Bài tập lớn học kỳ môn Luật tài chính: giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, trong tương lai, nguồn thu nhập chịu thuế sẽ ngày càng phức tạp, số người nộp thuế TNCN sẽ không ngừng gia tăng, việc miễn trừ thuế và vấn đề về khoản giảm trừ gia cảnh cũng có nhiều điều đáng phải quan tâm. Đặc biệt, vấn đề giảm trừ gia cảnh cũng đang là một vấn đề quan trọng cần xem xét, sửa đổi. trong phạm vi bài làm chúng ta cùng tìm hiểu về giảm trừ gia cảnh theo quy định tại luật thuế thu nhập cá nhân- cơ sở lý luận và thực tiễn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an, Hà Nội, 2008.
2. Dự án Việt - Pháp về tăng cường năng lực đào tạo quản lí tài chính công, Học viện tài chính, Giáo trình pháp luật tài chính, Nxb. Lao động-xã hội, Hà Nội, 2008.
3. Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007
4. Thông tư số 84/2008/TT- BTC ngày 30/9/2009
5. Thông tư số 62/2009/TT – BTC sửa đổi, bổ sung một số điều thông tư 84/2008/TTBTC
6. Trần Vũ Hải, “Thực trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí luật học, số 10/2007
7. Lê Thu Thủy, “Những vấn đề đặt ra khi thực thi Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”, Tạp chí luật học, số 5/2009
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3278 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bài tập lớn học kỳ môn Luật tài chính: Giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, trong tương lai, nguồn thu nhập chịu thuế sẽ ngày càng phức tạp, số người nộp thuế TNCN sẽ không ngừng gia tăng, việc miễn trừ thuế và vấn đề về khoản giảm trừ gia cảnh cũng có nhiều điều đáng phải quan tâm. Đặc biệt, vấn đề giảm trừ gia cảnh cũng đang là một vấn đề quan trọng cần xem xét, sửa đổi. trong phạm vi bài làm chúng ta cùng tìm hiểu về giảm trừ gia cảnh theo quy định tại luật thuế thu nhập cá nhân- cơ sở lý luận và thực tiễn.
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I,CƠ SỞ LÝ LUẬN
1, Khái niệm
Giảm trừ gia cảnh là khoản tiền được trừ trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công của người nộp thuế.
2, Nội dung của giảm trừ gia cảnh theo quy định tại luật thuế thu nhập cá nhân
Giảm trừ gia cảnh được quy đinh tại điều 19 của luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007. Điều 19 luật thuế thu nhập cá nhân quy định “1. Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
a) Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm);
b) Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
2. Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế.
3. Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm:
a) Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
b) Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Chính phủ quy định mức thu nhập, kê khai để xác định người phụ thuộc được tính giảm trừ gia cảnh.”
2.1, Mức giảm trừ gia cảnh
Mức giảm trừ gia cảnh gồm 2 phần, phần đối với người nộp thuế và phần đối với những người phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, như sau:
+ Phần đối với người nộp thuế (thực chất là ngưỡng thu nhập tính thuế) để đảm bảo nguyên tắc chỉ điều tiết một phần thu nhập của những người có thu nhập trên mức bình quân xã hội. Mức giảm trừ nộp thuế được xác định là 4 triệu đồng/người(48 triệu đồng/năm)
+ Phần đối với những người phụ thuộc là có tính đến gia cảnh của cá nhân người nộp thuế. Mức giảm trừ đối với người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/ người.
Việc xác định mức giảm trừ được các nhà làm làm luật xây dựng dựa trên những số liệu thống kê được. Trước khi đưa ra con số 4 triệu đồng/ tháng đối với người nộp thuế và mức 1,6 triệu đồng/tháng đối với người phụ thuộc, các nhà làm luật đã đề suất ra 2 phương án:
* Phương án 4 triệu đồng/tháng: được xây dựng dựa trên số liệu thống kê của Nhà nước và các kết quả điều tra xã hội học về thu nhập, chi tiêu của các tầng lớp dân cư đã được công bố, dự báo theo chỉ số tăng trưởng đến năm 2009-2010.
Với mức giảm trừ 4 triệu đồng/tháng, trường hợp người nộp thuế có hai người phụ thuộc phải nuôi dưỡng dưới 18 tuổi sẽ được giảm trừ là 7,2 triệu đồng/tháng (4 triệu cho bản thân và 3,2 triệu cho 2 người phụ thuộc), trường hợp có thêm người nuôi dưỡng thì mức trừ còn nhiều hơn. Ví dụ, người có thu nhập 10 triệu đồng/tháng nếu nuôi 2 người phụ thuộc dưới 18 tuổi thì thu nhập tính thuế sẽ là 2,8 triệu đồng (10 triệu đồng trừ 7,2 triệu đồng), với biểu thuế như dự kiến thì số tiền thuế phải nộp chỉ là 180.000 đồng/tháng (theo quy định hiện hành thì phải nộp 500.000 đồng/tháng). Như vậy, phần để chi dùng của người nộp thuế bao gồm cả mức giảm trừ gia cảnh và phần thu nhập còn lại sau khi nộp thuế là 9,820 triệu đồng/tháng.
Theo phương án này, ngưỡng chưa thu thuế cho người nộp thuế có 2 người phụ thuộc dưới 18 tuổi cao hơn so với hiện hành (7,2 triệu đồng so với 5 triệu đồng) nhưng đối với người độc thân thì thấp hơn song cũng là hợp lý vì quy định như vậy sẽ đảm bảo tính công bằng của thuế thu nhập cá nhân, khắc phục nhược điểm bình quân của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành.
* Phương án 5 triệu đồng/tháng: Theo phương án này nếu người nộp thuế có thu nhập 10 triệu đồng/tháng và có 2 người phụ thuộc dưới 18 tuổi chỉ nộp thuế 50.000 đồng/tháng; thu nhập còn lại sau thuế là 9,950 triệu đồng. Phương án này sẽ dễ tạo sự đồng thuận nhưng số thu giảm nhiều và mức trừ này cũng là cao hơn so với các nước trên thế giới. (Việt Nam 60 triệu đồng/năm tương đương 3.750 USD, Trung Quốc 726 USD, Malaysia 2.105 USD, Thái Lan: 2.268 USD).
*, Về người phụ thuộc: có ý kiến cho rằng nên khống chế tối đa số người phụ thuộc được tính giảm trừ gia cảnh. Dự luật dự kiến mức trừ cho những người phụ thuộc không quá 10 triệu đồng/tháng (tương đương với trường hợp người nộp thuế nuôi từ 5 đến 7 người). Riêng đối với người phụ thuộc có mức thu nhập thấp hơn mức được giảm trừ gia cảnh, ví dụ như người phụ thuộc có lương hưu 700.000 đồng/tháng thì người nộp thuế được trừ thêm để đảm bảo đủ mức giảm trừ cho người phụ thuộc.
Dựa trên những số liệu và phân tích tình hình thực tế ở Việt Nam, các nhà làm luật đã quyết định mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
2.2, Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh
Việc kê khai mức giảm trừ gia cảnh cho những người phụ thuộc (con, bố, mẹ...), người nộp thuế căn cứ vào thu nhập của bản thân và những người nộp thuế khác trong gia đình để lựa chọn hình thức kê khai mức giảm trừ cho người phụ thuộc nhưng đảm bảo nguyên tắc những người nộp thuế trong một gia đình không kê khai trùng người phụ thuộc của gia đình đó. Để kiểm soát được vấn đề này thì không chỉ người nộp thuế mà cả những người phụ thuộc cũng cần có mã số thuế riêng.
2.3, Đối với người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng
Theo quy định tại điều 19 luật thuế thu nhập cá nhân thì người phụ thuộc là người mà đối tượng thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng bao gồm:
+, Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
+, Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Theo thông tư số 84/2008/TT- BTC ngày 30/9/2009, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành một số điều Nghị định số 100/2008/NĐ –CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và thông tư số 62/2009/TT – BTC sửa đổi, bổ sung một số điều thông tư 84/2008/TTBTC và Nghị định 100/2008/ NĐ – CP thì đối tượng được giảm trừ gia cảnh quy định như sau: “Các cá nhân khác là người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không nơi nương tựa , không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500 nghìn đồng mà đối tượng nộp thuế đang trực tiếp nuôi dưỡng, bao gồm:
Anh ruột , chị ruột , em ruột của đối tượng nộp thuế; Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của đối tượng nộp thuế; Cháu ruột của đối tượng nộp thuế (bao gồm con của anh ruột, chị ruột, em ruột); Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.”
II, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1, Sự cần thiết khi ban hành quy định giảm trừ gia cảnh tại luật thuế thu nhập cá nhân
Khoản giảm trừ gia cảnh là một trong những nội dung quan trọng của Luật Thuế thu nhập cá nhân, quy định cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh sẽ được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế khoản giảm trừ gia cảnh cho bản thân và cho những người phụ thuộc phải nuôi dưỡng. Với việc ban hành quy định về giảm trừ gia cảnh tại luật thuế thu nhập cá nhân đã góp phần quan trọng trong việc áp dụng thống nhất và phù hợp với từng đối tượng chịu thuế. Không những nhà nước ta dễ dàng trong việc quản lý thuế mà người dân cũng được lợi hơn so với việc áp dụng những quy định cũ. Thật vậy, thay vì nộp thuế theo quy định cũ thì hộ kinh doanh và người có thu nhập cao sẽ có lợi hơn rất nhiều so với việc áp dụng luật thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp lệnh thuế thu nhập cao.
Giả sử một hộ kinh doanh có thu nhập từ kinh doanh là 20 triệu đồng/tháng, đang nuôi 2 con nhỏ và 1 mẹ già, mức giảm trừ là 4,8 triệu đồng, như vậy, thu nhập tính thuế là 15,2 triệu đồng, mức thuế phải đóng là 2,28 triệu đồng/tháng, thấp hơn mức thuế khoán đang áp dụng theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Với hộ có đăng ký kinh doanh, mức thuế thu nhập áp dụng theo biểu thuế thu nhập cá nhân mới sẽ thấp hơn nhiều so với mức thuế suất 28% đang thực hiện, đặc biệt trong những trường hợp có nhiều người chịu giảm trừ gia cảnh. Như vậy, với những hộ kinh doanh có thu nhập thấp và số người phụ thuộc đối với người đăng ký kinh doanh càng nhiều thì mức thuế phải nộp sẽ càng ít đi. Đây là một điểm rất có lợi cho các cá nhân kinh doanh trong so sánh với mức thuế họ đang phải chịu.
Cá nhân đang phải đóng thuế thu nhập cao cũng sẽ được lợi hơn khi luật thuế thu nhập cá nhân được thực thi do chính sách giảm trừ gia cảnh được áp dụng. Chẳng hạn, một người có thu nhập 8 triệu đồng/tháng, nuôi 2 con, thuế thu nhập cá nhân người này phải nộp theo Pháp lệnh Thuế thu nhập cao là 300.000 đồng/tháng.
Trong khi đó, từ 1/1/2009, khi Luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực, với mức giảm trừ gia cảnh cho 2 người phụ thuộc là 3,2 triệu đồng, mức thuế phải nộp chỉ còn 40.000 đồng/tháng.
Như vậy, việc ban hành luật thuế thu nhập cá nhân là thực sự cần thiết và quan trọng
2, Thực tiễn áp dụng giảm trừ gia cảnh theo quy định tại luật thuê thu nhập cá nhân
2.1, Những thành tựu đạt được
Luật thuế thu nhập cá nhân được ban hành ngày 27/11/2007, tính đến nay đã thực hiện được gần 4 năm đã thể hiện được tính ưu việt so với những quy định trước đó. Đặc biệt việc áp dụng quy định về giảm trừ gia cảnh đã đem lại rất nhiều lợi ích cho người dân. Cả nước hiện có khoảng 300.000 người thuộc diện chịu thuế thu nhập theo Pháp lệnh Thuế thu nhập cao. Như vậy, nếu áp dụng theo quy định giảm trừ gia cảnh thì những người có thu nhập cao thuộc trường hợp giảm trừ gia cảnh sẽ có lợi ích hơn rất nhiều. Nhìn chung, qua 2 năm triển khai thực hiện Luật Thuế TNCN, Tổng cục thuế đã chú trọng công tác tuyên truyền, hướng dẫn đối tượng nộp thuế với nhiều hình thức phong phú đa dạng, nội dung cụ thể, thiết thực, dễ hiểu giúp người dân hiểu về ý nghĩa của việc thực hiện nghĩa vụ thuế, phương pháp kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế. Đồng thời, Tổng Cục Thuế đã chỉ đạo các Chi cục phân công cán bộ có năng lực nghiệp vụ giỏi tiến hành làm thủ tục hành chính thuế và hướng dẫn kê khai nộp thuế, thành lập các đường dây nóng, các kênh thông tin cần thiết, thích hợp, nhanh chóng và hiệu quả nhất để có thể tư vấn, hỗ trợ và giải đáp những vướng mắc cho các đối tượng nộp thuế. Ngoài ra, Tổng Cục thuế đã cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế với việc triển khai thành công các dự án như “Kê khai thuế qua mạng Internet”, “Hiện đại hóa thu ngân sách nhà nước và thu thuế qua ngân hàng” và “Hệ thống ki-ốt thông tin thuế”. Những cải cách đó đã đem lại lợi ích cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, như: thủ tục nộp hồ sơ khai thuế đơn giản, nhanh gọn, hiệu quả cao và an toàn, không giới hạn về không gian, thời gian trong ngày, tiết kiệm thời gian, chi phí cho người nộp thuế; đơn giản hoá và cải cách triệt để thủ tục hành chính trong quy trình thu nộp thuế, giảm thời gian nộp thuế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế; giúp người nộp thuế thuận tiện hơn trong việc tiếp cận các thông tin liên quan đến thuế; cơ quan thuế xử lý tờ khai nhanh, chính xác, giảm thiểu lao động, thuận lợi cho việc lưu trữ hồ sơ và tra cứu dữ liệu, đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu phục vụ số lượng người nộp thuế ngày càng tăng nhanh trong khi nguồn nhân lực chưa được bổ sung tương ứng...
Nhờ đó, cơ chế tự khai tự nộp thuế theo yêu cầu của Luật Quản lý thuế được quán triệt và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc ở hầu hết các cơ quan chi trả thu nhập và các cá nhân nộp thuế. Việc tổ chức kê khai và khấu trừ thuế TNCN tại nguồn trước khi chi trả thu nhập cho người lao động đã đảm bảo được mục tiêu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời thuế TNCN cho nhà nước. Mặc dù có chính sách miễn thuế TNCN 6 tháng đầu năm 2009 và trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái do khủng hoảng, nhưng số thuế TNCN năm 2009 vẫn cao hơn so với những năm trước đó. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế đã làm cho cả người có thu nhập và cơ quan chi trả thu nhập đều phải tự tìm hiểu, nắm rõ nội dung của Luật và các văn bản liên quan để thực thi, qua đó nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành luật pháp thêm một bước.
2.2, Một số bất cập trong thực tiễn áp dụng
Áp dụng quy định về giảm trừ gia cảnh theo thực tế hiện nay đã bộc lộ nhiều bất cập trong đó việc quy định mức khởi điểm chịu thuế đang là vấn đề nổi cộm nhất.
Theo quy định giảm trừ gia cảnh về mức khởi điểm chịu thuế tại luật thuế thu nhập cá nhân là 4 triệu đồng/người lao động chính và mức giảm trừ gia cảnh là 1,6 triệu đồng/người phụ thuộc. Mức giảm trừ cá nhân và giảm trừ cho người phụ thuộc theo Luật hiện hành là chưa hợp lý, chưa tính đến sự mất giá của đồng tiền. Theo thời giá hiện nay, việc quy định mức giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng/người/tháng đối với cá nhân người nộp thuế và 1,6 triệu đồng/người/tháng đối với người phụ thuộc là chưa đảm bảo cho đời sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở đô thị.
Một điểm chưa hợp lý nữa là mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không tính đến khu vực, có nghĩa là ở nông thôn, thành thị, đồng bằng hay miền núi đều áp dụng như nhau, nhưng thực tế cho thấy mức chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày của một cá nhân ở thành thị là lớn hơn rất nhiều so với ở nông thôn và miền núi.
Phân tích về hai bất cập này thì có thể thấy, rõ ràng mức thu nhập chịu thuế cũng như mức giảm trừ gia cảnh đã thực sự lạc hậu. Đã có rất nhiều ý kiến phản ánh về vấn đề này. Anh Huy Đồng - làm việc tại một doanh nghiệp liên doanh - cho biết: "Hiện tôi có mức thu nhập là 6 triệu đồng/tháng. Với thu nhập này, mỗi tháng tôi phải nộp 100.000đ tiền thuế TNCN. Nhưng điều đáng nói là với thu nhập này, tôi không đủ trang trải chi phí và không thể có tiền dành dụm, tái đầu tư cho bản thân". Anh Đồng phân tích: "Mỗi tháng hiện nay tôi thuê căn nhà ở mức tạm bợ tại Hà Nội đã mất 1 triệu đồng/tháng. Nếu tính thêm tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại cá nhân tôi cũng mất thêm 1 triệu đồng nữa. Với khoảng 4 triệu còn lại, tôi chỉ có thể chi phí cho xăng xe, ăn uống và sinh hoạt hằng ngày. Tôi hầu như không thể dành tiền để lo khám bệnh, thuốc men khi ốm đau, cũng không thể trả tiền học thêm và cũng thật khó có tiền để biếu bố mẹ già ở quê".(theo nguồn báo lao động)
Một vấn đề bất cập nữa đó chính là việc cấp mã số thuế còn chưa hoàn thiện, việc kê khai số người phụ thuộc để áp dụng giảm trừ gia cảnh còn nhiều hạn chế. Theo quy định, để quản lý chặt chẽ người nộp thuế, yêu cầu đặt ra là phải cấp mã số thuế cá nhân cho mọi công dân. Việc người nộp thuế chưa có mã số thuế sẽ gây thiệt hại cho chính người nộp thuế vì phải nộp thuế TNCN với tỷ lệ trích cao hơn. Đặc biệt, việc các cá nhân phụ thuộc không có mã số thuế dẫn đến khe hở và khó kiểm soát chính xác vấn đề giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc, từ đó, gây thất thu thuế TNCN. Việc kê khai giảm trừ gia cảnh chủ yếu là dựa vào ý thức của đối tượng nộp thuế. Điều này đã tạo ra khe hở trong việc kê khai số người phụ thuộc. Ví dụ, cùng 1 ông bố hay bà mẹ, nhưng sẽ được tính trùng thành 2 bởi cả 2 người con ở 2 địa phương khác nhau đều cùng kê khai và chính quyền địa phương sở tại đều xác nhận. Thực tế cho thấy, hiện nay nhiều địa phương khi nhận được một số đơn đề nghị xác nhận đối tượng cư trú có trách nhiệm nuôi dưỡng người phụ thuộc ở địa phương khác (ông, bà, cháu... ở quê), họ không thể nào xác định được mối quan hệ của người phụ thuộc đang sống ở tỉnh khác và người dân đang cư trú trên địa bàn, càng không thể nào biết được có đúng là người dân đang cư trú trên địa bàn có trách nhiệm nuôi dưỡng người đang sống ở tỉnh khác hay không, dẫn tới tình trạng nơi thì chứng nhận hết một cách quá dễ dàng, nơi thì từ chối chứng nhận gây khó khăn cho người dân. Và cũng theo phản ánh của người dân thì một trong những khó khăn mà họ gặp phải là xin hồ sơ để xác định đối tượng phụ thuộc không có thu nhập.
2.3, Nguyên nhân của những bất cập trong việc áp dụng khoản thuế giảm trừ gia cảnh
Những bất cập trên nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả từ những bất cập trong quy định của luật thuế, cũng như từ những yếu tố khác:
Thứ nhất là do dự luật Thuế TNCN được tiến hành xây dựng từ năm 2007 và đến năm 2008 được thông qua , năm 2009 có hiệu lực thi hành. Trong quá trình này, việc căn cứ vào mức thu nhập của năm 2008 (theo cách tính của ngành tài chính là 1,5 triệu đồng/tháng) để áp dụng mức khởi điểm chịu thuế và giảm trừ gia cảnh cho thời gian sau đó đã khiến tính toán này trở nên lạc hậu.
Cụ thể, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2008 là gần 23% so với 2007 - tuy nhiên nhóm lương thực tăng gần 50% và nhóm thực phẩm tăng gần 33%. Tiếp đến năm 2009, CPI là gần 7% so với 2008 - trong đó nhóm lương thực, thực phẩm tăng hơn 8%. Tiếp đó năm 2010, CPI tăng tới 11,75% so với 2009 - nhưng nhóm hàng ăn uống tăng tới hơn 16%. Rõ ràng sau 3 năm, với tốc độ trượt giá của riêng nhóm lương thực thực phẩm thì đã đủ thấy thu nhập của người dân không theo kịp đà tăng giá. Bên cạnh đó, nhóm giáo dục cũng liên tục tăng giá, trong đó có cả việc tăng học phí. Với đà tăng này, mức khởi điểm chịu thuế và giảm trừ gia cảnh đã quá thấp.
Trong hai năm đầu thực hiện, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng thêm 18%. Nếu tính từ thời điểm bắt tay xây dựng luật, CPI đã tăng lên hơn 54% nên mặc dù đã tính đến việc trượt giá, tăng lương nhưng mức khởi điểm chịu thuế 4 triệu đồng/tháng cùng với mức giảm trừ gia cảnh 1,6 triệu đồng/tháng đối với mỗi người phụ thuộc đã trở nên lạc hậu, gây khó khăn đối với một bộ phận người nộp thuế. Vì vậy, việc sớm sửa đổi với mục tiêu “khoan thư sức dân” để bồi dưỡng nguồn thu là rất cần thiết.
Thứ hai, Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế ưa chuộng tiền mặt, phần lớn các khoản thu nhập cá nhân đều được chi trả bằng tiền mặt, do đó, khó có thể tạo ra cơ chế kiểm soát thu nhập cá nhân một cách chính xác và hiệu quả.
Thứ ba, Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành thuế với các cấp chính quyền địa phương, với các tổ chức, cơ quan liên quan trong việc hợp tác triển khai Luật thuế TNCN, dẫn đến những khó khăn trong việc xác định và quản lý gia cảnh người nộp thuế, quản lý hoạt động của các cá nhân kinh doanh tự do, hành nghề độc lập,...
Thứ tư, Hiện tượng tiêu cực và bất công trong việc nộp thuế TNCN vẫn chưa được xử lý triệt để, làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả thực tế và công bằng của Luật thuế, gây một số bức xúc trong quần chúng nhân dân.
2.4, Một số giải pháp để hoàn thiện quy đinh về khoản giảm trừ gia cảnh
Thứ nhất, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, sự trượt giá của đồng tiền cũng như tốc độ trượt giá của các mặt hàng như lương thực , thực phẩm ngày càng mạnh mẽ thì mức khởi điểm chịu thuế và giảm trừ gia cảnh đã trở lên lạc hậu, chúng ta cần phải đề ra những phương pháp để giải quyết những bất cập đó.
*, Phương án thứ nhất: không nên cố định mức khởi điểm chịu thuế
Chúng ta cần dứt khoát phải có sự điều chỉnh mức khởi điểm chịu thuế cũng như mức giảm trừ cho người phụ thuộc. Cách tính lần này chúng ta nên đặt chủ trương khoan sức dân để không đặt mức khởi điểm chịu nộp thuế ở mức quá thấp, khiến khoản tiền dành lại để cho người nộp thuế chi tiêu quá ít. Hơn nữa việc điều chỉnh phải mang tính dài hạn.Cụ thể, nên quy định thu nhập bắt đầu chịu thuế ở mức gấp 10 lần lương tối thiểu chung và mức khấu trừ cho người phụ thuộc gắn với lương tối thiểu để khi lương tối thiểu tăng, mức giảm trừ cũng sẽ điều chỉnh theo. Không nên ấn định một mức cố định như thời gian qua vì luôn lạc hậu với thực tế xã hội.
*, Phương án thứ 2: nếu chiếu theo mức lương tối thiểu khu vực sản xuất trong nước hiện nay (tính theo vùng) với mức thấp nhất là 830.000 đồng/tháng và cao nhất là 1.350.000 đồng/tháng thì mức khởi điểm tính thuế TNCN sẽ tương ứng là 6.640.000 đồng và 10.080.000 đồng. Tuy nhiên, hiện tại ở nước ta có nhiều mức lương tối thiểu. Lương tối thiểu khu vực sản xuất trong nước thường cao hơn mức lương tối thiểu khu vực hành chính sự nghiệp và được áp dụng từ ngày 1-1 hàng năm.Theo đó, mức khởi điểm tính thuế sẽ thay đổi hằng năm theo mức điều chỉnh lương tối thiểu. Mức giảm trừ gia cảnh cũng sẽ được sửa đổi theo mức lương tối thiểu và có thể bằng ba lần lương tối thiểu (mức giảm trừ gia cảnh hiện tại là 1,6 triệu đồng/người) và cân nhắc để người nộp thuế ở đô thị sẽ được giảm trừ gia cảnh nhiều hơn người nộp thuế ở khu vực nông thôn.
*, Phương án thứ ba :là hạ thuế suất của bậc thuế đầu tiên từ 5% hiện nay xuống còn 1%-2%. Theo biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công theo quy định hiện hành, bậc thấp nhất là 5% áp dụng cho mức thu nhập đến 5 triệu đồng/tháng (đã trừ khoản giảm trừ gia cảnh cho cá nhân và người phụ thuộc). Còn đối với bậc thuế suất cao nhất được áp mức 35% cho mức thu nhập từ 85 triệu đồng/tháng để điều tiết người có thu nhập cao thì có thể giảm xuống 30% hoặc 32% để phù hợp với thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế (thường áp mức 33%, tương đương 1/3 tổng thu nhập của người chịu thuế).
Thứ hai, cần đẩy mạnh hơn nữa việc đăng ký và cấp mã số thuế cá nhân, tiến tới mỗi công dân đều có một mã số để theo dõi quản lý, không phân biệt có thu nhập chịu thuế hay không có thu nhập chịu thuế.
Thứ ba, để cơ chế tự khai, tự nộp thuế TNCN phát huy hiệu quả, cần tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê khai và tính thuế. Đồng thời cần có lộ trình triển khai thực hiện phù hợp, từng bước từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng nhóm để quản lý; nên có cơ chế khuyến khích các đối tượng nộp thuế tự nguyện áp dụng phương pháp tự khai tự nộp thuế, chẳng hạn như cho phép được hưởng các khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các chế độ ưu đãi khác.
Thứ tư, cùng với việc hoàn thiện cơ chế tự khai tự nộp thuế, thì công tác thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế TNCN cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ quan thuế phải tập trung lực lượng lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra kiểm tra việc chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như cơ quan công an, cơ quan ngoại vụ, cơ quan quản lý lao động,... để nắm bắt kịp thời thông tin về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh thu nhập, có biện pháp phân loại đối tượng nộp thuế thành các nhóm khác nhau để thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả.
Thứ năm, kiện toàn tổ chức bộ máy thuế, chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành thuế song song với việc tăng cường cơ sở vật chất cho ngành thuế theo hướng hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong thực tế hiện nay, khoản giảm trừ gia cảnh có ý nghĩa rất lớn đối với những người dân. Bên cạnh những thành tựu đạt được như tạo điều kiện thuận lợi trong việc đóng thuế, áp dụng khoản giảm trừ gia cảnh theo quy định tại luật thuế thu nhập cá nhân 2007 sẽ giảm được mức thuế phải đóng so với việc áp dụng các quy định của các văn bản trước…Tuy nhiên, nó vẫn bộc lộ hạn chế như mức giảm trừ gia cảnh so với hiện nay đã trở lên lạc hậu, ý thức chấp hành của người dân chưa cao...Mong rằng trong thời gian tới, các nhà làm luật sẽ có những giải pháp để sửa đổi sao cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, để đảm bảo quyền lợi cho đông đảo nhân dân cũng như để tránh thất thu cho ngân sách nhà nước
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an, Hà Nội, 2008.
Dự án Việt - Pháp về tăng cường năng lực đào tạo quản lí tài chính công, Học viện tài chính, Giáo trình pháp luật tài chính, Nxb. Lao động-xã hội, Hà Nội, 2008.
3,Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007
4, Thông tư số 84/2008/TT- BTC ngày 30/9/2009
5, Thông tư số 62/2009/TT – BTC sửa đổi, bổ sung một số điều thông tư 84/2008/TTBTC
6,Trần Vũ Hải, “Thực trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí luật học, số 10/2007
7, Lê Thu Thủy, “Những vấn đề đặt ra khi thực thi Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”, Tạp chí luật học, số 5/2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn học kỳ môn Luật tài chính- giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân.docx