phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ
- Xác định rõ nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
- Xác định các nguyên tắc tiến hành kiểm toán
- Cho phép kiểm toán viên tiếp cận với các tài liệu, cũng như những người có liên quan đến hoạt động
kiểm toán nội bộ.
Bốn là, xây dựng các chính sách: quy chế, quy trình, kế hoạch kiểm toán nội bộ cụ thể theo sát với chuẩn
mực. Đặc biệt là các chế tài, trong đó cần quan tâm đến cơ chế động lực: lương, phụ cấp, và các chế độ đãi
ngộ khác thoả đáng để bù đắp áp lực công việc đối với kiểm toán viên nội bộ.
41
Năm là, kiểm toán viên nội bộ phải thành thạo công việc và được đào tạo thường xuyên, mỗi kiểm toán
viên phải được học tập tối thiểu 80 giờ trong một năm; ngoài ra họ phải tự học hỏi để không ngừng nâng cao
năng lực của mình.
Sáu là, phải xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp và đảm bảo luôn duy trì quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Bảy là, quy định về trang thiết bị phương tiện làm việc thuận lợi cho cán bộ làm công tác kiểm toán nội
bộ.
Tám là, quy định cho các kiểm toán viên nội bộ được quyền truy cập cơ sở dữ liệu, các phần mềm quản
trị điều hành
Chín là, cải cách hoạt động kiểm soát kiểm toán nội bộ phải tiến hành một cách đồng bộ với: cải cách
công tác quản lý rủi ro, cải cách áp dụng các chuẩn mực trong công tác kế toán tài chính, ứng dụng kế toán
quản trị.
3.7 THỐNG NHẤT TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH VĨ MÔ
3.7.1. Các khuyến nghị trong điều hành chính sách vĩ mô
Nền kinh tế Việt Nam đang nóng. Bằng chứng là lạm phát vẫn tiếp tục gia tăng, thâm hụt ngân sách
và thương mại ngày càng lớn, và bong bóng giá bất động sản ngày càng phình to. Làm thế nào để giảm lạm
phát và tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô? Nhóm giáo sư, chuyên gia kinh tế Đại học Havard tư vấn
chính sách kinh tế cho Việt Nam lại vừa đưa ra 5 khuyến nghị như sau:
o Phối hợp chính sách tiền tệ và ngân sách.
o Một cơ quan hoạch định chính sách kinh tế cao cấ.
o Tăng cường năng lực và tính độc lập cho Ngân hàng Nhà nước.
o Kiểm soát đầu tư công.
o Giảm bong bóng bất động sản, bong bóng chứng khoán.
3.7.2. Thấy được gì từ cuộc đua lãi suất của hệ thống Ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây
và những ảnh hưởng của chỉ thị, chính sách của Chính Phủ và NHNN Việt Nam.
Chỉ trong vòng nửa năm từ tháng 11/2007 đến tháng 6/20008 diễn biến lãi suất trên thị trường ngân
hàng Việt Nam đã có rất nhiều biến động mạnh mẽ tác động sâu sắc đến nền kinh tế đất nước.
Lý giải cho việc điều chỉnh tăng lãi suất huy động, hầu hết các ngân hàng đều nói là để phục vụ nhu cầu
vay vốn mua sắm, tiêu dùng trong dịp cuối năm 2007. Nhưng sang năm 2008 tình hình này vẫn diễn biến
phức tạp và mạnh mẻ đã dẫn đến thiếu thanh khoản trầm trọng tại các NHTM vừa qua.
Ngay từ đầu năm 2007 đã có nhiều dấu hiệu cho thấy lạm phát tăng cao với chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
quý 1 tăng 3,02% so với cuối năm 2006 và tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước (1), đi liền theo đó là tiền
ra lưu thông nhiều. Trong 6 tháng đầu năm NHNN đã mua vào 7 tỷ USD để tăng quỹ dự trữ ngoại tệ quốc
gia, điều này cũng góp phần làm tăng thêm lượng cung tiền.
Song để kìm chế lạm phát, NHNN đã quyết định tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) từ 5% lên 10% (Quyết
định 1141/QĐ-NHNN ngày 28/5/2007). Như vậy, các NHTM bắt đầu thực hiện cất bớt vốn vào kho tương
42
ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Đối với hoạt động ngân hàng, nguồn thu mang về lớn nhất chính là lợi
nhuận từ khoản cho vay. Tăng tỷ lệ DTBB đồng nghĩa với việc làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Để đảm
bảo và cân đối được nguồn lợi nhuận trong kinh doanh, các ngân hàng buộc phải nghĩ đến bài toán tăng lãi
suất cho vay hoặc giảm lãi suất huy động.
Với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN đối với cho vay đầu tư chứng khoán, thì tỷ lệ cho vay chứng
khoán của các TCTD phải ở mức dưới 3% trên tổng dư nợ (Chỉ thị 03CT/NHNN ngày (28/05/2007). Theo
đó, các ngân hàng buộc phải nhanh chóng thu hồi nợ đối với cho vay kinh doanh chứng khoán. Điều này
làm cho vốn khả dụng tại các ngân hàng càng thêm dư thừa. Vì thế, các ngân hàng đã phải giảm lãi suất huy
động.
Khi tỷ giá VND/USD trên thị trường có dấu hiệu sụt giảm mạnh, các ngân hàng mua USD không thể
giải ngân nên đành phải “chôn” vốn. Còn NHNN thì hạn chế đưa tiền đồng ra thị trường để kìm chế tốc độ
lạm phát, khiến cung VND khan hiếm. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng tăng đột
biến từ 6% lên đến 12%/năm, có thời điểm lên tới 17%/năm, ảnh hưởng đến tâm lý của của các NHTM CP,
nên đã dẫn đến xu hướng gia tăng lãi suất huy động để chủ động nguồn cung vốn đáp ứng nhu cầu khách
hàng dịp cuối năm.
Nguồn kiều hối đang chảy mạnh về nước, ước tính năm nay lên tới 5,5 tỷ USD và người nhận có xu
hướng bán ngoại tệ cho ngân hàng để lấy tiền đồng, làm cho VND càng thêm khan hiếm, gây sức ép tăng lãi
suất tiết kiệm VND.
Bên cạnh đó, dưới tác động của Chỉ thị 03, mặc dù các ngân hàng đã ra sức thu hồi nợ và ngưng cho vay
kinh doanh chứng khoán từ tháng 06/2007 để đảm bảo tỷ lệ cho vay kinh doanh chứng khoán xuống mức
3%, nhưng cũng khó thực hiện kịp mốc 31/12/2007 mà NHNN đã đề ra. Chỉ còn cách là phải tăng tổng dư
nợ, và không ít ngân hàng đã tung ra chương trình tín dụng bất động sản với thời hạn cho vay dài và lãi suất
ưu đãi, càng đẩy cầu vốn cho khách hàng tăng mạnh. Và để tránh tình trạng lãi suất thực âm, không thể hấp
dẫn người gửi tiền trong bối cảnh lạm phát tăng cao, các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động
Việc tăng lãi suất huy động có những lý do khách quan do thị trường tác động và có những lý do riêng
biệt khác mang tính chất nhu cầu nội bộ. Có những ngân hàng thực sự cần vốn để đáp ứng nhu cầu phát
triển đầu tư, tiêu dùng. Nhưng cũng có không ít ngân hàng vì vị thế và nhu cầu cạnh tranh không muốn mất
khách hàng, tuy không có nhu cầu tiền mặt lớn, thường vẫn phải tăng lãi suất để cùng đứng chung với các
ngân hàng khác.
Tóm lại, các NHTM đua nhau tăng lãi suất huy động vốn vì hai lý do :
o Hiện nay nhu cầu cho vay và thanh toán của nền kinh tế quá lớn. Điều này thể hiện là nền kinh tế
đang ở trong trạng thái quá nóng, cầu đầu tư nhiều. Vì vốn huy động không đủ đáp ứng nhu cầu cho
vay, nên tất yếu lãi suất phải tăng.
o Ngân hàng nhà nước thắt chặt tiền tệ, nên việc vay qua thị trường liên ngân hàng, qua cửa sổ chiết
khấu của ngân hàng nhà nước khó khăn.
43
Vì lý do trên, kể cả ngân hàng NHTW không phát hành đợt tín phiếu bắt buộc thì các NHTM vẫn phải
tăng lãi suất. Khi NHNN phát hành tín phiếu, tăng lãi suất chiết khấu và dự trữ bắt buộc, các NHTM càng
cần phải tăng lãi suất để hút vốn, trong bối cảnh lạm phát cao làm cho lãi suất tiết kiệm thực là âm.
Trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 tình hình lãi suất đã làm biến động lớn tỷ lệ huy động –
cho vay trên toàn hệ thống NHTM. Nguyên nhân sốt lãi suất xuất phát chủ yếu từ chính quá trình khai thác
và sử dụng vốn của các ngân hàng. Việc tăng trưởng quá cao dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại
trong các tháng cuối năm 2007 đã dẫn đến áp lực nhu cầu vốn rất lớn. Chỉ riêng tháng 12.2007, dư nợ tín
dụng tăng trưởng 14,2% so với tháng trước; tháng 1.2008 dư nợ tín dụng tăng 13,2% so với cuối năm 2007.
Các ngân hàng đã “cố đấm ăn xôi” đẩy mạnh tín dụng chủ yếu để đảm bảo tỷ lệ dư nợ cho vay chứng
khoán, cho vay bất động sản... Tỷ lệ dư nợ riêng trong tháng 2.2008 tăng lên 84,66%.
Thiếu hụt nguồn vốn để cho vay đã khiến hàng loạt ngân hàng vừa tăng lãi suất huy động, vừa vay trên
thị trường liên ngân hàng. Vai trò chính của thị trường liên ngân hàng là đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Song
một bộ phận vốn của thị trường này lại được một số ngân hàng sử dụng cho vay nền kinh tế. Trong số 17
ngân hàng thương mại cổ phần (hội sở chính tại TP.HCM), chỉ có 7/17 ngân hàng có tỷ lệ dư nợ tín dụng so
với tổng huy động vốn dưới 100%. Số còn lại đều trên 100%. Trong đó, 3 ngân hàng có tỷ lệ dư nợ tín dụng
so với huy động vốn trên 200%, là 267%, 252%, và 207%. Số liệu trên cho thấy, ngoài nguồn vốn huy động
từ tổ chức kinh tế và dân cư được sử dụng hết, số còn lại ngân hàng còn vay trên thị trường liên ngân hàng
để cho vay. Việc sử dụng bộ phận vốn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay trực tiếp nền kinh tế đã tác
động đến quá trình khai thác và sử dụng vốn của hệ thống ngân hàng, thể hiện bằng cơn biến động mạnh của
lãi suất vừa qua.
Hàng loạt các ngân hàng đã điều chỉnh lãi suất không vượt quá mức trần 12%/năm ngay sau công điện
khẩn ngày 26.2.2008 vừa qua của ngân hàng nhà nước. Phần lớn các ngân hàng đều giữ mức lãi suất huy
động ngắn hạn 1 – 2 tháng là 12%/năm, kỳ hạn 3 tháng là 11,5%/năm. Ở biểu lãi suất mới ban hành của
Sacombank, OCB... đối với loại hình tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn đã tăng từ
0,25% lên 0,4%/tháng. Điều này cho thấy các ngân hàng vẫn đang “khát” nguồn vốn ngắn hạn. Nhiều ngân
hàng tiếp tục “vớt vát” khách hàng bằng cách đẩy mạnh chương trình khuyến mãi và quà. Như Seabank áp
dụng lãi suất 12%/năm cho tất cả các kỳ hạn, ngoài lãi suất được hưởng còn được tặng vàng SJC theo số
tiền gửi. Tuy nhiên, nhằm chấm dứt tình trạng xáo trộn trên thị trường tiền tệ, tất cả những hình thức thưởng
tặng biến tướng kéo luồng tiền gửi tiết kiệm về mình của các ngân hàng cũng sẽ bị xử lý nghiêm.
Lo ngại lớn hơn ở góc độ nhà điều hành chính sách là cuộc đua tăng trưởng tín dụng có thể ảnh hưởng
xấu tới chất lượng. Tăng trưởng năm 2007 tập trung chủ yếu ở những lĩnh vực ẩn chứa rủi ro cao như : cho
vay tiêu dùng, bất động sản và chứng khoán. Thời điểm này, những con số tăng trưởng trên đều đẹp nhưng
khi được cố tình vượt quá ngưỡng an toàn có thể sẽ gây hậu quả lâu dài.
Ngày 25/3/2008, Hiệp hội đã có báo cáo Thống đốc NHNN và có văn bản số 119/HHNH gửi đến các
Hội viên để thông báo sự đồng thuận về một số vấn đề trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức hội viên.
44
Theo đó, các hội viên đã đồng thuận 100% về việc điều chỉnh lãi suất huy động VNĐ và bằng ngoại tệ. Lãi
suất huy động VNĐ ≤ 6 tháng là 10,5%/năm; lãi suất huy động trên 6 tháng là 11%/năm; lãi suất huy động
bằng ngoại tệ tối đa 6%/năm, thời gian dự kiến bắt đầu thực hiện từ ngày 2/4/2008.
Trong thời gian cuối năm 2007- đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã có những biện pháp dường như
trái ngược nhau dẫn tới tình trạng thiếu khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng
nhà nước đã dừng việc mua ngoại tệ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng
Nhà nước bắt buộc, và dừng các nghiệp vụ mua lại (repos). Điều này đã đẩy mức lãi suất cho vay qua đêm
lên mức kỷ lục- có lúc đã tới 40%.
NHNN đã chính thức ra quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN: kể từ ngày 19/5 lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam (VNĐ) là 12%, lãi suất tái cấp vốn là 13%/năm và lãi suất chiết khấu là 11%. Theo đó các TCTD
ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng VNĐ đối với khách hàng theo
nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong
từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, NHNN công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, NHNN điều
chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản. Với quyết định này, lãi suất cơ bản đã được nâng lên một mức đáng kể. Và
mới đây nhất Quyết định số 1317/QĐ-NHNN và Quyết định số 1316/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày
11/6/2008 thì lãi suất cơ bảnVNĐ sẽ được tăng từ 12%/năm lên 14%/năm; Lãi suất tái cấp vốn cũng điều
chỉnh tăng thêm 2% lên 15%/năm; Lãi suất tái chiết khấu từ 11% lên 13%/năm.
Tác động của việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản:
Thứ nhất, lãi suất cơ bản vừa phản ánh thực tế lãi suất thị trường, vừa đóng vai trò là lãi suất điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN, sẽ góp phần tạo nên mặt bằng lãi suất huy động và cho vay hợp
lý và đảm bảo hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền – TCTD - người vay vốn.
Thứ 2, với mức lãi suất cơ bản là 12%/năm, thì lãi suất cho vay tối đa của các TCTD là 18%/năm,
tương đối phù hợp với mặt bằng lãi suất thị trường, không gây nên những xáo trộn lớn trên thị
trường tiền tệ, tín dụng
Câu chuyện trên cũng cho thấy, công tác dự báo, từ đó đưa ra những chính sách điều hành của cơ
quan quản lý nhà nước cần được củng cố hơn nữa. Tại hội nghị tổng kết ngành ngân hàng mới đây, mục tiêu
đề ra cho năm 2008 là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán không quá 32%, tốc độ tăng trưởng tín dụng
đối với nền kinh tế không quá 30%. NHNN cũng khẳng định, sẽ có giải pháp để kiểm soát tốc độ tăng
trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng; hỗ trợ, mở rộng tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn; điều hành
các công cụ chính sách tiền tệ linh hoạt để kịp thời rút về lượng vốn khả dụng dư thừa, chủ động kiềm chế
tốc độ tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm 2008.
Có thể, vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các ngân hàng có lý do để bào chữa cho mình khi đạt tốc độ
tăng trưởng tín dụng quá nóng, nhưng với một tầm nhìn xa hơn của cơ quan điều hành, kiểm soát và hạn chế
ở mức độ an toàn là điều tối cần thiết. Giải pháp cần thực hiện đồng bộ để tạo ra hiệu quả nhất định, song
45
hiện tại, cuộc đua tăng lãi suất huy động VND đã và đang diễn ra trên diện rộng, với tốc độ tương đối nóng,
khi các ngân hàng tiếp tục chủ động bơm vốn cho nền kinh tế.
3.8 CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC NHẰM ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH CHO HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG
3.8.1 Phòng ngừa đấu tranh, chống tội phạm ngân hàng
3.8.1.1 Nạn tiền giả:
Tiền giả đã trở thành một vấn nạn mà tất cả các nước trên thế giới đều phải đối mặt. Đặc biệt trong lĩnh
vực ngân hàng, tiền giả làm ngân hàng mất uy tín đối với khách hàng khi tiến hành cho vay ,làm giảm lợi
nhuận của ngân hàng khi nhận các tiền gửi ,các khoản thanh toán bằng tiền giả .
a. Thực trạng:
Thực tế đó một mặt cho thấy nạn tiền giả ở nước ta lớn và đáng quan tâm đến mức độ nào; nhưng mặt
khác cũng cho thấy một khối lượng lớn thu nhập của dân cư bị thiệt hại do khối lượng tiền giả gần tương
ứng với số phát hiện đó.
Điều đáng nói nhất là người dân gặp rủi ro thiệt hại do nạn tiền giả chủ yếu là hộ nông dân, trình độ văn
hoá thấp, ở các vùng xa, vùng sâu, ... Trong cuộc sống có nhiều tình cảnh rất đau lòng, đó là người nông dân
chắt chiu, tiết kiệm, dồn sức nuôi được con lợn, vài đàn gà, vài tạ thóc, gánh hoa quả,... bán đi, có tiền đem
gửi ngân hàng, hay trả nợ vốn vay ngân hàng, nhưng không may gặp phải tiền giả, ngân hàng lập biên bản,
thu mất theo quy định của pháp luật, đẩy họ vào cảnh trắng tay
Hay nói cách khác, họ bị mất cắp, mất trộm chính con lợn, vài đàn gà, vài tạ thóc, hay gánh hoa quả đó.
Thực tế đó đã xuất hiện ở Hậu Giang, Kiên Giang,... Do vậy Nhà nước đã buộc phải tìm phương án sản xuất
và lưu hành tiền polymer, mặc dù chi phí rất tốn kém, nhưng nay lại tiếp tục bị làm giả, lại buộc cơ quan
chức năng phải tìm ra giải pháp mới để chống làm giả.
b. Giải pháp:
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển ở trình độ cao, tạo nhiều cơ hội cho các cơ quan phát hành
tiền ứng dụng công nghệ bảo an hiện đại trên đồng tiền thì bên cạnh đó cũng tạo khả năng để tội phạm sản
xuất các đồng tiền giả có kỹ thuật tinh vi, thời gian để làm giả một đồng tiền cũng nhanh hơn. Tại Việt Nam,
có thể nói là không có các ổ nhóm tội phạm sản xuất tiền giả nhưng tình hình tội phạm buôn bán, tiêu thụ
tiền giả cũng diễn ra rất phức tạp. Do vậy chúng ta cần có biện pháp tích cực để phòng chống tiền giả, và có
thể đưa ra các biện pháp như sau:
Cơ quan phát hành tiền cần thiết kế đưa ra các mẫu tiền mới một cách thường xuyên và phải thường
xuyên nghiên cứu cập nhật các tiến bộ kỹ thuật trong công nghệ bảo an để chọn lọc ứng dụng trên đồng tiền.
Yếu tố quan trọng nhất trong việc phòng chống tiền giả là người dân phải nắm đặc điểm kỹ thuật, yếu tố
bảo an trên đồng tiền thật giả và phải có thói quen quan sát, kiểm tra đồng tiền một cách cẩn thận trong giao
dịch hằng ngày.
46
Tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ nhận biết tiền thật tiền giả cho cán bộ ngân hàng, kho bạc nhà
nước cả về chất lượng và số lượng.
Tăng cường sử dụng biện pháp công nghệ cao cho phép bảo mật, bảo đảm an toàn đồng tiền, ứng dụng
khoa học kỹ thuật hiện đại trong công tác giám định tiền và thông báo tiền giả phục vụ nhu cầu ngân quỹ
trong hệ thống ngân hàng, kho bạc nhà nước .
Tội phạm tiền giả còn tồn tại lâu dài và thủ đoạn của bọn tội phạm cũng tinh vi và phức tạp. Do đó cần
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan chức năng. Ngoài ra cần phải có một chương trình phòng
chống tiền giả ở tầm quốc gia với sự phối hợp chỉ đạo của các ngành liên quan trong đó ngành Công an chủ
trì, đồng thời có sự đầu tư nhân lực, tài chính tương ứng với yêu cầu này, có như vậy mới có thể từng bước
giảm đến mức thấp nhất tội phạm tiền giả, bảo vệ tốt hơn an ninh đất nước và lợi ích của nhân dân.
3.8.1.2 Chống rửa tiền
Để phòng chống rửa tiền có hiệu quả, các quốc gia đã hình thành trung tâm thông tin phòng chống rửa
tiền trực thuộc Chính phủ quản lý. Nếu có những giao dịch đáng ngờ, thông tin sẽ được báo về trung tâm
này, các cơ quan chức năng sẽ phối hợp với nhau để xử lí. Chính vì vậy, để công tác phòng chống rửa tiền ở
Việt Nam qua hoạt động ngân hàng một cách hiệu quả, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
Về phía NHNN:
Một là, phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng như Interpol, an ninh kinh tế trong việc thực hiện các
biện pháp phòng chống rửa tiền theo quy định của pháp luật và Nghị định 74 cũng như yêu cầu các cơ quan
này hỗ trợ khi cần thiết.
Hai là, tổ chức tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý, lưu giữ, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến
rửa tiền đồng thời chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp
luật.
Ba là, ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể các NHTM thực hiện Nghị định 74 để Nghị định sớm đi vào
thực tế.
Bốn là, thông qua việc thực hiện kiểm toán bắt buộc hàng năm và hệ thống thanh tra hoạt động quy củ
chặt chẽ, NHNN kiểm soát được các hoạt động tài chính bất hợp pháp, các thông tin nội bộ bị tiết lộ hoặc
các hoạt động lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.
Về phía NHTM
“Hiểu được những vấn đề mấu chốt của khách hàng” là nguyên tắc hàng đầu trong kinh doanh của ngân
hàng để vừa phòng chống rủi ro cũng như để phục vụ ngân hàng tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng cần thu thập
thông tin và tìm hiểu khách hàng kỹ lưỡng trên tất cả các hoạt động nghiệp vụ then chốt của ngân hàng, từ
nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, nhận tiền gửi, thanh toán,... Ngân hàng cần liên hệ chặt chẽ với các cơ quan
chức năng như: trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN, cơ quan Interpol để chủ động nắm bắt thông
tin về khách hàng. Hiện nay, một số NHTM Việt Nam đã hoàn thiện Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng
47
để bất kỳ lúc nào truy cập vào hệ thống sẽ có bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông tin đầy đủ,
chi tiết và thường xuyên được cập nhật.
“Hiểu được mục đích của khách hàng khi đến ngân hàng”: ở các nước, các NHTM luôn có phòng dịch
vụ khách hàng để khách hàng bày tỏ những nguyện vọng của mình khi giao dịch với ngân hàng. Theo đó,
ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ mục đích sử dụng các giao dịch của ngân hàng.Từ đó, ngân hàng có thể
kiểm soát được các khoản cho vay của ngân hàng, hạn chế việc sử dụng vốn vay vào các mục đích bất hợp
pháp.
Luôn theo dõi sát sao mục đích của các khoản chuyển tiền để tránh hiện tượng hợp thức hoá các khoản
tiền bất hợp pháp vào ngân hàng.
Lựa chọn các ngân hàng có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, tuân thủ các quy định quốc tế về rửa
tiền làm đối tác trong hoạt động thanh toán quốc tế để tránh việc lợi dụng mở L/C và các phương thức tài trợ
thương mại khác nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia.
Thông thường bọn tội phạm thường rửa tiền thông qua các giao dịch xuyên quốc gia bằng tiền mặt. Để
góp phần hạn chế rửa tiền thông qua hình thức này, ngân hàng cần nỗ lực đẩy mạnh công tác thanh toán
không dùng tiền mặt thông qua việc khuyến khích các tổ chức kinh tế cá nhân thanh toán qua thẻ, mở tài
khoản miễn phí cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, mở rộng mạng lưới ATM.
Thông qua hoạt động của bộ máy kiểm tra kiểm toán nội bộ, ngân hàng giám sát việc chấp hành các quy
định của pháp luật, quy định của NHNN và các cơ quan thẩm quyền cũng như các quy trình nghiệp vụ, hoạt
động kinh doanh và các quy định nội bộ khác của các bộ phận trong ngân hàng nhằm phòng chống việc lợi
dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.
Phổ biến kịp thời và rộng rãi các thông tin liên quan đến các giao dịch đáng ngờ đến các phòng chức
năng để các phòng lưu ý xem xét, nếu có vấn đề gì phát sinh sẽ báo cáo Ban lãnh đạo để xử lí.
Hợp tác chặt chẽ với các bộ phận thuộc ngân hàng, NHNN, cơ quan công an cũng như các ngành hữu
quan để xử lí các giao dịch có dấu hiệu phạm pháp liên quan đến rửa tiền.
Xúc tiến thành lập một bộ phận chuyên trách về phòng chống rửa tiền để thu thập, tổng hợp mọi thông
tin về những giao dịch đáng ngờ báo cáo Ban lãnh đạo ngân hàng nghiên cứu xử lí.
3.8.2 Bảo mật ngân hàng thời “điện tử hóa”.
3.8.2.1 Bảo mật thông tin :
Ngân hàng tài chính là những lĩnh vực rất nhạy cảm và vấn đề an toàn bảo mật đã không còn là vấn đề
riêng của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng trong thời đại liên kết và hội nhập hiện nay. Đó là vấn đề
mang tính toàn cầu vì khi hệ thống thông tin của bất kỳ ngân hàng nào trong chuỗi liên kết bị mất an toàn thì
cái nguy cơ đó sẽ đến với toàn hệ thống. Điều đó thực sự rất nguy hiểm. Nếu các sự cố về an toàn thông tin
xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì nó sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an ninh tài chính kinh tế, an ninh
48
về kinh tế xã hội của quốc gia đó. Rõ ràng, việc ngừng trệ hoạt động của hệ thống ngân hàng, có thể dẫn đến
sự sụp đổ của một nền kinh tế.
An ninh bảo mật đã trở thành vấn đề sống còn của ngành ngân hàng trong thời điện tử hóa. An ninh bảo
mật cũng là mối quan tâm hàng đầu của khách hàng khi quyết định lựa chọn hình thức thanh toán phi tiền
mặt…Trên thực tế, các ngân hàng Việt Nam cũng đã có những ưu tiên hàng đầu cho việc bảo đảm an toàn
hệ thống.
a. Thiệt hại khi sự cố về an tòan thông tin xảy ra.
Nếu các sự cố về an toàn thông tin xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì nó sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia, an ninh tài chính kinh tế, an ninh về kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Và một khi thông tin tài khoản cá nhân của khách hàng bị lộ do không bảo mật được hệ thống thông tin
thì hậu quả là khách hàng mất tiền, ngân hàng mất uy tín. Đây là hiện tượng đang có chiều hướng gia tăng
và thiệt hại là vô cùng nghiêm trọng .
b. Bảo mật thông tin:
Những năm gần đây, nhiều ngân hàng đã chú trọng đầu tư cho an ninh bảo mật. Đó là vấn đề rất quan
trọng vì nó quyết định đến sự phát triển bền vững của ngân hàng.
Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mở rộng dịch vụ giao dịch điện tử thì phải có kế hoạch rất là đồng
bộ. Đừng tách rời vấn đề bảo mật, bảo vệ dữ liệu thông tin ra khỏi chương trình mà chúng ta đang chạy, nếu
không nó sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đồng bộ hoá những khâu đó với nhau.
Ngoài ra, không chỉ lưu tâm đến vấn đề quản lý, triển khai kiến thức bảo mật cho những người hoạt
động trong hệ thống ngân hàng mà còn phải triển khai cho khách hàng. Như vậy, chúng ta mới có được an
ninh bảo mật toàn diện nhất.
Cấp thiết nhất hiện nay là Chính phủ phải tạo ra cái nền tảng pháp lý, một khuôn khổ các quy định và
chuẩn mực về an toàn, bảo mật thông tin. Phải có những cách thức xử lý thích đáng, một khung hình phạt
nhiêm minh đối với tội phạm trong lĩnh vực này.
3.8.2.2 Sử dụng phần mềm quản lý mới hiện nay : T24
Thị trường ngân hàng Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, nhiều ngân hàng mới được thành
lập trong năm vừa rồi, quá trình cổ phần hóa các ngân hàng cũng đang được tiến hành. Ngày càng nhiều
ngân hàng nhận thức được tầm quan trọng của năng lực quản lý rủi ro đối với sự sống còn và phát triển của
mình. Đây cũng là thách thức trước mắt của các ngân hàng Việt Nam hiện nay. Chúng ta vẫn chưa được tiếp
cận nhiều với các công nghệ ngân hàng hiện đại của thế giới cộng với việc thiếu kinh nghiệm thực tiễn,
chưa có cơ hội tiếp cận với những công cụ quản lý rủi ro thông minh, đã được tích hợp thành hệ thống và có
hiệu quả cao. Quan trọng là chúng ta phải xây dựng hệ thống phát hiện và quản lý rủi ro không chỉ ngay tại
thời điểm tạo một giao dịch, mà còn ở cấp độ toàn danh mục đầu tư.
49
Minh họa thực tế nhất là trong cuộc "đua" lãi suất vừa qua nhiều ngân hàng sẽ có thể đứng ngoài cuộc
nếu có một công nghệ quản lý tốt. Hoặc nếu có tham gia, thì quản lý rủi ro là công cụ phòng vệ tốt nhất để
các ngân hàng không bị “ngã ngựa”. Chẳng hạn, khi mặt bằng lãi suất cho vay cao, rủi ro khoản vay sẽ tăng
lên, định giá rủi ro và quản lý rủi ro tốt cho phép các ngân hàng từ chối những hồ sơ tín dụng kém ngay từ
ban đầu.
Phần mềm hệ thống ngân hàng lõi T24:
Phần mềm Hệ thống Ngân hàng lõi T24 (Core Banking – T24) của Temenos (Thụy Sỹ) là phần mềm
hiện đại nhất hiện nay và đã thâm nhập vào thị trường ngân hàng Việt Nam. Một số NH TMCP đã hợp tác
và triển khai thành công hệ thống T24: Sea Bank, VP Bank, Techcom Bank, Sacom Bank, AB Bank,MB
…T24 sẽ là nền tảng công nghệ để các ngân hàng phát triển các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng công nghệ
cao trong thời gian tới.
T24 là 1 giải pháp mang tính tùy biến cao, được triển khai tại hơn 400 tổ chức trên thế giới. T24 sẽ cho
phép các ngân hàng Việt Nam nhanh chóng phát triển sản phẩm mới, kịp thời cải tiến các quy trình hiện có ,
giúp các ngân hàng quản trị rủi ro trên 4 lĩnh vực: Quản trị rủi ro về thị trường, quản lý rủi ro tín dụng,
thanh khoản và tác nghiệp với 9 mức quản lý khác nhau, nâng cao việc quản lý tài khoản khách hàng và
cung cấp dịch vụ cho khách hàng theo công nghệ mới . T24 có thể tự động hóa các lịch trình công việc, do
vậy, cho phép cải tiến các dịch vụ trực tuyến, phản hồi nhanh các yêu cầu của khách hàng cũng như cải
thiện chất lượng dịch vụ. Dựa trên T24, việc quản lý dữ liệu khách hàng, xây dựng các sản phẩm mới, tạo
báo cáo về hoạt động ngân hàng, đánh giá rủi ro tín dụng ... sẽ nhanh chóng và có hệ thống hơn.
Một trong những đặc tính nổi bật của hệ thống T24 là hệ thống ngân hàng tích hợp hàng đầu trên thế
giới. Đây là một hệ thống hiện đại, linh hoạt và tích hợp, có thể đáp ứng các yêu cầu của Ngân hàng ở mức
chi nhánh cũng như mức trụ sở chính, đáp ứng các yêu cầu trực tuyến và môi trường xử lý tức thời. Mức độ
tích hợp cao trong một hệ thống có thiết kế nhấn mạnh vào xử lý thông suốt, và tính linh hoạt của các thông
số sẽ giúp cho hệ thống hoạt động chính xác và theo sát các thông lệ và các yêu cầu nghiệp vụ của Ngân
hàng. Bên cạnh việc kết hợp với giao diện truyền thống Desktop, T24 còn dùng trình duyệt Browser làm
tăng tính thân thiện cho người sử dụng.
Bên cạnh đó, T24 có các tính năng nổi bật như hỗ trợ chạy trên nhiều máy chủ cho phép hệ thống gia
tăng đáng kể tốc độ hạch toán và truy xuất thông tin, qua đó tăng cao hiệu suất giao dịch, đồng thời với công
nghệ tổ hợp và cân bằng tải, hệ thống sẽ an toàn hơn trong việc đề phòng các sự cố máy chủ. Trong thực tế
T24 cho phép thực hiện tới 1.000 giao dịch ngân hàng/giây với cùng một lúc lúc cho phép tới 10.000 người
truy nhập hệ thống trực tiếp và 100.000 người qua T24 Internet, quản lý hơn 50 triệu tài khoản khách hàng.
Ngoài ra, T24 còn có tính năng Non-stop, loại bỏ tình trạng giao dịch khi hệ thống bị ngừng khi
đóng ngày, trong thời gian quyết toán, các ngày nghỉ, ngày lễ ... Với Non-stop, Ngân hàng và khách hàng có
thể truy cập vào hệ thống vào mọi thời điểm trong ngày. Lựa chọn triển khai T24 là một bước tiến quan
trọng trong quá trình hiện đại hóa hạ tầng công nghệ trong hệ thống Ngân hàng VN.
50
Tóm lại: bài toán bảo mật ngân hàng thời “ điện tử hóa ” vẫn chưa thể có lời giải tối ưu. Hệ thống
ngân hàng Việt Nam đang chuyển dần sang xu hướng điện tử hóa là một thực tế không thể phủ nhận. Và
quan trọng hơn sự lo lắng, là các sáng kiến cho ngân hàng điện tử cần được coi là một ưu tiên trong lúc này.
KẾT LUẬN
An ninh tài chính là một khái niệm mới và phức tạp mới được nghiên cứu trong thời gian gần đây.
Trong hoạt động của các tổ chức tín dụng an ninh tài chính đặt ra như một trong những vấn đề quan trọng
hàng đầu. Đảm bảo an ninh tài chính trong hoạt động của các TCTD nói chung, của các NHTM nói riêng là
giữ cho tình trạng tài chính của các trung gian tài chính này luôn luôn ổn định , an toàn, vững mạnh, tránh
nguy cơ lâm vào khủng hoảng. Hệ thống các NHTM nước ta hiện nay hoạt động tương đối ổn định nhưng
rất kém an toàn và yếu, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh thấp, chứa đựng nhiều nhân tố cả về mặt chất
và lượng có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ, đặc biệt là vốn tự có của ngân hàng cách xa so với
yêu cầu chống rủi ro trong hoạt ngân hàng, tỷ lệ nợ quá hạn quá cao trong khi công tác quản lý vay nợ và
phòng chống rủi ro còn nhiều yếu kém. Chính vì vậy, trong thời gian tới chúng ta phải tập trung vào các giải
pháp tăng cường an ninh tài chính trong hoạt động của các ngân hàng.
Vai trò của Nhà nước cũng được đánh giá là một thách thức lớn đối với ngành tài chính - ngân hàng
trước yêu cầu hội nhập.
Hội nhập quốc tế là xu hướng mang tính khách quan của hệ thống kinh tế tài chính thế giới. Trong trào
lưu và xu thế đó, những lĩnh vực nhạy cảm bị lôi cuốn khá mạnh mẽ vào tiến trình hội nhập. Ngân hàng -
một ngành dịch vụ có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế, giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế, tất
yếu phải tham gia vào quá trình hội nhập. Điều này đã diễn ra mạnh mẻ ở nhiều nước trên thế giới và đặc
biệt là tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. An ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng – TS. Vũ Đình Ánh (Viện Nghiên cứu tài
chính _ Bộ Tài chính ) Nhà xuất bản Tài chính 2001.
2. Các trang wed của:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .
Tổng cục thống kê Việt Nam.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Các trang web của các NHTM CP và các công ty khác trong hệ thống tài chính ngân hàng.
Các trang web của các cơ quan thông tấn báo chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf