Đề tài Bối cảnh phát triển hệ thống thông tin

Hệ thống thông tin chảy và tổ chức ảnh hưởng đến nhau, hệ thống thông tin được xây dựng bởi các nhà quản lý để phục vụ lợi ích của công ty kinh doanh. Đồng thời, tổ chức phải được nhận thức và mở các ảnh hưởng của hệ thống thông tin để được hưởng lợi từ công nghệ mới. Sự tương tác giữa công nghệ thông tin và tổ chức phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trung gian, bao gồm cả các tổ chức của cấu trúc, quy trình kinh doanh, chính trị, văn hóa, môi trường xung quanh, và quyết định quản lý .Bạn sẽ cần phải hiểu như thế nào hệ thống thông tin có thể thay đổi xã hội và hoạt động sống trong công ty của bạn. Bạn sẽ không có thể thiết k

pdf32 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 4229 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bối cảnh phát triển hệ thống thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................................................................................... 30 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 32 7 BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THÔNG TIN I. Hệ thống thông tin. Ngày nay việc phân tích, xử lý thông tin trong các tổ chức nói chung và doanh nghiệp nói riêng cần chính xác, kịp thời để hỗ trợ cho việc ra quyết định cũng như công tác quản lý, lập kế hoạch của ban quản trị. Việc vận hành và sử dụng hệ thống thông tin (HTTT) thay thế cho phương pháp quản lý thông tin truyền thống trong nhiều doanh nghiệp hiện nay không còn là điều quá mới mẻ. Hơn thế nữa, mục tiêu của HTTT lại luôn gắn chặt với mục tiêu của doanh nghiệp. Vậy HTTT là gì? Hệ thống là một tập hợp có tổ chức gồm nhiều phần tử có các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và có cùng hoạt động hướng tới một mục tiêu chung. Ví dụ khái niệm hệ thống được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày như hệ thống giao thông, hệ thống truyền thông, hệ thống các trường đại học v.vMục tiêu của hệ thống là lý do tồn tại của hệ thống. Để đạt được mục tiêu, hệ thống tương tác với môi trường bên ngoài của nó (các thực thể tồn tại bên ngoài hệ thống). Có 2 loại hệ thống:  Hệ thống mở: có tương tác với môi trường. Hệ thống chấp thuận các đầu vào, biến đổi có tổ chức để tạo kết quả đầu ra nhất định. 8  Hệ thống đóng: không tương tác với môi trường (chỉ có trên lý thuyết). Thông tin (Information): là ý nghĩa được rút ra từ dữ liệu thông qua quá trình xử lý (phân tích, tổng hợp, v.v), phù hợp với mục đích cụ thể của người sử dụng. Thông tin có thể gồm nhiều giá trị dữ liệu được tổ chức sao cho nó mang lại một ý nghĩa cho một đối tượng cụ thể, trong một ngữ cảnh cụ thể. Thông tin giá trị có các đặc điểm: chính xác, xác thực, đầy đủ, chi tiết, dễ hiểu, đúng lúc, thường xuyên, thứ tự.  Ví dụ: Với dữ liệu Nguyễn Bảo An, 12345, 18/08/16, 18 thì ta có thông tin sau: Thủ kho Nguyễn Bảo An xuất mặt hàng có danh mục là 12345 vào ngày 18/07/2016 với số lượng 18 (Thông tin = dữ liệu + xử lý). HTTT (hay còn gọi là IS – Information System) là tập hợp gồm con người, các thiết bị phần cứng, phần mềm, dữ liệu thực hiện các hoạt động thu thập, lưu trữ, xử lý và phân phối thông tin trong tập hợp ràng buộc là môi trường. HTTT có thể là thủ công nếu dựa vào các công cụ như bút, viết hay nó có thể là HTTT hiện đại là hệ thống tự động hóa dựa vào máy tính (phần cứng, phần mềm) và các công nghệ thông tin khác. Khi so sánh với các HTTT thực hiện xử lý dữ liệu một cách thủ công thì có thể rõ ràng thấy được các HTTT này hạn chế về tốc độ xử lý và khả năng xử lý khối lượng dữ liệu. Tuy nhiên, các HTTT xử lý theo cách truyền thống (thủ công và không được sử dụng các phương tiện số hóa) trong một số trường hợp lại phù hợp, ví dụ: các doanh nghiệp nhỏ và ở những đơn vị còn quản lý theo cảm tính cá nhân và có tính linh động cao. 9  Dữ liệu đầu vào có 2 loại: tự nhiên và có cấu trúc. Trong khi loại dữ liệu tự nhiên giữ nguyên dạng khi nó phát sinh như tiếng nói, công văn, hình ảnh v.v thì loại dữ liệu có cấu trúc được cấu trúc hóa với khuôn dạng nhất định như sổ sách, bảng biểu v.v  Thông tin đầu ra: được phân tích và tổng hợp từ dữ liệu vào và tùy thuộc vào từng nhu cầu (quản lý) trong từng trường hợp cụ thể, từng đơn vị cụ thể thuộc tổ chức (báo cáo tổng hợp, thống kê, thông báo) Mọi đơn vị tổ chức đều có một hệ thống thông tin. Đơn vị tổ chức (organization) có thể là một doanh nghiệp, cơ quan hay một tổ chức cộng đồng. Ví dụ: HTTT tự động hóa công việc văn phòng HTTT tự động công việc văn phòng là một hệ thống dựa trên máy tính nhằm thu thập, xử lý, lưu trữ, và gửi thông báo, tin nhắn, tài liệu, và các dạng truyền tin khác giữa các cá nhân, các nhóm làm việc, và các tổ chức khác nhau Xử lý tự động hóa chỉ được thực hiện trên các dữ liệu có cấu trúc (số hóa), được trao nhiệm vụ cho các hệ thống máy tính thực hiện xử lý dữ liệu nhanh chóng và chính xác, đồng thời cung cấp thông tin ở bất cứ khi nào và ở đâu. 10 Hoạt động của một HTTT bao gồm:  Thu thập: lọc, cấu trúc hóa dữ liệu để có thể khai thác trên các phương tiện tin học từ nguồn dữ liệu bên trong và bên ngoài.  Xử lý: phân tích, tổng hợp, tính toán trên các nhóm chỉ tiêu, tạo thông tin kết quả hoặc là cập nhật, sắp xếp, lưu trữ kết quả trong kho dữ liệu.  Phân phát: phân phát thông tin cho từng đối tượng sử dụng. Đặc trưng của một HTTT:  Hệ thống thông tin được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại (CNTT).  Hệ thống thông tin được cấu thành bởi nhiều hệ thống con. Khi các hệ thống con này được kết nối và tương tác với nhau, chúng sẽ phục vụ cho việc liên lạc giữa các lĩnh vực hoạt động khác nhau của tổ chức.  HTTT hướng tới mục tiêu cung cấp thông tin cho việc ra quyết định và kiểm soát. Hệ thống chuyển giao cho từng thành viên trong tổ chức những thông tin cần thiết để xác định, chọn lựa các hành động phù hợp với mục tiêu của tổ chức cũng như các hành động giúp kiểm soát lĩnh vực mà thành viên đó chịu trách nhiệm. 11  HTTT là một hệ thống kết cấu mềm dẻo và có khả năng tiến hóa. Một HTTT rất có thể trở nên lỗi thời nhanh chóng nếu không có khả năng thay đổi mềm dẻo và mở rộng được để phù hợp với sự biến đổi và phát triển của tổ chức. HTTT của một đơn vị/tổ chức giúp phân tích bên trong và bên ngoài môi trường của doanh nghiệp. Đồng thời xây dựng và kiểm tra các mục tiêu đặt ra cho HTTT. Các mục tiêu này liên quan đến: lợi nhuận, phát triển bền vững, dịch vụ chuyên nghiệp, phát triển doanh nghiệp, mở rộng thị trường, làm hài lòng khách hàng và nhân viên. HTTT mang lại hiệu suất hoàn thiện các hoạt động và đồng thời mang lại hiệu quả bằng các quyết định đúng đắn. Ví dụ: Hệ thống thông tin marketing HTTT có vai trò trung gian giữa tổ chức kinh tế và môi trường, giữa hệ thống con quyết định và hệ thống con tác nghiệp. Không cần bàn cãi khi HTTT ngày càng được xem như là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Hay nói một cách khác nếu không có các HTTT thì doanh nghiệp được xem như là bị bất lợi trong cạnh tranh. Do đó, HTTT là một nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp. II. Minh họa về một hệ thống thông tin Các HTTT trong tổ chức và doanh nghiệp là đặc thù ở các lĩnh vực khác nhau nhưng có một số điểm chung. Ví dụ: các HTTT được thiết kế cho một lĩnh vực đặc thù nhưng cũng có khả năng ứng dụng cho các loại hình của doanh nghiệp, tổ chức. Cụ thể là các hệ 12 thống “chấm công” có thể ứng dụng cho các trường học, thư viện, cửa hàng tiện lợi, qua thẻ mã vạch, thẻ từ, thẻ proximity ( thẻ không tiếp xúc), dấu vân tay, Xuất phát điểm của các HTTT ở ví dụ trên không phải lúc nào cũng được nhận biết được trong quá trình xây dựng hệ thống bởi vì hệ thống này được phát triển cho một công ty hay lĩnh vực cụ thể. Một số gói ứng dụng phần mềm (như xử lý văn bản hay quản lý dự án) là một ngoại lệ và được xây dựng để phục vụ cho nhiều loại hình tổ chức (doanh nghiệp). Hai ví dụ minh họa về hệ thống thông tin: 1) Hệ thống điểm danh HS-SV Áp dụng hình thức quản lý HS-SV bằng “máy chấm công vân tay” là một HTTT. Đây là một HTTT chưa được dùng phổ biến trong các trường học nhưng đây là cách vô cùng tiện lợi, nhanh chóng và chính xác giúp cho nhà trường giảm được một lượng lớn thời gian thay cho việc điểm danh trên giảng đường hay tránh không cho kẻ xấu thâm nhập vào học đường. Giải pháp sử dụng “máy chấm công vân tay” sẽ được ứng dụng trong trường học để có thể nhận dạng tự động HS-SV qua thẻ từ hoặc vân tay, thay vì sử dụng thẻ HS-SV có in theo truyền thống. Hệ thống chấm công này sẽ giúp tự động hóa được rất nhiều thứ trong môi trường học đường và đảm bảo an ninh tốt nhất cho HS-SV. Dữ liệu đầu vào cho HTTT điểm danh HS-SV bao gồm: Họ tên HS-SV, mã môn học, số tiết, thời gian học, ngày đi trễ, ngày vắng, dấu vâu tay, tiền trong thẻ. HTTT cơ bản sẽ tạo ra các danh sách điểm danh chứa các thông tin sau:  Kết quả đi học của HS-SV (qua lịch sử quét vân tay).  Lịch sử HS-SV ra vào các phòng lab, thư viện, mượn sách, dụng cụ thiết bị của thư viện.  Các ghi chú. Máy điểm danh HS – SV 13 2) Hệ thống thông tin sân bay Màn hình trình chiếu lịch trình, thông báo của các hãng hàng không hay chỉ dẫn cửa đi và đến... cho hành khách chỉ là một phần trong hệ thống thông tin sân bay. Khác với hệ thống không lưu quản lý bay và điều hành máy bay, hệ thống thông tin sân bay là dịch vụ mặt đất, hiển thị tại các màn hình, loa phát thanh cung cấp lịch trình chuyến bay, thông báo của các hãng hàng không cũng như hướng dẫn cửa đi và đến cho hành khách và nhân viên tại sân bay. Hệ thống truyền thông tin cơ bản này có nguyên tắc hoạt động là sử dụng máy tính truyền nội dung trực tiếp hoặc thông qua hệ thống mạng tới màn hình, bảng điện tử hay loa phóng thanh. Tuy nhiên, theo Aviation Pros, hệ thống thông tin sân bay hiện đại đang ngày càng phức tạp hơn nhiều lần. Nó sử dụng hệ thống mạng nội bộ Intranet để truyền phát thông tin tại sân bay, còn mạng Internet để cung cấp thông tin cho các hãng hàng không đưa lên website cũng như kết nối dữ liệu tới sân bay khác. Nguồn thông tin được quản trị viên đưa vào máy chủ, thông qua phần mềm quản lý sẽ tự động cập nhật tới mạng máy tính nội bộ hoặc server trên Internet. Nhiều hệ thống hiện giờ được xây dựng dựa trên phương thức TCP/IP và HTTP, dễ dàng tích hợp các giao tiếp công nghệ hiện đại như smartphone, máy tính bảng... Minh hoạ về một mạng hệ thống thông tin sân bay 14 Hệ thống thông tin sân bay sử dụng mạng nội bộ và mạng Internet để phát thông báo, lịch trình chuyến bay ra các màn hình, bảng điện tử hay hệ thống loa phóng thanh. HTTT sân bay, đặc biệt là những sân bay hiện đại tuy có độ bảo mật cao nhưng không tránh khỏi những lần xâm nhập của hacker, ví dụ điển hình gần đây nhất là hai sân bay quốc tế là Nội Bài và Tân Sơn Nhất đã bị tin tặc tấn công: phát tán thông tin hơn 400.000 thành viên, loa phát thanh bị chèn âm thanh với nội dung xấu, màn hình hiển thị thông tin kích động,Như vậy, để một HTTT hoạt động tốt, yếu tố an toàn bảo mật phải đặt lên hàng đầu, đó cũng là một bài toán khó dành cho giới công nghệ trong mọi thời đại. III. Môi trường và ngữ cảnh HTTT không hiện diện trong một khoảng chân không, rõ ràng là các HTTT được xây dựng và vận hành, đem lại tác động đến trong một môi trường nhất định. Và môi trường này cũng liên tục biến đổi và có tính phức tạp. Doanh nghiệp ngày nay được cho là đang phải đối diện với những cuộc cạnh tranh đang ngày càng quyết liệt, với những thách thức của toàn cầu hóa và những thay đổi thị trường cùng với sự phát triển không ngừng, nhanh chóng của công nghệ. Công nghệ thông tin có thể hỗ trợ doanh nghiệp cải thiện hiệu quả và hiệu suất của các qui trình nghiệp vụ kinh doanh, quản trị ra quyết định, cộng tác nhóm làm việc, qua đó tăng cường vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong một môi trường thay đổi nhanh. Tin học hóa công tác quản lý của các đơn vị kinh tế, hành chính... (tin học quản lý) đang là lĩnh vực quan trọng nhất của ứng dụng tin học. Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin kinh tế và quản lý hiện đại là nội dung chủ yếu của ứng dụng tin học trong việc tự động hóa từng phần hoặc toàn bộ các quy trình nghiệp vụ, quản lý trong các tổ chức kinh tế. IV. Nền kinh tế toàn cầu Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta đang đứng trước thời cơ mới. Nhân loại đang từng bước đi vào sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành nền kinh tế dựa vào tri thức, sử dụng nhanh và gần như trực tiếp các thành tựu của khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất đời sống. Đó là điều mà Các – Mác đã tiên đoán cách đây 150 năm về khả năng đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Theo đánh giá của các nhà tương lai học, thế giới đang chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức, trong đó khả năng hiểu biết của con người đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông đã được ứng dụng ngày càng nhiều mặt của đời sống xã hội. 15 Xu hướng nền kinh tế thế giới chuyển sang nền kinh tế có cơ sở vật chất kỹ thuật mới về chất - một nền văn minh hậu công nghiệp. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trình độ công nghiệp hoá cao coi khoa học công nghệ là cốt lõi của biến đổi nền kinh tế. Các nước này áp dụng nhiều biện pháp để dành được các ưu thế trong sáng tạo kỹ thuật công nghệ như: tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học công nghệ và tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, cải cách và chấn hưng giáo dục, bồi dưỡng và thu hút nhân tài, thành lập các thành phố khoa học kỹ thuật cao. Thay đổi cơ cấu nền kinh tế với vai trò chủ đạo của ngành kinh tế dịch vụ và tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ, áp dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất. Những cải tổ trên là những dấu hiệu mới chưa từng có trong khuôn khổ của các nước TBCN trước đây và có thể được xem là những yếu tố mới, những hình thức quá độ sang một xã hội mới. Do tác động của khoa học và công nghệ với cường độ lớn hơn và trình độ cao hơn làm thay đổi cơ cấu ngành sản xuất và dịch vụ mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Các ngành công nghiệp “ cổ điển” giảm dần tỉ trọng và vai trò của nó trở nên “ mãn chiều xế bóng ”. Các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất. Chúng giữ vai trò khớp nối, đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển với tốc độ cao. Cơ cấu kinh tế trở nên mềm hoá, khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền kinh tế “ tượng trưng ” có quy mô lớn hơn nền kinh tế “thực tế” nhiều lần. Cơ cấu lao động phân theo ngành có sự thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ. Do sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động mới của các công ty xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hoá nến kinh tế thế giới ngày nay càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiếu sâu trên hai cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá và đã đưa đến nền chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế trên bước vào thời kỳ cạnh tranh toàn cầu bên cạnh sự đẩy mạnh tìm kiếm hợp tác trong cạnh tranh. Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo thị trường hoá nền kinh tế của từng quốc gia, quốc tế hoá thể chế nền kinh tế giữa các nước theo hướng mở cửa với sự xuyên suốt của thể chế kinh tế thị trường theo hướng nhất thể hoá và tập đoàn kinh tế khu vực. Công nghệ thông tin phát triển làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và đời sống, đưa đến sự tác động ngày càng lớn của kinh tế đến chính trị và xã hội. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra cả bề rộng lẫn bề sâu, một mặt đưa tới cơ hội cho sự phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới, giúp cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên hiện có trên Trái Đất cũng như gây tác động ngược trở lại đối với sự phát triển của khoa học – công nghệ đối với việc phân công lao động quốc tế. 16 Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như sự gia tăng của các rủi ro kinh tế (khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các “bong bóng” tài chính và tiền tệ) cũng như gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội (làm suy giảm tính độc lập chủ quyền quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức vào các trung tâm kinh tế lớn, phương hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc). Trong quá trình toàn cầu kẻ mạnh thu được nhiều lợi ích hơn còn người yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn, có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt lợi ích của họ. Các quốc gia phát triển chậm hơn không thể bị động theo sau, cũng không thể tham gia quá trình toàn cầu hoá một cách bị động và vô vọng được. V. Nền kinh tế kỹ thuật số 1. Khái niệm: Kinh tế kỹ thuật số (đôi khi được gọi là Kinh tế Internet, Kinh tế web, Kinh tế mới ) là nền kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số. Kinh tế kỹ thuật số được đan xen với nền kinh tế truyền thống tạo ra một miêu tả rõ ràng hơn. Kinh tế kỹ thuật số bao gồm các thị trường kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số để tạo cho việc giao dịch, trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua thương mại điện tử. Việc mở rộng các khu vực kỹ thuật số là một động lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế những năm gần đầy, và việc chuyển hướng đến một số thế giới kỹ thuật số có nhiều tác động với xã hội được mở rộng hơn thay vì chỉ riêng công nghệ kỹ thuật số. 2. Tương lai nào cho nền kinh tế kỹ thuật số? Nhiều người cho rằng các công nghệ thông minh có thể thay thế công việc của con người, khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Tuy nhiên,thực tế cho thấy cứ một công việc liên quan đến công nghệ sẽ tạo thêm 5 - 7 công việc đi kèm. "The Future of the Digital Economy" (tạm dịch: Tương lai của nền kinh tế kỹ thuật số) là chủ đề của phiên thảo luận được thực hiện trong khuôn khổ hội nghị thường niên lần thứ 45 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đang diễn ra tại Davos, Thụy Sĩ. Các khách mời tham gia phiên thảo luận này gồm lãnh đạo của các doanh nghiệp công nghệ tiên phong trên thế giới hiện nay: Satya Nadella, CEO Microsoft; Sheryl Sandberg, COO Facebook; Eric Schmidt, Chủ tịch Google; Vittoria Colao: CEO Vondafone Group (UK). Các khách mời đều rất lạc quan khi đưa ra dự đoán về tương lai của nền kinh tế kỹ thuật số. Hiện nay có khoảng 40% dân số toàn cầu sử dụng Internet mỗi ngày. Sự phát triển mạnh mẽ của Internet cùng với ứng dụng phổ biến của các thiết bị điện thoại thông minh hay máy tính 17 bảng giúp mọi người có thể dễ dàng kết nối và tương tác với nhau từ bất kỳ nơi nào trên thế giới. Không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa công nghệ. Tuy nhiên, các chính phủ cần đưa ra các qui định kiểm soát chặt chẽ để tránh lạm dụng thế giới ảo Internet và sử dụng thông tin sai mục đích. Khi đề cập đến những thay đổi do Internet mang lại, bà Sheryl Sandberg - COO của Facebook – cho biết Internet giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và làm giảm các phân biệt bất bình đẳng. Những người phải giữ “im lặng” trong quá khứ giờ đây có thể tự do thể hiện ý kiến của mình thông qua các mạng xã hội. Tại một số nước đang phát triển như Ấn Độ, Internet giúp phụ nữ tiếp cận với những tri thức giáo dục cần thiết về giới tính, quyền bình đẳng hay các kỹ năng chăm sóc con cái. Từ đó giúp họ xây dựng cuộc sống ổn định và hạnh phúc hơn. Ông Satya Nadella, CEO của tập đoàn Microsoft, cho rằng việc ứng dụng công nghệ thông minh, qua ứng dụng điện thoại hay xây dựng các kho dữ liệu “đám mây”, sẽ đem lại nhiều cơ hội kinh doanh mới và có thể tiết kiệm chi phí IT trong một số lĩnh vực kinh tế như ngân hàng. Ông cũng khẳng định cuộc cách mạng công nghệ sẽ mang lại thay đổi trên thị trường lao động. Nhiều người cho rằng các công nghệ thông minh có thể thay thế công việc của con người, khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Tuy nhiên, trong thực tế các công nghệ mới bao gồm Internet giúp con người nâng cao tri thức với nguồn dữ liệu mở, dồi dào và gần như miễn phí, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm. Theo một ước tính, cứ một công việc liên quan đến công nghệ sẽ tạo thêm từ 5 đến 7 các công việc liên quan đi kèm. Ông Eric Schmidt, chủ tịch Google, cho rằng chúng ta cần tích cực xây dựng cơ sở hạ tầng với hệ thống băng thông rộng để phục vụ cho sự phát triển công nghệ và Internet trong tương lai. Ông Vittoria Colao đánh giá cao ý tưởng LTE-Baloon của Google - dùng kinh khí cầu bay lơ lửng ở độ cao gấp hai lần máy bay để cung cấp tín hiệu mạng cho người dân sống tại các khu vực nông thôn hẻo lánh. Tuy nhiên dự án này vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Thách thức xây dựng cơ sở hạ tầng trong lĩnh công nghệ cần được chia sẻ giữa các tập đoàn lớn đa quốc gia, chính phủ và người dân. Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ, bà Sheryl Sandberg hi vọng chi phí kết nối và sử dụng Internet tại các nước đang phát triển sẽ tiếp tục giảm xuống, cho phép mọi người có thể tiếp cận với những lợi ích từ Internet và các mạng xã hội sôi động hiện nay. Kết thúc phiên thảo luận, các khách mời đều nhất trí rằng: “tin tưởng, hợp tác, kiểm soát chặt chẽ và hỗ trợ toàn diện” là bốn định hướng quan trọng trong nỗ lực xây dựng tương lai thịnh vượng cho nền kinh tế kỹ thuật số. 3. Các yếu tố quyết định thành công trong nền Kinh tế kỹ thuật số Trong nhiều năm, kỹ thuật số luôn được coi là một phần của nền kinh tế. Nhưng ngày nay, 18 với sư ̣tiến bô ̣không ngừng của khoa hoc̣, kỹ thuật số đã biến đổi tới mức đỉnh cao, vươṭ qua moị sư ̣đoán trước kia. Ky ̃thuâṭ số giờ đây không chỉ là môṭ phần của nền kinh tế, nó chính là nền kinh tế. Đó là một nền kinh tế đem laị vô số cơ hôị cho những người biết thích nghi và gây khó khăn đáng kể cho những người còn laị. Nhiều công ty - như Kodak, Blockbuster, Sears, và Blackberry - đã không thể thích ứng, trong khi những công ty khác laị đang phát triển mạnh. Theo nghiên cứu của MIT Sloan, các công ty biết tâṇ duṇg sư ̣phát triển của ky ̃thuâṭ số vào kinh doanh có nhiều lợi nhuận hơn 26% so với các doanh nghiêp̣ khác . Vâỵ những công ty này đa ̃làm thế nào để có thể thành công đến vâỵ trong thời đaị phát triển của khoa hoc̣ với sư ̣bùng nổ của ki ̃thâṭ số? Có 4 yếu tố chính làm nên thành công đó là:  Kỳ vọng của khách hàng: Không có thay đổi nào thách thức hơn là việc đạt được kỳ vọng của khách hàng. Kỹ thuật số giúp các công ty kết nối với khách hàng tốt hơn và ở mức giá caṇh tranh hơn. Thế nhưng để cung cấp cho khách hàng trải nghiêṃ chất lươṇg dic̣h vu ̣tuyêṭ vời thì laị càng khó khăn hơn. Big data sẽ là một nhân tố giúp khách hàng chủ động hơn trong viêc̣ trải nghiệm dic̣h vu.̣ Công ty phát triển mạnh sẽ tiếp tục tận dụng dữ liệu bằng cách sử dụng nó để giải quyết các vấn đề về bảo mật, những lo ngại về quản lý thông tin, và những hạn chế của phân tích dữ liêụ trước môṭ làn sóng thông tin khổng lồ.  Cải tiến sản phẩm: Các công ty lớn cũng tích hợp các sản phẩm và dịch vụ có liên quan vào các giải pháp công nghệ phức tạp, trong khi mở rộng và tái cơ cấu ngành công nghiệp, về cơ bản điều đó đang taọ ra ngành công nghiệp hoàn toàn mới.  Đổi mới hợp tác: Các công ty cần phải có nhiều đổi mới hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của thị trường đầy tính cạnh tranh ngày nay với quy mô mang tính toàn cầu. Hợp tác là một trong những yếu tố cần thiết cho sự đổi mới, không chỉ trong mà còn ngoài phaṃ vi doanh nghiệp như về khách hàng, đối tác, những công ty khởi nghiệp, các trường đại học, và cộng đồng.  Tổ chức lãnh đạo: Các công ty phải suy nghĩ lại về cấu trúc và văn hóa của họ để đáp ứng tốt hơn với thị trường và các mô hình kinh doanh mới. Việc tổ chức phân cấp chiếm ưu thế trong nền kinh tế công nghiệp sản xuất theo định hướng của thế kỷ 20 sẽ không mang laị hiêụ quả trong nền kinh tế kỹ thuật số toàn cầu với tính chất thay đổi nhanh chóng như hiêṇ nay. Các công ty đang dần chuyển sang quyết định dựa trên số liệu thay vì những quyết định cảm tính của các nhà lãnh đạo lâu năm. Các công ty này được các nhà khoa học cung cấp thêm dữ liệu để tăng cường khả năng nghiên cứu. 19 Họ đã có thể thực hiện một số quyết định nhanh hơn bằng cách dựa vào các thuật toán, trí tuệ nhân tạo, robot và các công nghệ tiên tiến khác. VI. Thương mại điện tử (TMĐT) 1. Khái niệm Thương mại điện tử là hình thức mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua mạng máy tính tòan cầu. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về n tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): “Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại nào về cun diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.” Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử. Theo nghĩa hẹp thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại đư tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử. Thương mại điện tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục ) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người. 2. Các đặc trưng của thương mại điện tử So với các hoạt động Thương mại truyền thống, thương mại điện tử có một số điểm khác biệt cơ bản sau: 2.2.1. Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. 20 Trong Thương mại truyền thống, các bên thương gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch. Thương mại điện tử cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau. 2.2.2 Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu. Thương mại điện tử càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với thương mại điện tử, một doanh nhân dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức và Chilê ..., mà không hề phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm. 2.2.3. Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham ra của ít nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực. Trong Thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực là những người tạo môi trường cho các giao dịch thương mại điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại điện tử. 2.2.4 Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị trường Thông qua Thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành. Ví dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính. Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo! America Online hay Google đóng vai trò quan trọng cung cấp thông tin trên mạng. Các trang Web này đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có khả năng truy cập vào hàng ngàn cửa 21 hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng ngàn các cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước đây được coi là khó bán trên mạng. Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng. Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều người hưởng ứng. Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web bằng cách mở cửa hàng ảo. Hình : Các loại giao dịch B2B trong TMĐT 3. Lợi ích của thương mại điện tử 3.1. Thu thập được nhiều thông tin TMĐT giúp người ta tham gia thu được nhiều thông tin về thị trường, đối tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn thời gian sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng. Các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế thị trường, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong 22 nước, khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển kinh tế. 3.2. Giảm chi phí sản xuất TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu như được bỏ hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài. 3.3. Giảm chi phí bán hàng, tiếp thị và giao dịch TMĐT giúp giảm thấp chi bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử (electronic catalogue) trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng máy bay Boeing của Mỹ, đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet (và nhiều các đơn hàng về lao vụ kỹ thuật), và mỗi ngày giảm bán được 600 cuộc gọi điện thoại. TMĐT qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là từ quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường. Tổng hợp tất cả các lợi ích trên, chu trình sản xuất (cycle time) được rút ngắn, nhờ đó sản phẩm mới xuất hiện nhanh và hoàn thiện hơn. 3.3. Xây dựng quan hệ với đối tác TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành viên tham gia vào quá trình thương mại: thông qua mạng (Internet/ Web) các thành viên tham gia (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ...) có thể giao tiếp trực tiếp (liên lạc “ trực tuyến”) và liên tục với nhau, có cảm giác như không có khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó sự hợp tác và sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng một cách liên tục: các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới, và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn. 3.4. Tạp điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức 23 Trước hết, TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin tạo cơ sở cho phát triển kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp hóa. VII. Tác động của phi thương mại Mặc dù thương mại điện tử đã bao trùm ở những diễn đàn thảo luận, còn có những tác động phi thương mại của nền kinh tế kỹ thuật số góp một phần không nhỏ. Trong nhiều quốc gia có sự rộng lớn của các lĩnh vực công cộng phụ trách nhiều hoạt động, ví dụ tại UK (Vương Quốc Anh) có các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, thuế, luật, lao động, hải quan và thuế môn bài, pháp luật và môi trường Chính phủ Anh đã nhận ra được tầm quan trọng vủa việc quản bá các lĩnh vực cộng đồng và cơ quan chính phủ trên kênh Internet. Họ cho rằng đây là cơ hội để nhằm nâng cao chất lượng trực tiếp đến cho các công dân của nước mình với chi phí thấp hơn và hiệu quả hơn trong 24h của một ngày. Nhưng điều này cũng yêu cầu các công dân có khả năng điều hành doanh nghiệp của mình với kênh chính phủ điện tử. VIII. Sự thay đổi CNNT và truyền thông (ICT) đóng vai trò ngày càng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của con người, làm cho thói quen làm việc, giải trí hay ngay cả các hình thức kinh doanh cũng thay đổi theo. Chính phủ trong thời đại hiện nay cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của ICT, các ứng dụng ICT hứa hẹn việc trao đổi thông tin trong hoạt động các cơ quan nhà nước cũng như cung cấp các dịch vụ và dịch cụ công cho người dân và doanh nghiệp sẽ trở nên tốt hơn, hiệu quả hơn, từng bước nâng cao tính minh bạch và bình đẳng. Việc ứng dụng ICT gắn với cải cách hành chính trong các cơ quan nhà nước ssax nhận được sự quan tâm đắc biệt của các cấp chính quyền, sự đồng thuận của doanh nghiệp và nhân dân. 1. Đổi mới công nghệ và lợi ích Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đã, đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn, hiệu quả hơn. 24 Đổi mới công nghệ có thể chỉ giải quyết bài toán tối ưu về các thông số của quá trình sản xuất như: Năng suất, chất lượng, hiệu quả hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trường. Đổi mới công nghệ cũng có thể trên cơ sở đưa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn toàn mới chưa có trên thị trường hoặc là thông qua việc chuyển giao công nghệ Như chúng ta đã biết, công nghệ là một sản phẩm của con người và nó cũng tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm. Tức là nó được sinh ra, phát triển và cuối cùng là suy vong. Bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu không có những hoạt động nhằm đổi mới công nghệ thì chắc chắn hệ thống công nghệ, dây chuyền sản xuất, máy móc, trang thiết bị sẽ trở nên lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, dẫn đến bị đào thải, làm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bị đe doạ. Do đó, đổi mới công nghệ là tất yếu và phù hợp với quy luật phát triển. Tính tất yếu của đổi mới công nghệ còn xuất phát từ các lợi ích khác nhau mà đổi mới công nghệ đem laị cho doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội nói chung. Đổi mới công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt. Như vậy, đổi mới công nghệ thành công thực sự có ý nghĩa khi và chỉ khi nó được thị trường, xã hội chấp nhận. Xã hội chính là nơi tiếp nhận thành tựu của đổi mới công nghệ, nhưng đồng thời cũng là nơi cung cấp nguồn lực cho quá trình đổi mới công nghệ thành công. Mọi đổi mới công nghệ đều bắt nguồn từ những nhu cầu xã hội hoặc phục vụ nhu cầu nào đó của xã hội. Bên cạnh đó, đổi mới công nghệ là một quá trình sáng tạo mà quá trình đó thường xuất phát từ các cá nhân không hài lòng với thực tại. Chính vì thế, các nhà nghiên cứu, chế tạo thiết bị, công nghệ cần phải xuất phát từ nhu cầu thực sự của xã hội để cải tiến, sản xuất ra những thiết bị, công nghệ phục vụ thiết thực sản xuất. Giải pháp tốt nhất trong vấn đề này là thông qua việc khảo sát, điều tra nhu cầu của người sản xuất hoặc thông qua “Chợ công nghệ và thiết bị”. Đây là cầu nối hiệu quả nhất để nhà nghiên cứu và người sản xuất có nhu cầu sẽ trực tiếp trao đổi nhằm đưa những thiết bị, công nghệ phù hợp, cải tiến kỹ thuật trong quá trình sản xuất và để quá trình thương mại hóa hiệu quả nhất. 2. Các yêu cầu đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp Đổi mới công nghệ sẽ mang lại hiệu quả rất thiết thực, nhất là trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì công nghệ được xem là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ nhất. Đổi mới công nghệ sẽ tạo ra những sản phẩm tiên tiến hơn, chất lượng sản phẩm sẽ tốt hơn, năng suất cao hơn, chi phí sản xuất giảm, hạ được giá thành sản phẩm, ưu thế cạnh tranh trên thị trường ngày càng tốt hơn. Để thực hiện đổi mới công nghệ đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp lưu ý những vấn đề sau: Có định hướng phát triển 25 Đây là yêu cầu rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì nếu không có định hướng phát triển rõ ràng, chỉ tập trung vào việc khai thác các cơ hội trước mắt hoặc duy trì quy mô hiện có về thiết bị, công nghệ, lao động thì doanh nghiệp tự mình giảm thị phần của mình trên thương trường và từng bước bị đẩy lùi về phía sau. Do đó, những doanh nghiệp đổi mới công nghệ nhanh và đổi mới có hiệu quả là những doanh nghiệp luôn có mục tiêu mở rộng, phát triển và chủ động lập kế hoạch phát triển lâu dài. Cập nhật thông tin công nghệ Cập nhật thông tin về công nghệ là rất cần thiết đối với doanh nghiệp, nhất là cập nhật những thành tựu mới về công nghệ và sản xuất kinh doanh liên quan đến ngành mình và các ngành có liên quan, những thông tin đầy đủ về thị trường, chính thức hóa công việc này thông qua bộ phận marketing của doanh nghiệp. Có chính sách kích thích tính sáng tạo trong doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất sẽ xuất hiện nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để đổi mới công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí nguyên, nhiên liệu, hạ giá thành sản phẩm. Do đó, các doanh nghiệp, nhà sản xuất cần tạo môi trường thuận lợi để kích thích sự sáng tạo, suy nghĩ, thử nghiệm, thảo luận và phát triển các ý tưởng của các thành viên trong doanh nghiệp. Đầu tư đổi mới công nghệ Sự thành công của đổi mới công nghệ được quyết định bởi chất lượng các hoạt động, sự kết hợp giữa các cá nhân và các bộ phận với nhau thật sự chặt chẽ và phát huy hiệu quả cao. Do đó, đầu tư cho đổi mới công nghệ đòi hỏi nguồn lực lớn (cả nhân lực lẫn tài lực). Sự quan tâm tích cực đến việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức khác nhau sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc khuyến khích khả năng sáng tạo của các cá nhân trong doanh nghiệp và thu hút trí tuệ, kinh nghiệm, của các chuyên gia giỏi, các nhân viên có kinh nghiệm từ bên ngoài để thực hiện kế hoạch đổi mới công nghệ của doanh nghiệp; đồng thời nó là cơ sở để có thể tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ bên ngoài. Đào tạo nguồn nhân lực Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển dựa vào nền tảng phát triển công nghệ, cần phải tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo chuẩn mực về công nghệ, phù hợp với nhu cầu thực tế sản xuất và quan trọng là phải tạo cơ hội và môi trường thích hợp nhằm phát huy tối đa năng lực sáng tạo của lực lượng lao động theo đúng lĩnh vực chuyên môn được đào tạo. Như vậy, việc tạo nguồn nhân lực công nghệ là một trong những khâu quan trọng nhằm củng cố, phát triển năng lực công nghệ để thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp đề ra trong từng giai đoạn phát triển. Để có nguồn nhân lực công nghệ phù hợp, doanh nghiệp phải có sự đánh giá và trên cơ sở quy hoạch, xác định kế hoạch để xây dựng nguồn nhân lực một cách khoa học và có hệ thống. 26 IX. Về khía cạnh của nhân lực Hệ thống thông tin quản lý (HTTTQL) là ngành học về con người, tổ chức, kỹ thuật và mối quan hệ giữa các yếu tố này. Khi công nghệ càng phát triển thì nhu cầu nhân lực về lĩnh vực này càng gia tăng. Các chuyên gia HTTTQL giúp doanh nghiệp nhận ra lợi ích tối đa từ việc đầu tư vào con người, thiết bị và quy trình nghiệp vụ. Điều quan trọng đối với những người làm việc trong lĩnh vực này là kỹ năng giao tiếp tốt và một sự hiểu biết thấu đáo về kinh doanh. Nhiều người cho rằng HTTTQL cũng chỉ liên quan đến vấn đề lập trình, nhưng thực ra đó chỉ là một phần nhỏ. HTTTQL tập trung vào phân tích dữ liệu, kết nối giữa các bên liên quan trong doanh nghiệp và các chuyên gia công nghệ thông tin, lãnh đạo, quản lý dự án, dịch vụ khách hàng, các lý thuyết kinh doanh cơ bản, cũng như cách làm thế nào để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có lợi thế cạnh tranh hơn. Đây cũng chính là các khía cạnh tạo nên sự khác biệt 27 giữa một chuyên gia HTTTQL và một chuyên gia về khoa học máy tính. HTTTQL giúp các tổ chức đạt được hiệu quả cao hơn thông qua hệ thống kỹ thuật, thiết kế, triển khai và sử dụng hệ thống thông tin kinh doanh theo những cách sáng tạo để nâng cao hiệu quả cho doanh nghiệp. Thực tế, các ứng dụng của công nghệ thông tin và khoa học máy tính vào hệ thống quản lý kinh tế - xã hội, hành chính - tài chính, kinh doanh - thương mại,.. đã thúc đẩy hình thành khoa học về hệ thống thông tin. Tùy thuộc vào mục tiêu quản lý mà hệ thống thông tin có những sắc thái khác nhau. Hoạt động trong lĩnh vực này không những đòi hỏi phải nắm vững kiến thức và kỹ năng về khoa học máy tính và công nghệ thông tin mà còn phải am hiểu tương đối chính xác về các khái niệm, về bản chất, hành vi và cơ chế hoạt động của hệ thống quản lý nhằm hỗ trợ ra quyết định một cách kịp thời, chuẩn xác, đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống. Ngành Hệ thống thông tin quản lý đào tạo các chuyên gia có kiến thức tổng hợp trong hai lĩnh vực: quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh và hệ thống thông tin dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin và truyền thông để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng được nhu cầu quản lý hiện đại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế WTO. Kỹ sư, Cử nhân ngành Hệ thống thông tin quản lý có thể đảm nhận công việc trong một cơ quan, xí nghiệp. Trong các lĩnh vực thiết kế và quản lý một hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho các hoạt động quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh dựa trên nền tảng Công nghệ thông tin và Truyền thông Phân tích hệ thống, tích hợp hệ thống; Quản trị viên HTTT trong cơ quan, xí nghiệp; Lập trình viên CSDL; Nhân viên đào tạo và hướng dẫn nhân viên ở các bộ phận quản lý dự án trong các hướng ngành: giáo dụng điện tử, thương mại điện tử, chính phủ điện tử, các hệ thống thông tin địa lý (GIS); Nghiên cứu viên, giảng viên. 28 Nhân lực là chủ thể điều hành và sử dụng HTTTQL. Tài nguyên về nhân lực bao gồm 2 nhóm:  Nhóm thứ 1 là những người sử dụng HTTT trong công việc hằng ngày của mình như quản lý các nhà quản lý, kế toán, n hân viên các phòng ban.  Nhóm thứ 2 là các phân tích viên hệ thống, lập trình viên, kỹ sư bảo hành máy là những người xây dựng và bảo trì HTTTQL. Tài nguyên về nhân lực và thành phần rất quan trọng của HTTTQL vì con người chính là yếu tố quan trọng nhất trong suốt quá trình thiết kế, cài đặt, bảo trì và sử dụng hệ thống. Nếu tài nguyên về nhân lực không được đảm bảo thì dù hệ thống được thiết kế tốt đến đâu cũng sẽ không mang lại hiệu quả thiết thực trong sản xuất và kinh doanh. X. Về khía cạnh tổ chức 29 Mối quan hệ hai chiều phức tạp này được trung gian bởi nhiều yếu tố, không ít trong số đó là những quyết định, hoặc không được thực hiện theo các nhà quản lý. Các yếu tố khác làm trung gian cho các mối quan hệ bao gồm văn hóa tổ chức, cơ cấu, chính trị, quy trình kinh doanh và môi trường. Hệ thống thông tin chảy và tổ chức ảnh hưởng đến nhau, hệ thống thông tin được xây dựng bởi các nhà quản lý để phục vụ lợi ích của công ty kinh doanh. Đồng thời, tổ chức phải được nhận thức và mở các ảnh hưởng của hệ thống thông tin để được hưởng lợi từ công nghệ mới. Sự tương tác giữa công nghệ thông tin và tổ chức phức tạp và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trung gian, bao gồm cả các tổ chức của cấu trúc, quy trình kinh doanh, chính trị, văn hóa, môi trường xung quanh, và quyết định quản lý .Bạn sẽ cần phải hiểu như thế nào hệ thống thông tin có thể thay đổi xã hội và hoạt động sống trong công ty của bạn. Bạn sẽ không có thể thiết kế 30 các hệ thống mới thành công hoặc hiểu hệ thống hiện có mà không hiểu tổ chức kinh doanh của riêng bạn. Là một người quản lý, bạn sẽ là một quyết định mà hệ thống sẽ được xây dựng, họ sẽ làm gì, và làm thế nào họ sẽ được thực hiện. Bạn không có thể lường trước tất cả các hậu quả của những quyết định này. Một số thay đổi mà xảy ra tại các doanh nghiệp kinh doanh vì công nghệ thông tin mới (IT) đầu tư không thể được lường trước và có kết quả có thể có hoặc không có thể đáp ứng mong đợi của bạn. Ai có thể tưởng tượng mười năm trước, email và tin nhắn nhanh sẽ trở thành một hình thức chi phối của doanh nghiệp truyền thông và nhiều nhà quản lý sẽ bị ngập với hơn 200 tin nhắn e-mail mỗi ngày. XI. Khía cạnh chuyên môn Một mối liên kết giữa quyết định của con người và các yếu tố thuộc về tổ chức có liên quan đến vấn đề chuyên môn. Các mô hình kinh doanh khác nhau cho phép người tham gia từ nhiều nơi khác nhau tạo thành nhóm phát triển. Có thể đề cập đến hai tình huống: đầu tiên xác định các chuyên gia chuyên nghiệp sẽ góp phần rất lớn để tạo ra một sản phẩm phần mềmvới chất lượng cao hơn. Mặt khác ta có thể nhận định được các chuyên gia kém kinh nghiệm. Thường thì các chuyên gia có chi phí ít hơn, có thể không hữu dụng để tham gia như một thành viên trong nhóm, hoặc không có các kỹ năng cần thiết và kiến thức để thực hiện các hoạt động dự án. Trong trường hợp này sẽ là thú vị mà các tổ chức cung cấp đào tạo cần thiết cho những người này dù ở đại học, sau đại học hoặc đào tạo. Vì vậy, các công ty nằm ở những nơi không có tổ chức, có thể cung cấp khóa học phù hợp nên khuyến khích người lao động có trình độ có cơ hội này. 31 Các điểm yếu nghiêm trọng của hệ thống đã được phát hiện:  Sự phụ thuộc “lâu dài” vào thiết kế không đầy đủ. Hệ thống ban đầu được thiết kế và xây dựng bởi các nhà phát triển (gồm cả lập trình viên) với điều kiện sức ép và hạn hẹp về thời gian. Do vậy hệ thống thiếu sự linh hoạt và được thiết kế với các bảng dữ liệu không đầy đủ.  Thiếu các kiểm tra và làm “cân đối”. Cụ thể là thiếu kiểm tra tổng thể tài chính, như là: không thể cân đối giá trị các hóa đơn được sinh ra, các lệnh gọi (calls) từ thu ngân, hay là các giá trị đã ghi vào sổ cái (General Ledger).  Thiếu quyền ưu tiên và lập trước kế hoạch. Theo tổ chức BCS (British Computer Society), đối với lĩnh vực chuyên môn (Professional Advice Register) có đề xuất 8 điều được trích nguyên văn như sau: “ 1. Professional respondibility – Exercise reasonable professional skill and care. 2. Law – Know about and comply with the law. 3. Conduct – Act in accordance with the Society’s Code of Conduct. 4. Approach – Maintain a balanced, disciplined and comprehensive approach. 5. Management – Contribute effectively to best practice consultancy within your organization. 6. Independence and statement of interest – Disclose any circumtances which may compromise your professional objectivity or independence. 7. Professional development – Keep up to date by seeking continuing education and training. 8. Public awareness – Encourgage public understanding of Information Technology issues” 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO  [1] Võ Thị Kim Anh, Phát triển hệ thống thông tin quản lý, đại học Mở Tp. Hồ Chí Minh [2] Ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp Dung-Cong-Nghe-Thong-Tin-Trong-Doanh-Nghiep/Default.aspx [3] Doanh nghiệp với vấn đề đổi mới công nghệ nghip-vi-vn--i-mi-cong-ngh&catid=116:cong-ngh&Itemid=332 [4] Phát triển hệ thống thương mại điện tử [5] Hệ thống điểm danh sinh viên [6] Hệ thống thông tin của sân bay hoạt động thế nào? dong-nhu-the-nao-3445418.html [7] Lý thuyết quản trị marketing-dich-vu [8] Tương lai nào cho kỹ thuật số? 20150123095136357.chn [9] Xu hướng phát triển nền kinh tế [10] Globalization and Socio-Technical Aspects of Information Systems Development [11] Nhu cầu nguồn lực ngành hệ thống thông tin quản lý [12] Đề thi và giả đáp môn hệ thống thông tin quản lý

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfboicanhpthtttql_0338.pdf