Đề tài Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu - Nhìn từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thực hiện theo chỉ thị đó, SINOSURE đã tăng cường cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, bên cạnh sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu truyền thống, SINOSURE còn cung cấp thêm các sản phẩm như bảo hiểm rủi ro trước khi gửi hàng cho các doanh nghiệp hay bảo hiểm tín dụng trong nước có liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, nhằm cung cấp dịch vụ thuận tiện hơn, SINOSURE còn bỏ bớt các điều kiện để được cung cấp bảo hiểm đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đơn giản hóa các thủ tục bảo hiểm.

pdf100 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2971 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu - Nhìn từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành đầu tư tại nước ngoài và cho các tổ chức tài chính cung cấp tài chính cho hoạt động đẩu tư nước ngoài của các doanh nghiệp trên. Các rủi ro được SINOSURE bảo hiểm là: - Việc trưng thu tài sản (bao gồm cả quốc hữu hóa, tịch thu sung công) của Chính phủ nước nhận đầu tư. 70 - Hạn chế chuyển từ nội tệ sang ngoại tệ và chuyển lợi nhuận ra khỏi nước nhận đầu tư. Rủi ro giảm giá tiền tệ không được bảo hiểm. - Tổn thất các tài sản hữu hình do chiến tranh hoặc không có khả năng thực hiện hoạt động do chiến tranh hoặc các sự kiện chính trị khác nhưi bạo loạn, nổi dậy của dân chúng… - Việc hủy hợp đồng đầu tư của các cơ quan chức trách nước nhận đầu tư, bao gồm cả chính quyền các địa phương. Trong loại hình bảo hiểm này, SINOSURE đưa ra các sản phẩm bảo hiểm dành cho các hình thức đầu tư nước ngoài, cụ thể là: - Bảo hiểm cho tài sản đầu tư (Equity Insurance Policy) - Bảo hiểm cho các khoản đầu tư để trở thành cổ đông (Shareholder Loan Policy) - Bảo hiểm cho các khoản cho vay của các tổ chức tài chính (Financial Institutions Loan Policy) b) Bảo hiểm đầu tư trong nước (Inbound Investment Insurance): được sử dụng nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư từ các khu vực tự trị Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan tiến hành đầu tư vào Trung Quốc đại lục. Nó bảo hiểm cho các nhà đầu tư trước những tổn thất phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư do các rủi ro về chính trị ở Trung Quốc. Bảo hiểm đầu tư trong nước bao gồm bảo hiểm cổ phần đầu tư và bảo hiểm nghĩa vụ pháp lý. Đặc điểm của cả hai loại bảo hiểm đầu tư của SINOSURE đó là: - Được tài trợ bởi Chính phủ Trung Quốc thông qua quỹ bảo hiểm rủi ro tín dụng quốc gia trong Ngân sách Nhà nước. - Là hoạt động phi lợi nhuận - Bảo vệ các nhà đầu tư trước các rủi ro chính trị- những rủi ro bị loại trừ tại các doanh nghiệp bảo hiểm thương mại. 71 Bảo hiểm đầu tư giúp cho các nhà đầu tư (cả nhà đầu tư Trung Quốc và nước ngoài) giảm thiểu tổn thất ngoài ra còn được hỗ trợ tài chính, khai thác được các thị trường mới nổi trên thế giới và nhận được sự giúp đỡ về khả năng quản lý rủi ro chuyên nghiệp của SINOSURE. Trong bảo hiểm đầu tư, các nhà đầu tư được lựa chọn 2 loại thời hạn bảo hiểm là: - Thời hạn bảo hiểm cam kết (Commitment Insurance Period): thời hạn bảo hiểm trùng với thời gian hoàn vốn của dự án đầu tư hoặc hoàn lại khoản cho vay, thường là từ 3 đến 20 năm. - Thời hạn bảo hiểm ban đầu (Initial Insurance Period): thời hạn bảo hiểm là 3 năm đầu của dự án đầu tư, sau đó nhà đầu tư có thể yêu cầu gia hạn thêm thời hạn bảo hiểm. Tỷ lệ được bảo hiểm trong bảo hiểm đầu tư là từ 90 đến 95% giá trị của khoản đầu tư hoặc khoản cho vay. Để được cung cấp bảo hiểm đầu tư, SINOSURE yêu cầu các nhà đầu tư phải cung cấp các thông tin như: - Thông tin về nhà đầu tư, bao gồm bản copy của giấy phép kinh doanh, báo cáo tài chính được kiểm toán trong 3 năm gần nhất và kinh nghiệm của nhà đầu tư trong lĩnh vực đầu tư… - Thông tin về dự án đầu tư như giá trị của khoản đầu tư, hình thức đầu tư, vòng đời của dự án, loại tiền tế đầu tư… - Thông tin về tài chính như người cho vay, giá trị của khoản vay, thời hạn hoàn trả… - Nghiên cứu tính khả thi của dự án - Tất cả những giấy phép, thỏa thuận, đảm bảo và các chứng từ có liên quan theo yêu cầu của SINOSURE. Về khiếu nại tổn thất, nhà đầu tư được bảo hiểm sẽ phải thông báo cho SINOSURE trong vòng 30 ngày kể từ ngày phát sinh tổn thất và phải tiến hành khiếu nại trong vòng 18 tháng kể từ ngày phát sinh tổn thất. Hồ sơ khiếu 72 nại tổn thất bao gồm mẫu đơn khiếu nại và tất cả các chứng từ liên quan làm bằng chứng chứng minh tổn thất. Ngoài bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm đầu tư, SINOSURE còn cung cấp một dịch vụ giá trị gia tăng rất nổi bật và được các doanh nghiệp Trung Quốc đánh giá cao, đó là dịch vụ xếp hạng tín dụng (Credit rating Service). Dịch vụ này bao gồm phân tích rủi ro quốc gia và báo cáo thông tin tín dụng doanh nghiệp. Từ năm 2005, SINOSURE đã đưa ra phân tích rủi ro quốc gia lần đầu tiên dựa trên những phân tích định tính và định lượng phục vụ cho các sản phẩm bảo hiểm của chính công ty và cung cấp thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu Trung Quốc giúp họ có định hướng trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, SINOSURE còn cung cấp báo cáo phân tích ngành tại một nước cụ thể hoặc trên thị trường toàn cầu theo yêu cầu đặc biệt của khách hàng. Những thông tin của SINOSURE dựa trên nhiều nguồn, từ bản thân các phân tích của công ty và từ những đánh giá của các tổ chức quốc tế cung cấp cho các doanh nghiệp những thông tin về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như điều kiện tài chính từ quốc gia đến các ngành đến các doanh nghiệp, hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp, giúp họ giảm được rất nhiều chi phí trong việc tìm hiểu thị trường mới và giảm thiểu các rủi ro có thể gặp phải khi khai thác các thị trường mới này. Ngoài ra SINOSURE đã ký một văn bản thỏa thuận với Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc cam kết hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (các doanh nghiệp có doanh thu xuất khẩu hàng năm dưới 2 triệu $), theo đó từ năm 2005 SINOSURE chính thức triển khai thêm dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu dành cho khối các doanh nghiệp này với thủ tục thuận tiện hơn và mức phí bảo hiểm thấp hơn. Một chương trình rất đáng được quan tâm mà SINOSURE đã thực hiện trong thời gian qua là chương trình thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản thông qua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Từ đầu năm 2006, hai thị trường xuất khẩu 73 chủ lực của nông sản Trung Quốc là Nhật Bản và Liên minh Châu Âu đã áp dụng các quy định mới về an toàn thực phẩm, siết chặt hơn các tiêu chuẩn chất lượng đối với hàng nông sản, thực phẩm nhập khẩu vào các thị trường này. Những rào cản kỹ thuật này khiến cho hàng nông sản xuất khẩu của Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn, kim ngạch xuất khẩu không còn giữ được tốc độ tăng trưởng như trước. Trước tình hình đó, Bộ Thương mại Trung Quốc đã ra chỉ thị yêu cầu các Sở Thương mại các địa phương và SINOSURE phối hợp khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản tăng cường cung cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu và tăng khả năng quản lý rủi ro tín dụng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế đi cùng với biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực, trong đó bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được coi là biện pháp hỗ trợ chính. Thực hiện theo chỉ thị đó, SINOSURE đã tăng cường cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, bên cạnh sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu truyền thống, SINOSURE còn cung cấp thêm các sản phẩm như bảo hiểm rủi ro trước khi gửi hàng cho các doanh nghiệp hay bảo hiểm tín dụng trong nước có liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, nhằm cung cấp dịch vụ thuận tiện hơn, SINOSURE còn bỏ bớt các điều kiện để được cung cấp bảo hiểm đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đơn giản hóa các thủ tục bảo hiểm. Theo thống kê của SINOSURE thì trong năm 2006, số hợp đồng bảo hiểm dành cho các sản phẩm nông nghiệp chiếm đến 20% trong tổng số hợp đồng bảo hiểm của công ty và ngày càng có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đã mở rộng các điều kiện tín dụng cho nhà nhập khẩu và mở rộng khai thác các thị trường mới có tiêu chuẩn về hàng nông sản ít khắt khe hơn các thị trường truyền thống do an tâm với bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của SINOSURE. 74 2.2.3. Kết quả và bài học kinh nghiệm. Đến cuối năm 2007, tức là sau 6 năm hoạt động, SINOSURE đã bảo hiểm cho 112,17 tỷ $ giá trị hàng hóa xuất khẩu với tổng phí bảo hiểm thu được là 1,43 tỷ$ và đã chi trả cho các tổn thất là 0,83 tỷ$10.Quy mô khách hàng của công ty từ vài trăm doanh nghiệp lúc ban đầu đã lên đến vài nghìn doanh nghiệp xuất khẩu. Giá trị bảo hiểm và phí bảo hiểm thu được tăng đều qua các năm, cụ thể: Bảng 7: Kết quả hoạt động qua các năm của SINOSURE (đơn vị: trăm triệu $) Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Giá trị bảo hiểm 27,52 57,14 132,89 212,13 295,67 396,29 Phí bảo hiểm 0.55 1,00 1,92 2,78 3,60 4,44 Giá trị chi trả cho các tổn thất 0,70 0,98 0,99 1,10 1,16 2,82 (Nguồn: Performance Review 2007, SINOSURE) Có thể nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ của SINOSURE và sản phẩm bảo hiểm của công ty đã được các doanh nghiệp ngày càng quan tâm nhiều hơn nhằm đảm bảo cho họ trước một môi trường đầy cơ hội cũng như thách thức của một thị trường phát triển nhanh nhất thế giới và các sản phẩm xuất khẩu của Trung Quốc đang chiếm lĩnh thị trường toàn cầu. Giá trị bảo hiểm năm 2007 của SINOSURE là 39,63 tỷ $, chiếm 3,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc trong đó giá trị bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ngắn hạn cho các doanh nghiệp xuất khẩu là 30,10 tỷ $, tăng 29,10% so với năm trước với giá trị phí bảo hiểm là 200 triệu $, chiếm gần 50% tổng giá trị phí bảo hiểm thu được. SINOSURE cung cấp bảo hiểm ngắn hạn cho hàng hóa xuất khẩu đến 176 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới trong đó có 5 thị trường lớn nhất là Mỹ, Hàn Quốc,Đức, Nhật và Hồng Kông11. 10 Nguồn: Performance Review 2007, SINOSURE 11 Nguồn: Performance Review 2007, SINOSURE. 75 Về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trung và dài hạn: SINOSURE không chỉ tập trung hỗ trợ cho các dự án và các ngành công nghiệp trọng điểm mà còn mở rộng ra nhiều ngành hơn nữa. Năm 2007, SINOSURE cung cấp bảo hiểm cho 42 dự án trung và dài hạn với tổng giá trị bảo hiểm là 3,45 tỷ$, tăng 31,8% so với năm trước, trong đó có 28 dự án là bảo hiểm tín dụng người mua và 14 dự án là bảo hiểm tín dụng nhà cung cấp. Về bảo hiểm đầu tư: tổng giá trị bảo hiểm năm 2007 là 3,9 tỷ $, tăng 51.3% so với năm trước với 32 dự án đầu tư. SINOSURE vẫn đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện các sản phẩm của mình, đưa thêm các sản phẩm mới để thu hút sự quan tâm hơn nữa và đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp với sự cho phép của Chính phủ Trung Quốc. Tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu được bảo hiểm trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vẫn còn ở mức thấp và để đạt được mục tiêu đến năm 2010, tỷ lệ này sẽ ở mức từ 10 đến 15% thì còn rất nhiều việc mà SINOSURE phải làm, không chỉ tự hoàn thiện các sản phẩm của mình để bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trở thành một công cụ hỗ trợ xuất khẩu hiệu quả mà còn phải nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về lợi ích to lớn của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bởi nhận thức của các doanh nghiệp nước này trong lĩnh vực này vẫn còn chưa được đầy đủ mặc dù nó đã tồn tại ở Trung Quốc được gần 20 năm. Qua những hoạt động và những thành công bước đầu của SINOSURE có thể rút ra được một số bài học sau: 1) SINOSURE là một công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hoạt động dưới sự quản lý của Bộ Tài chính, cung cấp các sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như là một công cụ hỗ trợ xuất khẩu do đó khi tình hình thị trường quốc tế thay đổi, SINOSURE có thể thay đổi một cách linh hoạt các chính sách của mình cho phù hợp với mục tiêu cao nhất là hỗ trợ được càng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu càng tốt. Có thể lấy ví dụ từ chương trình 76 hỗ trợ xuất khẩu nông sản ở trên để thấy được sự hoạt động linh hoạt từ Cơ quan chủ quản đến hoạt động cụ thể của SINOSURE cho phù hợp với những yêu cầu mới trong một thị trường quốc tế luôn biến động. Mô hình thành lập một công ty chuyên cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như ở Trung Quốc được đánh giá là phù hợp hơn với các nước đang phát triển muốn xây dựng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu so với mô hình xây dựng thêm sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại một Ngân hàng hoặc một công ty bảo hiểm thuộc sở hữu Nhà nước đã có sẵn như mô hình của US Eximbank. Do hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đòi hỏi một trình độ quản lý và kỹ năng chuyên môn cao, xây dựng một công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ bớt đi một số vấn đề phức tạp nảy sinh trong quản lý bởi ở các nước đang phát triển cả trình độ quản lý điều hành lẫn trình độ chuyên môn quản lý tín dụng còn có những hạn chế nhất định, tránh tình trạng có xây dựng nhưng không thể hoạt động do lúng túng trong quản lý và triển khai. Hơn nữa khi thành lập một công ty chuyên biệt, đây sẽ là đầu mối trong triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, gắn kết doanh nghiệp xuất khẩu với các công cụ hỗ trợ xuất khẩu, như vậy sẽ hoạt động có hiệu quả trong điều kiện một nước mới triển khai cung cấp loại hình bảo hiểm này. Ngoài ra, đơn vị này trong quá trình hoạt động sẽ tập trung vào hoạt động của mình, nghiên cứu những vấn đề còn tồn tại để hoàn thiện sản phẩm của mình, đưa ra thêm các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp trong những hoàn cảnh thay đổi của thị trường quốc tế. 2) Hoạt động tăng cường hỗ trợ cho xuất khẩu nông sản trong hoàn cảnh các thị trường nhập khẩu chính siết chặt hơn các hàng rào kỹ thuật là một bài học rất đáng chú ý đối với các nước đang phát triển nói chung và với Việt Nam nói riêng- những nước nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực và cũng đang phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật về vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường nhập khẩu hàng nông sản lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… 77 3) SINOSURE vẫn chưa áp dụng tiêu chuẩn nguồn gốc xuất xứ đối với hàng xuất khẩu được cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bởi hàng gia công cho nước ngoài vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc, do đó nếu áp dụng thì sẽ có thể giảm một lượng đáng kể các doanh nghiệp được cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Hơn nữa, việc áp dụng quy tắc nguồn gốc xuất xứ không phải là một việc dễ dàng, để đưa ra một tỷ lệ tối thiểu hàm lượng nội địa là bao nhiêu cho phù hợp với đặc điểm chung của hàng hóa xuất khẩu của quốc gia để có thể cung cấp bảo hiểm cho lượng giá trị hàng hóa lớn nhất có thể là một vấn đề không dễ đối với một công ty mới hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, và còn phải cần thời gian đề nghiên cứu. Mặc dù không đưa ra tiêu chuẩn nguồn gốc xuất xứ như là một hình thức hỗ trợ cho sản phẩm trong nước xuất khẩu nhưng sản phẩm bảo hiểm của SINOSURE cùng với các công cụ hỗ trợ khác ưu tiên hỗ trợ cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà Chính phủ Trung Quốc đưa ra với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu. 78 Chương III: GIẢI PHÁP VẬN DỤNG KINH NGHIỆM VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI VIỆT NAM. 1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM: Hiện tại có 2 hình thức tín dụng xuất khẩu phổ biến tại Việt Nam, đó là: (1) Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ: gồm có tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trung và dài hạn và tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn. - Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn: bao gồm các khoản vay ngắn hạn, kể cả các khoản vay cho các hợp đồng xuất khẩu với thời hạn thanh toán lên đến 720 ngày; bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. - Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trung và dài hạn: bao gồm các khoản vay đầu tư trung và dài hạn; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo đảm tín dụng đầu tư. (2) Tín dụng xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại: chủ yếu dưới dạng cho vay tài trợ xuất khẩu để giúp các doanh nghiệp có đủ vốn thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Đối với tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ, tháng 12/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu Nhà nước. Nghị định này ra đời cùng với sự thành lập của Ngân hàng phát triển Việt Nam nhằm cung cấp tín dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu thay thế cho các hình thức hỗ trợ xuất khẩu trước đây như: thưởng thành tích xuất khẩu, trợ cấp thay thế nhập khẩu hay chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu dưới hình thức cho vay lãi suất ưu đãi đã không còn phù hợp trong hoàn cảnh Việt Nam sắp sửa trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đối tượng áp dụng tại Nghị định 151 là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có dự án thuộc diện vay vốn đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư; các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế 79 trong nước có hợp đồng xuất khẩu hoặc các tổ chức nước ngoài nhập khẩu hàng hoá thuộc diện có vay vốn, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Theo đó, đối với tín dụng đầu tư của Nhà nước, mức vốn cho vay đối với mỗi dự án tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án đó và do Ngân hàng Phát triển Việt Nam quyết định. Đồng thời, Ngân hàng Phát triển Việt Nam cũng quyết định thời hạn cho vay của dự án dựa trên khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư với mức tối đa là 12 năm; với một số dự án đặc thù (dự án nhóm A, trồng cây thông, cây cao su), thời hạn cho vay tối đa là 15 năm. Lãi suất cho vay được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng lần đầu tiên và không thay đổi cho cả thời hạn vay vốn. Lãi suất cho vay đầu tư bằng đồng Việt Nam được tính bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng 0,5%/năm; lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay trong hạn. Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn và dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn... được hưởng lãi suất cho vay bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm và được hỗ trợ sau đầu tư. Đối với tín dụng xuất khẩu, mức vốn cho vay tối đa bằng 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu đã ký hoặc giá trị L/C (thư tín dụng) đối với cho vay trước khi giao hàng hoặc trị giá hối phiếu hợp lệ đối với cho vay sau khi giao hàng; thời hạn cho vay không quá 12 tháng và lãi suất do Bộ Tài chính quyết định theo nguyên tắc phù hợp với lãi suất thị trường. Như vậy, các doanh ngiệp đã có một nguồn vay vốn khá rẻ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đến tháng 3/2007, Bộ Tài chính công bố mức lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 9%/năm, bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi là 6,9%/năm. Có hai loại đối tượng được vay vốn tín dụng xuất khẩu là các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào việc xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thuộc danh mục ưu tiên khuyến khích xuất khẩu, phát huy lợi thế của quốc gia và các khách hàng nước ngoài vay vốn để mua hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục ưu tiên 80 khuyến khích xuất khẩu. Điều kiện để khách hàng nước ngoài được vay vốn là phải có sự bảo lãnh từ Chính phủ hoặc Ngân hàng Trung Ương. Đến tháng 8/2008, cùng với làn sóng nâng lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại, Bộ Tài chính cũng công bố lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu Nhà nước bằng đồng Việt Nam lên 14,4%/năm, bằng ngoại tệ là 7,8%/năm. Mức lãi suất này vẫn thấp hơn mức lãi suất cho vay trung bình của các Ngân hàng thương mại từ 4 đến 5% vào thời điểm lúc bấy giờ. Sau đó tháng 2/2009, các mức lãi suất này giảm xuống còn 6,9%/năm và 5,4%/năm cùng với đà giảm lãi suất chung trên thị trường do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Tín dụng xuất khẩu Nhà nước được xem là một nguồn cung cấp vốn giá rẻ cho các doanh nghiệp xuất khẩu do có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước song các doanh nghiệp vẫn quen với việc vay vốn từ các Ngân hàng thương mại để phục vụ cho nhu cầu vốn của mình. Tỷ lệ các doanh nghiệp vay vốn từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam có tăng nhưng vẫn ở mức khiêm tốn so với nhu cầu về vốn rất lớn của các doanh nghiệp do đó tín dụng xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại vẫn đang là một kênh hỗ trợ vốn quan trọng cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Một hình thức tín dụng khác đó là tín dụng thương mại do người xuất khẩu dành cho người nhập khẩu cũng chưa phổ biến tại Việt Nam, chỉ có rất ít các doanh nghiệp lớn cung cấp tín dụng loại này cho người nhập khẩu do hạn chế về vốn và trình độ quản lý rủi ro tín dụng còn yếu kém. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hiện nay vẫn chỉ sử dụng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng để giảm thiểu rủi ro trong thanh toán trong khi trên thế giới thư tín dụng đã không còn được sử dụng nhiều, đặc biệt là tại châu Âu, Mỹ, Nhật Bản vì chi phí cao và thủ tục phức tạp trong việc mở thư tín dụng hay xuất trình chứng từ để thanh toán, thay vào đó là các hình thức tín dụng chứng từ (D/A, D/P) và đặc biệt là phương thức ghi sổ (Open Account) được sử dụng ngày càng rộng rãi vì đã giảm đi chi phí và các thủ tục phức tạp, tăng độ tin 81 cậy lẫn nhau trong thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa dám chấp nhận các phương thức thanh toán này bởi độ rủi ro cao trong khi khả năng về vốn lại hạn chế, hiểu biết về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và những lợi ích của nó còn hạn chế và nhà cung cấp bảo hiểm cũng chưa có nên doanh nghiệp chưa mạnh dạn cấp tín dụng cho người nhập khẩu. 2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM. 2.1. Nhu cầu về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thì nhu cầu về loại hình bảo hiểm này ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại và trong tương lai gần là rất lớn và nếu được triển khai sẽ phát triển nhanh chóng vì một số lý do chủ yếu sau: Một là, Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt đầu năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới mang lại cho xuất khẩu Việt Nam cơ hội phát triển to lớn nhờ việc thị trường được mở rộng và các nhà xuất khẩu Việt Nam được đối xử công bằng hơn trên thị trường quốc tế song cũng đặt ra không ít thách thức do phải tuân thủ các quy định của tổ chức này về các công cụ hỗ trợ xuất khẩu, xúc tiến thương mại. Các biện pháp hỗ trợ trực tiếp đã không còn được cho phép sử dụng mà thay vào đó Chính phủ sẽ phải áp dụng các biện pháp hỗ trợ khác được cho phép. Song hiện nay các công cụ hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ như: hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ về xây dựng thương hiệu, hỗ trợ tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được triển khai tại Việt Nam sẽ đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đầu tư. 82 Hai là, xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, sẽ tạo nên nhu cầu được bảo đảm trước các rủi ro rất lớn của các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính. Từ khi mở cửa nền kinh tế năm 1986, xuất khẩu của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam qua các năm (từ 1995 đến 2008). 0 10 20 30 40 50 60 70 1995 1998 2001 2004 2007 Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam) Chủng loại hàng hóa xuất khẩu cũng ngày càng đa dạng và phong phú hơn, hiện tại các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép, gạo, hải sản, cà phê, cao su, gỗ và các sản phẩm gỗ, máy vi tính, sản phẩm và linh kiện điện tử, dây điện và dây cáp điện. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng được mở rộng, trước đây thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là các nước ASEAN, một số nước trong khu vực châu Á và Đông Âu là các bạn hàng truyền thống, hiện tại thị trường xuất khẩu đã được mở rộng, các thị trường chính của xuất khẩu Việt Nam là ASEAN, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ, Liên minh Châu Âu EU và một số nước châu Phi. 83 Cùng với sự mở cửa nền kinh tế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các thủ tục thành lập doanh nghiệp trở nên đơn giản và thuận tiện hơn, các điều kiện để hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng đã được dỡ bỏ là các điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam. Số lượng các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu ngày càng gia tăng trong đó phần lớn là các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp xuất khẩu đã mạnh dạn tìm kiếm sản phẩm xuất khẩu, tìm kiếm thị trường mới, mở rộng hoạt động sản xuất xuất khẩu. Đây là lượng khách hàng tiềm năng rất lớn của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu khi mà nhu cầu được bảo đảm trước các rủi ro khi khai thác thị trường mới hay mở rộng tín dụng thương mại cho người nhập khẩu gia tăng. Không chỉ xuất khẩu phát triển mà tín dụng xuất khẩu cũng đang phát triển nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu của hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Như đã nêu ở trên, ở Việt Nam hiện nay có 2 loại hình tín dụng xuất khẩu là tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước và tín dụng xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại. Đi cùng với sự phát triển của xuất khẩu là nhu cầu về vốn của ngày càng nhiều các doanh nghiệp để duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất xuất khẩu cũng tăng theo. Do đó tín dụng xuất khẩu cũng phát triển cả tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước và tín dụng xuất khẩu của các Ngân hàng thương mại. Ngoài ra, dù thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thói quen sử dụng thư tín dụng trong thanh toán để đảm bảo an toàn song bản thân phương thức thanh toán này cũng chứa đựng nhiều rủi ro, hơn nữa, tại các thị trường xuất khẩu chính, các nhà nhập khẩu đã quen với việc sử dụng các phương thức thanh toán trả chậm, tức là quen được hưởng tín dụng do nhà xuất khẩu cấp thì các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn duy trì xuất khẩu vào các thị trường này sẽ buộc phải chấp nhận cấp tín dụng cho người nhập khẩu. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt 84 nếu không chấp nhận, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tự làm khó mình bởi các nhà nhập khẩu sẽ lựa chọn những nhà cung cấp khác sẵn sàng cấp tín dụng cho họ. Cùng với sự phát triển của các hình thức hỗ trợ tín dụng từ phía Nhà nước và các Ngân hàng, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ ngày càng làm quen và mở rộng các điều kiện tín dụng dành cho nhà nhập khẩu, duy trì mối làm ăn và tạo ra lợi thế cho mình. Tín dụng luôn đi kèm với rủi ro, do đó khi tín dụng xuất khẩu ngày càng mở rộng thì nhu cầu bảo đảm cho những khoản tín dụng này trước rủi ro không thanh toán cũng sẽ tăng lên. Tất cả những điều kiện trên sẽ tạo nên nhu cầu rất lớn đối với bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và sẽ là môi trường tốt cho loại hình bảo hiểm này phát triển mạnh mẽ. 2.2. Thực trạng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay. Nhu cầu thì lớn và sẽ tăng mạnh song bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam hiện nay vẫn mới chỉ dừng lại ở bước đầu sơ khai nhất, đó là mô hình Quỹ bảo hiểm xuất khẩu của Hiệp hội cao su Việt Nam. Do tình hình giá cả cao su thường xuyên biến động, tháng 12/2006, Hiệp hội cao su Việt Nam đã thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng cao su. Mục đích của Quỹ là khắc phục và hạn chế rủi ro trong xuất khẩu cao su do thay đổi giá, thị trường mới chưa ổn định, rủi ro trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Quỹ còn hỗ trợ cho hội viên vay trung và ngắn hạn để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu cao su cũng như hoạt động xúc tiến thương mại. Mô hình này hoạt động có hiệu quả nhưng cũng chỉ dừng lại ở một mô hình bảo hiểm cho các hội viên hiệp hội một ngành hàng, hoạt động do nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp hội viên. Từ tháng 8/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 110/2002/QĐ- TTg cho phép các hiệp hội ngành hàng thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu nhưng đến nay cũng mới chỉ có Hiệp hội cao su là có quỹ bảo hiểm xuất khẩu còn một số hiệp hội ngành hàng mạnh và có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, thủy 85 sản, cà phê vẫn chưa quan tâm nhiều tới bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các doanh nghiệp vẫn phải tự mình đối phó với những rủi ro của thị trường thường xuyên lên xuống bất thường. Ở nhiều nước việc thành lập các Quỹ bảo hiểm xuất khẩu là bước đầu cho việc hình thành công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, giúp cho doanh nghiệp làm quen với thói quen bảo hiểm cho hoạt động xuất khẩu của mình song ở Việt Nam để có thể hình thành được công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu từ mô hình quỹ bảo hiểm thì cần có sự quan tâm nhiều hơn từ phía các doanh nghiệp cũng như các hiệp hội ngành hàng. Có rất nhiều nguyên nhân của việc bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vẫn chưa phát triển và phổ biến ở Việt Nam, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Sự thiếu mặn mà của các doanh nghiệp đối với bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: lý giải cho sự kém mặn mà này có thể nói đến những yếu tố cơ bản sau: Một là, các doanh nghiệp xuất khẩu chưa nhận thức được hết những rủi ro trong giao dịch quốc tế, các hợp đồng xuất khẩu lớn vẫn chủ yếu sử dụng thư tín dụng như là biện pháp đảm bảo an toàn cho việc thanh toán bởi đã có một ngân hàng đứng ra thanh toán thay cho người nhập khẩu. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen tìm hiểu các thông tin về người nhập khẩu hay đánh giá những rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động xuất khẩu, tức là khả năng quản lý rủi ro tín dụng còn rất yếu kém, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn chưa nhận thức được thế nào là rủi ro tín dụng nên cũng không quan tâm tới bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Hai là, trên thế giới, phí bảo hiểm được xếp vào chi phí để xác định giá thành sản phẩm nhưng hiện nay ở nước ta vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen đưa phí bảo hiểm vào giá thành bởi lo ngại sẽ làm tăng giá bán, sẽ mất đi khách hàng. Do đó họ rất ngần ngại trước bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bởi khi tham gia bảo hiểm mà phí bảo hiểm lại không tính vào giá bán thì lợi nhuận của họ sẽ bị giảm đi. 86 Ba là, hiện tại các doanh nghiệp ít cấp tín dụng cho người mua do e ngại rủi ro trong thanh toán mà chưa nhận thức được rằng tín dụng xuất khẩu cùng với bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một công cụ marketing hiệu quả, không chỉ giữ chân được khách hàng quen thuộc mà còn thu hút thêm khách hàng mới, tạo ra cho mình lợi thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt. Sự kém mặn mà này là trở lực rất lớn cho sự phát triển của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam. (2) Các công ty bảo hiểm còn ngại tham gia. Hiện nay tại Việt Nam theo các quy định của pháp luật hiện hành thì bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một trong bảy nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ được chủ động trong việc triển khai sản phẩm bảo hiểm (theo Nghị định 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007) chỉ cần đăng ký quy tắc, điều khoản và biểu phí sản phẩm bảo hiểm với Bộ Tài chính trước khi áp dụng. Quy định mở là vậy song các công ty bảo hiểm vẫn còn ngần ngại chưa triển khai loại hình bảo hiểm này vì hai lý do chủ yếu sau: Một là, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu khác với các loại hình bảo hiểm truyền thống khác, nó yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải có kỹ năng chuyên môn cao, đòi hỏi về vốn và năng lực điều hành rất cao do liên quan tới hoạt động giao thương toàn cầu với giá trị lớn, quy trình đánh giá, phân tích rủi ro, kiểm soát rủi ro, xử lý khiếu nại và thu hồi nợ trên phạm vi rộng lớn. Tất cả đòi hỏi một trình độ và kỹ năng chuyên môn vào, cơ chế cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch về tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Song hiện nay, hiểu biết lẫn kỹ năng chuyên môn về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn yếu và kém, hệ thống các dịch vụ hỗ trợ như kiểm toán chưa đủ tin cậy, thông tin tài chính về doanh nghiệp có thể sai lệch, sổ sách của các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu tính minh bạch, dịch vụ thu hồi nợ cũng còn yếu và kém hiệu quả khiến các công ty bảo hiểm nản lòng không dám tham gia cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Không chỉ các doanh nghiệp 87 bảo hiểm trong nước e ngại mà các tổ chức bảo hiểm quốc tế lớn dù rất muốn khai thác thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam cũng gặp không ít trở ngại. Trở ngại từ phía các quy định của pháp luật về điều kiện hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, trở ngại vì thiếu thông tin đầy đủ và chính xác về các doanh nghiệp, trở ngại trong khung pháp lý điều hành loại bảo hiểm đặc biệt này còn thiếu…Một tập đoàn bảo hiểm lớn của Mỹ là AIG đã rất muốn thâm nhập thị trường nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở một buổi giới thiệu sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam và vẫn đang tìm hiểu thị trường và khả năng triển khai bảo hiểm tín dụng tại Việt Nam. Hai là, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là loại hình bảo hiểm mang lại rất ít lợi nhuận thậm chí là không có lợi nhuận vì mục đích của loại bảo hiểm này là khuyến khích xuất khẩu, tỷ lệ được bảo hiểm cao và tỷ lệ phí bảo hiểm thấp. Hơn nữa, khi cung cấp loại hình bảo hiểm này, công ty bảo hiểm sẽ gặp phải rất nhiều rủi ro. Do đó, nếu không có sự hỗ trợ về vốn từ Ngân sách Nhà nước thì công ty bảo hiểm dù muốn cũng không có khả năng thực hiện. Trong khi đó chúng ta vẫn còn thiếu nhận thức về tầm quan trọng của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và thiếu cơ chế chính sách liên quan đến việc hỗ trợ vốn cho các công ty cung cấp loại bảo hiểm này nhằm thúc đẩy xuất khẩu do vậy các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn còn rất e ngại trước việc đưa ra sản phẩm bảo hiểm này cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Tất cả những lý do trên khiến cho bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở nghiên cứu, ở những buổi hội thảo về lợi ích của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và mô hình của một số nước, Chính phủ, các bộ ban ngành liên quan vẫn đang loay hoay với bài toán mô hình nào cho bảo hiểm tín dụng xuât khẩu tại Việt Nam. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vẫn chỉ là tiềm năng phát triển. 88 3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM. 3.1. Trong thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các nước đã triển khai bảo hiểm tín dụng thì trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, để có thể phát triển loại hình bảo hiểm này cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, mà trước hết Việt Nam phải có một tổ chức tín dụng xuất khẩu chính thức của nước mình bởi hiện tại nước ta chưa có tổ chức tín dụng xuất khẩu nào. Trong ba mô hình tổ chức tín dụng xuất khẩu phổ biến hiện nay thì mô hình là một tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước được đánh giá là phù hợp nhất bởi hầu hết các nước trên thế giới, cả các nước phát triển và đang phát triển đều sử dụng mô hình này rất có hiệu quả. Tổ chức này sẽ có thể trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Chính phủ hoặc của một bộ chuyên ngành như Bộ Công thương hay Bộ Tài chính. Song có một vấn đề cần được nghiên cứu thêm, đó là nên thành lập một tổ chức tín dụng xuất khẩu mới là một công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như mô hình công ty Bảo hiểm xuất khẩu và tín dụng Trung Quốc hay biến một trong các Ngân hàng Nhà nước hiện nay trở thành một tổ chức tín dụng xuất khẩu và Ngân hàng này sẽ cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bên cạnh các sản phẩm hỗ trợ xuất khẩu khác giống như mô hình của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ (US Eximbank). Theo mô hình của US Eximbank thì chúng ta có thể chọn một trong hai tổ chức là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam, hoặc Ngân hàng Phát triển Việt Nam là các Ngân hàng được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trở thành tổ chức tín dụng xuất khẩu và cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Mô hình này có ưu điểm là đã có sẵn một tổ chức mà tổ chức này đã cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chỉ cần nghiên cứu thêm về sản phẩm bảo hiểm như các loại hình bảo hiểm có thể triển khai, mức phí bảo hiểm, các quy định…để có thể đưa vào hoạt động, bộ máy tổ chức, lãnh đạo 89 và các sản phẩm truyền thống vẫn giữ nguyên. Song với mô hình này nếu áp dụng ở Việt Nam sẽ khác so với ở Mỹ vì thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Mỹ đã phát triển, hoạt động của các công ty bảo hiểm tư nhân cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu rất tốt và có hiệu quả, US Eximbank chỉ đóng vai trò hỗ trợ thêm, lấp những khoảng trống của thị trường, còn ở Việt Nam thì Ngân hàng mà chúng ta lựa chọn sẽ phải đóng vai trò cốt yếu và là đầu mối trong cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bởi hiện tại nước ta chưa có tổ chức nào cung cấp loại hình bảo hiểm này. Do đó sẽ nảy sinh một số vấn đề về khả năng hoạt động hiệu quả khi mà Ngân hàng vừa không có kinh nghiệm trong một lĩnh vực mới mẻ và rất phức tạp này vừa phải hoạt động ở nhiều lĩnh vực do còn cung cấp nhiều loại sản phẩm đặc thù của một ngân hàng. Vấn đề này nảy sinh là do những hạn chế trong khả năng quản lý cũng như trong kỹ năng chuyên môn về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong khi lĩnh vực này đòi hỏi những kỹ năng rất cao. Kỹ năng chuyên môn có thể đào tạo mà không gặp phải quá nhiều khó khăn nhưng để có được một đội ngũ lãnh đạo có thể dẫn dắt một tổ chức với rất nhiều sản phẩm hoạt động có hiệu quả, phục vụ cho mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu thì ở Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn. Nếu tổ chức tín dụng xuất khẩu này không thể cung cấp bảo hiểm có hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của thị trường thì sẽ là một khó khăn rất lớn cho chúng ta để có thể phát triển được loại hình bảo hiểm này. Còn với mô hình công ty SINOSURE của Trung Quốc nếu áp dụng chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi hơn so với mô hình trên. Đầu tiên phải nhắc tới một số điểm tương đồng giữa nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc, đó là tỷ trọng đóng góp của kim ngạch xuất khẩu vào giá trị tổng sản phẩm quốc nội GDP lớn, tốc độ phát triển xuất khẩu nhanh, các sản phẩm xuất khẩu tương tự nhau, lợi thế cạnh tranh cũng khá giống nhau, Trung Quốc cũng mới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, sớm hơn Việt Nam 6 năm và khi họ mới gia nhập WTO cũng gặp những khó khăn, thách thức giống như Việt Nam, nhất là trong việc thay đổi các công cụ hỗ trợ xuất khẩu cho phù hợp với hoàn cảnh 90 mới. Do đó chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều từ những kinh nghiệm đi trước của Trung Quốc- cường quốc xuất khẩu số một thế giới hiện nay. Với mô hình công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và là tổ chức duy nhất chịu trách nhiệm về lĩnh vực này của Trung Quốc có những ưu điểm sau: Thứ nhất, đây là công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thì từ cán bộ quản lý đến các cán bộ hoạt động chuyên môn sẽ chỉ tập trung vào một lĩnh vực duy nhất là bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, do đó sẽ có thể hoạt động có hiệu quả hơn mô hình trên. Ngoài ra, do chỉ tập trung trong một lĩnh vực nên công ty trong quá trình hoạt động sẽ nghiên cứu để hoàn thiện sản phẩm, đưa ra những sản phẩm mới cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh mới. Thứ hai, đây là tổ chức duy nhất cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thuộc sở hữu Nhà nước do đó Nhà nước sẽ quản lý và định hướng được sự phát triển của thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong nước, kịp thời hỗ trợ các doanh nghiệp khi tình hình thị trường xuất khẩu có biến động thông qua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Khi mà thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa phát triển thì tổ chức duy nhất này sẽ là đầu mối phục vụ chuyên môn, hỗ trợ có hiệu quả nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Do đó mô hình thành lập một công ty chuyên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để triển khai loại hình bảo hiểm này tại Việt Nam sẽ có hiệu quả hơn là một tổ chức đã có sẵn sẽ triển khai thêm sản phẩm này. Tuy nhiên mô hình này cũng có một nhược điểm đó là vấn đề về cơ chế chính sách ưu đãi cho hoạt động của công ty; cấu tổ chức sao cho hợp lý, hiệu quả; sự ràng buộc của các quy định của pháp luật trong hoạt động của công ty, vấn đề về sử dụng Ngân sách ra sao…Song nhìn chung đây vẫn là mô hình mà Việt Nam nên áp dụng khi triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Chúng ta cũng có thể nhờ đến sự giúp đỡ của Trung tâm Thương mại quốc tế khi thành lập tổ chức tín dụng xuất khẩu liên quan đến các vấn đề chuyên môn. 91 Về sản phẩm bảo hiểm của công ty có thể học tập các sản phẩm của SINOSURE bởi cách phân loại các sản phẩm của họ giúp cho các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính khá cụ thể, dễ hiểu, và dễ xác định sản phẩm nào phù hợp với đặc điểm hoạt động xuất khẩu của đơn vị mình. Còn việc phân loại các sản phẩm bảo hiểm của US Eximbank có sự tách bạch rõ ràng giữa các sản phẩm nhưng doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ về từng loại hình bảo hiểm để lựa chọn cho mình sản phẩm phù hợp nhất. Cả SINOSURE và US Eximbank đều không bảo hiểm cho rủi ro tỷ giá hối đoái (rủi ro giảm giá tiền tệ trong thời gian cấp tín dụng gây thiệt hại cho người cấp tín dụng) nhưng khi Việt Nam xây dựng bảo hiểm tín dụng thì cần phải bảo hiểm cho loại rủi ro này bằng việc đưa nó vào các rủi ro được bảo hiểm hoặc có riêng một sản phẩm bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái. Lý do là chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của hệ thống ngân hàng (cả Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng thương mại) chưa theo kịp những diễn biến lên xuống bất thường của tỷ giá hối đoái. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối như giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn không được sử dụng nhiều để hạn chế bớt những rủi ro tỷ giá hối đoái trong khi những nghiệp vụ này ở các nước đã rất phát triển. Do đó cùng với các biện pháp phát triển các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối này thì bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái là một biện pháp cần thiết để giảm thiểu các rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta trong tình hình tỷ giá liên tục biến động như hiện nay, nhất là đồng Đô la Mỹ- đồng tiền thanh toán chính trong các hợp đồng xuất khẩu lên xuống rất bất thường. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có thể cùng với các công cụ hỗ trợ tín dụng khác dành những ưu đãi cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực do Chính phủ đưa ra, các mặt hàng xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam và các mặt hàng phát huy lợi thế của Việt Nam, giải quyết được nhiều công ăn việc làm…để đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả, phát huy lợi thế của Việt Nam. Tổ chức tín dụng xuất khẩu sẽ cùng với các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Phát triển hỗ trợ tín dụng cho các 92 doanh nghiệp bằng cách bảo hiểm cho các khoản tín dụng nhất là tín dụng trung và dài hạn mà các tổ chức tài chính dành cho các doanh nghiệp với tỷ lệ được bảo hiểm cao. Đây sẽ là một kênh hỗ trợ tài chính gián tiếp của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu không vi phạm những nguyên tắc về hỗ trợ xuất khẩu của WTO mà chúng ta cần phải tuân theo. Ngoài ra, khi triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chúng ta cũng cần có chính sách ưu tiên đối với hàng nông sản xuất khẩu và cho các doanh nghiệp nhỏ như các nước đã làm. Nông sản luôn là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, tăng cường xuất khẩu nông sản là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội bởi phần lớn dân số nước ta sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm trong chương trình hỗ trợ xuất khẩu của SINOSURE hoặc dưới hình thức hỗ trợ về tỷ lệ được bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm như của US Eximbank. Các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta hiện nay phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp hay các sản phẩm của các làng nghề truyền thống, đây là lực lượng đóng góp quan trọng vào sự phát triển xuất khẩu của Việt Nam, giải quyết công ăn việc làm cho lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn. Do đó rất cần có sự quan tâm và những chính sách ưu đãi từ phía Chính phủ dành cho khối các doanh nghiệp này. 3.2. Trong xác định vai trò của Nhà nước trong cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Một vấn đề khác cũng cần được quan tâm khi thành lập một công ty chuyên cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là vai trò của Nhà nước sẽ như thế nào, Nhà nước sẽ vừa nắm quyền sở hữu vừa trực tiếp đóng vai trò là người kinh doanh lĩnh vực này hay chỉ nắm quyền sở hữu còn hoạt động kinh doanh giao cho tư nhân thực hiện? Với mô hình của US Eximbank, Chính phủ Mỹ vừa đóng vai trò sở hữu vừa trực tiếp thực hiện kinh doanh, Tổng thống Mỹ sẽ bổ nhiệm Ban giám đốc Ngân hàng với nhiệm kỳ 5 năm tương tự như 93 việc bổ nhiệm các bộ trưởng hay Giám đốc quỹ dự trữ liên bang, Ban giám đốc này sẽ điều hành hoạt động của Ngân hàng và phải giải trình các hoạt động trước Quốc hội. Mặc dù Eximbank chỉ cung cấp một phần nhỏ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu song với vai trò này, Chính phủ sẽ trực tiếp quản lý, điều hành, hướng hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cùng với các công cụ khác đi theo đúng hướng của chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ. Còn mô hình của SINOSURE thì Nhà nước chỉ nắm quyền sở hữu còn mọi hoạt động kinh doanh do tư nhân thực hiện, tức là SINOSURE hoạt động như một công ty thông thường, hoạt động theo cơ chế thị trường, Nhà nước chỉ đưa ra các quyết định quan trọng của công ty, bộ máy lãnh đạo không do Chính phủ bổ nhiệm như ở Mỹ. Ưu điểm của mô hình này là Nhà nước vẫn kiểm soát hoạt động của công ty bảo hiểm, vẫn hướng các sản phẩm của công ty đi theo định hướng hỗ trợ xuất khẩu mà Nhà nước đề ra lại tận dụng được khả năng hoạt động hiệu quả của một doanh nghiệp tư nhân, có thể khắc phục được những hạn chế khi mà Chính phủ bổ nhiệm người không phù hợp để quản lý hoặc công ty hoạt động trì trệ do phụ thuộc quá nhiều vào các quyết định và sự chỉ đạo của Chính phủ. Nó cũng giúp giảm bớt gánh nặng cho bộ máy Nhà nước. Đây cũng là mô hình khá phù hợp với Việt Nam bởi các điều kiện chính trị của chúng ta cũng giống Trung Quốc, khi áp dụng mô hình này Nhà nước cũng sẽ quản lý công ty bảo hiểm như đối với Tập đoàn Bảo Việt hiện nay hay các tập đoàn và Ngân hàng Nhà nước khác tức là quản lý bằng định hướng chính sách chứ không bằng mệnh lệnh trực tiếp. Công ty bảo hiểm tín dụng này vẫn sẽ hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng có sự hỗ trợ và chỉ đạo, định hướng từ phía Chính phủ. Tóm lại, khi so sánh hai mô hình của SINOSURE và US Eximbank thì có thể thấy mô hình công ty bảo hiểm xuất khẩu và tín dụng của Trung Quốc phù hợp hơn với Việt Nam khi chúng ta triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Khi chúng ta triển khai loại bảo hiểm này có thể nhờ đến sự giúp đỡ của SINOSURE, học hỏi kinh nghiệm của họ trong những bước phát triển ban đầu… 94 KẾT LUẬN Bài khóa luận là tổng hợp những nghiên cứu về lý thuyết về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chung trên thế giới và thực tế triển khai tại một số nước trên thế giới. Từ lý thuyết và kinh nghiệm thực tế có thể thấy được lợi ích tích cực của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- một công cụ hỗ trợ thương mại quốc tế hiệu quả. Công cụ này đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, đã được tất cả các nước phát triển và nhiều nước phát triển sử dụng. Ngày càng có nhiều nước hơn quan tâm phát triển loại hình bảo hiểm này với mục đích thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã có đến hơn 150 nước và các nước thành viên đều phải tuân theo các quy định của tổ chức này nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong thương mại quốc tế trong đó có các quy định về các công cụ được và không được phép sử dụng để hỗ trợ xuất khẩu, và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một công cụ được phép và được khuyến khích sử dụng. Ở mỗi nước mô hình triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu lại khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển và điều kiện kinh tế của từng nước. Qua mô hình của hai nước Mỹ và Trung Quốc tác giả xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị giải pháp cho việc triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam, cụ thể trong việc thành lập tổ chức tín dụng xuất khẩu và xác định vai trò của Nhà nước trong cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Những phân tích về lý thuyết và thực tiễn về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mà tác giả đưa ra hi vọng sẽ giúp người đọc hiểu hơn và quan tâm hơn về loại hình bảo hiểm vẫn còn khá mới mẻ này ở Việt Nam. Một lần nữa em xin cảm ơn TS. Phạm Thị Hồng Yến đã giúp em hoàn thành bài khóa luận này. ii DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Công ty bảo hiểm xuất khẩu và tín dụng Trung Quốc, SINOSURE, www.sinosure.com.cn/sinosure/english/English.html - Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ, US Eximbank, www.exim.gov. - Hiệp hội Bern, Bern Union, www.berneunion.org.uk - Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, OECD, www.oecd.org. - Trung tâm Thương mại quốc tế, www.intracen.org - Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho doanh nghiệp, www.vtipvn.com/content/view/208 - Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- công cụ hỗ trợ tích cực cho xuất khẩu và đầu tư, tich-cuc-cho-xuat-khau-va-dau-tu/65060998/91/ - Export Credit Insurance, www.munichre.com/publications/302- 02762_en.pdf. - Export Credit Agencies and their role on the credit insurance market, www.steconomice.uoradea.ro/anale/volume/2007/v2-finances-accounting-and- banks/52.pdf - Export credit insurance plays bigger role in trade, www.en.ce.cn/Insight/200603/09/t20060309_6313114.html - Loay hoay với bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, tuc-su-kien/tin-tuc-su-kien/loay-hoay-voi-bao-hiem-tin-dung-xuat-khau.html - Hội nhập càng sâu càng cần bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, https://www.ven.vn/phong-van-trong-tuan/hoi-nhap-cang-sau-cang-can- bao-hiem-tin-dung-xuat-khau/print_preview - Over view of export in Vietnam, www.nciec.gov.vn/index.ncie. iii - Rules of origin in the context of international trade, www.intracen.org/tfs/docs/publications/ruleori2.pdf - Sẽ thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, xuat-khau.htm - Sẽ sớm có bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, www.webbaohiem.net/index.php/Kinh-doanh/Se-som-co-bao-hiem- tin-dung-xuat-khau.html - SINOSURE and Export Credit Insurance, www.amcham-china.org.cn/amcham/upload/wysiwyg/20050915180453.ppt - Trade Finance Giude, Chapter 8: Export Credit Insurance, www.trade.gov/media/publications/pdf/tfg2008ch8.pdf - Tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, www.vbqppl.moj.gov.vn/law/vi/2001_to_2010/2006 - Vì sao bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chậm phát triển?, www.doanhnhan360.com/.../Bao-hiem.../Vi_sao_bao_hiem_tin_dung

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4449_4615.pdf
Luận văn liên quan