Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, đã tác động không
nhỏ tới điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn giai đoạn sau năm 1975,
và quan hệ Việt – Mỹ trong thời gian này cũng có những thay đổi, đó là sự xuất
hiện sự kiện người ta vẫn nhắc tới như một “cơ hội bị bỏ lỡ”. Cơ hội thì tất yếu là
nên nắm bắt, nhưng sự thật trong những năm 1975 – 1978, quan hệ Việt Nam và
Mỹ đã có cơ hội bình thường hóa nhưng, với sự chi phối của nhiều yếu tố chủ
quan cũng như khách quan, các nhân tố tác động đến từ cả hai phía mà nỗ lực
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước giai đoạn này đã không thành công. Để rồi
kéo dài tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước cho tới gần 20 năm sau.
Hiện nay, kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, quan hệ hợp tác giữa
hai nước trên tất cả các lĩnh vực đều có những bước tiến đáng kể, Hoa Kỳ vẫn là
một trong những ưu tiên mục tiêu của chúng ta.
18 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5341 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ 1975 – 1978 có hay không “cơ hội bị bỏ lỡ”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
BÀI TẬP LỚN
BỘ MÔN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Đề tài:
BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT – MỸ 1975 – 1978
CÓ HAY KHÔNG “CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ”
Họ - Tên sinh viên: Nguyễn Thị Thảo
Lớp : H33
Hà Nội – 4/2009
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 5
I. Bối cảnh thế giới sau năm 1975 ...................................................................... 5
II. “CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ” .................................................................................... 6
2.1.“Mỹ để ngỏ khả năng cải thiện quan hệ với Việt Nam” ............................ 6
2.2.Những toan tính của Mỹ ........................................................................... 7
2.3.Có phải Mỹ đã quá “thiện chí”. ................................................................ 8
III. Những nhân tố tác động ............................................................................. 10
3.1 Nhân tố nội bộ Việt Nam ........................................................................ 10
3.1.1.Yêu cầu của Việt Nam ..................................................................... 10
3.1.2.Đòi hỏi của Việt Nam có phải là quá đáng? ..................................... 10
3.1.3..Ý thức hệ: ....................................................................................... 11
3.2.Nhân tố nội bộ Mỹ ................................................................................. 11
3.3. Nhân tố Liên Xô. ................................................................................... 12
3.4.Nhân tố Trung Quốc. .............................................................................. 13
IV. Có hay không “Cơ hội bị bỏ lỡ”??? ........................................................... 15
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 17
3
LỜI MỞ ĐẦU
Những ngày tháng của khói lửa chiến tranh đã qua đi và nhường chỗ cho
màu xanh của hòa bình. Khép lại quá khứ cùng nhau hướng tới tương lai, các nước
từ đối đầu căng thẳng bắt tay hợp tác. Với đường lối chính sách đối ngoại rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam đã lần lượt thiết lập quan hệ ngoại
giao và bình thường hóa quan hệ với các nước lớn. Sau năm 1991 bình thường hóa
quan hệ Việt - Trung , đến năm 1995, sau nhiều năm nỗ lực đàm phán Việt Nam
đã đi đến ký kết Hiệp định bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ. Đây đã được đánh
giá là một trong những thành tựu to lớn của ngoại giao Việt Nam. Chúng ta đều
nhận định rằng, bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ là đòi hỏi tất yếu, chúng ta đã
vấp phải không ít khó khăn mới có được ký kết bình thường hóa, nhưng đã từng
có thời gian người ta vẫn nhắc tới “ cơ hội bị bỏ lỡ” trong bình thường hóa quan
hệ Việt Nam – Hoa Kỳ những năm 1977 – 1978. Vậy, “Có hay không cơ hội bị
bỏ lỡ? và sự thật đằng sau cơ hội ấy là gì?”.
Xung quanh, câu hỏi đặt ra, có rất nhiều ý kiến trái chiều, có người cho
rằng chính Việt Nam do không nắm bắt được thông tin đầy đủ về nội bộ Mỹ nên
đã không linh hoạt trong chính sách để rồi bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa với Mỹ;
có ý kiến lại cho rằng chính yếu tố Liên Xô là lý do tác động đến cơ hội bình
thường hóa này; hay có không ít người đổ lỗi cho Việt Nam quá cố chấp khi đòi
hỏi một nước đế quốc như Mỹ bồi thường chiến phí 3,25 tỷ USD? Sự thật đằng
sau cơ hội này khá phức tạp. Qua quá trình nghiên cứu, tôi cũng nhất trí với quan
điểm là năm 1977 – 1978 đã có “cơ hội bị bỏ lỡ” nhưng đó là cơ hội bị bỏ lỡ do lỗi
của cả hai bên, có rất nhiều nhân tố tác động để chúng ta tuột mất cơ hội ấy: có cả
nhân tố Liên Xô, yêu cầu của Việt Nam, hay nội bộ Mỹ nhưng theo tôi, chúng ta
không thể không nhắc tới hai nhân tố quan trọng không kém, thậm chí có vai trò
chi phối đó là ý thức hệ, và nhân tố Trung Quốc.
4
Những điều tôi trình bày dưới đây không phải là viết ra để “đào xới” lại quá
khứ, hay phê phán, chỉ trích một ai, một bên nào, chỉ đơn giản là đặt ra một vấn
đề, trên cơ sở những công trình nghiên cứu đã có, nêu lên quan điểm cách nhìn của
mình. Tôi chỉ muốn nói chúng ta nên dùng lăng kính lịch sử khi xem xét bình luận
những vấn đề quá khứ, có cơ hội và đã có bỏ lỡ, nhưng có lẽ với tôi đó là “cơ hội
đến khi cả dân tộc chưa sẵn sàng”.
Nhân đây, em cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới sự chỉ đạo hướng dẫn của
các thày cô giáo bộ môn chính sách đối ngoại trong suốt quá trình giảng dạy ;
đồng thời cũng gửi lời cảm ơn tới các cô phụ trách thư viện Học viện Ngoại Giao
đã tạo điều kiện thuận lợi cho em có thể tiếp cận với các tài liệu và công trình
nghiên cứu để có thể hoàn thành bài tập lớn. Bài viết chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót, những suy nghĩ còn chưa đầy đủ, rất mong thày cô nhận xét và
đóng góp ý kiến để giúp cho bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
5
PHẦN NỘI DUNG
I. Bối cảnh thế giới sau năm 1975
Từ giữa những năm 1970, tình hình thế giới diễn ra những biến động lớn
trên các mặt chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế, mở màn cho những phát triển và
biến đổi có tính chất bước ngoặt trong mấy thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX.
Cuộc chiến tranh lạnh vẫn đang tiếp diễn. Thời gian này, có thể coi là
những năm tháng “trăng mật” trong quan hệ đối đầu hai cực Yalta. Liên Xô giành
được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ. Năm 1975, Liên Xô thúc đẩy ký
Định Ước Helsinki, kết thúc 30 năm đối đầu ở Châu Âu. Liên Xô tăng cường mở
rộng ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, Châu Á, Châu Phi, đặc biệt là các nước thuộc địa
của Bồ Đào Nha và quan tâm nhiều hơn tới khu vực Đông Nam Á, Châu Á – Thái
Bình Dương.
Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa, nền
chính trị thế giới bước vào thời kỳ “sau Việt Nam”. Các nước lớn có những điều
chỉnh quan trọng trong chính sách đối ngoại. Cục diện quan hệ giữa các nước lớn
cũng có nhiều thay đổi.
Mỹ suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội.
Tây Âu và Nhật Bản vươn lên, trở thành các trung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh
với Mỹ. Các khối quân sự trở nên lỏng lẻo hoặc tan rã. Xu hướng độc lập với Mỹ
trong thế giới Phương Tây tăng lên. Mỹ tiến hành điều chỉnh chiến lược: giảm cam
kết bên ngoài, thúc đẩy hòa hoãn với các đối thủ chính, tập trung ưu tiên giải quyết
các vấn đề trong nước để củng cố địa vị của mình trong hệ thống tư bản chủ nghĩa
Trung Quốc bắt đầu triển khai thực hiện các chương trình cải cách, hiện đại
hóa và mở cửa kinh tế, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, Nhật Bản và các
nước phương Tây khác.
Quan hệ Việt – Xô có những tiến triển tốt đẹp. Tháng 5 – 1977, Việt Nam
gia nhập Ngân hàng của Hội đồng tương trợ kinh tế SEV và ngày 29 – 6 – 1978
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Việt Nam ký Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô ngày 4 – 11- 1978.
6
Những diễn biến trên đã ít nhiều tác động tới điều chỉnh chính sách đối
ngoại của các nước trong đó có Việt Nam và Mỹ, và cũng là một trong những
nhân tố đưa đến “cơ hội bị bỏ lỡ”.
II. “CƠ HỘI BỊ BỎ LỠ”
Khi nghiên cứu về quan hệ Việt - Mỹ những năm sau chiến tranh từ 1975 –
1978, có một số học giả có nhắc đến cái gọi là “ những cơ hội bị bỏ lỡ” ( lost
opportunities) trong quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước (
Diplomatic normalization), thực chất vấn đề không đơn hề đơn giản. Có những ý
kiến trình bày, lý giải vấn đề dường như phía Việt Nam đã sai lầm và bỏ lỡ cơ hội
bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Hoa Kỳ, khi nêu ra vấn đề
Mỹ phải bồi thường cho Việt Nam 3,25 tỷ USD, và sau đó là ngả hẳn về phía Liên
Xô khi ký Hiệp ước hợp tác, hữu nghị Việt – Xô năm 1978, có những người lại đổ
lỗi do thiếu thông tin không kịp thời điều chỉnh lập trường đàm phán và để mất cơ
hội bình thường hóa mong manh. Trong bài nghiên cứu này, trước khi đưa ra cái
nhìn, quan điểm riêng của mình, tôi muốn đưa ra cho các bạn một số dẫn chứng về
“thành ý bình thường hóa của Hoa Kỳ”.
2.1.“Mỹ để ngỏ khả năng cải thiện quan hệ với Việt Nam”
Chúng ta ghi nhận rằng, trong khoảng thời gian từ 1975 – 1978, Hoa Kỳ có
“để ngỏ khả năng cải thiện quan hệ với Việt Nam”. Cụ thể như : chính quyền Mỹ
nhiều lần gửi thông điệp cho phía Việt Nam khẳng định Hoa Kỳ không hề thù địch
với Việt Nam và sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về quan hệ hai nước. Tuy chưa
công nhận nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ đã thẳng
thắn tuyên bố không công nhận bất kỳ chính phủ lưu vong nào ở Việt Nam; không
chống lại việc Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế,
Ngân hàng thế giới, Tổ chức y tế và khí tượng thế giới…và cấp thị thực cho các
đoàn Việt Nam tham gia các cuộc họp của Liên Hợp Quốc ở NewYork..
7
Đặc biệt dưới thời Tổng thống Jimmy Carter (1977 – 1981), ngay trước khi
lên nhậm chức, thông qua trung gian là Liên Xô, đã gửi đến chính phủ Việt Nam
đề nghị về một kế hoạch bình thường hoá gồm 3 điểm:
Phía Việt Nam thông báo cho phía Mỹ tin tức về những người Mỹ mất tích
trong chiến tranh ( vấn đề MIA – missing in action)
Hoa Kỳ đồng ý với việc Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc và sẵn sàng
thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ cũng như bắt đầu quan hệ buôn bán với Việt
Nam.
Hoa Kỳ có thể đóng góp vào khôi phục Việt Nam thông qua việc phát triển
buôn bán, cung cấp trang thiết bị và các hình thức hợp tác khác.
Ngay sau đó, trong tháng 3 – 1977, Hoa Kỳ đã cử một phái đoàn quan trọng
do thượng nghị sỹ Woodcock lần đầu tiên thăm Việt Nam, và trong năm 1977 hai
bên đã tiến hành ba vòng đàm phán tại Paris và một vòng đàm phán tại New York
về bình thường hoá quan hệ. Qua các cuộc gặp gỡ thăm viếng và đàm phán trên
đây, phía Mỹ đề nghị bình thường hoá quan hệ không điều kiện và thành lập
phòng liên lạc ở thủ đô hai nước khi chưa bình thường hoá quan hệ. Mỹ đã thôi
không dùng quyền phủ quyết (Veto) việc Việt Nam tham gia Liên Hợp Quốc và
ngày 20 – 9 – 1977 Tổng thống J. Carter đã chúc mừng đại sứ Việt Nam tại Liên
Hợp Quốc nhân sự kiện này.
2.2.Những toan tính của Mỹ
Là Tổng thống đầu tiên thời kỳ “ sau chiến tranh Việt Nam” trong bối cảnh
nước Mỹ chia rẽ sâu sắc, J. Carter cố gắng khắc phục “Hội chứng Việt Nam” ở
trong nước1 và cải thiện hình ảnh của nước Mỹ trên thế giới, do đó bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam là một trong những ưu tiên hàng đầu của J. Carter. Hơn
1 Tháng 12 năm 2005 lần đầu tiên sau gần 3 thập kỷ, Tổng thống Jimmy Carter tiết lộ trước công
chúng trong cuộc Hội thảo “Việt Nam và Các Đời Tổng Thống” tổ chức tại Boston, Mỹ, rằng: Năm 1977,
quan hệ Việt- Mỹ đã từng có một cơ hội để bình thường hoá. Ông Carter nói, hành động ấy của ông như là
một cố gắng để “khép lại kỷ nguyên Việt Nam” và giúp nước Mỹ vượt qua nỗi “ám ảnh chiến tranh”.
8
nữa, bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance và trợ lý ngoại trưởng về vấn đề Đông Á
và Thái Bình Dương Richard Holbrook cho rằng việc bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam sẽ giúp giảm sự lệ thuộc của Việt Nam vào Liên Xô và Trung Quốc
cũng như giúp Việt Nam hội nhập vào ASEAN. Đây chính là những tính toán của
chính quyền Carter đằng sau chủ trương bình thường hóa.
2.3.Có phải Mỹ đã quá “thiện chí”.
Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào những chi tiết trên, tức là chỉ xem xét từ một
chiều, dường như đó mới chỉ là bề nổi và có vẻ Mỹ đã quá thiện chí với Việt Nam
trong bình thường hoá quan hệ hai nước và Việt Nam dường như đã “bỏ lỡ cơ
hội”, khi mà chúng ta cũng phải ghi nhận trong quá trình đàm phán với Hoa Kỳ,
quả thật Việt Nam đã luôn kiên trì vấn đề Mỹ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết
thương chiến tranh và xây dựng Việt Nam sau chiến tranh; đồng thời cũng không
tán thành việc lập phòng liên lạc ở thủ đô hai nước khi mà hai nước chưa bình
thường hoá quan hệ. Liệu có phải là Mỹ đã đề nghị bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam vô điều kiện trong khi đó phía Việt Nam lại đòi hỏi bình thường hoá với
một số điều kiện nhất định?
Tuy nhiên chúng ta cần xem xét trên một bình diện khác đó là trong khi để
ngỏ cửa cho khả năng cải thiện quan hệ với Việt Nam như trên, Hoa Kỳ tiếp tục
thi hành chính sách thù địch đối với Việt Nam.
Sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, chính quyền Mỹ
tiếp tục thực hiện chính sách thù địch đối với Việt Nam. Biểu hiện rõ nét nhất của
chính sách này trước hết là Hoa Kỳ tiếp tục triển khai việc bao vây, phong toả,
cấm vận chống Việt Nam. Thực ra chính sách (Embargo) của Hoa Kỳ chống Viêt
Nam có cả một lịch sử lâu dài, là sản phẩm trực tiếp của chiến lược toàn cầu phản
ánh cách mạng của Mỹ trong khuôn khổ của chiến tranh lạnh và Trật tự thế giới
hai cực Yalta.
Hiệp định Paris 1973 tuy có xác định những cơ sở cho việc bình thường
hoá quan hệ Việt - Mỹ, nhưng dường như đã nói ở trên, do thái độ và hành động
thù địch của Mỹ mà quan hệ Việt - Mỹ đã không thể bước sang trang mới. Ngay
9
trong năm 1974, Mỹ lại thông qua Đạo luật Thương mại - bản sửa đổi bổ sung
Jackson – Vanik, ngăn cản trên thực tế toàn bộ các hoạt động của phía Hoa Kỳ
trong việc hỗ trợ các hoạt động đầu tư, buôn bán với Việt Nam.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng (30 – 4 – 1975 ), Mỹ mặc nhiên
bãi bỏ quy chế tối huệ quốc (MNF) đối với miền Nam Việt Nam trước đó, mở
rộng lệnh cấm vận ra toàn lãnh thổ Việt Nam thống nhất; tiến hành phong toả tài
sản của Việt Nam ở Mỹ…cho nên hoàn toàn không có gì là quá đáng khi nói rằng,
“chính sách ngoại giao cấm vận chống Việt Nam có thể nói gọn là sự kéo dài một
cuộc chiến tranh chưa từng được chính thức phát động, nhưng chưa từng được
chính thức kết thúc”2
Cùng với điều đó, Tổng thống Mỹ J. Ford ( 1974 – 1977) trong tháng 4 -
1976 đã từng tuyên bố rằng : “ Tôi không hề nói chúng ta ( Mỹ) sẽ tìm kiếm việc
bình thường hoá các quan hệ hoặc thừa nhận Bắc Việt Nam”3. Chỉ trong thời gian
1975 – 1976, chính quyền Ford đã ba lần dùng quyền phủ quyết của mình để ngăn
cản Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc. Có thể nói, dưới thời Tổng thống Ford,
quan hệ Việt - Mỹ không đạt được bước tiến bộ nào đáng kể, do thái độ thù địch
của Mỹ với Việt Nam.
Những sáng kiến thuộc loại “để ngỏ” khả năng cải thiện quan hệ với Việt
Nam như đã trình bày ở trên chủ yếu là thuộc chính quyền J. Carter trong năm
1977 khi Tổng thống J. Carter mới lên cầm quyền. Những cuộc đàm phán giữa
Việt Nam và Mỹ, trong đàm phán, hai bên đều có quyền bày tỏ quan điểm của
mình, đó là điều hoàn toàn bình thường: Mỹ yêu cầu bình thường hoá vô điều kiện
và lập phòng liên lạc ở thủ đô hai nước khi chưa bình thường hoá quan hệ; còn về
phía Việt Nam có kiên trì nêu vấn đề đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến
tranh và tái thiết ở Việt Nam như Mỹ đề nghị, thì điều đó cũng chỉ là bình thường
2 Lê Mai; “Hãy nhìn quan hệ Việt - Mỹ với đôi mắt mới. Phát biểu của Thứ trưởng ngoại giao Lê Mai tại
Hội đồng đối ngoại Mỹ tại NewYork ngày 7 – 9 – 1990”. Trong Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995, trang 44.
3 Dẫn theo Grant Evants và Kelvin Rowley, Chân lý thuộc về ai, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1986, trang 59.
10
trong thương lượng và đàm phán, nếu như hai bên chưa thể nhất trí thì tiếp tục
thảo luận, bàn bạc, thương lượng tiếp miễn là hai bên có thiện chí..
Thực tế cho thấy Hoa Kỳ hoàn toàn không có thiện chí vẫn tiếp tục theo đuổi
chính sách thù địch với Việt Nam.
III. Những nhân tố tác động
3.1 Nhân tố nội bộ Việt Nam
3.1.1.Yêu cầu của Việt Nam
Trong các cuộc đàm phán Việt Nam – Hoa Kỳ, căn cứ vào Điều 21 cuả
Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam và Công hàm của
Tổng thống Mỹ Nickson giử Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 1 – 2- 1973, Việt
Nam kiên trì nêu vấn đề Hoa Kỳ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến
tranh ở Việt Nam, đồng thời không tán thành việc thành lập phòng liên lạc ở thủ
đô hai nước khi chưa thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong công hàm nêu rõ “ Như
đã nêu trong điều 21 của Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt
Nam được ký kết tại Paris ngày 27 – 1- 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này (
tham gia xây dựng lại Việt Nam) theo chính sách truyền thống của mình… chính
phủ Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt
Nam mà không có bất kỳ điều kiện chính trị nào. Việc nghiên cứu sơ bộ của Hoa
Kỳ cho thấy rằng, những chương trình thích hợp cho sự đóng góp của Hoa Kỳ vào
công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh sẽ là khoảng 3,25 tỷ USD viện trợ không
hoàn lại trong thời gian 5 năm”.
3.1.2.Đòi hỏi của Việt Nam có phải là quá đáng?
Yêu cầu của Việt Nam về việc Mỹ cần có trách nhiệm tham gia vào việc
hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết Việt Nam là hoàn toàn xác đáng và
hoàn toàn phù hợp với điều 21 của Hiệp định Paris năm 1973, cũng như Công hàm
của Tổng thống Nickson gửi chính phủ Việt Nam ( cho dù có nhiều người cho
rằng một lời hứa bí mật từ một vị Tổng thống tai tiếng như Nichson là hoàn toàn
không có giá trị) . Cuộc chiến tranh của Mỹ đã cướp đi sinh mạng của hơn 3 triệu
con người Việt Nam, làm cho hàng trăm nghìn gia đình Việt Nam phải ly tán để
11
lại hậu quả nặng nề, dai dẳng đối với kinh tế xã hội Việt Nam. Đặc biệt là với số
lượng bom đạn Mỹ đã ném xuống Việt Nam lớn hơn toàn bộ số bom đạn mà Mỹ
sử dụng trong thế chiến II và để lại hậu quả cho tới ngày nay. Chúng ta hãy suy
nghĩ một chút, 3,25 tỷ USD ấy có bù đắp lại được những mất mát do Mỹ gây ra
với đồng bào ta hay không? Chừng ấy tiền bạc liệu có thể làm cho bao nhiêu liệt
sỹ sống lại ư? Chắc là không!!. Đòi hỏi của chúng ta quá đáng, hay danh dự của
một nước đế quốc không cho phép họ đền bù cho một nước nhỏ mà chính nước
này đã đánh bại họ? – tôi cho rằng đòi Mỹ bồi thường là hoàn toàn xác đáng. Nếu
lấy lý do, yêu cầu của Việt Nam đòi Mỹ bồi thường là lý do khiến cho bình thường
hóa quan hệ giữa hai nước không đi đến kết quả thì không chính đáng. Chỉ là Hoa
Kỳ đã quá ngạo mạn mà thôi, có lẽ họ vẫn cay cú với thất bại ở Việt Nam.
3.1.3..Ý thức hệ: Qua số tài liệu tôi thu thập được, hầu như không có tài liệu nào
đề cập tới yếu tố này, nhưng có hay không vai trò chi phối của ý thức hệ ở đây?
Sau hai năm, những gì đế quốc Mỹ đã gây ra cho đồng bào ta vẫn còn quá
rõ nét, những vết thương, những nỗi đau vẫn còn như mới, cho dù chính phủ Việt
Nam có đồng ý bình thường hóa quan hệ đi nữa, thì thiết nghĩ đồng bào ta có đồng
ý không?
Hơn nữa, chúng ta cũng không thể phủ nhận được vai trò chi phối của ý
thức hệ đối với lãnh đạo Việt Nam – tinh thần quốc tế vô sản. Tôi nghĩ, chắc chắn,
cho dù không lộ ra, nhưng vẫn có sự toan tính chi phối của ý thức hệ để Việt Nam
ngần ngại khi Mỹ để ngỏ cơ hội bình thường hóa.
3.2.Nhân tố nội bộ Mỹ : Vai trò của Quốc hội Mỹ: sự chia rẽ trong Quốc hội Mỹ:
Tâm lý cay cú sau chiến tranh Việt Nam.
Trong nôi bộ quốc hội Mỹ chia làm hai phe: Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ
Cyrus Vance với chủ trương bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và Cố vấn an
ninh quốc gia Brazezinsk - người vốn chủ trương bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc trước.
Tin tức từ vòng thứ nhất đàm phán về bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ
diễn ra tại Paris tháng 5 - 1977 về yêu cầu bồi thường chiến tranh của Việt Nam
12
đã làm cho những người chống bình thường hóa trong quốc hội Mỹ lập tức có
phản ứng nhằm ngăn cản nỗ lực ngoại giao của chính quyền. Một sửa đổi đạo luật
về viện trợ nước ngoài do các nghị sĩ cộng hòa bảo hộ đã được thông qua với số
phiếu áp đảo (266/131)4. Sửa đổi này nhằm ngăn cấm chính quyền Mỹ không
được “đàm phán đền bù chiến tranh, viện trợ hoặc bất kỳ hình thức chi trả nào đối
với Việt Nam”. Đứng trước làn sóng chống đối mạnh mẽ trong Quốc hội Mỹ, Bộ
trưởng ngoại giao Mỹ Cyrus Vance đã phải tuyên bố Mỹ sẽ không trả việt Nam
bất cứ khoản đền bù chiến tranh nào mặc dù ban đầu J. Carter và Vance đều có tín
hiệu ngầm cho phía Việt Nam rằng họ sẽ cung cấp cho Việt Nam một khoản viện
trợ gián tiếp nào đó sau khi quan hệ hai nước bình thường hóa. Tháng 6 – 1977,
Hạ viện Mỹ lại thông qua với đa số áp đảo một sửa đổi khác với đạo luật viện trợ.
Cuối cùng, trước áp lực của Quốc hội, Tổng thống J. Carter không những phải từ
bỏ nỗ lực bình thường hóa quan hệ với Việt Nam mà còn phải rút lại lời hứa sẽ
viện trợ nhân đạo cho Việt Nam5.
3.3. Nhân tố Liên Xô.
Cùng với vấn đề “ bồi thường chiến tranh”, trong các ý kiến về cái gọi là
“các cơ hội bị bỏ lỡ” trong việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ từ 1975 đến
1978, người ta còn gắn vấn đề với việc Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác
với Liên Xô ngày 4 – 11- 1978.
Từ cuối năm 1977 trở đi Liên Xô ngày càng mở rộng ảnh hưởng của mình
ra nhiều khu vực trên thế giới trong đó có khu vực Đông Nam Á, Liên Xô đang cố
đặt chân vào khu vực mà người ta vẫn quen gọi là “khoảng trống quyền lực” sau
khi Mỹ đã rút khỏi khu vực Đông Nam Á. Việt Nam ký kết với Liên Xô hiệp ước
hữu nghị và hợp tác đã giúp cho Liên Xô đặt chân vào địa bàn Đông Nam Á – nơi
mà nước Nga Sa Hoàng trước đó và chính quyền Xô Viết vẫn mong mỏi từ lâu,
nhưng vẫn chưa có điều kiện thực hiện. chính điều này đã gây lo ngại của một số
nước Đông Nam Á, Trung Quốc và đặc biệt là Mỹ bởi nửa sau của thập niên 70
4 Nayan Chanda, Brother Enemy: the war after the war, Collier Books 1988, tr.153.
5 Nayan Chanda, Brother Enemy: the war after the war, Collier Books 1988, tr.157.
13
vẫn là thời điểm hết sức căng thẳng của chiến tranh trong khuôn khổ trật tự thế
giới hai cực Yalta.
Chúng ta không phủ nhận việc tình hình quốc tế luôn có tác động quan
trọng tới tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ.
Thừa nhận rằng Việt Nam là mộtquốc gia độc lập, có chủ quyền bình đẳng
với tất cả các quốc gia khác trên thế giới. Việc ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác với Liên Xô ngày 4 – 11- 1978 là thuộc quyền của Việt Nam và hoàn toàn phù
hợp với Luật pháp quốc tế cũng như thông lệ quốc tế và tập quán quốc tế. Nhưng
không phải vì thế mà nói chúng ta không có cơ sở nào để nối việc Việt Nam ký
kết Hiệp ước với Liên Xô là nguyên nhân của việc “bỏ lỡ cơ hội” trong việc bình
thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ. Rõ ràng, mặc dù, thời kỳ này, Mỹ và Liên Xô
đang hưởng những khoảng thời gian “trăng mật”, nhưng hai bên vẫn cố gắng mở
rộng ảnh hưởng của mình, lôi kéo thêm các đồng minh mới.. Hơn nữa, Mỹ để ngỏ
khả năng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam cũng một phần để kéo Việt Nam
khỏi ảnh hưởng của Liên Xô.
3.4.Nhân tố Trung Quốc.
Năm 1978 - cơ hội đã “tuột tay”
Ngày 11- 7 – 1978 tại Tokyo ( Nhật Bản) Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Phan Hiền đã tuyên bố rằng, Việt Nam sẽ bỏ tất cả các điều kiện tiên quyết, kể cả
yêu cầu Mỹ đóng góp 3,25 tỷ USD như đã hứa) cho bình thường hoá quan hệ Việt
- Mỹ nhưng chính quyền J. Carter đã không thừa nhận sự thay đổi đó và nhấn
mạnh rằng không được thông báo chính thức và đòi hỏi phải có bản viết. Phía Việt
Nam đã đáp ứng ngay cả đòi hỏi quá đáng này của Mỹ. Đầu tháng 11 – 1978,
Ngoại trưởng Mỹ đã chính thức xác nhận rằng Việt Nam đã chính thức xóa bỏ tất
cả các điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ. Vậy mà
cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ giữa Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ
Richard Holbrook và thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ thạch trong cuối
tháng 11 – 1978 vẫn không đi đến kết quả như mong đợi. Đến ngày 30 – 11 –
1978 , Trợ lý ngoại trưởng Mỹ Robert Oakley cho biết: “ Mỹ không thay đổi lập
14
trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ
ba vấn đề Campuchia, Hiệp ước Xô –Việt và vấn đề người di tản Việt Nam”.
Vậy tại sao, đang từ chỗ Hoa Kỳ có vẻ thiện chí bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam lại có “hành xử” như vậy? - Đó chính là sự xuất hiện của một
nhân tố thứ ba - Trung Quốc.
Bàn về cái gọi là “ năm 1978 - một cơ hội bị bỏ lỡ” này trong lần trả lời
phỏng vấn của phóng viên Reuter( Anh ) năm 1995, cố Thứ trưởng ngoại giao Lê
Mai đã nói đến “ một canh bạc khác” của Tổng thống J. Carter và Mỹ đã rút lui
sau đó – năm 1978 khi Việt Nam và Mỹ đã tiến rất gần tới một thoả thuận về bình
thường hoá quan hệ.
“ Canh bạc khác” của Tổng thống J. Carter nói đến ở đây chính là Trung
Quốc. “ Chính quyền Carter cũng không bình thường hoá quan hệ ngoại giao với
Hà Nội, lúc đầu lý do của họ là vấn đề người mất tích. Rồi họ kể đến tình hình
chính trị nhanh chóng xấu đi ở Đông Dương. Lý do thực sự ngoài sự thù địch
chống cộng đối với chính phủ Hà Nội, một nhân tố có tầm quan trọng ngày càng
tăng, là họ sợ việc bình thường hoá có thể làm tổn thương đến mối quan hệ đang
phát triển của Mỹ và Trung Quốc. Cả những người tự do và những người cánh hữu
đều đồng ý với nhau về lý do đó. Bản thân J. Carter đã viết trong hồi ký của mình :
“ Bước đi với Trung Quốc có tầm quan trọng tối cao, cho nên sau vài tuần đánh
giá, tôi quyết định hoãn cố gắng về Việt Nam cho đến khi Hiệp định của chúng ta
ở Bắc Kinh” 6
Tổng thống Carter thừa nhận, ông nhận được rất nhiều kiến nghị từ Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao, Cyrus Vance, và, Cố vấn An ninh Quốc gia, Zbigniev
Brzezinski. “Một bên ủng hộ, một bên chống”, Jimmy Carter nói. Theo ông Carter
thì năm 1978, phía Việt Nam rút lại điều khoản “bồi thường chiến tranh”, nhưng
quá trễ. Ngày 20 tháng 5 năm 1978, Brzezinski đến Bắc Kinh. Một ngày trước đó,
6 Grant Evants và Kelvin Rowley, trang 61. “ Chiến tranh giữa những người anh em đỏ” ( Red Brotherhood
at War ) (được NXB Quân đội dịch là : “ Chân lý thuộc về ai”)
15
lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố: "Trung Quốc là NATO phương
Ðông" và "Việt Nam là Cuba phương Ðông" (19.5.78). Nước cờ "chơi lá bài
Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô" của cố vấn an ninh quốc gia Z.Bzrezinski đã
dần dần lấn lướt chủ trương của ngoại trưởng Cyrus Vance và R.Holbrooke là
"thúc đẩy song song việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và Trung Quốc".
Brzezinski thuộc phái chống kịch liệt bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và
Jimmy Carter thừa nhận: “Tôi đã bị thuyết phục bởi Brzezinski”. Tổng thống
Jimmy Carter nói: “Khi đó (1978), tôi phải trực tiếp đàm phán bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc và so với Trung Quốc và cuộc đàm phán giữa Israel và Ai
Cập, tôi phải nói rằng, Việt Nam không nằm trong thứ tự ưu tiên của tôi”.7
Chúng ta phải thừa nhận rằng, so với Trung Quốc Việt Nam sẽ không phải
ưu tiên số một của chính phủ Mỹ. Cả Mỹ và Trung Quốc đều nhận thấy nhu cầu
tất yếu - bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Năm 1972, sau màn “ngoại giao
bóng bàn” tại Bắc Kinh, với nhiều nỗ lực của hai bên để đi đến bình thường hóa
quan hệ, song do nhiều lý do chi phối trong đó có yếu tố Đài Loan, cho nên đến
đầu năm 1979 (1 – 1 – 1979 ) Trung Quốc và Mỹ mới bình thường hóa quan hệ.
IV. Có hay không “Cơ hội bị bỏ lỡ”???
Theo ý kiến của cá nhân tôi, tôi cho rằng thực tế là “có cơ hội bị bỏ lỡ”,
nhưng nó bị bỏ lỡ là do lỗi của cả hai bên: cả Việt Nam và Mỹ, chứ không phải
như một số người vẫn nói rằng đó là sai lầm của Việt Nam.
Mỹ là một nước lớn, chúng ta rõ ràng nhận thấy nhu cầu bình thường hóa
quan hệ với Mỹ là tất yếu. Thực sự năm 1977 - 1978 hai nước đã có cơ hội bình
thường hóa. Năm 1977, khi Mỹ đang thiện chí bình thường hóa, thì do nhiều yếu
tố chi phối như tôi đã trình bày ở trên, nỗ lực bình thường hóa của hai nước đã
không thành công.
7 Con Đường Quan Hệ Việt- Mỹ blog.360.yahoo.com/blog-_Q78P6g5br89WVUa77qC3PG4?p=2540
- 53k –
16
Năm 1978, khi mà Việt Nam cho rằng thời cơ bình thường hóa đã chín
muồi, nhưng với sự xuất hiện “ kẻ thứ ba” – Trung Quốc, bằng việc lựa chọn
“canh bạc chơi ván bài Trung Quốc” chính quyền J. CarterMỹ đã gác lại quá trình
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và giành sự ưu tiên của mình cho bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Có thể nói, bên cạnh những tác động phức tạp của tình hình thế giới, các
vấn đề chính trị, đặc biệt là vấn đề Campuchia, nguyên nhân sâu xa dẫn đến Mỹ đã
bác bỏ khả năng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam chính là chính sách chống
cộng và quyết định “ canh bạc” chơi “ con bài Trung Quốc”.
Tiếp theo đó là quan hệ Việt – Trung ngày càng xấu đi, và cùng với nó là
“vấn đề Campuchia” luôn được đưa ra như một điều kiện tiên quyết để bình
thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, do vậy mặc cho những nỗ lực đơn phương của
Việt Nam quan hệ hai nước không có chuyển biến gì đáng kể.
Từ năm 1985, khi Liên Xô bắt đầu cải tổ, tình hình thế giới có những thay
đổi thì quan hệ Việt - Mỹ có những tiến triển, đặc biệt từ năm 1986 ta đổi mới thì
hai bên bắt đầu có những tiếp xúc trở lại, và qua nhiều vòng đàm phán khó khăn
cuối cùng đến năm 1995 hai nước mới chính thức bình thường hóa quan hệ.
Xoay quanh vấn đề này, vẫn có nhiều câu hỏi đặt ra như: Nếu như hai nước
đạt được bình thường hóa năm 1977 thì quan hệ hai nước có gì khác không?
Chúng ta có thể tránh được những bao vây cấm vận của Mỹ sau đó hay không?
Về điều này thì chưa ai có thể khẳng định chắc chắn được, chúng ta có thể lấy
Cuba như một ví dụ, Cu Ba hiện vẫn bị bao vây cấm vận dù có Phòng Quyền lợi.
Lúc đó cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam phụ thuộc vào những vấn đề như
Cămpuchia, quan hệ giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc, phụ thuộc vào vấn đề ý
thức hệ. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tôi không đi sâu phân tích và trả lời
cho những câu hỏi đó.
17
PHẦN KẾT LUẬN
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, đã tác động không
nhỏ tới điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn giai đoạn sau năm 1975,
và quan hệ Việt – Mỹ trong thời gian này cũng có những thay đổi, đó là sự xuất
hiện sự kiện người ta vẫn nhắc tới như một “cơ hội bị bỏ lỡ”. Cơ hội thì tất yếu là
nên nắm bắt, nhưng sự thật trong những năm 1975 – 1978, quan hệ Việt Nam và
Mỹ đã có cơ hội bình thường hóa nhưng, với sự chi phối của nhiều yếu tố chủ
quan cũng như khách quan, các nhân tố tác động đến từ cả hai phía mà nỗ lực
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước giai đoạn này đã không thành công. Để rồi
kéo dài tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước cho tới gần 20 năm sau.
Hiện nay, kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, quan hệ hợp tác giữa
hai nước trên tất cả các lĩnh vực đều có những bước tiến đáng kể, Hoa Kỳ vẫn là
một trong những ưu tiên mục tiêu của chúng ta. Với sự nỗ lực của hai bên, hy
vọng trong thời gian tới, quan hệ hai nước sẽ vẫn tiếp tục phát triển tốt đẹp và
giành được nhiều thành tựu mới./.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phi Bằng. Những sự kiện quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc.
NXB Trẻ.
Quan hệ Việt – Mỹ thời kỳ sau chiến tranh lạnh ( 1990 – 2000). PGS –
TS. Lê Văn Quang. NXB Đại Học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh. Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn
Chính sách đối ngoại Việt Nam. Tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, tập
II 1975 – 2006.Học viện Quan Hệ Quốc Tế. Ths. Vũ Đoàn Kết ( biên
soạn).Hà Nội, 2007.
Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2002.
Hồi ức và suy nghĩ Trần Quang Cơ.
so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-0/
Bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ: Quá trình lâu dài và chông gai
.
new-chapter-NKhanh-08012008115020.html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- csdn_tthao_9652.pdf