Đề tài Bảo hiểm vật chất xe ô tô - Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này tại phòng bảo hiểm đống đa, công ty bảo hiểm Hà Nội

MỤC LỤC Lời mở đầu Ngày nay vận tải bằng ô tô đang trở thành phương thức vận tải phổ biến và ngày càng phát triển. Với việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào trong sản xuất, nhiều loại ô tô đã ra đời đáp ứng mọi nhu cầu của cuộc sống, số lượng ô tô do đó cũng tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam năm 1999 mới chỉ có hơn 500.000 chiếc ô tô các loại thì dự báo đến năm 2010 sẽ có khoảng trên 1 triệu chiếc. Vận tải bằng ô tô đem lại rất nhiều tiện ích nhưng bên cạnh đó phương thức vận tải này cũng có không ít nhược điểm mà bất cứ quốc gia nào cũng gặp phải. Đó là nạn ô nhiễm môi trường và tình trạng tai nạn giao thông đang tăng lên theo chiều hướng xấu. Ô tô là nguyên nhân chủ yếu gây ra các vụ tai nạn giao thông làm thiệt hại đến người và của thậm chí có những vụ mang tính chất thảm khốc để lại nỗi đau tinh thần cho những người còn sống. Không những thế thiệt hại trong khi vận hành xe ô tô còn làm ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh, thiệt hại đến nguồn tài chính của các chủ xe gây không ít khó khăn cho họ. Từ thực tế trên, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô đã ra đời nhằm giúp các chủ xe nhanh chóng ổn định sản xuất và bù đắp phần tài chính mà họ bị mất cho chiếc xe của mình. Kể từ khi bắt đầu được triển khai cho đến nay, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô luôn mang lại nguồn thu lớn cho ngành bảo hiểm nói chung và công ty bảo hiểm Hà Nội nói riêng. Điều này cũng khẳng định phần nào sự tin cậy của các chủ xe khi gửi gắm chiếc xe của mình cho nhà bảo hiểm. Với mục đích đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô, qua thời gian thực tập ở phòng bảo hiểm Đống Đa cộng thêm sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng, em đã quyết định chọn đề tài: “ Bảo hiểm vật chất xe ô tô - thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này tại phòng bảo hiểm Đống Đa, công ty bảo hiểm Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp tốt nghiệp. Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm 3 phần chính sau: Phần I: Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe ô tô Phần II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa giai đoạn 1999 - 2003 Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa, công ty bảo hiểm Hà Nội. Do thời gian và trình độ có hạn, bài viết sẽ có thể chưa đảm bảo mục tiêu như mong muốn vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các cán bộ trong phòng bảo hiểm Đống Đa để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

doc78 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2984 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm vật chất xe ô tô - Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này tại phòng bảo hiểm đống đa, công ty bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, số lượng xe ô tô có giá trị lớn lưu hành trên địa bàn Hà Nội ngày càng tăng (chủ yếu là xe nhập khẩu từ nước ngoài), nhu cầu tham gia bảo hiểm của những xe này lại tương đối lớn làm cho giá trị bảo hiểm tăng lên kéo theo mức phí bảo hiểm cho mỗi đầu xe cũng tăng lên tương ứng (năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm bình quân là 4,968 trđ/chiếc tăng 1,622 trđ/chiếc so với năm 1999). Bắt đầu từ năm 2001 số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô và doanh thu phí liên tục tăng lên. Cụ thể: Năm 2001, số lượng xe tham gia bảo hiểm tại phòng là 270 chiếc, tỷ lệ khai thác là 0,37%. Doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ năm 2001 là 1.425 tr tăng 3,56% so với năm 2000. Năm 2002 số xe tham gia bảo hiểm là 310 chiếc, tỷ lệ khai thác là 0,36%, doanh thu phí là 1.557 tr tăng 9,26% so với năm trước. Doanh thu phí bảo hiểm bình quân là 5,023 trđ/chiếc giảm 0,255 trđ so với năm 2001. Năm 2003 mặc dù số xe tham gia bảo hiểm vẫn tăng nhưng tỷ lệ khai thác của phòng lại giảm đi so với năm 2002. Số xe tham gia bảo hiểm năm này là 350 chiếc, tỷ lệ khai thác là 0,32%, doanh thu phí đạt 1.614 tr tăng 3,66% so với năm 2002. Như vậy có thể thấy tuy số xe tham gia bảo hiểm và doanh thu phí bảo hiểm có tăng nhưng lượng tăng lại không đều và còn thấp đòi hỏi phòng cần tăng cường công tác khai thác hơn nữa. Bảng 8: Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô của phòng bảo hiểm Đống Đa giai đoạn 1999 - 2003 Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Doanh thu phí KH (trđ) 1.100 1.300 1.420 1.470 1.560 Doanh thu phí TH (trđ) 937 1.376 1.425 1.557 1.614 Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) 85,18 105,85 100,35 105,92 103,46 (Nguồn: Phòng bảo hiểm Đống Đa) Qua bảng 8 có thể thấy chỉ trừ năm 1999, các năm còn lại phòng đều hoàn thành kế hoạch đề ra. Hai năm 2000 và 2002 có tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cao nhất, đạt 105,85% và 105,92%. Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch không đồng đều giữa các năm và tỷ lệ này chưa thực sự cao. Điều này có thể là do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm hiện nay dẫn đến việc đề ra kế hoạch thực hiện của phòng trở nên hết sức khó khăn, hơn nữa do tốc độ tăng của doanh thu phí nghiệp vụ còn thấp từ năm 2001 trở lại đây (dưới 10%) nên phòng không thể đặt ra mức doanh thu kế hoạch quá cao được.Để thấy rõ hơn kết quả khai thác của nghiệp vụ này ta đi vào xem xét thêm cơ cấu doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ trên tổng doanh thu phí cả phòng qua bảng 9 sau: Bảng 9: Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô so với tổng doanh thu phí của phòng bảo hiểm Đống Đa giai đoạn 1999 - 2003 Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Doanh thu phí nghiệp vụ (trđ) 937 1.376 1.425 1.557 1.614 Tổng doanh thu phí toàn phòng (trđ) 5.103 5.827 6.265 7.562 10.233 Tỷ lệ doanh thu phí nghiệp vụ/ Tổng doanh thu phí (%) 18,36 23,61 22,75 20,59 15,77 (Nguồn: Phòng bảo hiểm Đống Đa) Nhìn vào tỷ lệ doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô so với tổng doanh thu phí ở trên có thể thấy nghiệp vụ này chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng số 26 nghiệp vụ mà phòng đang triển khai hiện nay tuy nhiên tỷ lệ này lại có xu hướng giảm dần qua các năm. Năm 1999, doanh thu nghiệp vụ chiếm 18,36% tổng doanh thu phí cả phòng đến năm 2000 tỷ lệ này tăng lên là 23,61%. Bắt đầu từ năm 2001 trở đi tỷ lệ doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô giảm dần từ 22,74% năm 2001 xuống còn 15,77% năm 2003. Nguyên nhân của sự giảm đi này là: - Do tốc độ tăng doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô luôn thấp hơn tốc độ tăng tổng doanh thu phí chung của phòng và có xu hướng giảm đi. Cụ thể: năm 2001 doanh thu phí nghiệp vụ tăng 3,56% so với năm 2000 trong khi tổng doanh thu phí tăng 7,52% so với năm trước, năm 2002 doanh thu phí nghiệp vụ tăng 9,26% so với năm 2001 thì tốc độ tăng của tổng doanh thu phí cùng năm đó là 20,7%. Đến năm 2003 tốc độ tăng của doanh thu phí nghiệp vụ là 3,66% trong khi tổng doanh thu phí lại có tốc độ tăng cao nhất so với các năm còn lại. Như vậy là tốc độ tăng doanh thu phí nghiệp vụ ngày càng thấp hơn tốc độ tăng tổng doanh thu chung của cả phòng. - Lượng tăng doanh thu phí nghiệp vụ nhỏ hơn nhiều so với lượng tăng tổng doanh thu. Năm 2000 doanh thu nghiệp vụ tăng 439 tr so với năm 1999 trong khi đó tổng doanh thu năm này tăng những 724 tr. Năm 2003 khoảng cách giữa hai lượng tăng tuyệt đối lại là cao nhất so với các năm khác tức là giữa hai con số 57 tr và 2.671 tr. Chính vì vậy năm 2003 có tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô là thấp nhất trong các năm. Ngoài ra trong hai năm 2002, 2003 phòng đã phát triển mạnh một số nghiệp vụ như: bảo hiểm chi phí vận chuyển y tế cấp cứu, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm cháy, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đóng góp một lượng doanh thu lớn cho phòng. Tuy tỷ lệ doanh thu phí nghiệp vụ có giảm nhưng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô vẫn được coi là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí cả phòng. Nghiệp vụ này cùng với 2 nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người và bảo hiểm học sinh luôn giữ vị trí chủ đạo của phòng bảo hiểm Đống Đa và có nhiều tiềm năng để phát triển trong thời gian tới. Tóm lại thông qua số liệu hai bảng 8 và 9 có thể thấy phòng đã đạt được một số kết quả trong khâu khai thác như sau: - Qua hơn 10 năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô phòng đã giúp các chủ xe thấy được lợi ích và tầm quan trọng của nghiệp vụ, hơn nữa phòng đã tạo cho mình nhiều khách hàng lớn và trung thành từ đó làm tăng số lượng hợp đồng tái tục qua các năm. - Các cán bộ khai thác của phòng luôn chủ động đến từng cơ quan đơn vị cuả các chủ xe nhất là các chủ xe là khách hàng truyền thống để vận động họ tham gia bảo hiểm chứ không thụ động như trước đây. Thêm vào đó thái độ gần gũi của cán bộ khi tiếp xúc với khách hàng đã làm cho họ có ấn tượng tốt về phòng. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được nói trên vẫn còn tồn tại các mặt sau: - Tỷ lệ khai thác còn thấp và ngày càng giảm đi chứng tỏ tốc độ khai thác thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng số xe ô tô lưu hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, phòng khai thác chưa hiệu quả tiềm năng của thị trường. Điều này cũng cho thấy phòng cần phải có thêm nhiều biện pháp hỗ trợ cho khâu khai thác hơn nữa. - Đối tượng khai thác của phòng phần lớn là các chủ xe đã từng tham gia bảo hiểm trước đây nay tái tục hợp đồng, rất ít hợp đồng khai thác mới. Phòng chưa chú ý đến việc nắm chắc số xe ô tô lưu hành trên địa bàn thành phố nhằm tạo điều kiện cho khâu khai thác. - Số xe ô tô tham gia bảo hiểm chủ yếu là xe của các doanh nghiệp Nhà nước, các cơ quan hành chính sự nghiệp, rất ít hoặc không có xe tư nhân nếu có thì cũng chỉ tham gia bảo hiểm bộ phận xe mà số lượng xe này lại đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy năm gần đây. - Việc cấp giấy chứng nhận bảo hiểm chưa chặt chẽ và chưa được coi trọng đúng mức, có thể là kẽ hở cho khách hàng trục lợi bảo hiểm. - Việc tổ chức quản lý bám giữ khách hàng chưa được tốt, nhiều hợp đồng bảo hiểm còn chậm chuyển phí làm ảnh hưởng đến doanh thu của phòng. - Vẫn còn tình trạng cạnh tranh nội bộ giữa các phòng trong công ty chứng tỏ phòng chưa phối hợp tốt với các phòng khác trong khâu khai thác. Điều này có thể làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của công ty. Những tồn tại trên không phải tự dưng xuất hiện mà chúng xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản, có thể là những nguyên nhân sau: + Thứ nhất, nền kinh tế nước ta tuy đã ổn định nhưng chưa phát triển về chất so với các nước trong khu vực, nhận thức của người dân về bảo hiểm còn thấp dẫn đến nhiều người dân chưa thực sự tin tưởng vào bảo hiểm đặc biệt là một loại hình bảo hiểm tự nguyện như bảo hiểm vật chất xe cơ giới. + Thứ hai, công tác tuyên truyền quảng cáo về loại hình bảo hiểm này còn chưa được chú trọng do đó chưa làm cho khách hàng hiểu hết về ý nghĩa của nghiệp vụ trong việc làm giảm nguy cơ rủi ro đối với họ khi vận hành xe ô tô. 2. Công tác giám định bồi thường tổn thất Nếu như khai thác là khâu đầu tiên quyết định trực tiếp tới doanh thu và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm thì khâu giám định bồi thường lại là khâu cuối cùng quyết định tới chất lượng của nghiệp vụ. Sản phẩm bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nói riêng đều có đặc điểm là sản phẩm vô hình, khách hàng tham gia bảo hiểm không thể nhận biết được sản phẩm mình đã mua mà chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Sự kiện bảo hiểm có thể là những tai nạn, rủi ro liên quan đến tính mạng tình trạng sức khoẻ của con người, rủi ro liên quan đến tài sản hoặc những rủi ro liên quan đến trách nhiệm nào đó mà người mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ thực hiện. Công tác bồi thường được tiến hành nhanh chóng kịp thời chính là thể hiện sản phẩm bảo hiểm có chất lượng tốt, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm được đảm bảo. do đó khâu bồi thường được coi là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nó tác động tới khâu khai thác và uy tín của công ty bảo hiểm. Do tầm quan trọng nói trên mà Bảo Việt Hà Nội đã coi công tác này như một công cụ cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm và tăng tỷ lệ tái tục hợp đồng trong những năm tiếp theo. Công tác bồi thường được tiến hành sau khi đã giám định tổn thất. đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô, ngay sau khi nhận được thông báo tai nạn của chủ xe, công ty bảo hiểm bảo hiểm sẽ cử cán bộ giám định của mình hoặc thuê người giám định tới hiện trường phối hợp với chủ xe thực hiện các biện pháp hạn chế tổn thất. Sau đó họ sẽ tiến hành lập biên bản giám định trước sự chứng kiến của chủ xe ngoài ra có thể có sự giúp đỡ của một số bên có liên quan nhằm đảm bảo tính khách quan và công bằng nhất. Nếu phát hiện thấy rủi ro không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc có dấu hiệu gian lận của chủ xe, giám định viên có thể từ chối bồi thường ngay tại hiện trường hoặc từ chối bằng văn bản sau khi đã trình lên lãnh đạo. Sau khi hoàn tất khâu giám định, việc giải quyết bồi thường sẽ được tiến hành ngay sau khi thu thập đủ các giấy tờ cần thiết như: biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe, biên bản giải quyết tai nạn giao thông (nếu có), biên bản giám định, giấy báo giá sửa chữa xe, giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy phép lái xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật… Phòng bảo hiểm Đống Đa cũng như công ty bảo hiểm Hà Nội luôn coi trọng công tác bồi thường khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nói riêng. Do tính chất hạch toán phụ thuộc vào công ty, phòng chỉ được phép bồi thường cho những vụ tổn thất từ 5 trđ trở xuống (từ năm 2002 về trước) và từ 10 trđ trở xuống (bắt đầu từ năm 2003), còn với những vụ tổn thất lớn hơn phòng phải chuyển lên công ty để giải quyết. Với phương châm: “Bồi thường nhanh chóng, kịp thời, chính xác, hợp tình, hợp lý”, các cán bộ phòng bảo hiểm Đống Đa luôn cố gắng tìm mọi cách giải quyết bồi thường một cách nhanh nhất đảm bảo quyền lợi cho các chủ xe tạo niềm tin cho khách hàng. Công tác tổ chức trả tiền bồi thường cũng được tiến hành kịp thời và đa dạng hoá, các chủ xe được thanh toán tiền ngay tại cơ quan đơn vị hoặc chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng. Thời gian quy định để một hồ sơ được giải quyết bồi thường là 15 ngày (kéo dài không quá 30 ngày) nhưng phòng đã cố gắng giải quyết nhanh chóng trước thời hạn nhằm giúp các chủ xe khắc phục thiệt hại ổn định sản xuất kinh doanh. Từ khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô đến nay phòng chưa gặp một trường hợp nào khiếu nại do bồi thường sai. Điều này thể hiện tính chính xác cao trong khâu bồi thường của phòng và góp phần nâng cao uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm. Đơn cử một số vụ tai nạn đã được phòng bồi thường trong thời gian ngắn: + Chủ xe Công ty Xe điện Hà Nội, BKS 29N - 2366 xảy ra tai nạn ngày 22/10/2003 được duyệt trả tiền bồi thường vào ngày 1/11/2003 với số tiền 5.700.000 đ. + Chủ xe: Công ty Chế tạo máy điện Việt Nam - Hungary, ô tô mang biển số 29M - 4005 xảy ra tai nạn ngày 5/11/2003 được duyệt trả tiền bồi thường vào ngày 15/11/2003 với số tiền là 4.000.000 đ. + Chủ xe: Nguyễn Thị Hồng, BKS số 12H - 7110 xảy ra tai nạn ngày 10/12/2003 được duyệt trả tiền bồi thường vào ngày 25/12/2003 với số tiền 6.800.000 đ. + Chủ xe: Văn phòng Bộ Xây Dựng, BKS 31A - 3124 xảy ra tai nạn ngày13/10/2003 được duyệt trả tiền bồi thường vào ngày 1/11/2003 với số tiền 6.700.000 đ. + Chủ xe: Ban quản lý các dự án thuộc Bộ Y tế, BKS 31A - 4958 xảy ra tai nạn ngày 31/12/2003 được duyệt trả tiền bồi thường vào ngày 15/1/2004 với số tiền 4.500.000 đ. + Chủ xe: Công ty Đo đạc ảnh địa hình, BKS 29S - 7587 xảy ra tai nạn ngày 18/2/2004 được duyệt trả tiền bồi thường vào ngày 30/2/2004 với số tiền 6.200.000 đ. Công tác giải quyết bồi thường của phòng bảo hiểm Đống Đa được thể hiện cụ thể qua số liệu bảng 10 sau: Bảng 10: Tình hình giải quyết bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa giai đoạn 1999 - 2003 Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Số vụ tai nạn phát sinh trong năm (vụ) 57 64 88 102 134 Số vụ tai nạn năm trước chuyển sang (vụ) 2 6 4 3 3 Số vụ tai nạn đã được giải quyết BT trong năm (vụ) 53 66 89 102 135 Số vụ tai nạn tồn đọng (vụ) 6 4 3 3 2 Tỷ lệ tồn đọng (%) 10,17 5,71 3,26 2,86 1,46 Số tiền bồi thường (trđ) 285,785 425,734 667,910 628,872 823,903 Doanh thu phí (trđ) 937 1.376 1.425 1.557 1.614 Tỷ lệ bồi thường (%) 30,50 30,94 46,87 40,39 51,05 STBT bình quân 1 vụ (trđ/vụ) 5,392 6,451 7,505 6,165 6,103 (Nguồn: Phòng bảo hiểm Đống Đa) Như vậy qua bảng 10 có thể thấy một số biến động sau: - Số vụ tai nạn phát sinh không ngừng tăng lên. Năm 1999 số vụ tai nạn phát sinh mới chỉ có 57 vụ thì năm 2000 đã tăng lên thành 64 vụ (tăng 7 vụ so với năm 1999), năm 2001 con số này đã là 88 vụ (tăng 24 vụ so với năm 2000) và đặc biệt tăng cao trong 2 năm 2002 và 2003. Số vụ tai nạn phát sinh năm 2003 là 135 vụ tăng 32 vụ so với năm 2002 và tăng gấp 2,37 lần so với năm 1999. Số vụ tai nạn phát sinh tăng lên với tốc độ nhanh như vậy là do số lượng xe ô tô tham gia giao thông ngày càng nhiều (năm 1999 mới chỉ có 53.201 chiếc thì đến năm 2003 đã tăng gấp 2,07 lần thành 11 vạn chiếc) , Ý thức trách nhiệm của người điều khiển xe chưa tốt. Thêm vào đó là sự thiếu cẩn thận của người điều khiển xe trong quá trình vận hành xe dẫn đến có những vụ tai nạn không đáng xảy ra. Ngoài ra chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông cũng được coi là một trong những nguyên nhân lớn làm tăng số vụ tai nạn giao thông đường bộ. Hiện nay ở nước ta vẫn còn rất nhiều đoạn đường kém chất lượng, liên tục bị đào bới làm cho xe cộ lưu thông trên đường bộ gặp nhiều khó khăn rất dễ xảy ra các vụ va chạm xe. Điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đề phòng hạn chế tổn thất của công ty bảo hiểm Hà Nội hiện nay khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô. - Số vụ tai nạn đã được giải quyết bồi thường cũng tăng lên tương ứng. Năm 1999, số vụ đã được phòng giải quyết bồi thường là 53 vụ, năm 2000 số vụ này là 66 vụ (tăng 13 vụ so với năm 1999), Năm 2001 số vụ đã tăng thêm 23 vụ nữa thành 89 vụ, năm 2002 tiếp tục tăng lên thành 102 vụ và năm 2003 con số này đã lên tới 135 vụ cao nhất trong 5 năm (tăng 33 vụ so với năm 2002). Qua đó có thể thấy được phòng đã thực hiện tương đối tốt công tác giải quyết bồi thường, phần lớn số vụ tai nạn được bồi thường ngay trong năm. - Số vụ tồn đọng giảm dần, năm 1999 có 6 vụ tồn đọng thì đến năm 2000 chỉ còn 4 vụ, năm 2003 số vụ tồn đọng thấp nhất là 2 vụ. Do đó tỷ lệ tồn đọng cũng giảm đi tương ứng từ 10,17% năm 1999 xuống còn 1,46% năm 2003 (giảm gần 7 lần). Phần lớn những vụ tồn đọng trên là do một số nguyên nhân sau: + Do đến ngày 31/12 là ngày khoá sổ kế toán, thống kê nên phải chuyển hồ sơ đòi bồi thường sang năm sau để giải quyết đối với những hồ sơ phát sinh vào những ngày cuối năm. + Do cán bộ bồi thường chưa gặp được chủ xe hoặc chưa liên hệ được với họ để thanh toán tiền trong năm. + Do cán bộ bồi thường vì một lý do nào đó mà chưa thể đi thanh toán tiền cho chủ xe. Tỷ lệ tồn đọng thấp chứng tỏ phòng đã giải quyết các hồ sơ đòi bồi thường một cách nhanh chóng kịp thời tuy nhiên số tiền bồi thường cho các vụ tai nạn lại tương đối cao và không ngừng tăng lên. - Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ có xu hướng tăng lên qua các năm, tỷ lệ này được tính theo công thức: Tỷ lệ bồi thường = STBT/Doanh thu phí. Tương ứng với tỷ lệ bồi thường là số tiền bồi thường không ngừng tăng lên. Cụ thể năm 1999 phòng đã chi bồi thường 285,785 tr đồng với tỷ lệ bồi thường là 30,5% đến năm 2001 số tiền bồi thường đã tăng 1,57 lần thành 667,910 tr đồng với tỷ lệ bồi thường là 46,87%. Sở dĩ có sự tăng đột biến về tỷ lệ bồi thường vào năm 2001 như trên là do trong năm phòng đã phải bồi thường hết mức trách nhiệm là 550 trđ cho một vụ lật đổ xe mà chủ xe là Tổng công ty Sông Đà. Đây là vụ tổn thất toàn bộ lớn nhất mà phòng phải bồi thường từ trước đến nay. Năm 2002 số tiền bồi thường có phần giảm đi so với năm 2001, cụ thể giảm 39,038 tr đồng tức 5,84%. Giải thích cho sự giảm đi này có thể là do số tiền bồi thường trên phân cấp không cao như năm 2001, cao nhất cũng chỉ khoảng 80 trđ và không có vụ nào bồi thường toàn bộ mức trách nhiêm bảo hiểm. Năm 2003 là năm có số vụ tai nạn phát sinh tăng nhiều nhất và số tiền bồi thường cao nhất trong 5 năm với số tiền là 823,903 tr đồng tăng 195,031 tr đồng so với năm 2002. Nếu xét về số tiền bồi thường bình quân thì nhìn chung con số này biến động không đều. Năm 1999 số tiền bồi thường bình quân 1 vụ là 5,392 tr đồng/vụ đến năm 2000 tăng lên thành 6,451 tr đồng/vụ và 7,505 tr đồng/vụ vào năm 2001. Từ năm 2002 số tiền bồi thường bình quân lại có xu hướng giảm đi, cụ thể là 6,165 tr đồng/vụ năm 2002 và 6,103 tr đồng/vụ vào năm 2003. Tuy nhiên những năm có số tiền bình quân cao cũng là những năm có doanh thu phí bảo hiểm cao, cụ thể năm 2001 có số tiền bồi thường bình quân cao nhất là 7,505 tr đồng/vụ thì doanh thu phí bảo hiểm bình quân năm này cũng đạt mức cao nhất là 5,278 tr đồng/xe. Như vậy có thể thấy số tiền bồi thường bình quân phụ thuộc nhiều vào mức trách nhiệm bảo hiểm và mức độ trầm trọng của các vụ tai nạn xảy ra trong năm. Số tiền bồi thường bình quân giảm đi từ năm 2002 là do trong 2 năm 2002 và 2003, doanh thu phí bảo hiểm bình quân và mức độ trầm trọng của các vụ tai nạn có giảm đi so với các năm trước. Từ đó có thể thấy số tiền bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô của phòng tăng lên là do một số nguyên nhân sau: + Số vụ tai nạn phát sinh tăng lên nhanh chóng qua các năm mà chiếm phần lớn là các vụ tai nạn giao thông do đó mức độ nghiêm trọng của mỗi vụ ngày càng cao. + Giá trị xe ô tô khi tham gia bảo hiểm đang tăng lên do chủ yếu là xe nhập khẩu từ nước ngoài như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ mà phần lớn tham gia bảo hiểm toàn bộ xe dẫn đến số tiền bảo hiểm cho mỗi đầu xe cũng tăng theo. Khi có tai nạn xảy ra, số tiền bồi thường được tính dựa trên thiệt hại thực tế và tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của xe khi tham gia bảo hiểm do đó cũng sẽ tăng lên tương ứng. Và mức trách nhiệm bảo hiểm càng cao, mức độ trầm trọng các vụ tai nạn càng cao thì số tiền bồi thường sẽ càng cao. * Qua việc phân tích số liệu trên, em nhận thấy trong công tác bồi thường phòng đã đạt được một số mặt sau: - Chất lượng công tác giám định bồi thường đã được nâng lên một bước, việc tổ chức xét duyệt trả tiền bảo hiểm đã được củng cố và cải tiến. - Công tác giám định bồi thường được phòng tiến hành theo đúng quy trình nghiệp vụ và kịp thời đảm bảo quyền lợi cho các chủ xe. - Các cán bộ của phòng đã hướng dẫn đầy đủ những giấy tờ cần thiết cho các chủ xe khi nhận được thông báo tai nạn từ đó tạo điều kiện cho các chủ xe không phải đi lại nhiều lần. - Việc trả tiền bồi thường được phòng thực hiện ngay tại chính cơ quan đơn vị của chủ xe nhằm mang lại thuận tiện cho họ, thậm chí trước khi trả tiền cán bộ bồi thường còn gọi điện báo trước cho các chủ xe biết. - Đối với những tổn thất không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc những vụ gian lận, cán bộ giám định của phòng đã từ chối ngay hoặc gửi công văn từ chối sau khi đã trình lãnh đạo phòng để tránh thiệt hại cho công ty và đảm bảo tính công bằng cho mọi chủ xe tham gia bảo hiểm. - Trình độ chuyên môn của các cán bộ giám định bồi thường ngày càng được nâng cao do đó phần lớn số vụ tai nạn được bồi thường chính xác. * Bên cạnh đó, công tác giám định bồi thường của phòng vẫn còn một số mặt tồn tại sau: - Việc phối hợp giải quyết bồi thường giữa các phòng chưa nhịp nhàng do đó vẫn còn có hiện tượng giải quyết chậm đặc biệt đối với những vụ bồi thường trên phân cấp. - Một vài vụ thái độ phục vụ của cán bộ còn chưa tốt dễ gây hoài nghi cho các chủ xe, phòng còn thiếu cán bộ am hiểu kỹ thuật về ô tô. - Phòng chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như: phòng cảnh sát giao thông, toà án…trong việc giám định để nhanh chóng trả tiền bảo hiểm cho khách hàng. Điều này cũng dễ dàng tạo kẽ hở cho khách hàng cấu kết với các nhân viên thuộc các cơ quan trên nhằm trục lợi bảo hiểm làm giảm hiệu quả kinh doanh của phòng. - Công tác thống kê số vụ tai nạn đòi giải quyết bồi thường chủ yếu thực hiện bằng tay theo sổ sách, chưa tận dụng hết phương tiện thống kê bằng máy tính. Vì vậy tính chính xác của số liệu và hiệu quả sử dụng thông tin chưa cao. - Hiện nay phòng mới chỉ có một cán bộ giám định nên đôi khi gặp khó khăn khi có nhiều vụ tai nạn phát sinh cùng thời điểm làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác giám định. 3. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất Trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro bất ngờ không thể lường trước. Tuy không thể ngăn chặn rủi ro đó xảy ra nhưng con người hoàn toàn có thể tìm cách đề phòng và hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể gặp phải. Bởi vậy trong bảo hiểm vật chất xe ô tô nói riêng và trong bảo hiểm nói chung, khâu đề phòng hạn chế tổn thất là khâu không thể thiếu được, nó không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty mà còn góp phần làm giảm số vụ tai nạn toàn xã hội. Khâu đề phòng hạn chế tổn thất được thực hiện sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Với tư cách là văn phòng đại diện khu vực của công ty bảo hiểm Hà Nội, phòng bảo hiểm Đống Đa không có điều kiện để tiến hành các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất mà công việc này sẽ do công ty đảm nhiệm. Tuy nhiên theo sự chỉ đạo của công ty, phòng đã cử cán bộ của mình tới các cơ quan đơn vị để đề xuất các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất đối với các xe có tham gia bảo hiểm đồng thời chi một khoản tiền trong chi phí quản lý cho công việc này thông qua việc cung cấp cho các chủ xe bình cứu hoả đặc biệt là các chủ xe tham gia bảo hiểm với số lượng lớn hoặc tham gia liên tục trong thời gian dài. Do tính chất hạch toán phụ thuộc nên phòng không hạch toán riêng khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất mà hạch toán chung vào chi phí quản lý. Từ năm 2003 phòng được phép hạch toán riêng khoản chi này với tỷ lệ là 0,5% tổng thu của nghiệp vụ. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phòng trong việc đẩy mạnh công tác đề phòng hạn chế tổn thất góp phần làm giảm số vụ tai nạn đòi giải quyết bồi thường trong những năm tới. Trong những năm gần đây Bảo Việt Hà Nội đã phối hợp với các ngành chức năng như: giao thông công chính, công an…đầu tư vào nhiều công trình đề phòng hạn chế tổn thất như: xây dựng đường lánh nạn tại những nơi đèo dốc, làm hệ thống biển báo đặt gương cầu lồi tại những đoạn đường cua nguy hiểm hay hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe giỏi trong ngành…Ngoài ra công ty còn tổ chức tuyên truyền quảng cáo kêu gọi người dân nâng cao ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông nhằm góp phần giảm bớt số vụ tai nạn giao thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mở các lớp tập huấn cho các lái xe ở các đơn vị vận tải lớn như công ty xe xe buýt Hà Nội, công ty xe buýt số 14. Những việc làm trên đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao uy tín của công ty đối với khách hàng, làm tăng tính chất xã hội và nhân văn của ngành bảo hiểm nói chung. 4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu của nghiệp vụ phản ánh toàn bộ kết quả kinh doanh của nghiệp vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan. Do phòng bảo hiểm Đống Đa không được hạch toán độc lập mà phụ thuộc vào công ty Bảo Việt Hà Nội nên doanh thu nghiệp vụ của phòng chính là doanh thu phí bảo hiểm chứ không có các khoản thu khác. Lợi nhuận của nghiệp vụ được tính trên cơ sở doanh thu và chi phí của nghiệp vụ: Lợi nhuận nghiệp vụ = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Trong đó: Tổng chi phí nghiệp vụ gồm: chi bồi thường, chi hoa hồng, chi quản lý, chi đề phòng hạn chế tổn thất. Đối với tất cả các văn phòng bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội kể từ năm 2002 trở về trước tổng chi nghiệp vụ chỉ gồm: chi bồi thường, chi hoa hồng, chi quản lý còn chi đề phòng hạn chế tổn thất không hạch toán riêng mà tính gộp vào chi quản lý vì nó quá nhỏ, năm 2003 công ty quyết định cho phép các phòng hạch toán riêng khoản chi này nhằm tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất giảm bớt gánh nặng cho công ty. Riêng đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô mà phòng bảo hiểm Đống Đa đang triển khai thì khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất được trích 0,5% so với tổng thu nghiệp vụ. Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí của nghiệp vụ. Hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong một thời kỳ nhất định. Hiệu quả kinh doanh được phản ánh bởi nhiều chỉ tiêu khác nhau, mỗi chỉ tiêu hiệu quả biểu thị một mặt một yếu tố hay một loại chi phí nào đó trong quá trình sử dụng. Các chỉ tiêu hiệu quả được đề cập tới trong bài viết gồm: Hd = DT/TC He = LN/TC Trong đó: Hd: Hiệu quả theo doanh thu He: Hiệu quả theo lợi nhuận DT: Tổng thu nghiệp vụ TC: Tổng chi nghiệp vụ LN: Lợi nhuận nghiệp vụ ( Các ký hiệu trên nhằm phù hợp với ký hiệu trong bảng số liệu và không khác so với ký hiệu trong phần I ) Để tìm hiểu chi tiết về hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa trước hết ta hãy đi vào nghiên cứu chi phí cho nghiệp vụ tại phòng trong giai đoạn 1999 - 2003 qua bảng 11: Bảng 11: Chi phí cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa giai đoạn 1999 - 2003 Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng chi (trđ) - TC 355,123 527,558 774,928 745,803 953,184 Chi bồi thường (trđ) 285,785 425,734 667,910 628,872 823,903 Tỷ lệ chi bồi thường (%) 80,47 80,70 86,19 84,32 86,44 Chi hoa hồng (trđ) 46,85 68,80 71,25 77,85 80,7 Tỷ lệ HH/TC (%) 13,19 13,04 9,19 10,44 8,47 Chi quản lý (trđ) 22,488 33,024 35,768 39,081 40,511 Tỷ lệ QL/TC (%) 6,33 6,26 4,62 5,24 4,25 Chi ĐPHCTT (trđ) 8,07 Tỷ lệ ĐPHCTT/TC (%) 0,85 (Nguồn: Phòng bảo hiểm Đống Đa) Theo số liệu bảng 11, tổng chi phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 2000 tổng chi nghiệp vụ là 527,558 tr tăng 172,435 tr so với năm 1999, năm 2001 tổng chi tăng cao nhất trong 5 năm với lượng tăng tuyệt đối là 237,606 tr (gần gấp đôi lượng tăng của năm 2000). Thế nhưng đến năm 2002 tổng chi lại giảm đi 19,362 tr chỉ còn 145,802 tr, nguyên nhân là do số tiền bồi thường năm 2001 cao hơn so với năm 2002. Sang năm 2003 tổng chi đạt mức cao nhất là 953,184 tr tăng 207,382 tr so với năm 2002. tổng chi nghiệp vụ tăng là do: + Chi bồi thường liên tục tăng và khá cao đặc biệt là hai năm 2001 và 2003. Tỷ lệ chi bồi thường được tính theo công thức: Tỷ lệ chi bồi thường = Tổng số tiền bồi thường/Tổng chi nghiệp vụ. Năm 2001 tỷ lệ này là 86,19% và năm 2003 là 86,44%. + Chi hoa hồng có xu hướng tăng lên năm 1999 con số này mới chỉ là 46,85 tr đ thì đến năm 2003 đã tăng 1,72 lần thành 80,7 tr đ. Với tỷ lệ hoa hồng là 5% so với tổng thu nghiệp vụ , việc tăng chi hoa hồng thể hiện số lượng hợp đồng do các đại lý khai thác ngày càng tăng lên và chứng tỏ đại lý khai thác của phòng làm việc có hiệu quả góp phần làm tăng doanh thu phí nghiệp vụ. + Chi quản lý tăng tương đương với tốc độ tăng chi hoa hồng. Tuy nhiên tỷ lệ QL/TC lại tăng không đều mà biến động thất thường. Năm 1999, tỷ lệ QL/TC là 6,33%, năm 2000 và 2001 tỷ lệ này giảm xuống còn 6,26% và 4,62%, năm 2002 lại tăng lên thành 5,24% và lại tiếp tục giảm vào năm 2003 còn 4,25% mặc dù từ năm 2001 tỷ lệ chi quản lý trên tổng thu nghiệp vụ của phòng được quy định tăng từ 2,4% lên thành 2,51%. Căn cứ vào chi phí cho nghiệp vụ nói trên ta đi vào phân tích kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ qua bảng 12: Bảng 12: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa giai đoạn 1999 - 2003 Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng thu (trđ) - DT 937 1.376 1.425 1.557 1.614 Tốc độ tăng liên hoàn của tổng thu (%) - 46,85 3,56 9,26 3,66 Tổng chi (trđ) - TC 355,123 527,558 774,928 745,803 953,184 Tốc độ tăng liên hoàn của tổng chi (%) - 48,56 46,89 -3,76 27,81 Lợi nhuận nghiệp vụ (trđ) - LN 581,877 848,442 650,072 811,197 660,816 LN/TC (đ/đ) 1,639 1,608 0,839 1,088 0,693 DT/TC (đ/đ) 2,639 2,608 1,839 2,088 1,693 (Nguồn: Phòng bảo hiểm Đống Đa) Nhìn vào bảng trên có thể thấy lợi nhuận nghiệp vụ không đều thậm chí có năm giảm nhiều do đó hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ theo lợi nhuận cũng không đều và có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2000 lợi nhuận đạt mức cao nhất là 848,442 tr đ, hiệu quả kinh doanh theo lợi nhuận đạt 1,068 đ/đ tức 1 đ chi phí chi ra trong năm thu được 1,608 đ lợi nhuận tuy nhiên trong năm 2000 vẫn chưa phải là năm có hiệu quả cao nhất mà là năm 1999 với 1 đ chi phí chi ra trong năm thu được 1,638 đ lợi nhuận. Năm 1999 tổng chi nghiệp vụ thấp hơn nhiều so với các năm khác nên mặc dù tổng thu nghiệp vụ trong năm này thấp nhất nhưng hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ theo lợi nhuận vẫn cao (đạt 1,639 đ/đ). Mặt khác trong năm 1999 số xe ô tô tham gia bảo hiểm vật chất còn thấp (280 chiếc) dẫn đến số vụ tai nạn thuộc trách nhiệm bảo hiểm của phòng cũng chưa nhiều so với các năm khác. Bước sang năm 2001 hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ lại có phần giảm đi, chỉ còn 0,839 đ/đ tức 1 đ chi phí chi ra chỉ thu được 0,839 đ lợi nhuận. Nguyên nhân là do tốc độ tăng doanh thu nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng chi phí nghiệp vụ và tốc độ tăng thấp nhất trong 5 năm. Cụ thể tốc độ tăng doanh thu trong năm là 3,56% còn tốc độ tăng chi phí là 46,89%. Năm 2002, nhờ sự cố gắng nỗ lực trong công tác khai thác của toàn thể cán bộ trong phòng, lợi nhuận nghiệp vụ đã tăng lên 161,125 tr đ so với năm 2001 do đó hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ đã tăng lên đáng kể: 1 đ chi phí chi ra trong năm thu được 1,088 đ lợi nhuận tức là tăng 0,249 đ so với năm 2001. Năm 2003, hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ không tăng thêm thậm chí còn giảm đi nhiều, 1 đ chi phí chi ra trong năm chỉ thu được 0,693 đ lợi nhuận, hiệu quả giảm 0,395 đ/đ so với năm trước. Lý do là tổng thu tăng nhưng lượng tăng thấp (tăng 57 tr đ) trong khi tổng chi lại tăng với lượng tăng gần gấp 4 lần (tăng 207,381 tr đ) làm cho lợi nhuận bị giảm đi tới 150,382 tr đ. Điều này đòi hỏi phòng cần có kế hoạch hợp lý hoá các khoản chi phí, giảm thiểu chi phí tới mức thấp nhất có thể nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ trong thời gian tới. Bên cạnh đó phòng cũng cần tăng cường công tác khai thác nhằm tăng tổng doanh thu phí nghiệp vụ cao hơn nhiều so với tổng chi để tăng lợi nhuận nghiệp vụ đóng góp vào lợi nhuận chung của cả phòng. PHẦN III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ TẠI PHÒNG BẢO HIỂM ĐỐNG ĐA I. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ TẠI PHÒNG 1. Thuận lợi Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô, phòng bảo hiểm Đống Đa - công ty bảo hiểm Hà Nội có một số thuận lợi sau: * Quận Đống Đa là một trong số 4 quận nội thành lớn nhất của thủ đô Hà Nội. Địa bàn quận chủ yếu là dân cư, mức thu nhập khá ổn định, trình độ của người dân ngày càng cao do đó sự hiểu biết của họ về bảo hiểm cũng đang được nâng lên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khai thác bảo hiểm. Là trung tâm văn hoá chính trị kinh tế của cả nước, Hà Nội là nơi tập trung một số lượng lớn các cơ quan đơn vị doanh nghiệp, các cơ quan đầu não của cả nước, tốc độ tăng trưởng của Hà Nội vẫn tiếp tục được duy trì ổn định ở mức trên 10%. Hàng ngày số lượng xe ô tô lưu hành trên địa bàn Hà Nội khá lớn và đang có xu hướng tăng dần trong những năm tới. Đây là thị trường rộng lớn cho phòng bảo hiểm Đống Đa nói riêng và công ty bảo hiểm Hà Nội nói chung trong việc nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô. * Phòng bảo hiểm Đống Đa là 1 trong 12 văn phòng đại diện trực thuộc công ty bảo hiểm bảo hiểm Hà Nội - một công ty bảo hiểm thành viên hàng đầu trong hệ thống Bảo Việt. Được sự hỗ trợ từ phía tổng công ty, là doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng đặc biệt có tiềm lực tài chính vững mạnh nhất trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. Năm 2003 tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường đạt 4083 tỷ đồng trong đó doanh thu phí của Bảo Việt đã chiếm tới 46% tức là 1.878,18 tỷ đồng. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô, số xe ô tô tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt khoảng trên 150.000 xe, riêng Bảo Việt Hà Nội năm 2003 đã khai thác được gần 8000 xe ô tô tham gia bảo hiểm vật chất. Cho đến nay Bảo Việt vẫn duy trì được uy tín lớn trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. * Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phòng bảo hiểm Đống Đa đã được sự chỉ đạo của công ty cho phép mở rộng địa bàn hoạt động ra các quận khác chứ không chỉ gói gọn trong một địa bàn như trước đây. Điều này đã tạo ra thuận lợi lớn trong việc khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô vì phần lớn các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước đều nằm rải rác tại các quận gần trung tâm thành phố chứ không chỉ tập trung trên địa bàn quận mà đây lại là đối tượng khai thác chủ yếu của phòng hiện nay. * Phòng bảo hiểm Đống Đa có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng với nhiều kinh nghiệm trong nghề, đặc biệt đây còn là một tập thể cán bộ mà chiếm tới 90% là nữ do đó phòng có khả năng phát huy tối đa tinh thần đoàn kết hết mình vì công việc góp phần nâng cao uy tín của công ty. * Mặt khác, phòng luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo công ty, được sự hợp tác giúp đỡ nhiệt tình của các phòng ban trong công ty. Do đó phòng đã tạo được mối quan hệ lớn với các trạm đăng kiểm, phòng thuế đặc biệt là tạo được mối quan hệ với các Tổng công ty, với các doanh nghiệp lớn trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên phòng cũng gặp không ít những khó khăn trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô 2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi kể trên, trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phòng bảo hiểm Đống Đa còn phải đối mặt với không ít khó khăn, đó là: * Hiện nay với sự ra đời của một số công ty bảo hiểm phi nhân thọ thuộc các ngành như: PJICO, PTI, PVIC… đã hình thành sự độc quyền về khai thác bảo hiểm trong những ngành này tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường bảo hiểm. điều này đã làm cho phòng gặp rất nhiều khó khăn trong khâu khai thác do hiện tượng giảm phí tăng tỷ lệ hoa hồng sai quy định của một số công ty nhằm thu hút khách hàng. Đó cũng có thể là nguyên nhân làm cho doanh thu nghiệp vụ của phòng tăng không cao trong 5 năm trở lại đây. * Tuy trình độ nghiệp vụ của mỗi cán bộ trong phòng ngày càng tăng lên nhưng trình độ chuyên môn của các cán bộ chưa đồng đều. Phòng còn thiếu cán bộ am hiểu kỹ thuật về ô tô do đó làm ảnh hưởng đến công tác giám định bồi thường đối với những vụ tổn thất lớn. * Hiện nay phòng chỉ được phép bồi thường theo sự phân cấp của công ty, đối với những vụ bồi thường trên phân cấp phải chuyển lên phòng giám định bồi thường trên công ty, điều này cũng phần nào làm ảnh hưởng đến thời gian giải quyết bồi thường dễ gây ra sự hoài nghi đối với khách hàng khi họ phải chờ đợi lâu. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ TẠI PHÒNG BẢO HIỂM ĐỐNG ĐA - CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI. 1. Đối với công tác khai thác 1.1. Về phía Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam * Trước ý nghĩa và tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô hiện nay, Tổng công ty nên có văn bản trình lên Bộ Tài chính việc quy định bắt buộc tham gia bảo hiểm vật chất ô tô đối với các doanh nghiệp Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp bởi các đơn vị này hoạt động dưới sự bao cấp của Nhà nước. Không những thế số lượng xe ô tô của những đơn vị này chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng số xe lưu hành hiện nay, nếu không may những chiếc xe này gặp rủi ro thì Nhà nước sẽ phải chi một khoản tiền bất thường để bù đắp thiệt hại. Do đó Nhà nước sẽ không thể chủ động trong việc quản lý chi ngân sách. Việc Nhà nước đứng ra mua bảo hiểm vật chất xe ô tô cho những xe thuộc các đơn vị trên sẽ làm giảm đáng kể khoản chi ngoài dự tính của Nhà nước và như vậy Nhà nước sẽ có thể dễ dàng kiểm soát được các khoản chi này thông qua việc trích một khoản tiền trong kế hoạch để đóng phí bảo hiểm. Khi đó nhà bảo hiểm sẽ đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các đơn vị trên góp phần bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho họ và giảm bớt chi Ngân sách Nhà nước. Hiện nay một số nước đã triển khai nghiệp vụ này dưới hình thức bắt buộc như: Nga, Hàn Quốc… * Tổng công ty cần tăng cường hơn nữa các hình thức tuyên truyền quảng cáo về loại hình bảo hiểm vật chất xe ô tô cho mọi người dân trong xã hội. Thực tế cho thấy việc quảng cáo mới chỉ được phổ biến với công ty Bảo Việt nhân thọ mà chưa thấy Bảo Việt phi nhân thọ thực hiện nếu có thì cũng chỉ quảng cáo cho loại hình bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc. Hiện nay quảng cáo được coi là công cụ hữu hiệu trong việc thông tin về sản phẩm tới khách hàng. Với một ngành kinh doanh dịch vụ như bảo hiểm thì quảng cáo lại càng trở nên vô cùng cần thiết. Hàng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải trích ra một khoản tiền lớn cho việc tuyên truyền quảng cáo nhằm nâng cao thị phần trên thị trường bảo hiểm. Mục tiêu của quảng cáo là làm cho mọi người dân thấy được sự cần thiết tham gia bảo hiểm. Quảng cáo có thể thông qua các hình thức khác nhau như: - Quảng cáo qua hệ thống phương tiện thông tin đại chúng: truyền thanh, truyền hình, báo chí…Sự kết hợp giữa màu sắc hình ảnh âm thanh trong những chương trình quảng cáo sẽ có tác động lớn đến tâm lý người nghe kích thích tính tò mò của họ và làm tăng hiệu quả của việc quảng cáo. Ngoài ra Bảo Việt còn có thể quảng cáo thông qua hình thức tài trợ cho các chương trình thể thao, giáo dục, những hoạt động mang tính xã hội… - Quảng cáo qua hệ thống pano, áp phích, biển chuyển động ở những điểm nút giao thông như ngã ba ngã tư đường hay trên các quốc lộ lớn để cho toàn dân thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm. - Quảng cáo thông qua việc tham gia bảo hiểm tài trợ cho các cuộc thi lái xe giỏi, lái xe an toàn do Bộ Giao thông vận tải tổ chức hàng năm. - Quảng cáo qua mạng internet: Tổng công ty nên có giới thiệu cụ thể về từng loại hình bảo hiểm, về phạm vi bảo hiểm, về tỷ lệ phí bảo hiểm và về những thủ tục tham gia bảo hiểm để thuận tiện cho khách hàng có nhu cầu tham gia bảo hiểm. Việc phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng internet tuy khó thực hiện nhưng đây lại là phương tiện hữu hiệu để quảng bá sản phẩm đến mọi đối tượng kể cả các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. * Tổng công ty nên quy định thống nhất về mẫu hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới trong toàn hệ thống nhằm tránh sự nghi ngờ của khách hàng khi lựa chọn công ty bảo hiểm và tăng cường hơn nữa công tác thống kê qua hệ thống thông tin hiện đại 1.2. Về phía công ty Bảo Việt Hà Nội * Công ty có thể đưa các cuộc phỏng vấn những chủ xe đã được bồi thường lên báo đài, truyền hình nhằm lấy ý kiến nhận xét của họ về chất lượng phục vụ và từ đó kích thích những người khác có nhu cầu tham gia bảo hiểm. * Công ty nên chú trọng hơn nữa đến công tác tuyển dụng đại lý sao cho không đơn thuần chỉ là người bán bảo hiểm mà có hội tụ đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt. Những đại lý này khi khai thác bảo hiểm sẽ có đủ tự tin để giải thích rõ về nghiệp vụ về nghiệp vụ cho khách hàng và hướng dẫn họ những thủ tục cần thiết để được hưởng quyền lợi bảo hiểm. * Ngoài ra công ty cũng cần phải có chính sách hoa hồng, tiền thưởng thoả đáng đối với những đại lý giỏi nhằm giữ họ ở lại lâu dài và hết mình phục vụ công ty, tránh để các đối thủ cạnh tranh lôi kéo về phía họ. Sở dĩ như vậy là do đại lý là kênh khai thác chủ yếu dựa trên những lợi thế sẵn có là những mối quan hệ mà họ tạo được trong các lĩnh vực hoạt động. Thêm vào đó, sử dụng mạng lưới đại lý có thể nhanh chóng phủ kín địa bàn khai thác, tận dụng khai thác triệt để số khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên công ty cũng cần kiên quyết trong việc quy trách nhiệm vật chất hoặc huỷ bỏ hợp đồng đại lý nếu phát hiện thấy có hành vi gian lận bảo hiểm, cấu kết với khách hàng nhằm trục lợi. * Công ty cần nắm rõ số lượng xe lưu hành trên địa bàn Hà Nội, có như vậy mới xác định được tiềm năng của thị trường về nghiệp vụ này. Muốn làm được điều đó công ty phải phối hợp thật tốt với Bộ Giao thông vận tải, cục Thống kê… Đồng thời công ty cần cung cấp danh sách này cho các văn phòng quận huyện để các họ kịp thời có các biện pháp khai thác thay đổi phù hợp với tiềm năng của thị trường. * Công ty nên tổ chức các khoá học ngắn ngày mời các chuyên gia trong lĩnh vực ô tô đến giảng dạy cho các cán bộ trong công ty nhằm nâng cao trình độ cho họ trong cả khâu khai thác lẫn khâu giám định bồi thường. * Cần tăng cường củng cố mối quan hệ với các đầu mối lớn như: Cục Đăng kiểm Việt Nam, phòng Cảnh sát giao thông, cục Thuế Hà Nội nhằm khai thác triệt để số khách hàng tiềm năng. Ngoài ra công ty cũng cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại, các công ty cho thuê tài chính. * Có hình thức xử lý nghiêm khắc đối với việc tranh giành khách hàng giữa các thành viên của công ty vì điều này không những làm giảm uy tín của công ty mà còn tạo cơ hội cho các đối thủ cạnh tranh lôi kéo các khách hàng của mình. 1.3. Về phía phòng bảo hiểm Đống Đa * Phòng cần chú trọng hơn nữa đến việc xác định giá trị xe trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cố gắng vận động các chủ xe tham gia bảo hiểm ngang bằng giá trị thực tế đặc biệt đối với những xe có giá trị lớn. * Cán bộ phòng ngoài việc quản lý, theo dõi các chủ xe đã tham gia bảo hiểm để tái tục hợp đồng còn cần cố gắng khai thác các hợp đồng mới, khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Phòng cũng cần quan tâm hơn đến khai thác các xe tư nhân vì hiện nay số lượng ô tô tư nhân đang tăng rất nhanh. 2. Đối với công tác giám định 2.1. Về phía công ty Bảo Việt Hà Nội * Công ty cần thực hiện tốt hơn quy trình nghiệp vụ để giải quyết tốt nhất các vụ giám định, tránh cứng nhắc trong quá trình giải quyết. Thêm vào đó công ty cũng cần cải tiến và hoàn thiện quy trình giám định bồi thường nhằm đơn giản hóa mọi thủ tục mang lại sự thuận tiện nhất cho các chủ xe. * Cần tăng cường kiểm tra hướng dẫn về giám định bồi thường đối với các phòng bảo hiểm khu vực, thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ để không ngừng nâng cao chất lượng công tác giám định. Duy trì tốt chế độ trực 24/24 nhằm đáp ứng tối đa yêu cầu của khách hàng vào bất cứ lúc nào. * Cần tổ chức các lớp học ngắn hạn đào tạo cho cán bộ bồi thường về kỹ thuật ô tô để họ nhanh chóng đưa ra những phương án bồi thường một cách chính xác rút ngắn thời gian giải quyết bồi thường mang lại thuận tiện cho khách hàng. * Công ty cần cung cấp thêm cho cán bộ giám định tại các phòng bảo hiểm khu vực những thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác giám định và cũng cần phải mời những chuyên viên đến hướng dẫn cho họ cách sử dụng những thiết bị hiện đại đó. Tuy nhiên việc làm này phải cần đến một nguồn kinh phí tương đối lớn và rất khó đối với công ty hiện nay. * Công ty cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với các cán bộ giám định để họ làm tốt hơn công việc của mình kể cả những ngày lễ, ngày nghỉ. * Công ty nên trình với lãnh đạo cấp trên cho phép xây dựng một số xưởng sửa chữa ô tô riêng với những nhân viên giỏi về sửa chữa ô tô vừa tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ giám định bồi thường trong việc xác định thiệt hại của xe và ngăn ngừa tình trạng chủ xe cấu kết với các nhân viên xưởng sửa chữa để trục lợi bảo hiểm. 2.2. Về phía phòng bảo hiểm Đống Đa * Hiện nay phòng mới chỉ có một cán bộ giám định do đó sẽ gặp khó khăn nếu trong cùng một thời điểm xảy ra nhiều vụ tai nạn cần được giám định. Vì vậy phòng nên đề xuất ý kiến với lãnh đạo công ty cử thêm cán bộ giám định xuống phòng hỗ trợ thêm nhằm rút ngắn thời gian giám định và đảm bảo cho công tác giám định được chính xác hơn. Ngoài ra việc có thêm cán bộ giám định cũng sẽ giảm bớt được gánh nặng cho cán bộ giám định hiện nay và giúp họ có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau nâng cao hiệu quả giám định của phòng. * Phòng nên cung cấp số điện thoại của cán bộ giám định cho khách hàng để họ có thể liên lạc được bất cứ lúc nào. điều này cũng góp phần làm tăng uy tín của công ty nói chung và của phòng nói riêng. 3. Đối với công tác bồi thường 3.1 Về phía công ty Bảo Việt Hà Nội * Cần chú trọng công tác chăm sóc khách hàng đặc biệt là các khách hàng lớn, có kế hoạch định kỳ để lãnh đạo các phòng và lãnh đạo công ty gặp gỡ trao đổi. * Cần phối hợp chặt chẽ giữa các phòng bảo hiểm quận huyện với các phòng quản lý giải quyết hồ sơ trên phân cấp trong quá trình phục vụ khách hàng. Có như vậy mới rút ngắn được thời gian giải quyết bồi thường đối với những vụ tổn thất trên phân cấp tránh để cho các chủ xe phải chờ đợi lâu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. * Thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn cán bộ bồi thường thuộc các phòng khu vực, tổ chức tập huấn nghiệp vụ để không ngừng nâng cao chất lượng công tác bồi thường đảm bảo giải quyết nhanh chóng chính xác và hỗ trợ tốt cho khâu khai thác. * Trong hợp đồng bảo hiểm công ty nên quy định thêm điều khoản phạt hợp đồng nếu phát hiện có hành vi gian lận bảo hiểm. Từ đó giảm số vụ gian lận, tránh thất thoát số tiền bồi thường vào tay những người không đáng được nhận đảm bảo sự công bằng cho các chủ xe tham gia bảo hiểm. 3.2. Về phía phòng bảo hiểm Đống Đa * Cán bộ khai thác nên hướng dẫn cho các chủ xe về hồ sơ đòi bồi thường ngay khi họ tham gia bảo hiểm để khi có tổn thất chủ xe sẽ cung cấp nhanh chóng mọi giấy tờ liên quan mà không phải đi lại nhiều lần tốn kém chi phí của cả chủ xe và cán bộ giám định bồi thường. * Phòng cần chú trọng hơn nữa tới công tác thống kê số vụ tai nạn đòi giải quyết bồi thường trong năm, tổ chức theo dõi chặt chẽ số xe tham gia bảo hiểm, thường xuyên khuyến khích các chủ xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất từ đó làm giảm xác xuất rủi ro và giảm số tiền phải bồi thường. * Phòng cần liên kết chặt chẽ với các xưởng sửa chữa lớn trên địa bàn quận nhằm hỗ trợ cho công tác giám định bồi thường. Mục tiêu của Bảo Việt Hà Nội trong thời gian tới là tục đẩy mạnh công tác khai thác, nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng, phấn đấu vượt kế hoạch mà Tổng công ty giao đó là: Doanh thu phấn đấu: 150 tỷ Hiệu quả đạt : 25 tỷ Để đóng góp vào sự thành công của công ty, phòng bảo hiểm Đống Đa cũng đã đặt ra kế hoạch cho nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô là doanh thu phí bảo hiểm đạt 1,9 tỷ tăng trưởng 18% so với năm 2003. Hy vọng trong tương lai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô không những giữ vai trò chủ đạo mà còn là nghiệp vụ mang lại hiệu quả cao nhất cho phòng bảo hiểm Đống Đa nói riêng và công ty Bảo Việt Hà Nội nói chung. Trên đây em đã trình bày một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại phòng bảo hiểm Đống Đa, em tin tưởng rằng trong thời gian tới sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ trong phòng cùng với sự giúp đỡ của lãnh đạo cấp trên sẽ là nhân tố chủ đạo đem lại những thành công mới cho phòng đóng góp vào thành công chung của công ty Bảo Việt Hà Nội không chỉ đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô mà toàn bộ nghiệp vụ đang được triển khai hiện nay. KẾT LUẬN Bảo hiểm vật chất xe ô tô hiện nay có thể nói là không còn xa lạ mấy đối với các cơ quan doanh nghiệp nhà nước bởi ý nghĩa và tác dụng của nghiệp vụ. Nhiều chủ xe đã cảm thấy yên tâm hơn khi tham gia bảo hiểm cho chiếc xe của mình. Không những thế bảo hiểm vật chất xe ô tô còn góp phần làm hạn chế số vụ tai nạn giao thông đang xảy ra hàng ngày hàng giờ, mang lại sự bình yên cho đất nước. Mặc dù là loại hình bảo hiểm tự nguyện nhưng kể từ khi triển khai tới nay bảo hiểm vật chất xe ô tô đã đóng góp một phần đáng kể trong tổng thu của Bảo Việt Hà Nội nói chung và phòng bảo hiểm Đống Đa nói riêng. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này công ty bảo hiểm Hà Nội cần phải có nhiều biện pháp cải tiến hơn nữa trong công tác khai thác, công tác bồi thường nhằm đổi mới chất lượng dịch vụ tạo niềm tin cho khách hàng. Trong thời gian 3 tháng thực tập tại phòng bảo hiểm Đống Đa - công ty bảo hiểm Hà Nội vừa qua, em đã biết thêm được rất nhiều về tình hình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô nói riêng tại công ty từ đó giúp em bổ sung kiến thức về bảo hiểm đã được học. Em hy vọng bài viết sẽ đóng góp thêm cho phòng trong việc nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô và trong tương lai nghiệp vụ này sẽ trở nên quen thuộc gần gũi với mọi người dân Việt Nam. Do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ trong phòng bảo hiểm Đống Đa đã tận tình chỉ bảo cho em trong suốt thời gian thực tập cùng với sự hướng dẫn của cô giáo Phạm Thị Định đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2004 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thanh Hương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo Hiểm vật chất xe ô tô - thực trạng và Một số Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này tại phòng Bảo Hiểm Đống Đa, công ty Bảo Hiểm Hà Nộ.doc
Luận văn liên quan