Đề tài Bài thu hoạch môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh

NỘI DUNG : I - Vài nét về Bảo Tàng Hồ Chí Minh Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh (còn được biết đến với tên gọi Bến Nhà Rồng) tọa lạc tại số 1 đường NguyễnTất Thành, phường 12, quận 4. Đây là một đơn vị thuộc Sở Văn Hóa Thông Tin TP. HồChí Minh và là một chi nhánh nằm trong hệthống các Bảo tàng và Di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước.Trước đây là trụ sở của Tổng công ty vận tải Hoàng Đế (Messageries Impériales) -một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngôi nhà được xây dựng từ giữa nǎm 1862 đến cuối nǎm 1863, được hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trǎng theo kiểu "lưỡng long chầu nguyệt", một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó nên tòa nhà được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến Cảng Nhà Rồng. Nǎm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý, họ đã tu sửa lại mái ngói ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế quay đầu ra ngoài. Nơi đây, vào ngày 05/06/1911, người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất II - Sơ lược về thời niên thiếu của Bác Chủ tịch Hồ Chí Minh tên gọi thời niên thiếu là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/05/1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam . III - Quá trình tìm đường cứu nước của Bác Ngày 05/06/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba đã xuống tàu Amiral Latouche Tréville của Pháp để sang phương Tây tìm đường cứu nước. Người ra đi chỉ mang theo hành trang là đôi bàn tay trắng, một bầu nhiệt huyết của tuổi . IV - Bác lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp và giành chiến thắng. V - Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Bác VI – Sự mất mát không thể bù đắp được của cách mạng Việt Nam VII – Bác Hồ - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam VIII– Vài cảm nghĩ của bản thân qua chuyến tham quan thực tế Bảo tàng Hồ Chí Minh – chi nhánh TP.HCM Qua chuyến tham quan bản thân em đã cảm nhận thêm được nhiều điều bổ ích về cuộc đời, sự nghiệp của Bác, một con người đã cống hiến, đã hi sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp giải phóng giai cấp trên thế giới. Chúc các bạn học tốt !!!

doc8 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5932 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bài thu hoạch môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I - Vài nét về Bảo Tàng Hồ Chí Minh Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh (còn được biết đến với tên gọi Bến Nhà Rồng) tọa lạc tại số 1 đường NguyễnTất Thành, phường 12, quận 4. Đây là một đơn vị thuộc Sở Văn Hóa Thông Tin TP. HồChí Minh và là một chi nhánh nằm trong hệthống các Bảo tàng và Di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước.Trước đây là trụ sở của Tổng công ty vận tải Hoàng Đế (Messageries Impériales) -một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngôi nhà được xây dựng từ giữa nǎm 1862 đến cuối nǎm 1863, được hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trǎng theo kiểu "lưỡng long chầu nguyệt", một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó nên tòa nhà được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến Cảng Nhà Rồng. Nǎm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý, họ đã tu sửa lại mái ngói ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế quay đầu ra ngoài. Nơi đây, vào ngày 05/06/1911, người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Amiral Latouche Tréville (với tên Văn Ba) ra đi tìm đường cứu nước.Sau hơn 30 năm bôn ba ở nước ngoài với biết bao gian khổ khó khăn, nhưng với sự quyết tâm cùng với một tấm lòng nồng nàn yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã tìm thấy con đường sẽ giúp nước nhà tìm thấy độc lập tự do – con đường cứu nước theo Chủ Nghĩa Mác-Lênin- từ đó Hồ Chí Minh đã trở thành nhà cách mạng lỗi lạc, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cuộc Cách Mạng Tháng Tám thành công, lập ra nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong hơn 20 nǎm hoạt động, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đã đón tiếp gần 20 triệu lượt khách trong và ngoài nước đến tham quan. Đặc biệt có hang trǎm đoàn nguyên thủ quốc gia và đoàn cao cấp các nước đến thǎm viếng, tìm hiểu, nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ 400 tư liệu, hiện vật (nǎm 1980) đến nay đã có 11.372 tư liệu, hiện vật và 3300 đầu sách chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. II - Sơ lược về thời niên thiếu của Bác Chủ tịch Hồ Chí Minh tên gọi thời niên thiếu là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/05/1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Song thân của Người là cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc và cụ bà Hoàng Thị Loan. Chị gái Bác là bà Nguyễn Thị Thanh và anh trai là ông Nguyễn Sinh Khiêm.Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc và cụ bà Hoàng Thị Loan Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và cụ bà Hoàng Thị Loan Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc vừa là cha, vừa là người thầy đầu tiên dạy chữ Hán cho Bác. Quê hương Nghệ An – Hà Tĩnh của Bác vốn là một vùng đất anh dũng, có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, là quê hương của nhiều nhà yêu nước, nhà văn hóa vĩ đại như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu …, đặc biệt là danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và sự thất bại của những phong trào đấu tranh chống thực dân (phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh …), Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. “Nhân dân Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh ra tôi lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Với suy nghĩ đó, Bác đã quyết tâm sẽ ra nước ngoài tìm một con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. III - Quá trình tìm đường cứu nước của Bác Ngày 05/06/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba đã xuống tàu Amiral Latouche Tréville của Pháp để sang phương Tây tìm đường cứu nước. Người ra đi chỉ mang theo hành trang là đôi bàn tay trắng, một bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ muốn cống hiến cho Tổ quốc và một tấm lòng nồng nàn yêu nước. Từ năm 1912 - 1917, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động, Người thông cảm sâu sắc cuộcsống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Người sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc củanhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Người đã hoạt động tích cực nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc giành tự do, độc lập.Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), các nước thắng trận họp Hội nghị ở Véc-xây (Pháp) chia lại thị trường thuộc địa thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị bản "Yêu sách 8 điểm" đòiquyền dân chủ cơ bản cho nhân dân các nước Đông Dương. Tuy Bản yêu sách khôngđược bọn đế quốc thừa nhận nhưng đã gây tiếng vang lớn và đã ảnh hưởng rộng rãitrong quần chúng Pháp. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học, để giải phóng dân tộcmình, phải do chính mình quyết định chứ không phải chủ yếu dựa vào nước ngoài.Năm 1917, Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công cùng với sự ra đời của Quốc Tế III là những sự kiện trọng đại tác động mạnh đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Tháng07/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận Cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và Người đã tìm thấy ở Chủ Nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như nói với quần chúng đồng bào : Hỡi đồng bào bị đày đọa đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (Hồ Chí Minh). Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã Hội Pháp họp ở thành phố Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế III (Quốc Tế Cộng Sản), trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp. Đây là hành động đánh dấu sự trưởng thành quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản. Người đã khẳng định một chân lý : “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.Người đã nói : “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa, chúng tôi thấy rằng việc Đảng Xã Hội gia nhập Quốc Tế III có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể rằng từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề”.Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Thuộc Địa. Tháng 4-1922, Hội xuất bản báo“Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. “Báo Le Paria là vũ khí để chiến đấu, sứ mạng của nó đã rõ ràng : Giải phóng con người”Người còn viết một số bài đăng trên báo “Đời sống công nhân”, đặc biệt tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân. Năm 1923 tại Liên Xô, Người hoạt động trong Quốc Tế Cộng Sản, tham gia nhiều hội nghị quan trọng, tìm hiểu xã hội Xô Viết, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức Đảng kiểu mới của Lênin, tiếp tục tuyên truyền các quan điểm của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đặc biệt trong báo cáo tại Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ V, Người đã phác họa phương hướng chiến lược trong cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1924 Người về Trung Quốc tham gia thành lập nhiều tổ chức cách mạng như: Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (1925). Người đã xuất bản tuần báo “Thanh Niên” - tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ; ngoài ra còn có tác phẩm “Đường kách mệnh” - một văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Mùa xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long, thuộc Hồng Kông. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. “Hỡi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được thành lập, đó là Đảng của giai cấp vô sản, Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức bóc lột chúng ta”.1930 là cột mốc đánh dấu quá trình ra nước ngoài tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam đã thành công. Đến lúc này, Bác đã tìm được câu trả lời đúng đắn nhất cho câu hỏi thời niên thiếu của mình về cách thức giúp nước nhà thoát khỏi thân phận thuộc địa. Người đã từng khẳng định trong “Đường kách mệnh” : “Bây giờ học thuyết nhiều , chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất , chắc chắn nhất và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin”. Con đường đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin chính là con đường duy nhất có thể mang lại cho Việt Nam sự độc lập, tự do. Bác đã nói về vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung cũng như vai trò của Lênin vĩ đại đối với cách mạng Việt Nam : “Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng. Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. IV - Bác lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp và giành chiến thắng. Ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Cách Mạng Tháng Tám năm 1945.Tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông.Mùa xuân năm 1933, Người được trả tự do. Từ 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva. Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam,Người tiếp tục theo dõi chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước.Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước. 28/01/1941, Người về nước lần đầu tiên sau hơn 30 năm xa Tổ quốc.Tháng 05/1941,Người triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tháng 08/1942, Người sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian 1 năm 14 ngày bị giam trong tù, Người đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người được trả tự do. Tháng 09/1944, Người trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tiền thân của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.Thế chiến thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các nước đồng minh. Tháng 05/1945, Bác rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Bác làm Chủ tịch. Sau Cách Mạng Tháng Tám thắng lợi, ngày 02/09/1945, Bác Hồ đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại Quảng Trường Ba Đình tuyên bố với thế giới và nhân dân trong nước quyền độc lập của dân tộc Việt Nam, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa -Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Ngay sau đó, thực dân Pháp quay lại gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước, cùng Trung Ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, từng bước giành thắng lợi. Tháng 02/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng nhằm quyết tâm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao Động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung Ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954) chấn động toàn cầu, giải phóng hoàn toàn miền Bắc. V - Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Bác Từ năm 1954, Người cùng Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đại hội Đảng Lao Động Việt Nam lần thứ III, họp vào tháng 09/1960, Người khẳng định: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình, thống nhất nước nhà”. Tại Đại hội Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Từ năm 1965 đến tháng 09/1969, cùng với Trung ương Đảng, Người tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước. VI – Sự mất mát không thể bù đắp được của cách mạng Việt Nam Ngày 2/9/1969 sau một cơn đau tim nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi để lại cho nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế niềm tiếc thương vô hạn, nhất là khi cách mạng Việt Nam đã đến rất gần ngày thắng lợi nhưng Bác đã không còn để chung vui niềm vui chiến thắng với quân dân miền Nam. Trước khi qua đời, trong bản di chúc để lại cho nhân dân Việt Nam, Bác đã dặn dò tất cả các nhiệm vụ phải làm của CM VN trong thời gian tới, cũng như tăng cường đào tạo cho thế hệ trẻ làm nền tảng cho đất nước sau này. Đối với cuộc kháng chiến, Người đã hết sức tin tưởng vào thắng lợi đã gần kề : “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay! Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”. Người viết : “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là : Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đến lúc sắp ra đi, Người vẫn để lại tấm gương lớn cho cán bộ Đảng viên, quân và dân cả nước bằng đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính của mình. Người căn dặn : “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Đoàn đại biểu nhân dân cách mạng Việt Nam mặc niệm trước linh cửu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội trường Ba Đình (tháng 09/1969) Đến những ngày cuối đời, trong lòng Người vẫn canh cánh một nỗi niềm muốn được cống hiến nhiều hơn nữa cho cách mạng Việt Nam : “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ bằng chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” kéo dài 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội (từ ngày 18/12 – 30/12/1972) đã buộc chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện được mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. VII – Bác Hồ - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của không chỉ riêng của dân tộc Việt Nam mà còn là của cả cách dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân trên thế giới. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng Mác-Lênin ở Việt Nam, sáng lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam, sáng lập Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam). Người luôn luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị. Cả cuộc đời vĩ đại của Hồ Chủ Tịch là tấm gương sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước thương dân thắm thiết, đạo đức, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn giản dị. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là một nhà chính trị lỗi lạc mà còn là một nhà giáo dục, một nhà văn hóa lớn. Vì vậy năm 1990 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, Tổ chức Giáo dục và Văn hoá Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là "Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất".Vị đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO đã phát biểu : “Hồ Chí Minh sẽ được ghi nhận không chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”. VIII– Vài cảm nghĩ của bản thân qua chuyến tham quan thực tế Bảo tàng Hồ Chí Minh – chi nhánh TP.HCM Qua chuyến tham quan bản thân em đã cảm nhận thêm được nhiều điều bổ ích về cuộc đời, sự nghiệp của Bác, một con người đã cống hiến, đã hi sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng như sự nghiệp giải phóng giai cấp trên thế giới. Từ khi đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ, nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến hung bạo, từ lúc mà hầu hết nhà yêu nước đương thời, kể cả cụ thân sinh ra Người cũng đang bế tắc trong vấn đề tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được trách nhiệm thiêng liêng của bản thân với Tổ quốc. Bác Hồ – vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nước Việt Nam, một con người hết lòng vì nước vì dân, hết lòng phục vụ đất nước từ khi Người đang còn rất trẻ. Ở tuổi 21, Người đã mạnh dạn san phương Tây để tìm đường cứu nước, trải qua biết bao khó khăn gian khổ, cuối cùng Người cũng tìm được đến chủ nghĩa Mác-Lênin và Người đã tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc ta, vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam từng bước tiến lên, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Những gì Người đã làm cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như cách mạng giải phóng giai cấp bị áp bức bóc lột trên thế giới là không gì có thể so sánh được. Bao nhiêu năm rồi cũng sẽ trôi qua nhưng Bác Hồ sẽ sống mãi trong sự nghiệp chúng ta. Đây là 1 hoạt động vô cùng bổ ích trong chương trình giáo dục ở bậc đại học, nó giúp cho sinh viên hiểu rõ hơn truyền thống yêu nước, quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc mà tiêu biểu trong đó là quá trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc của Bác. Chuyến đi này, cùng với chuyến tham quan Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh của bộ môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh của bộ môn Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học chính là những buổi học ngoại khóa hết sức thiết thực, nó giúp cho sinh viên chúng em mở rộng thêm kiến thức, hiểu thêm về lịch sử hào hùng của dân tộc, từ đó càng nỗ lực học tập để giúp ích cho đất nước. Là sinh viên, công dân trẻ và là người chủ tương lai của đất nước, bản thân em thấy mình phải có ý thức nhiều hơn nữa với sự nghiệp xây dựng đất nước ở thời điểm hiện tại và tương lai. Với ý chí và quyết tâm của mình, Bác từ 1 thanh niên yêu nước với đôi bàn tay trẳng và lòng yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ đã đem lại Độc lập – Tự do – Hạnh phúc cho cả dân tộc. Giờ đây mỗi sinh viên với trách nhiệm và vai trò của mình phải góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp trong thời kì đổi mới và hội nhập, để có thể đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Bác để xứng đáng là con cháu Bác Hồ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài thu hoạch môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh !!!.doc
Luận văn liên quan