Thiên nhiên đã ban tặng cho con người những ngọn núi hùng vĩ, những dòng sông êm ả và những cánh rừng bát ngát, một hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài tất cả tạo nên một hành tinh xanh. Thế nhưng do sự khai thác sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cùng với sự phát triển và tham vọng của loài người đã gây ảnh hưởng nặng nề đến toàn cầu nói chung và hệ sinh thái đô thị nói riêng, một loạt những hiện tượng thiên tai xảy ra như mưa acid, bão lũ, cháy rừng, hạn hán đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái đô thị không chỉ trên thế giới mà còn ở cả Việt Nam. Bởi vậy hiện nay con người phải nỗ lực ngăn chặn các khí thải nhà kính, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo được, sử dụng những nhiên liệu không gây ô nhiễm môi trường. Các Hội nghị trong nước và quốc tế liên tục được tổ chức, các quốc gia trên toàn thế giới cùng chung tay bàn bạc về vấn đề biến đổi khí hậu nhằm đưa ra phương án thích ứng đã cho thấy sự quyết tâm của chúng ta trong việc khắc phục hậu quả. Song bên cạnh đó, đây không chỉ là vấn đề của những nhà lãnh đạo mà còn là vấn đề của mỗi người dân chúng ta, mỗi người dân trong chúng ta đều có thể chung tay góp phần vào việc bảo vệ Trái Đất, bảo vệ ngôi nhà chung bằng những hành động đơn giản dễ làm như tiết kiệm nhiên liệu, tham gia trồng cây xanh,tự tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình.
24 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 3276 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hệ sinh thái đô thị. Các biện pháp nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: PGS.TS. Trần Văn Thụy
HVTH: Lê Thị Vân Anh
Lớp : Cao học Khoa học Môi trường K22
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hệ sinh thái đô thị. Các biện pháp nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
BÀI TẬP CUỐI KÌ
Hà Nội, tháng 7/2015
Đề tài:
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề
Trong quá trình tiến hóa và phát triển, con người luôn phải sử dụng các yếu tố sẵn có trong tự nhiên, vì vậy con người đã tác động trực tiếp vào môi trường. Các hệ sinh thái tự nhiên hoặc dần chuyển thành hệ sinh thái nhân tạo, hoặc bị tác động của con người đến mức mất cân bằng và suy thoái. Trong đó, hệ sinh thái đô thị cũng là một trong những thành phần chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, đặc biệt là đối các quốc gia nghèo – kém phát triển. Dân số đô thị tại các quốc gia này phải chịu rủi ro lớn nhất đối với các tác động của biến đổi khí hậu như bão thường xuyên, lũ lụt, lở đất và sóng nhiệt. Số người tử vong do các hiện tượng thời tiết cực đoan tại các quốc gia có thu nhập thấp – trung bình cũng chiếm tỉ lệ lớn trên tổng số người tử vong trên toàn thế giới; nếu có số liệu chính xác hơn, thì có thể thấy rằng một tỷ lệ lớn và ngày càng tăng của số người tử vong là tại khu vực đô thị thuộc các quốc gia này (UN Habitat, 2007). Hầu hết các quốc gia phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn do BĐKH – liên quan đến vấn đề nước sạch. Đối với tác động do mực nước biển dâng, riêng Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm hơn ¼ dân số đô thị trên toàn thế giới nằm trong phạm vi đới bờ có độ cao thấp. Châu Phi, xưa nay được xem là lục địa nông thôn, hiện có dân số đô thị lớn hơn so với khu vực Bắc Mỹ và gần 2/5 dân số sống ở đô thị (Liên hợp quốc, 2006). Châu Phi cũng có mật độ tập trung các thành phố lớn ở ven biển khá cao. Không có sự thích ứng, BĐKH có thể gây ra ngày càng nhiều số người chết do tai nạn và thương tích, và những nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng đến sinh kế của người dân, đến tài sản, chất lượng môi trường và sự thịnh vượng trong tương lai.
Biến đổi khí hậu được coi là vấn đề toàn cầu vì nó diễn ra ở hầu như mọi nơi trên thế giới. Đặc biệt, Việt Nam đứng thứ 5 trong danh sách các nước bị ảnh hưởng bởi khí hậu toàn cầu. Vị trí địa lý của Việt Nam khiến Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước những biến đổi khí hậu khi mực nước biển tăng. Trong các hệ sinh thái dễ bị tổn thương thì hệ sinh thái đô thị đang đứng trước nguy cơ đó. Vậy biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng như thế nào đến thế giới nói chung và đến Việt Nam nói riêng để từ đó con người có thể đưa ra những mô hình sinh thái, những giải pháp nhằm ứng phó với những biến đổi đó. Đây chính là lí do tôi chọn nghiên cứu đề tài“Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị. Các biện pháp nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu”.
B. Nội dung
I. Biến đổi khí hậu là gì?
"Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Sự thay đổi về khí hậu gây ra trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động của con người làm thay đổi cấu thành của khí quyển trái đất, cùng với biến đổi khí hậu tự nhiên, đã được quan sát trong một thời kì nhất định ". (UNFCCC)
“Biến đổi khí hậu là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.(Theo công ước chung của LHQ về biến đổi khí hậu).
II. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
Có hai nguyên nhân gây biến đổi khí hậu là do tự nhiên và do con người, trong đó nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do hoạt động của con người làm gia tăng các khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
- CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
III. Hậu quả của biến đổi khí hậu
- Thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Các hệ sinh thái bị phá hủy
- Mất đa dạng sinh học
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp.
- Dịch chuyển ranh giới giữa các đới khí hậu về phía 2 cực dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống,gia tăng bệnh tật của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
- Thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
- Gia tăng cường độ các loại tai biến thiên nhiên:cường độ, tần suất bão,lũ..
IV. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến HST đô thị.
4.1. Hệ sinh thái đô thị là gì?
Khác với các hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái đô thị ngoài hai thành phần cơ bản là hữu sinh và vô sinh, nó còn có thành phần công nghệ, bao gồm các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất...Thành phần công nghệ quyết định và chi phối dòng năng lượng qua hệ sinh thái.
Môi trường đô thị là một thành phần của môi trường xung quanh, nó là kết quả của hoạt động vật chất của con người trong quá trình tác động tới thiên nhiên. Môi trường đô thị luôn vận động và phát triển theo qui luật động lực học phức tạp, và tuân theo các qui luật tự nhiên cũng như qui luật nhân tạo do con người tạo ra. Tại đây con người quan hệ mật thiết với nhau hơn so với các yếu tố tự nhiên. Tuy nhiên, dưới sự phát triển và tác động của con người, các yếu tố thuộc về tự nhiên, thiên nhiên đang dần bị mất đi. Khí hậu thay đổi, thời tiết bất thường cộng với nhiều nguồn ô nhiễm (nguồn nước, rác thải, khói bụi, tiếng ồn) gây ra cho con người những bất lợi về sức khỏe đặc biệt là về yếu tố tinh thần. Vì vậy, ngừoi ta nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường sống xung quanh đô thị nhằm xây dựng giải pháp quy hoạch, vận hành bền vững hệ sinh thái này.
Các đặc trưng của hệ sinh thái đô thị
- Là HST hở có sự thay đổi theo thời gian, không gian về chất lượng, số lượng.
- Mang tính động do sự phát triển xã hội
- Cấu trúc: khá ổn định và đồng nhất,gồm vùng trung tâm, ven nội , vùng ngoại.
Con người:là thành phần ưu thế , là thành phần tạo nên năng lượng thứ cấp cuối cùng, là bậc dinh dưỡng cuối cùng, chịu tác động của các yếu tố tự nhiên , đặc biệt là xã hội.
+ Công nghệ là thành phần tái tạo lại nguồn năng lượng cho HST, tạo sự ổn định cho con người
- Yếu tố giới hạn của HST đô thị là tổ hợp tất cả các yếu tố.
4.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các HST đô thị
4.2.1. Nước biển dâng thu hẹp diện tích đô thị
Với đường bở biển dài hơn 3.200km, Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu. Theo tính toán của viện Khí tượng thủy văn và môi trường phía Nam, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 – 0,6m, sẽ có 1.708 km2 đất bị ngập ảnh hưởng tới 108.267 người sinh sống. Trong trường hợp tệ hơn, khi nước dâng lên 1m, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất đi một diện tích đất khoảng 15.000 – 20.000km2. Vùng đất thấp của TP.HCM là nơi sẽ bị ảnh hưởng nặng nề do nước biển dâng.
Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh ĐBSCL bị ngập hầu như toàn bộ, và có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như đợt xâm nhập mặn vào năm 2005. Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là vùng bị ảnh hưởng mạnh nhất, nước biển dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt hiện nay trở thành vùng nước lợ, hàng triệu người sẽ có nguy cơ bị mất chỗ ở, từ đó làm gia tăng sức ép lên sự phát triển của các vùng lân cận. Vì theo dự báo, trong vài chục năm tới, nước biển sẽ dâng cao làm ngập lụt phần lớn ĐBSCL vốn đã bị ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ 15.000 – 20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông Mêkông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán có xu hướng mở rộng ở hầu hết các vùng, đặc biệt là ở các tỉnh Nam Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng hoang mạc hóa. Theo Bộ NN&PTNT, trong 9 triệu ha đất hoang hóa ở VN (chiếm 28% diện tích cả nước) có 4,3 triệu ha đã và đang bị thoái hóa, sa mạc hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của trên 20 triệu người. Số còn lại là những đụn cát và bãi cát di động ở các tỉnh ven biển miền Trung; đất khô theo mùa hoặc vĩnh viễn ở Nam Trung Bộ như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Nam Khánh Hoà); đất bị xói mòn ở Tây Bắc, Tây Nguyên và đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn ở ĐBSCL đã ảnh hướng xấu đến hoạt động phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
4.2.2. Lũ lụt
Các khu vực đô thị luôn hiện diện một số rủi ro lũ lụt khi mưa lớn xảy ra. Nhà cửa, đường phố, cơ sở hạ tầng và những khu vực bê tông hóa khác ngăn chặn nước mưa thấm xuống mặt đất – và do vậy tạo ra nước chảy tràn nhiều hơn. Mưa lớn và kéo dài lâu ngày tạo ra một lượng rất lớn nước chảy tràn bề mặt, và có thể dễ dàng làm ngập hệ thống thoát nước. Ngày 2/12, hàng ngàn người Venezuela đã phải rời bỏ nhà cửa do các trận lở đất và lũ lụt ở khu vực gần thủ đô Caracas khiến ít nhất 21 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị mất tích. Mưa to và lũ lụt đã khiến hàng nghìn ngôi nhà bị phá hủy, hầu hết số nạn nhân kể trên bị nước lũ cuốn trôi hoặc bị chết do nhà đổ. Chính phủ Venezuela đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại 3 bang. Cơ quan khí tượng Venezuela cho biết, mưa lớn còn kéo dài vài ngày nữa. Trong khi đó, bang Tamil Nadu của Ấn Độ cũng đang hứng chịu các trận mưa lớn, gây lụt lội trên diện rộng. Tại khu vực Cuddalore, gần 50.000 ha hoa màu đã bị phá hủy hoàn toàn và hơn 20 làng ngập chìm trong nước lũ. Theo Tỉnh trưởng Karunanihi, đã nhận được thông báo về số người thiệt mạng trong trận lụt nhưng chưa thống kê chi tiết.
Hơn 400 đô thị lớn nhỏ ven biển Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi mực nước biển dâng trong khi biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở nhiều đô thị của các thành phố lớn – một quan chức ở Cục Phát triển Đô thị cho biết trong hội thảo biến đổi khí hậu và phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam ngày 14 và 15/9/2010 ở Hà Nội.
Trong tổng số 754 đô thị hiện nay, khoảng 405 đô thị lớn nhỏ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến mực nước biển dâng” – TS.KTS Đỗ Tú Lan, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Đô thị thuộc Bộ Xây dựng Việt Nam cho biết. Tình trạng gia tăng liên tục của mực nước trên sông Sài Gòn cùng với những trận mưa lớn xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn trong khi hệ thống thoát nước và kiểm soát triều cường vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng đã làm cho tình trạng ngập lụt đô thị ở TP Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng. Hơn 70 vị trí ngập xuất hiện ở TP Hồ Chí Minh sau những cơn mưa từ 40mm trở lên ngay cả khi thủy triều đang ở mức thấp cho thấy dòng chảy tràn đô thị do mưa lớn vượt quá khả năng thoát nước đang là tác nhân gây ngập chủ yếu hiện nay. Các đô thị trong khu vực đồng bằng châu thổ như Cần Thơ hay các đô thị nằm gần châu thổ sông Mê Kông như TP Hồ Chí Minh sẽ không chỉ có nguy cơ bị đe dọa trực tiếp bởi mực nước biển dâng mà có thể chịu áp lực di cư lớn của từ các khu vực xung quanh. Không những vậy, các nguồn lực kinh tế-xã hội, chẳng hạn như tiến trình công nghiệp hóa liên tục và lối sống mới, sẽ tiếp tục kép dòng di cư từ các vùng nông thôn vào các đô thị.
Việt Nam xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh nếu tính lượng người lớn nhất tuyệt đối sống ở các vùng ven biển có cao độ thấp và dễ bị tổn thương, được xác định là vùng tiếp giáp dọc theo bờ biển có cao độ thấp hơn 10 mét trên mực nước biển. Khoảng 43 triệu người Việt Nam hoặc hơn 55% dân số cả nước (38% dân số đô thị Việt Nam) đang sinh sống tại những vùng mực nước biển dâng. Đây là tỷ lệ phần trăm cao nhất trên toàn thế giới. Theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy mô đô thị từ mức 30,4 triệu người và diện tích 2.432 km2 năm 2010 sẽ tăng lên 40 triệu người và diện tích 4.600 km2 (chiếm 45% dân số và 1,4% diện tích cả nước) vào năm 2020.
Những đối tượng công trình chịu tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở các đô thị gồm nhà ở và các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, nhà hát, các công sở, xí nghiệp, trung tâm thương mại.
Biến đổi khí hậu không chỉ đe dọa các đô thị ven biển mà còn tác động rất lớn đến những đô thị ở vùng núi - các nhà khoa học cho biết như vậy trong hội thảo “Ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và tác động sức khỏe ở Việt Nam” ngày 11/9 ở Hà Nội. "Các vùng ven biển tập trung nhiều khu đô thị nên nước biển dâng sẽ tác động rất lớn lên khu vực này”, PGS.TS Trần Việt Liễn, Trung tâm Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn & Môi trường, nói: “Lũ quét và sạt lở đất, đá tăng cũng đe dọa các đô thị vùng núi.
4.2.3. Nhiệt độ tăng và sóng nhiệt
Hầu hết các thành phố ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ La Tinh và khu vực Caribbean sẽ chịu ảnh hưởng nhiều sóng nhiệt. Thậm chí, ngay cả gia tăng nhỏ trong nhiệt độ trung bình có thể dẫn đến sự thay đổi lớn của tần suất xuất hiện các hiện tượng cực đoan (Kovats và Aktar 2008). Với các thành phố lớn và mật độ cao, nhiệt độ tại các “đảo nhiệt” có thể cao hơn vài độ so với các khu vực lân cận; đối với các thành phố nhiệt đới, sự khác biệt nhiệt độ có thể tới 10 độ vào ban đêm (ibid). Rất nhiều thành phố sẽ phải đối mặt với một số vấn đề nhất định như ô nhiễm không khí khi nồng độ chất ô nhiễm thay đổi để đáp ứng với BĐKH vì sự thay đổi nồng độ các thành phần của ô nhiễm phụ thuộc, một phần, vào nhiệt độ và độ ẩm. Điều này đặc biệt quan trọng đối với châu Á và Mỹ Latinh, nơi có hầu hết các thành phố có mức độ ô nhiễm không khí lớn nhất. Có ít thông tin về tác động của ứng suất nhiệt ở châu Phi hay châu Mỹ La tinh nhưng với các nghiên cứu thực hiện ở Bắc Mỹ, châu Á và châu Âu cho thấy rằng sóng nhiệt có liên quan với sự gia tăng rõ rệt tỷ lệ tử vong (Confalonieri et al., 2007). Đợt nóng ở châu Âu năm 2003 đã cướp đi 20.000 mạng sống, chủ yếu là người nghèo và người cao tuổi. Ở Andhra Pradesh, Ấn Độ, một đợt nóng đã giết chết hơn 1.000 người - chủ yếu là lao động làm việc ngoài trời dưới nhiệt độ cao ở những đô thị nhỏ (Revi, 2008). Đối với đảo nhiệt đô thị, nhiệt độ ở khu vực đô thị cao hơn ở khu vực nông thôn xung quanh do chu kỳ ngày đêm của sự hấp thụ và tái bức xạ sau đó của năng lượng mặt trời và (với một mức độ thấp hơn rất nhiều) sự sinh nhiệt từ các tòa nhà, kết cất bê tông. Việc tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của hiện tượng sóng nhiệt ở các thành phố có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, năng suất lao động, và hoạt động giải trí của người dân đô thị. Nó cũng ảnh hưởng đến kinh tế, như chi phí bổ xung cho việc điều hòa khí hậu trong các toà nhà, và ảnh hưởng đến môi trường, như sự hình thành của khói ở các thành phố hay sự xuống cấp của không gian xanh – đồng thời khí nhà kính tăng lên nếu nhu cầu làm mát tăng nếu hệ thống làm mát dùng điện tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch. Có một số bằng chứng rằng những tác động tổng hợp của sóng nhiệt (ví dụ hiệu ứng đảo nhiệt đô thị) và ô nhiễm không khí có thể lớn hơn tổng tác động của hai hiện tượng này (Patz và Balbus, 2003). Tính dễ bị tổn thương là khác nhau đối với những tác động sức khỏe liên quan đến khí hậu và ô nhiễm không khí trong đô thị. Những yếu tố địa phương như khí hậu, địa hình, cường độ đảo nhiệt, thu nhập, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và tỷ lệ người cao tuổi, là những yếu tố quan trọng trong việc xác định mối quan hệ nhiệt độ - tử vong của dân số. (Curriero et al., 2002).
Biến đổi khí hậu đã hiện hữu tại các đô thị Việt Nam khi nền nhiệt độ ở đô thị cao hơn trung bình so với những khu vực xung quanh. Theo TS Michael Waibel, Đại học Hamburg, CHLB Đức, sự gia tăng đô thị diễn ra hiện nay tại khu vực nam TP Hồ Chí Minh hoặc các khu đô thị mới CIPUTRA hoặc Splendona của Hà Nội đã phủ kín bề mặt các khu vực có giá trị thu nước. Điều này làm giảm khả năng thẩm thấu nước của đô thị trong trường hợp có mưa lớn, khiến cho các khu đô thị hiện hữu và khu mới được quy hoạch tăng khả năng ngập lụt.“Quá trình đô thị hóa trong những năm qua rất nhanh, thiếu kiểm soát, có nơi tự phát”, bà Đỗ Tú Lan nói: ”Tình trạng ngập lụt hiện nay ở đô thị là do quy hoạch chưa chặt chẽ”.16 khu kinh tế ven biển, là những nơi đột phá phát triển kinh tế, cũng sẽ gặp rủi ro bởi biến đổi khí hậu. TS Michael Waibel cho rằng mất đi các thực thể nước và mảng xanh cũng như tăng môi trường xây dựng khiến cho Hà Nội và TP Hồ Chí Minh ngày càng phải chịu ảnh hưởng từ “hiệu ứng đảo nhiệt đô thị”. Hiện tượng này dễ nhận thấy tại các khu vực nội thành xây dựng dày đặc. Thậm chí hiện nay nhiệt độ ở các khu vực này cao hơn từ 8 đến 10 độ C nhiệt độ trung bình so với các khu vực xunh quanh.
4.2.4. Mưa acid phá hủy các công trình – kiến trúc đô thị
Các hạt acid khi rơi xuống nhà cửa và các bức tượng điêu khắc sẽ ăn mòn chúng Hà Nội và các thành phố lớn là nơi lưu giữ khá nhiều di tích lịch sử, các công trình kiến trúc có giá trị quan trọng của cả nước. Do vậy, việc bảo tồn và giữ gìn các công trình này khỏi ảnh hưởng của mưa acid là điều cần thiết. Ông Dương Hồng Sơn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường (Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường) khẳng định: “Nhiều công trình và hiện vật lịch sử đặt ngoài trời nên ảnh hưởng của mưa acid tới các công trình này là không tránh khỏi. Nhưng để đo được mức ảnh hưởng, mức thiệt hại ra sao thì rất khó". Ví dụ như tòa nhà Capitol ở Ottawa đã bị tan rã bởi hàm lượng SO2 trong không khí quá cao. Vào năm 1967, cây cầu bắc ngang sông Ohio đã sập làm chết 46 người; nguyên nhân cũng là do mưa acid. Mưa acid cũng làm hư vải sợi, sách và các đồ cổ quý giá. Hệ thống thông khí của các thư viện, viện bảo tàng đã đưa các hạt acid vào trong nhà và chúng tiếp xúc và phá hủy các vật liệu nói trên. Các chất acid nêu trên trong không khí rất nguy hại đối với cơ thể sống và chúng có thể hủy diệt sự sống. Mưa acid có thể gây ra sự tàn phá đối với hệ thần kinh và gây bệnh thần kinh đối với con người. Điều này xảy ra là vì các sản phẩm của các acid là các hỗn hợp rất độc hại hòa tan trong nước uống.
Các tác hại trực tiếp của việc ô nhiễm do các chất khí acid lên người bao gồm các bệnh về đường hô hấp như: suyển, ho gà và các triệu chứng khác như nhức đầu, đau mắt, đau họng ... Các tác hại gián tiếp sinh ra do hiện tượng tích tụ sinh học các kim loại trong cơ thể con người từ các nguồn thực phẩm bị nhiễm các kim loại này do mưa acid.
4.2.5. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người
Từ những kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học cảnh báo biến đổi khí hậu đang trở thành mối đe dọa đến sức khỏe con người trên toàn thế giới.Theo đánh giá của các nhà khoa học, biến đổi khí hậu đã trở thành một vấn đề vừa cấp thiết, vừa phổ biến đối với các quốc gia, biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Biến đổi khí hậu làm nảy sinh những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, từ đó khiến cho sức khỏe của nhiều người suy giảm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, nhiều bệnh dịch nảy sinh, đe dọa sức khỏe người dân trên toàn thế giới.
Báo cáo của Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) đã khẳng định biến đổi khí hậu gây tử vong và bệnh tật thông qua hậu quả của các dạng thiên tai như sóng nhiệt/nóng, bão, lũ lụt, hạn hán nhiều bệnh, dịch gia tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh sống, nhất là các bệnh truyền qua vật trung gian như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não, các bệnh đường ruột và các bệnh khác Những bệnh này, đặc biệt phát tán nhanh ở các vùng kém phát triển, đông dân cư và có tỉ lệ đói, nghèo cao thuộc các nước đang phát triển.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, ở Việt Nam tình trạng biến đổi khí hậu đã và đang tác động nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. Trong hơn 10 năm qua, diễn biến của một số bệnh truyền nhiễm gây dịch, bệnh lây truyền tăng dần qua các năm.
Trong đó sự biến động của thời tiết có tác động rõ rệt đến sự gia tăng nguy cơ bùng phát các bệnh dịch truyền nhiễm, đặc biệt là các bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa và bệnh đường hô hấp Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, hàng năm Việt Nam có khoảng 3,5 triệu người mắc các bệnh truyền nhiễm với hàng nghìn trường hợp tử vong. Nguyên nhân khiến xuất hiện các bệnh mới nổi và tái nổi là do biến đổi khí hậu, môi trường, sự thay đổi và thích nghi của các vi sinh vật, mật độ dân cư tăng lên, hệ miễn dịch yếu, con người sử dụng thực phẩm biến đổi gene
Cục Quản lý Môi trường Y tế (Bộ Y tế) cho rằng biến đổi khí hậu và sự phát sinh, phát triển bệnh truyền nhiễm là một quá trình có liên quan với nhau thông qua nhiều cơ chế. Thông thường sau thiên tai, môi trường bị xáo trộn lớn, nguồn nước bị ô nhiễm nặng và đây là một trong những nguyên nhân chính gây bùng phát các dịch bệnh đường tiêu hóa và các bệnh khác lây lan theo nguồn nước bao gồm cả các bệnh của động vật, bệnh có ổ dịch tự nhiên, bệnh từ nơi khác đến. Mực nước biển dâng, gia tăng nhiệt độ môi trường, thay đổi lượng mưa là các yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của một số loài muỗi truyền bệnh (sốt rét, sốt xuất huyết).
V. Các biện pháp nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu
5.1. Xây dựng và thực hiện các chính sách thích ứng
Phần lớn chính quyền đô thị tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình không xem xét một cách nghiêm túc vấn đề thích ứng. Ví dụ tại Trung Quốc, Chi lê, Argentina và Mêxico, chính quyền trung ương cũng bắt đầu quan tâm đến khả năng thích ứng nhưng chưa có sự tham gia rộng rãi của các bộ ngành và các cấp chính quyền (Satterthwaite, Huq, Pelling et al.,2007). Có khả năng là có một sự nhầm lẫm đáng kể giữa các chính trị gia địa phương và công chức về biến đổi khí hậu và cách thức ứng phó. Ngay cả các thành phố tại các quốc gia có thu nhập cao với nhận thức cao về BĐKH – mà đã có những cố gắng đáng kể để giảm thiểu phát thải – cũng không có hành động đáng kể nào để thích ứng (Ligeti, Penney and Wieditz, 2007). Tất nhiên, sự thiếu quan tâm tới vấn đề thích ứng khó có thể được cải thiện bởi thiếu dữ liệu liên quan đến tác động trực tiếp và gián tiếp của biến đổi khí hậu ở mỗi khu vực đô thị.
Điều then chốt trong hầu hết các trường hợp thích ứng với biến đổi khí hậu là những chính quyền đô thị có thẩm quyền, có khả năng, có trách nhiệm hiểu phương thức kết hợp các biện pháp thích ứng vào hầu hết các mặt công tác và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban.. Nhiều biện pháp cần thiết có khi chỉ là sự điều chỉnh rất nhỏ từ các biện pháp hiện có - ví dụ như điều chỉnh quy chuẩn xây dựng, quy định phân chia đất đai, quản lý sử dụng đất và các tiêu chuẩn cho cơ sở hạ tầng - nhưng tổng của tất cả các điều chỉnh nhỏ theo thời gian có thể xây dựng khả năng phục hồi mà không cần nhiều chi phí. Các trung tâm đô thị phải đối mặt với những thách thức lớn nhất là những đô thị có vị trí rủi ro cao mà chính quyền địa phương thiếu khả năng trách nhiệm - và thường có cơ sở hạ tầng và dịch vụ hạn chế.
5.2.Xây dựng mô hình sinh thái
5.2.1. Sử dụng hệ thống cây xanh
Để ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, cải thiện không gian sống quanh ta, ngoài các biện pháp giảm thiểu nguồn ô nhiễm thì việc sử dụng cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng. Cây xanh đô thị có vai trò quan trọng trong việc cải tạo khí hậu, bảo vệ môi trường sống và tăng vẻ đẹp kiến trúc cảnh quan của thành phố. Do vậy, cây xanh đô thị cần được xem như công trình hoặc hạng mục công trình xây dựng.
Cây xanh có tính năng cải thiện môi trường đô thị và là một nhân tố quan trọng để đô thị ứng phó với BĐKH, bởi vì:
a. Ảnh hưởng của cây xanh đối với không khí và vi khí hậu đô thị
Người ta thường ví cây xanh đối với môi trường đô thị tương tự như là lá phổi hô hấp của con người.
- Khi gió thổi không khí xuyên qua cây xanh, hàm lượng bụi trong không khí sẽ được các lá cây giữ lại phần lớn, làm cho không khí trong sạch hơn. Cây càng rậm rạp, lá càng sù sì thì bụi càng dễ bám hơn. Khi lá cây đã bám đầy bụi, trời mưa sẽ rửa sạch lá và lá sẽ tiếp tục chu kỳ hấp phụ bụi. Tổng lượng bụi được bám giữ trên 1 cây có tán lá lớn, rậm có thể đạt tới từ 10-30kg. Nồng độ bụi trong không khí thổi qua cây xanh có thể giảm đi từ 20-60%.
- Dưới tác dụng của bức xạ mặt trời, cây xanh sẽ hút nước từ đất, hấp thụ nhiệt bức xạ mặt trời và hấp thụ khí cacbonic (CO2) từ không khí để tiến hành lục diệp hóa và nhả ra khí Oxygen (O2) - rất hữu ích đối với sức khỏe con người và giảm thiểu khí "nhà kính" (gây biến đổi khí hậu). Vì vậy so với vùng đất trống không trồng cây, thì nhiệt độ không khí ở vùng cây xanh ban ngày thấp hơn từ 1-30C, hàm lượng oxy trong không khí lớn hơn tới 20% và hàm lượng CO2 ít hơn. Trong quá trình lục diệp hóa cây xanh sẽ hấp thụ bức xạ mặt trời, hấp thụ nhiệt nên có tác dụng làm giảm sự chói chang trong những ngày nắng nóng, giảm phản xạ bức xạ mặt trời lên công trình, làm giảm nhiệt độ không khí dưới vùng cây xanh và có thể làm tăng độ ẩm không khí từ 2% - 5%, tăng độ ẩm không khí cũng là có lợi đối với ngày khô nóng (gió Lào).
Theo tài liệu nghiên cứu của Nhật Bản:
+ Trung bình 1 ha rừng hay vườn cây rậm rạp có thể hấp thụ 1000kg CO2 và thải ra 730kg O2 mỗi ngày. Trung bình 1 ha thảm cỏ thể hấp thụ 360kg CO2 và thải ra 240kg O2 mỗi ngày.
+ Trung bình 1 người lớn mỗi ngày đêm hô hấp 0,75kg O2 và thải ra 0,9kg CO2. Do đó mỗi người dân đô thị cần có diện tích khoảng 10m2 cây xanh hoặc 25 m2 thảm cỏ để bảo đảm chất lượng không khí tốt cho cuộc sống của con người.
- Cây xanh có khả năng hấp thụ tiếng ồn. Khả năng hấp thụ tiếng ồn của cây xanh phụ thuộc vào dải cây xanh rậm rạp hay thưa thớt, rộng hay hẹp, cao hay thấp. Các hàng cây rậm rạp có thể hấp thụ và làm giảm tiếng ồn khoảng 2 d.
- Cây xanh có tác dụng sát trùng, diệt các vi trùng, vi khuẩn độc hại, vệ sinh môi trường, hấp thụ các khí độc hại, như là các loại cây sau (xếp thứ tự từ cây có tác dụng sát trùng cao đến thấp): các loại cây thông, sồi đỏ, sồi đen, trắc bá diệp, linh sam, trăn, dâu da, v.v
b. Giảm thiểu úng ngập và ô nhiễm môi trường đất, nước
- Cây xanh có khả năng lưu giữ một phần nước mưa trên cây, giữ cho mặt đất xốp cùng với hệ rễ cây đâm sâu xuống đất giúp cho nước mưa thẩm thấu nhanh xuống đất, làm giảm tình trạng úng ngập trong đô thị. Cũng nhờ tính năng này mà ở vùng trung du và miền núi, rừng cây xanh có tác dụng điều hòa nước mưa, làm giảm xói lở đất, giảm lũ tràn, lũ ống, lũ quét.
- Cây xanh có khả năng hấp thụ nhiều chất ô nhiễm độc hại trong môi trường nước và trong môi trường đất, đặc biệt là hấp thụ và giữ chứa lâu dài các chất kim loại nặng, như là chì, asen, thủy ngân... trong các mô bì của lá cây, trong thân cây, cành cây và rễ cây Do cây xanh có khả năng hấp thụ chất ô nhiễm cho nên hiện nay người ta đã sử dụng một số loài thực vật trong dây truyền hệ thống xử lý nước thải, và đang nghiên cứu sử dụng một số loài thực vật để xử lý ô nhiễm đất, hấp thụ kim loại nặng, phục hồi chất lượng đất, kể cả hấp thụ Dioxin trong đất.
c. Tăng mỹ quan đô thị
Hệ thống cây xanh đô thị làm tăng thẩm mỹ cảnh quan đô thị, tạo ra cảm giác êm dịu về mầu sắc và môi trường khí hậu đô thị, tôn cao giá trị thẩm mỹ của các công trình kiến trúc, các đài kỷ niệm, các danh lam, thắng cảnh, phục vụ cho nhu cầu giải trí, nghỉ ngơi, đi dạo và ngoạn mục của nhân dân đô thị, cũng như các khách vãng lai và khách du lịch.
Trồng cây xanh ở đô thị
Các đô thị ven biển phải chuẩn bị các biện pháp từ xa, như trồng rừng ngập mặn để chắn sóng, nước biển dâng và giảm xói lở bờ biển, phát triển các dải cây xanh dọc theo bờ biển để cản gió bão, dành dải đất dự trữ để đắp đê khi cần thiết và để xây dựng các đường ống thoát nước cũng như trạm bơm chống úng ngập khi cần.
5.2.2. Xây dựng đô thị sinh thái
Đô thị sinh thái là đô thị có chất lượng môi trường sống cao, có quan hệ hài hòa với thiên nhiên, có mật độ xây dựng hợp lý, có công trình và hạ tầng kỹ thuật đảm bảo yêu cầu sinh thái, có cảnh quan kiến trúc đẹp đẽ, có nền công nghiệp hoạt động hiệu quả về mặt sinh thái, có áp dụng thành công các giải pháp về năng lượng và giao thông. Do phải có nhiều đặc điểm như trên nên việc tiếp cận đô thị sinh thái không phải là điều đơn giản, thường chỉ thực hiện hạn chế đối với một số lượng nhất định các hệ thống sinh thái có tại địa phương. Điều này đòi hỏi thay đổi cả phương pháp sản xuất công nghiệp, thay đổi hành vi và tâm lý người tiêu dùng, đồng thời phải thiết lập các công cụ để thực hiện các giải pháp đã được nghiên cứu kỹ trên cơ sở nền kinh tế sinh thái và tư duy hệ thống.
Tại nhiều nước trên thế giới, người ta đã cố gắng thực hiện để tiếp cận những điểm dân cư đô thị sinh thái tương tự như tiểu khu sinh thái Herlen ở Hà Lan, thành phố sinh thái Adelaide với tiểu khu sinh thái Chritie Walk ở Oxtralia, thành phố Malmae ở Thụy Điển và tiểu khu Simbiotic ở Nhật Bản. Những mô hình đô thị sinh thái nói trên đã được nhiều chuyên gia sinh thái quan tâm, rút kinh nghiệm, bởi thực tế chưa có thể kết luận được giải pháp nào là khả thi trong một khu vực rộng lớn và có ưu điểm vượt trội.
Để xây dựng được đô thị sinh thái phải có cái nhìn tổng thể về sinh thái và một loạt vấn đề về quy hoạch đô thị, kiến trúc công trình, bảo tồn cảnh quan, công nghiệp, giao thông, quản lý năng lượng, vật liệu và chất thải. Những yêu cầu này liên quan chặt chẽ đến môi trường bên ngoài đô thị (gồm độ sạch của không khí, đất, nước, hệ thống động vật và thực vật, môi trường nghe và nhìn) cũng như môi trường bên trong công trình (độ sạch của không khí, vi khí hậu trong nhà, tiện nghi nhiệt, tiện nghi âm thanh, tiện nghi ánh sáng và chiếu nắng công trình).Thế cũng chưa đủ, khi lập dự án thiết kế, người ta còn phải sinh thái hóa mọi công nghệ, nguồn lực về năng lượng và vật liệu được chọn dùng trong đô thị. Cụ thể hơn là có các giải pháp về tiết kiệm năng lượng, tái sinh năng lượng, giám sát chất lượng môi trường nước, độ tinh sạch của vật liệu, giải pháp sử dụng chức năng của vùng lãnh thổ, các công nghệ có nguồn gốc thiên nhiên trong việc trang bị kỹ thuật công trình, đảm bảo tiện nghi (chiếu sáng, thông gió, cấp nhiệt, xử lý chất thải).
Hơn bao giờ hết, nhiều nước trên thế giới đã nhận thức được vấn đề sinh thái hóa đô thị là nhiệm vụ sống còn để cứu lấy trái đất khỏi ô nhiễm nặng nề. Họ đang tích cực nghiên cứu và thiết kế nhằm tạo ra các điểm dân cư sinh thái, các đô thị sinh thái. Tạo ra môi trường sống lành mạnh mà không làm cạn kiệt nguồn lực năng lượng và vật liệu, đảm bảo có mối quan hệ hài hòa, có quy luật và đồng thời tồn tại giữa các hệ sinh thái, môi trường xây dựng là ước mơ hiện nay của loài người. Chẳng hạn, Trung Quốc và Nga là hai nước lớn về diện tích, về dân số cũng đã phải quan tâm đến việc tiếp cận đô thị sinh thái.
Tại Trung Quốc, mới đây người ta đã tổ chức một Hội nghị tại Trùng Khánh, nhân dịp lần đầu tiên thiết kế và thực hiện thành công một đô thị vệ tinh sinh thái độc đáo cho 5.000.000 dân. Đặc biệt của đô thị này là cảnh quan được bảo tồn ở mức cao nhất, thành phố có một vành đai cây xanh, với nhiều công trình đa chức năng đã được sinh thái hóa. Lại nữa, việc thực hiện bước đầu phương án quy hoạch chung thành phố Thiên Tân, một trung tâm kinh tế công nghệ mới ở vùng Bắc Trung Quốc là một ví dụ điển hình về cách tiếp cận đô thị sinh thái. Người ta đã đầu tư lớn vào kết cấu hạ tầng, xây dựng nhiều cầu vượt để đảm bảo hoạt động hiệu quả tại các nút giao thông, thực tế là đã gỡ ra nhiều nguy cơ gây tắc nghẽn giao thông đô thị trong thời gian trước đây. Trong phương án quy hoạch mới này cảnh quan không những không bị xâm hại mà còn được cải thiện hơn nhiều. Một ưu điểm thấy rõ là độ sạch bầu khí quyển đô thị không kém gì vùng núi.
Tại Liên bang Nga người ta cũng đã nhận thức được việc tiếp cận đô thị sinh thái là bức thiết. Hiện nay môi trường đô thị tại đây chưa đạt các chuẩn mực về vệ sinh môi trường, chứ chưa nói đến sẵn sàng thiết kế và xây dựng các đô thị sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu của cư dân đô thị. Từ việc nghiên cứu khoa học, đầu tư cho công nghiệp, xây dựng cảnh quan bền vững, kết cấu hạ tầng sinh thái, tiết kiệm năng lượng cho đến kiến thức về sinh thái còn chậm so với các nước công nghiệp phát triển khác. Trước mắt, họ đang tập trung nỗ lực để giải quyết hàng loạt vấn đề: 1. Kết hợp các nhân tố xã hội, kinh tế và sinh thái để phát triển đô thị theo hướng tiếp cận đô thị sinh thái; 2. Xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao cho đô thị nhằm đáp ứng yêu cầu hiện nay về môi trường sống; 3. Thỏa mãn các nhu cầu về môi trường kiến trúc cảnh quan đô thị cho dân cư, đồng thời không phá vỡ cân bằng sinh thái; 4. Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp nhằm sinh thái hóa mọi lĩnh vực hoạt động như công nghiệp, năng lượng, giao thông, tiêu thụ nước, sản xuất và tận dụng chất thải; 5. Sinh thái hóa nhu cầu của dân cư và gây thói quen tuân thủ các nguyên tắc thẩm mỹ sinh thái cho những người tham gia thiết kế và xây dựng đô thị sinh thái.
Ý đồ tiếp cận đô thị sinh thái chỉ có thể có kết quả khi quần chúng nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường, của việc bảo vệ trái đất. Tại Trung Quốc cũng như Liên bang Nga, người ta biết rõ điều này nên đã tổ chức những phong trào quần chúng rộng rãi nhằm cổ vũ cho quá trình sinh thái hóa đô thị, họ đã thành lập các tổ chức tương ứng để trao đổi và phổ biến rộng rãi về kinh nghiệm xây dựng các đô thị sinh thái với thành viên là các chuyên gia nổi tiếng về sinh thái trên thế giới. Có lẽ đó cũng là một trong những giải pháp hàng đầu cần áp dụng tại các nước đang phát triển như nước ta.
5.3. Khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo
Tạo lập được cơ chế khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo như: năng lượng khí sinh học (biogas, phế thải trong nông nghiệp ở nông thôn); năng lượng mặt trời (thiết bị đun nước nóng, chiếu sáng bằng pin mặt trời), khí gas (bãi rác đô thị); năng lượng gió (phát điện, bơm nước vào ruộng muối ở vùng ven biển, hải đảo); thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ và cực nhỏ với công suất lắp đặt lên tới hàng nghìn MW (phát điện ở vùng sâu, vùng xa hoặc phối hợp điều tiết, cấp nước, tưới tiêu), ... Đặc biệt, một dự án thí điểm xây dựng chi trả hấp thụ các-bon trong lâm nghiệp đã được triển khai ở huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, nhằm chuẩn bị cho việc tham gia thị trường các-bon của Việt Nam. Để ứng phó với BĐKH, Chính phủ Việt Nam còn triển khai các dự án về sản xuất điện năng không thải CO2. Đó là dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam sẽ được khởi công vào năm 2015 ở Ninh Thuận. Đầu tháng 10-2008, tỉnh Ninh Thuận đã cấp phép đầu tư xây dựng nhà máy điện chạy bằng sức gió có công suất 50 MW. Đây là những bước ứng dụng công nghệ năng lượng mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam mà không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, không gia tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những hoạt động mở đầu, chúng ta còn phải thực hiện ngay những hành động cụ thể như quy hoạch và tiến hành nâng cấp hệ thống đê biển, đê cửa sông bảo đảm chống được mức nước triều tần suất 5% ứng với gió bão cấp 9 (năm 2015) và cấp 10 (năm 2020) đối với các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Nam. Từng bước thực hiện bốn nhân tố chính là vấn đề buôn bán lượng khí thải, hợp tác kỹ thuật, giảm phá rừng, ứng phó với BĐKH nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn để góp phần vào mục tiêu chung của toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức nhưng đến nay những chương trình, kế hoạch đã được triển khai, nhất là công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng và đã tạo được nhiều giống cây trồng mới thích nghi với sự BĐKH. Cùng với sự quan tâm và hợp tác của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam sẽ ứng phó và thích ứng thành công với BĐKH, hạn chế thiên tai, phát triển bền vững.
Sử dụng năng lượng gió
C. KẾT LUẬN
Thiên nhiên đã ban tặng cho con người những ngọn núi hùng vĩ, những dòng sông êm ả và những cánh rừng bát ngát, một hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dàitất cả tạo nên một hành tinh xanh. Thế nhưng do sự khai thác sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cùng với sự phát triển và tham vọng của loài người đã gây ảnh hưởng nặng nề đến toàn cầu nói chung và hệ sinh thái đô thị nói riêng, một loạt những hiện tượng thiên tai xảy ra như mưa acid, bão lũ, cháy rừng, hạn hán đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái đô thị không chỉ trên thế giới mà còn ở cả Việt Nam. Bởi vậy hiện nay con người phải nỗ lực ngăn chặn các khí thải nhà kính, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo được, sử dụng những nhiên liệu không gây ô nhiễm môi trường. Các Hội nghị trong nước và quốc tế liên tục được tổ chức, các quốc gia trên toàn thế giới cùng chung tay bàn bạc về vấn đề biến đổi khí hậu nhằm đưa ra phương án thích ứng đã cho thấy sự quyết tâm của chúng ta trong việc khắc phục hậu quả. Song bên cạnh đó, đây không chỉ là vấn đề của những nhà lãnh đạo mà còn là vấn đề của mỗi người dân chúng ta, mỗi người dân trong chúng ta đều có thể chung tay góp phần vào việc bảo vệ Trái Đất, bảo vệ ngôi nhà chung bằng những hành động đơn giản dễ làm như tiết kiệm nhiên liệu, tham gia trồng cây xanh,tự tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bá, Lâm Minh Triết (2005), Sinh thái Môi trường học cơ bản, NXB ĐHQG, TP HCM.
2. Lưu Đức Hải (2005), Cơ sở khoa học môi trường, NXB ĐHQG, Hà Nội.
3. Nguyễn Thọ Nhân (2009), Biến đổi khí hậu và năng lượng, NXB Tri thức, Tp HCM.
4. Trần Văn Nhân (2008), Sinh thái học môi trường, NXB Bách Khoa, Hà Nội.
5. Lê Văn Khoa, Nguyễn Đức Lương, Nguyễn Thế truyền (2001), Nông nghiệp và môi trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Vũ Trung Tạng (2008), Cơ sở sinh thái học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Vũ Trung Tạng (2007), Sinh thái học hệ sinh thái nước, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thaythuy_1_sinhthaihocungdung_0909.docx