Đề tài Các biện pháp cắt gi ảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam

Về sản phẩm xuất khẩu, cá tra, basa với kim ngạch 208 triệu USD, giảm 5% so với cùng kỳ. Xuất khẩu tôm cũng đã tụt xuống vị trí thứ hai với giá trị xuất khẩu trên 181 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ. Đối với mực và bạch tuộc, với trên 38 triệu USD xuất khẩu, mặt hàng này giảm gần 15% so với cùng kỳ tuy tháng 3 có dấu hiệu phục hồi. Còn mặt hàng khô, xuất khẩu đạt 19,2 triệu USD, giảm 14,3% so với cùng kỳ. Giảm mạnh nhất là mặt hàng cá ngừ với mức giảm gần 40% so với cùng kỳ, đạt 19 triệu USD và cũng là mức thấp nhất trong 4 năm. Theo VASEP, đây là sự tụt dốc đáng lo ngại so với tốc độ tăng trưởng của năm trước. Khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng đã dẫn đến tình trạng làm giảm giá quá nhanh đối với một số vật tư nguyên liệu đầu vào của sản xuất nông nghiệp, làm cho không ít doanh nghiệp đã nhập hoặc ký hợp đồng nhập một khối lượng lớn vật tư phân bón trước đó bị lỗ nặng. Tình trạng này sẽ tác động đến hoạt động nhập khẩu phân bón trong thời gian từ nay đến tháng 3-2009 và có thể gây thiếu hụt phân bón phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước.

pdf91 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2564 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp cắt gi ảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới trong thời kỳ khủng hoảng tài chính đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và vùng lãnh thổ trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Mỹ chỉ đứng thứ 6666 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng số vốn đăng ký 4,1 tỉ USD. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang khắp toàn cầu, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về nhằm tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trên thực tế, FDI vào Việt Nam 4 tháng đầu năm 2009 đã chậm lại so với cùng kỳ năm trước, cả về lượng vốn đăng ký và lượng vốn thực hiện. Lượng vốn đăng ký tháng 4 chỉ đạt 342 triệu USD, giảm 52% so với tháng 3 và giảm 87% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung bốn tháng mới đạt 6.357 triệu USD, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước. Số vốn FDI thực hiện trong quý I giảm 32% so với cùng kỳ. Như vậy, việc gia nhập WTO, làn sóng FDI đầu tư vào Việt Nam đã tăng tốc trong hai năm đầu tiên (năm 2007 FDI đăng ký đạt 21.348 triệu USD, thực hiện đạt 8.030 triệu USD; năm 2008 tăng mạnh tương ứng là 64.100 triệu USD và 11.500 triệu USD), nhưng do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã làm cho làn sóng này bị chậm lại so với năm 2008, dự báo triển vọng cả năm sẽ vẫn cao hơn năm 2007. Giải ngân vốn FDI cũng có thể sẽ giảm, khi mà trong tình hình khó khăn hiện nay, các công ty đầu tư vào Việt Nam sẽ thận trọng hơn trong kế hoạch tài chính và đầu tư. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ 6767 không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Ngay cả các dự án FDI đang triển khai cũng có thể bị chững lại, vì rất có thể, các công ty sẽ phải cân đối lại nguồn vốn, bảo đảm tài chính an toàn trong khủng hoảng. Riêng các dự án mới cấp phép, nếu chủ đầu tư bị tổn thương lớn từ cuộc khủng hoảng này, thì có thể bị tạm dừng triển khai, thậm chí rút bỏ. Do vậy, năm 2009 - 2010, tốc độ giải ngân vốn FDI được dự báo là sẽ theo xu hướng chậm lại. Những dự báo ban đầu cho thấy, số vốn ODA cam kết và giải ngân tại Việt Nam trong những năm tới sẽ có xu hướng giảm do nguồn vốn đầu tư của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và dự trữ cho vay của các nước phát triển được cân đối lại để bình ổn thị trường tài chính. Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời gian tới sẽ rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn. Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao, do tính thanh khoản và quy mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND. Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao. Chính phủ Việt Nam hiện có kế hoạch phát hành 1 tỉ USD và Vinashin có kế hoạch huy động 400 triệu USD trên thị trường quốc tế vào năm 2009. Tuy nhiên, trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính, việc thực hiện kế hoạch nêu trên sẽ gặp phải những trở ngại đáng kể trong thời gian tới. 6868 Dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở lại đây, dòng kiều hối về Việt Nam tăng mạnh, với mức doanh số 8 tỉ - 10 tỉ USD/năm. Ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư vào kinh doanh, một phần không nhỏ của dòng kiều hối này được đầu tư vào chứng khoán và bất động sản - những lĩnh vực hiện nay không còn "nóng" như trước. Hơn nữa, một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ nước Mỹ, nơi tăng trưởng kinh tế đang sa sút và tình trạng thất nghiệp gia tăng. Điều này khiến cho dòng kiều hối trong các năm tới có thể cũng sẽ suy giảm. Tuy đầu tư nước ngoài được dự báo là sẽ khó khăn hơn trong những năm tới, nhưng Việt Nam có thể có những cơ hội nhất định qua cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định, mà Việt Nam lại đang có những lợi thế trong hai nhân tố này. Hiện tại, hầu hết các nhà đầu tư vẫn cam kết nhiều vì họ tin tưởng vào tương lai và triển vọng đi lên của nền kinh tế nước ta. Nhiều nhà đầu tư cho rằng, tác động của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức độ nhất định và sẽ được khắc phục trong thời gian tới. Một điểm thuận lợi nữa của chúng ta là các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản, EU đã hướng vào khu vực Đông - Nam Á và có chiến lược đầu tư dài hạn trong 10 năm tới. Tại khu vực Đông - Nam Á, Nhật Bản hướng nhiều nhất vào Việt Nam với chiến lược đầu tư nhất quán từ Chính phủ cho đến các tập đoàn lớn. Các động thái gần đây của Nhật Bản đã rất rõ ràng và kiên quyết, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Việt Nam vẫn sẽ là nơi Nhật Bản phân bố lại sản xuất của họ. Nhật Bản cũng đã sáp nhập JICA và JBIC thành một quỹ viện trợ ODA khổng lồ. Mục tiêu của quỹ này cũng hướng vào Đông - Nam Á, trong đó có Việt Nam. - Về tăng trưởng kinh tế Những tác động trực tiếp và gián tiếp nêu trên của khủng hoảng tài chính thế giới đang và sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm 2008. Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 chỉ đạt khoảng 6,23%, 6969 thấp hơn chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua là 7%, và giảm đi nhiều so với hai năm trước. Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 Tốc độ tăng so với năm trước (%) Đóng góp của mỗi khu vực vào tăng trưởng 2008 (Điểm phần trăm) 2006 2007 2008 Tổng số 8,23 8,48 6,23 6,23 Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 3,69 3,40 3,79 0,68 Công nghiệp và xây dựng 10,38 10,60 6,33 2,65 Dịch vụ 8,29 8,68 7,20 2,90 Nguồn : Tổng cục thống kê Với những tác động ban đầu của khủng hoảng tài chính thế giới đến đầu tư nước ngoài, thương mại, tài chính tiền tệ,... trong thời gian vừa qua, cũng như phạm vi ảnh hưởng của khủng hoảng đến kinh tế thế giới như đã phân tích ở trên, nền kinh tế nước ta cũng sẽ còn gặp khó khăn trong năm 2009 và các năm tiếp theo. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP của Việt Nam. Khi kinh tế toàn cầu suy giảm trong năm 2009, những thị trường xuất khẩu lớn của chúng ta như Mỹ, Nhật Bản, EU và một số khu vực có nguy cơ bị thu hẹp, đồng thời thu hút đầu tư, cả gián tiếp và trực tiếp của chúng ta cũng sẽ bị giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự báo sẽ tăng 13%, mức tăng thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009 dự báo bằng 39,5% GDP, thấp hơn so với dự báo trước đây là 40% GDP. Nhiều doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn do tiêu thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế của Việt Nam năm 2009, theo dự báo, sẽ đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với năm 2008, với tốc tăng trưởng khoảng 6,5%. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp và xây dựng dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 7,4%, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản dự kiến sẽ tăng khoảng 2,8%, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng trong năm 2008. Ngành dịch vụ sẽ đạt mức tăng trưởng xấp xỉ năm 2008. 7070 Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới và khu vực châu Á được dự báo khả quan hơn. Điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Dự báo tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ phục hồi sau năm 2009, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ và cao hơn năm 2008. 2. Tác động tới các doanh nghiệp Việt Nam Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khoảng 95% là nhỏ và vừa, song phần lớn đang gặp khó khăn. Một số chuyên gia dự báo, quý IV năm 2008 và đầu năm tới có thể tiếp tục chứng kiến sự biến mất của nhiều doanh nghiệp. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty không kiểm soát được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất, 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít phải nhờ đến nguồn vốn vay và được các lãnh đạo có kinh nghiệm dẫn dắt. Trong một cuộc trao đổi gần đây với VnExpress.net, chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan cảnh báo, nếu không được hỗ trợ kịp thời, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ biến mất do không còn khả năng bám trụ trong khó khăn kinh tế. Bà Lan nhận định : "Quý IV năm 2008 và quý I năm sau sẽ là thời điểm vất vả nhất cho các doanh nghiệp, bởi đến lúc đó, việc duy trì các nguồn lực là rất khó, phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa huy động vốn theo 2 cách, vay ngân hàng và từ bạn bè hoặc từ chính các đối tác thông qua việc ứng tiền trước, hay được chấp nhận trả chậm tiền hàng. Tuy nhiên, hiện nguồn vốn huy động từ bạn bè, đối tác không còn, bởi họ đều khan vốn và tìm cách thu về. Những tháng cuối năm 2008, một số ngân hàng công bố hạ lãi suất cho vay và ưu tiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song các nhà băng đều có tiêu chí ưu tiên vốn cho từng nhóm doanh nghiệp nhất định. Theo ông Vũ Duy Thái, Chủ tịch Hiệp hội công thương Hà Nội, chỉ khoảng 50% doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận được vốn ngân hàng. 7171 Trong buổi trao đổi với các doanh nghiệp tại Hội thảo Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Vai trò, thách thức và triển vọng tại Hà Nội, Thứ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Bích Đạt cũng nhận định, khi nền kinh tế đặt ưu tiên cho việc kiềm chế lạm phát, các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó khăn hơn cả, ông nói: "Doanh nghiệp nhỏ và vừa khó chống đỡ hơn các công ty khác bởi hạn chế về tiềm lực tài chính, năng lực quản lý, kinh nghiệm thương trường, cũng như ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực". Tuy nhiên, theo Luật gia Vũ Xuân Tiền, Tổng giám đốc Công ty Tư vấn quản lý và Đào tạo VFAM, bản thân doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng có nhiều hạn chế mà đến khi nền kinh tế hội nhập sâu hơn mới lộ diện ngày càng rõ. Sự thiếu minh bạch, làm ăn theo lối "gia đình trị" và nguyên tắc thuận tiện là hiện tượng thường xảy ra và làm cho các đối tác nước ngoài không hài lòng, thậm chí họ có thể chấm dứt hợp đồng. Khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tới tất cả các doanh nghiệp trên các lĩnh vực như nông - lâm nghiệp và thuỷ sản, thủ công nghiệp, công nghiệp và xây dựng, du lịch- dịch vụ. * Ngành nông – lâm nghiệp và thuỷ sản Ngày 25-11-2008, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đã chủ trì hội nghị đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và cùng với các cơ quan chức năng tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn, tiếp sức cho nông dân vượt khó. Theo Bộ NN-PTNT, những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã bắt đầu bộc lộ từ giữa tháng 9-2008 và từ đó cho đến nay, hầu hết mặt hàng nông sản xuất khẩu đều có số lượng và kim ngạch xuất khẩu giảm. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm và thủy sản của tháng 11- 2008 ước đạt 1,2 tỷ USD, giảm gần 32% so với tháng 7-2008 (tháng đạt kim ngạch xuất khẩu kỷ lục với 1,75 tỷ USD). Ví dụ sản phẩm chè cũng gặp khó do ảnh hưởng của “cơn bão” khủng hoảng tài chính trên toàn cầu. Theo TS.Trần Văn Giá, Phó chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời, năm 2009 tình hình xuất khẩu chè càng thêm khó.Theo thống kê của Vụ Kế hoạch - Đầu tư (Bộ Công Thương), năm 7272 2008, cả nước xuất khẩu được 104.000 tấn chè theo đường chính ngạch, đạt kim ngạch 147 triệu USD, giảm 5,4% về khối lượng và tăng 12,4% về giá trị so với năm 2007. Ngoài ra, chúng ta còn xuất được 8.000 tấn qua đường tiểu ngạch, giá trị kim ngạch đạt 13 triệu USD. Đại diện của một số doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất, kinh doanh chè cho rằng, khoảng 6 tháng đầu năm 2008, tình hình xuất khẩu tương đối ổn định nhưng sau đó thì khó khăn liên tiếp ập đến. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thuỷ sản của cả nước tính lũy kế từ đầu năm đến giữa tháng 3/2009 đã giảm trên 8% về cả khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Do ảnh hưởng của khủng hoảng, sức mua của các thị trường nhập khẩu chính đều giảm. Giá trị xuất khẩu sang thị trường châu Âu giảm gần 15%. Nhật Bản tuy vẫn đứng thứ hai trong tốp các thị trường xuất khẩu chính, nhưng giá trị xuất khẩu sang thị trường này giảm trên 9%. Xuất khẩu sang Mỹ giảm 3,3% so với cùng kỳ...Việc đóng cửa của thị trường Nga đối với mặt hàng cá tra cũng góp phần đáng kể làm giảm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Về sản phẩm xuất khẩu, cá tra, basa với kim ngạch 208 triệu USD, giảm 5% so với cùng kỳ. Xuất khẩu tôm cũng đã tụt xuống vị trí thứ hai với giá trị xuất khẩu trên 181 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ. Đối với mực và bạch tuộc, với trên 38 triệu USD xuất khẩu, mặt hàng này giảm gần 15% so với cùng kỳ tuy tháng 3 có dấu hiệu phục hồi. Còn mặt hàng khô, xuất khẩu đạt 19,2 triệu USD, giảm 14,3% so với cùng kỳ. Giảm mạnh nhất là mặt hàng cá ngừ với mức giảm gần 40% so với cùng kỳ, đạt 19 triệu USD và cũng là mức thấp nhất trong 4 năm. Theo VASEP, đây là sự tụt dốc đáng lo ngại so với tốc độ tăng trưởng của năm trước. Khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng đã dẫn đến tình trạng làm giảm giá quá nhanh đối với một số vật tư nguyên liệu đầu vào của sản xuất nông nghiệp, làm cho không ít doanh nghiệp đã nhập hoặc ký hợp đồng nhập một khối lượng lớn vật tư phân bón trước đó bị lỗ nặng. Tình trạng này sẽ tác động đến hoạt động nhập khẩu phân bón trong thời gian từ nay đến tháng 3-2009 và có thể gây thiếu hụt phân bón phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước. 7373 Đặc biệt, hiện nhiều loại nông sản trên thị trường thế giới và ở các nước láng giềng đang giảm giá mạnh từ giữa năm 2008 và tiếp tục giảm trong năm 2009. Các chuyên gia lo ngại rằng, nếu không có biện pháp quản lý hữu hiệu như đưa ra hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn kiểm dịch, thuế suất… thì nhiều loại nông sản sẽ tràn vào nước ta, gây khó khăn cho sản xuất trong nước. Trong khi đó, do cầu giảm nên thị trường tiêu thụ của các mặt hàng nông sản trong nước đều bị co hẹp, ứ đọng, càng làm cho giá lúa gạo, cà phê, cao su… giảm nhanh, không kích thích nông dân sản xuất. Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nông dân và các doanh nghiệp hiện vẫn còn tồn đọng khá nhiều lúa hàng hóa. Nhiều hộ trồng cao su tiểu điền, nuôi cá tra, tôm… cũng đang rất khó khăn. Hàng hóa không tiêu thụ được, cả nông dân và doanh nghiệp đều thiếu vốn cho sản xuất vụ tới. Theo dự báo của TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ NN-PTNT), trong năm 2009 giá các loại nông sản như lúa, cà phê và cao su sẽ còn giảm nữa. Đồng thời, không chỉ rau củ quả Trung Quốc mà có thể cả sản phẩm chăn nuôi của Trung Quốc cũng sẽ tràn vào nhiều hơn. 7474 Nguồn: Dữ liệu thị trường nông sản AGRODATA, Trung tâm Thông tin PTNNNT, Viện CSCL PTNNNT, www.agro.gov.vn Theo ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) chưa có năm nào giá cà phê trong nước lại giảm nhanh, giảm mạnh như mấy tháng cuối năm 2008. Hồi đầu năm, vào dịp tháng 2/2008 giá cà phê ở vào thời kỳ hoàng kim 40.000 - 42.000 đồng/kg, tháng 8-9 còn ở mức 34.000 - 35.000 đồng/kg, giảm hơn 30% so với đầu năm. Vào dịp trung tuần tháng 10, giá cà phê ở Tây Nguyên chỉ còn 26.000 - 27.000 đồng/kg. Bên cạnh đó, giá cao su cũng “ tuột dốc không phanh”, với sản lượng khoảng trên 300.000 tấn/năm, cao su tự nhiên của Việt Nam xuất khẩu sang 2 thị trường chủ yếu là Trung Quốc (khoảng 60%) và Nhật Bản (trên 15%). Hai quốc gia này nhập khẩu cao su Việt Nam về để sản xuất săm, lốp xe hơi bán vào thị trường Mỹ và châu Âu.Cụ thể, vào thời điểm tháng 7/2008 giá mủ cao su xuất khẩu đang đứng ở đỉnh (khoảng 58 triệu đồng/tấn) thì đến trung tuần tháng 10 chỉ còn khoảng 30 triệu đồng/tấn. Chỉ hơn 2 tháng, giá cao su đã tuột khỏi tay các doanh nghiệp xuất khẩu 28 triệu đồng/tấn. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát cũng cho rằng, suy giảm kinh tế hiện đang kéo theo một hậu quả rất đáng lo ngại là tác động rõ rệt đến việc làm và thu nhập của không ít người nông dân và cả lao động ở nông thôn đang mưu sinh bằng các hoạt động phi nông nghiệp ở các khu đô thị, khu công nghiệp… * Ngành thủ công nghiệp 7575 Theo kết quả điều tra của Tổ chức JICA (Nhật Bản), hiện nay cả nước ta có 52 nhóm nghề thủ công truyền thống thì riêng ở HN có tới 47 nhóm, được phân bổ ở cả 20 huyện, thành phố như: Sơn mài, khảm trai; mây, tre, giang đan, tăm, quạt, làm lồng chim; làm nón lá, mũ; chế biến lâm sản, mộc dân dụng, gỗ cao cấp; thêu ren; dệt - may; da - giày, khâu bóng; gốm, sứ; kim khí, điện và dao kéo... Các làng có nghề tập trung nhiều ở một số huyện: Phú Xuyên, Thường Tín, Chương Mỹ, Ứng Hoà, Thanh Oai, Ba Vì. Giá trị sản xuất của 1.270 làng nghề đạt hơn 5.203 tỉ đồng, với 165.793 hộ, doanh nghiệp, hợp tác xã... thu hút khoảng 626.557 lao động tham gia sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Nhưng hiện nay do khó khăn, nhiều doanh nghiệp buộc phải cắt giảm lao động, theo thống kê chưa đầy đủ thì làng thép Đa Hội hiện đã cắt giảm khoảng trên 3.000 LĐ. Còn tại làng nghề thủ công mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội), các doanh nghiệp nhập nguyên liệu về bán cho dân đan lát rồi thu mua lại sản phẩm, nhưng hiện nay giá nguyên liệu đầu vào quá cao, trong khi đó sản phẩm không bán được, 6 tháng nay người dân phải ngồi chơi. Theo ông Nguyễn Xuân Quý - chủ cơ sở sản xuất đồ gỗ Tùng Hiển (Minh Đức, Ứng Hòa, Hà Nội): Hiện gần 100 lao động đang có thu nhập bình quân 70.000đ/ngày công. Do khó khăn chung, sản xuất của Tùng Hiển bị giảm 20% so với cùng kỳ năm trước, sản xuất, kinh doanh đang phải cầm chừng, trong khi đó mọi chi phí đều tăng nhưng sản phẩm lại không tăng giá, do vậy trong thời gian tới sẽ phải cho người lao động nghỉ việc luân phiên, vừa để đảm bảo đời sống và giữ chân họ trong lúc khó khăn. Tình trạng các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình phải vật lộn để duy trì sản xuất, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động đang diễn ra ở rất nhiều làng nghề. Một nghịch lý là vốn đầu vào doanh nghiệp không có, sản xuất, kinh doanh cầm chừng đang làm các doanh nghiệp, hộ sản xuất, hợp tác xã lao đao, còn người lao động có nguy cơ mất việc theo đó cũng tăng lên. * Ngành công nghiệp 2008 là năm đầy khó khăn đối với ngành công nghiệp. Những yếu tố bất lợi xảy ra gần như đồng thời đã có tác động tiêu cực đến tốc độ phát triển chung của toàn ngành. Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm nay đạt mức thấp 7676 hơn mức tăng của năm 2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này tăng ở mức 12%. Trong công nghiệp, chịu tác động nhiều nhất là các ngành dệt may, sản xuất thép, ô tô, thuỷ tinh, công nghiệp cao su, dầu thực vật, phân bón và hoá chất, giày dép và vật liệu xây dựng… Nửa đầu 2008, chịu ảnh hưởng mạnh vì tình trạng chống lạm phát, thắt chặt tín dụng, nhiều doanh nghiệp dệt may không tiếp cận được nguồn vốn vay, hoặc phải vay với lãi suất quá cao kinh doanh thua lỗ. Ngành dệt may VN tiếp tục với cơn địa chấn nghiêm trọng đó là khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đơn hàng bắt đầu thưa dần kể từ tháng 9 năm ngoái tới nay. Dệt may VN có ba thị trường xuất khẩu quan trọng là Hoa Kỳ chiếm 55% tổng kim ngạch, thứ đến là Âu Châu chiếm 18% và Nhật Bản chiếm 12%. Cả ba thị trường này đều có dấu hiệu suy giảm mạnh. Tổng kết cuối năm, kim ngạch xuất khẩu dệt may 2008 của VN đạt 9 tỷ 100 triệu đô la. Trong buổi giao ban trực tuyến với doanh nghiệp dệt may và da giày, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam cho biết: Ngành Dệt may bước vào thực hiện kế hoạch năm 2009 trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến xấu, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ngày càng nặng nề và khó dự đoán. Thị trường xuất khẩu ngày càng thu hẹp do sức mua tại các nước nhập khẩu tiếp tục giảm mạnh, cùng với Ấn Độ, Bănglađet và việc Trung Quốc vừa được dỡ bỏ hạn ngạch đã gây áp lực rất lớn đối với hàng dệt may, da giày của Việt Nam . Bên cạnh đó, từ tháng 2/2009, Ủy ban an toàn sản phẩm tiêu dùng của Hoa Kỳ sẽ kiểm tra nghiêm ngặt hơn các quy định an toàn sản phẩm như tính dễ cháy của vải, cấm tuyệt đối các sản phẩm có thắt dây ở vùng cổ trên áo... Việc giám sát hàng dệt may vẫn còn nguy cơ bị áp đặt trở lại. Tại thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam không được hưởng quy chế GSP cho mặt hàng da giày Việt Nam nhập 7777 khẩu vào EU, việc kiện chống phá giá với giày mũ da chưa được giải quyết đã ảnh hưởng lớn đến mặt hàng này của Việt Nam. Khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định nền kinh tế Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản đều có mức tăng trưởng âm trong năm 2009, ngành Dệt may đã cảm nhận sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu. Vì đây là những thị trường nhập khẩu hàng dệt may chính của Việt Nam, nên theo ước tính của ngành dệt may, trong năm 2009, nhu cầu sử dụng hàng dệt may ở các nước trên có khả năng giảm 15%. Thị trường sẽ chật hẹp hơn rất nhiều, và các nhà sản xuất trong và ngoài nước cũng phải cạnh tranh gay gắt hơn. Khối doanh nghiệp dệt may vốn nước ngoài bị ảnh hưởng nhiều nhất, nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động, thậm chí sa thải gần hết số công nhân. Ước tính đơn hàng của công ty dệt may có vốn nước ngoài trong quí I /2009 có thể giảm khoảng 1/3 so với cùng kỳ năm 2008. Đứng trước khó khăn về thị trường, các Hiệp hội dệt may, da giày dự báo năm 2009: Xuất khẩu hàng dệt may phấn đầu đạt khoảng 9,5 tỷ USD tăng 5% so với thực hiện năm 2008. Xuất khẩu hàng da giày phấn đấu đạt khoảng 5,3 tỷ USD tăng 12% so với thực hiện năm 2008. *Ngành du lịch - dịch vụ Năm 2008 là năm có nhiều biến động bất lợi đối với hoạt động du lịch. Trên thế giới, tình hình xung đột vũ trang, bất ổn chính trị diễn ra ở nhiều nơi. Hoạt động du lịch trên toàn cầu còn gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính. Sự sụt giảm của ngành du lịch được nhận thấy rõ ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Một số quốc gia du lịch hàng đầu trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Malaysia, Singapore giảm sút rõ rệt. Trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức, ngành du lịch Việt Nam cũng đã bị ảnh hưởng trực tiếp. Trong 6 tháng đầu năm 2008, lượng khách quốc tế đến Việt Nam vẫn tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2007, nhưng cộng dồn 11 tháng năm 2008, lượng khách quốc tế chỉ tăng 1,1% so với 11 tháng năm 2007, đạt 3.877.745 lượt. Nhiều thị trường có lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trong nhiều năm qua, sang năm 2008 bị giảm sút như: Hàn Quốc giảm 4,5%, Nhật Bản giảm 5,9%, Đài 7878 Loan giảm 2,1%. Tuy nhiên, một số thị trường vẫn tăng trưởng như: Trung Quốc tăng 14,7%, Mỹ tăng 1,7%, Úc tăng 3,8%, Malaysia tăng 13,5%, Singapore tăng 14,3%. Tóm lại, cuộc khủng hoảng tài chính ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sản lượng hàng xuất khẩu sẽ giảm đi nhiều do cầu giảm, điều này sẽ gây ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó là khó khăn bởi các rào cản thương mại từ khi chúng ta gia nhập WTO. Vì vậy, nhà nước và các doanh nghiệp phải có những phương pháp, kế hoạch mới để kịp thời chống chọi với những khó khăn giúp cho doanh nghiệp tăng trưởng ổn định, cải thiện đời sống người lao động. Đặc biệt, cần có những biện pháp phù hợp để cắt giảm chi phí giúp cho doanh nghiệp sớm phục hồi sau cơn bão tài chính và tiếp tục tăng trưởng. II. Một số đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc cắt giảm chi phí 1.Đề xuất cho chính phủ Chiều ngày 31/3/2009, Văn phòng Chính phủ đã tổ chức họp báo dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Nguyễn Xuân Phúc, nhằm thông báo với báo giới những nội dung quan trọng tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3/2009 về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội quí I/2009, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, giải pháp tăng trưởng kinh tế trong những tháng tiếp theo của năm 2009. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Sự nỗ lực, đồng thuận của các tầng lớp nhân dân là yếu tố cần thiết đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì đà tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Trước tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu tác động tới kinh tế xã hội nước ta, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo 5 nhóm giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội là: Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu; thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng; thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ linh hoạt; đảm bảo an sinh xã hội; tăng cường công tác tổ chức và điều hành hiệu quả. 7979 Và để đạt được những điều đó, ngoài những giải pháp trên, em xin được đề xuất lên Chính phủ một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, cắt giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn này, giúp doanh nghiệp không rơi vào tình trạng phá sản và có thể tiếp tục phát triển *Kéo dài hơn thời hạn bù lãi suất cho các tổ chức Về vấn đề lãi suất cho vay, trong bối cảnh các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn như hiện nay, kiến nghị Thủ tướng xem xét kéo dài hơn thời hạn bù lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh đến hết tháng 12/2010 (thay vì đến hết tháng 12/2009). Đối với các khoản vay ngắn hạn phát sinh trước thời điểm 1/2/2009 nhưng chưa đến hạn trả, kiến nghị cho hưởng hỗ trợ lãi suất vay như các trường hợp ký kết sau ngày này. Đối với các hợp đồng tín dụng đã ký kết trong thời điểm lãi suất tăng cao trước đây, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các ngân hàng thương mại triển khai việc thương thảo, thanh lý hợp đồng tín dụng trước hạn đối với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được vay theo mặt bằng lãi suất hiện nay. Thêm vào đó, Chính phủ chỉ đạo hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chính sách phân loại đối tượng cho vay, ưu tiên đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy giúp cho các doanh nghiệp khắc phục tình trạng mất cân đối dòng tiền tại các doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, và tránh tình trạng các dự án phải "nằm chờ vĩnh viễn", giảm bớt khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và giảm bớt được chi phí lãi vay để ổn định sản xuất. *Trợ cấp hợp lý Theo Giáo sư- tiến sĩ Trần Ngọc Thơ, trường ĐH Kinh tế TP.HCM khẳng định: Nợ nần, thâm hụt ngân sách và thâm hụt mậu dịch cần phải được đánh giá chuẩn xác hơn nữa. Vì vậy, Chính phủ phải kiên quyết cắt giảm trợ cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, tạo thêm cơ hội tiếp cận nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. Bên cạnh đó, cần có sự kiểm soát hợp lý các tập đoàn kinh tế độc quyền để tránh lũng đoạn giá cả. 8080 Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, nếu có một cuộc cải cách thật sự đối với các doanh nghiệp nhà nước, Việt Nam có thể tiết kiệm được 30% chi phí tiêu hao nguyên vật liệu và công nghệ. Chính phủ phải có những cải cách sâu rộng, chính sách trong nước phải đi trước một bước và phải thật đồng bộ giữa các bộ ngành; thiết lập được cơ chế giám sát tài chính hữu hiệu trong việc mở cửa thị trường tài chính *Khuyến khích nhân dân sử dụng hàng Việt Chính phủ nên chỉ đạo các bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp khi mua sắm hàng hóa phải tăng cường sử dụng hàng Việt Nam, các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải sử dụng hàng hóa nội địa. Qua đó, giúp doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, tác động tích cực đến thị trường và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Như vậy, tránh để doanh nghiệp rơi vào tình trạng ứ đọng hàng tồn kho, giảm được chi phí lưu kho. *Điều chỉnh hiệu lực thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân Để tăng sức cầu cho thị trường, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh hiệu lực thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân đến ngày 1/1/2010; hoặc xử lý số thuế được giãn nộp nói trên theo hướng giảm 50% số thuế phải nộp cho đối tượng chịu thuế bởi vì trong thời buổi khó khăn này, các doanh nghiệp thường có xu hướng cắt giảm lương của các bộ công nhân viên nên thu nhập của người lao động bị giảm đi và họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong đời sống sinh hoạt. Thêm vào đó, các doanh nghiệp cũng nên được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để tăng nguồn thu. *Điều chỉnh hiệu lực thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân Để giúp doanh nghiệp giảm gánh nặng về chi phí tiền điện, tập trung đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, kiến nghị Chính phủ điều chỉnh quy định về giờ cao điểm điện theo hướng tăng số lượng giờ cao điểm tối, hạn chế giờ cao điểm vào ban ngày. Chính vì các doanh nghiệp đều đang rơi vào tình trạng khó khăn mà giờ cao điểm điện lại là ban ngày nên nhiều nhà máy xí nghiệp đã phải cho công nhân nghỉ làm ban ngày, thay vào đó làm ban đêm hoặc họ điều chỉnh giờ làm để tránh giờ cao điểm. 8181 2. Đề xuất cho các doanh nghiệp Trong thời kỳ khủng hoảng, các doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thiếu vốn, hàng sản xuất ra chưa chắc đã bán được, cầu giảm khiến nhà máy phải đóng cửa, doanh nghiệp phải sa thải nhân viên…Tất cả các điều đó đều gây khó khăn đối với các khoản chi phí của doanh nghiệp. Vì vậy, cũng như tất cả các doanh nghiệp khác trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam cần có những biện pháp kịp thời để cắt giảm chi phí tránh tình trạng doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đi tới phá sản doanh nghiệp. Thông thường, rất nhiều doanh nghiệp nghĩ tới việc sa thải nhân viên khi doanh nghiệp phải đối mặt với khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp sa thải nhân viên, xã hội sẽ tạo ra một lượng lớn người thất nghiệp và không thể tăng trưởng kinh tế được. Vì vậy, doanh nghiệp nên nghĩ tới các giải pháp khác để cắt giảm chi phí nhân sự. * Giải pháp hành chính: Nhằm giảm thiểu chi phí tổ chức hành chính. Thông thường, chi phí cho việc tổ chức nơi làm việc của nhân viên là một khoản không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp. Và đương nhiên, các ông chủ công ty phải nghĩ cách giảm thiểu khoản chi phí này, bằng mọi cách. Không ít các công ty mua bàn ghế, máy tính…cho nhân viên với giá rẻ nhất, thậm chí là đồ đã qua sử dụng nhằm tiết kiệm ngân sách. Song, nói chung, hiệu quả của các biện pháp cắt giảm chi phí gián tiếp thường không rõ nét lắm bởi tác dụng của nó phải sau một thời gian dài mới có thể kiểm nghiệm được. Bởi vậy, một phương pháp khác với tên gọi là tiết kiệm sáng tạo được nhiều công ty có tầm nhìn xa, ưa thích sử dụng. Trong một số công ty, Ban giám đốc quyết định mua cho nhân viên loại máy tính màn hình phẳng tinh thể lỏng, và đương nhiên, với giá cao hơn những chiếc máy tính thông thường nhưng những chiếc máy tính này trên thực tế lại có lợi hơn so với những chiếc máy tính đời cũ: ít hao điện, chiếm ít diện tích trên bàn do cấu hình mỏng, gọn nhẹ, và điều quan trọng hơn, chúng không hại mắt khi sử dụng. * Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức: Nhằm tiết kiệm chi phí cơ cấu tổ chức 8282 Bộ máy nhân sự cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ chồng chéo…chính là yếu tố gây lãng phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, khác với giải pháp hành chính, giải pháp tổ chức đòi hỏi nhiều công sức và nỗ lực từ lãnh đạo doanh nghiệp. “Bất cứ một nhân viên nào cũng có đôi lúc không sử dụng hiệu quả chức năng và nghĩa vụ của mình cũng như quỹ thời gian dành cho công việc. Đương nhiên, không một ai trong số họ lại đồng ý với điều này. Bởi vậy, doanh nghiệp chỉ có thể chứng minh cho họ thấy bằng các con số cụ thể”. Để giải quyết vấn đề này, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng phương pháp đánh giá chức năng nhiệm vụ của nhân viên. Quy trình đánh giá này bao gồm nhiều giai đoạn. Đầu tiên, cần phải phân tích kỹ lưỡng tất cả các hoạt động của nhân viên, đương nhiên là với sự tham gia, tư vấn của các trưởng bộ phận, trên cơ sở đó đưa ra các đánh giá về vai trò của nhân viên. Bước tiếp theo là loại trừ những hoạt động kém hiệu quả của nhân viên, nếu chúng thực sự không mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp hoặc hiệu quả của chúng không tương xứng với chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tư cho cá nhân đó. Tất cả các bước này đều có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng cũng như chi phí quản lý nhân sự của doanh nghiệp: càng đánh giá đúng chức năng nhiệm vụ của nhân viên, bạn càng có cơ sở để lập ngân sách lương thưởng một cách hợp lý. * Giải pháp đãi ngộ: Thay đổi hệ thống lương thưởng và chế độ đãi ngộ lao động Nhiều doanh nghiệp nên thay đổi hệ thống lương thưởng nhằm tạo ra sự phụ thuộc tối đa giữa mức thu nhập của nhân viên với kết quả làm việc của họ. Nói chung, mục đích trước hết của các Ông chủ khi sử dụng phương pháp này – đó là giảm thiểu “phần mềm” đồng thời tăng “phần cứng” cho nhân viên, vừa tiết kiệm được ngân sách cho doanh nghiệp, vừa tạo ra động lực làm việc cho người lao động. Trong giai đoạn khó khăn này, tuy cần cắt giảm chi phí nhưng không vì thế mà doanh nghiệp quên đi việc thưởng cho các nhân viên xuất sắc có những sáng kiến mới đem lại hiệu quả cho Công ty. * Giải pháp chất lượng: Tuyển chọn đúng người, đúng việc Để tiết kiệm chi phí nhân sự, nhiều Công ty thường muốn tuyển dụng những nhân viên bình thường, không có kinh nghiệm làm việc, ứng viên không có bằng 8383 cấp nhưng yêu cấu công việc lại cao và đương nhiên là với mức lương rẻ mạt. Các doanh nghiệp cho rằng họ đã cắt giảm được chi phí tiền lương cho những nhân viên mới này. Tuy nhiên, phương án này không phải bao giờ cũng tỏ ra hiệu quả, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, công nghệ cao…những nhân viên mới không thể đảm trách nhiệm vụ được giao mà Công ty lại mất nhiều thời gian và chi phí đào tạo. Một biện pháp nữa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu chi phí nhân sự - đó là xây dựng một thương hiệu mạnh cho doanh nghiệp. Song, đây lại là một bài toán nan giải, tốn kém và đòi hỏi thời gian, công sức của toàn thể mọi thành viên trong doanh nghiệp. Thương hiệu của doanh nghiệp chính là thứ tài sản vô hình tạo ra niềm tin, lòng trung thành của nhân viên. Rất nhiều ứng viên muốn được đầu quân cho các doanh nghiệp tên tuổi, cho dù mức lương ở đó không hấp dẫn bằng nơi khác, thậm chí đôi khi còn thấp hơn mức thị trường. Một thống kê của RosExpert cho thấy rằng, nhiều doanh nghiệp ít tên tuổi thường chiêu dụ nhân tài bằng cách đưa ra mức lương thưởng hấp dẫn, nhiều khi cao hơn 20-50% so với mức mà các doanh nghiệp tên tuổi đưa ra. Tuy nhiên, việc tạo ra thương hiệu tốt nhằm thu hút nhân tài không phải là chuyện ngày một ngày hai mà là nhiệm vụ dài hạn, đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ nhiều công sức cũng như nguồn lực tài chính. Giá trị của một thương hiệu tốt không dễ dàng đánh giá được. Chúng ta cũng biết rằng, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên việc xây dựng thương hiệu là một vấn đề lâu dài. Các doanh nghiệp cần chú trọng thực hiện các biện pháp giảm chi phí nhân sự đã nêu trên vì nguồn nhân lực là yếu tố rất quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Bên cạnh đó, rất nhiều yếu tố khác cũng vô cùng quan trọng. *Sản xuất hàng hoá có chất lượng cao Khủng hoảng tài chính làm cho sản lượng xuất khẩu của nước ta có xu hưóng giảm, do vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để sản xuất hàng hoá có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu, có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu cùng mặt hàng khác, tránh để tình trạng hàng hoá sản xuất 8484 ra không tiêu thụ được trong nước cũng chẳng xuất ra được nước ngoài làm tăng chi phí lưu kho, bảo quản và ứ đọng vốn. Chủ doanh nghiệp cũng nên có đưa ra những kế hoạch sản xuất kinh doanh một cách rõ ràng, có tính khả thi cao để tăng hiệu quả sử dụng vốn, như vậy mới bù đắp được khoản chi phí lãy vay từ nguồn vốn vay. *Chú ý đến năng suất lao động Ngoài vấn đề chất lượng còn phải chú ý đến năng suất, nếu ai đó cho rằng hầu hết các doanh nghiệp đang bị thiếu đơn hàng thì tăng năng suất làm gì, thậm chí nhiều doanh nghiệp nghĩ ra cách kéo dài thời gian sản xuất và hạ năng suất để công nhân không bỏ việc. Tuy nhiên, suy nghĩ này là khá bi quan và thụ động, nó làm cho chi phí tăng lên và công nhân của bạn dễ mất đi khí thế cũng như tinh thần làm việc. Bài toán về năng suất phải là một trong các bài toán chủ lực hiện nay. Trước hết, nó giúp bạn giao hàng nhanh hơn, tránh tình trạng trễ hàng có thể dẫn đến việc hủy đơn hàng. Năng suất cao còn giúp bạn có thêm điều kiện để tăng tích lũy cho những lúc ngưng việc và còn giúp cho doanh nghiệp bạn có điều kiện giảm một phần giá bán nhằm tăng thêm đơn hàng. *Chăm sóc tốt thị trường hiện tại Có lẽ do khủng hoảng tài chính nên việc tìm kiếm thị trường mới sẽ gặp nhiều khó khăn, vì vậy doanh nghiệp cũng nên chăm sóc thị trường cũ cho thật tốt để họ vẫn nhập khẩu hàng hoá của chúng ta, tránh trường hợp không chăm sóc tốt khách hàng cũ mà phải mất nhiều chi phí tìm kiếm khách hàng mới mà vẫn không thu được kết quả khả quan. *Luôn nâng cao ý thức cắt giảm chi phí Thêm vào đó, tất cả cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp cần có ý thức tiết kiệm chi phí từ những thứ nhỏ nhất như: các cuộc gọi đi động, điện thoại liên tỉnh hay việc tải các file mp3 từ Internet… có thể sẽ “ngốn” khá nhiều ngân sách của doanh nghiệp, nên giảm chi phí bằng cách liên lạc qua email, thay vì dùng điều hòa nhiệt độ, có thể dùng quạt để làm mát, thay các bóng đèn truyền thống bằng đèn tiết kiệm năng lượng .Hãy thực hiện chính sách tiết kiệm điện ,năng lượng,nhiên liệu trong công ty…đặc biệt trong giờ cao điểm điện. Nếu cảm thấy những khoản chi này không hợp lý, cần triệt để cắt giảm hoặc hạn chế sử dụng. 8585 Tóm lại chương III đã nêu lên những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tới nền kinh tế Việt Nam và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp cho chính phủ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam để giúp cho các doanh nghiệp có thể cắt giảm chi phí trong giai đoạn khó khăn này, đồng thời duy trì ổn định sản xuất để doanh nghiệp vững bước phát triển trên con đường hội nhập, đưa nền kinh tế nước ta sớm thoát khỏi khó khăn của khủng hoảng tài chính và ngày một tăng trưởng hơn nữa. 8686 KẾT LUẬN Có thể nói rằng bất kỳ thời kỳ nào cắt giảm chi phí luôn là việc làm quan trọng và vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp nhưng trong thời kỳ khó khăn này, việc làm ấy còn cần thiết hơn nữa. Khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động rất lớn tới nền kinh tế thế giới và Việt Nam cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Tăng trưởng kinh tế, sản lượng xuất khẩu của Việt Nam đã giảm trong năm 2008…Chúng ta đang phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập này càng trở nên khó khăn hơn nữa. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải mau chóng thực hiện các biện pháp cắt giảm chi phí một cách hợp lý để sớm đưa doanh nghiệp thoát khỏi những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, sớm ổn định và tăng trưởng. Việc xem xét lại cơ cấu nhân sự một cách hợp lý, điều chỉnh lại chế độ lương thưởng, cân nhắc kỹ lưỡng các khoản chi phí trong doanh nghiệp, tập trung vào sản xuất những mặt hàng chủ lực, dễ tiêu thụ …là những việc cần làm của tất cả các doanh nghiệp. Các nhà quản lý nên học hỏi kinh nghiệm cắt giảm chi phí một cách hợp lý của các doanh nghiệp trên thế giới để áp dụng cho doanh nghiệp mình vì hầu hết các doanh nghiệp có biện pháp cắt giảm cụ thể, rõ ràng lại là những doanh nghiệp có quy mô, tầm cỡ lớn trên toàn cầu còn các doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. 11 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 CHƢƠNG I ................................................................................................... 3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ VÀ QUẢN LÝ CHI PHÍ TRONG DOANH NGHIỆP ........................................................................................ 3 I.Tổng quan về chi phí trong doanh nghiệp............................................. 3 1. Khái niệm chi phí ................................................................................ 3 2. Phân loại chi phí .................................................................................. 3 2.1 Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí .............................. 4 2.2 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động ................................... 6 2.2.1 Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ...................................... 6 2.2.2 Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp..................... 9 2.2.3 Chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động bất thường . 11 2.3 Phân loại chi phí theo mối quan hệ với kỳ tính kết quả kinh doanh ........................................................................................................... 11 2.4 Phân loại chi phí dựa vào mối quan hệ của chi phí và đối tượng chịu chi phí ......................................................................................... 11 2.5 Một số loại chi phí khác ............................................................... 12 II. Quản lý chi phí và các biện pháp quản lý chi phí trong doanh nghiệp .................................................................................................................. 13 1. Khái niệm quản lý và quản lý chi phí ................................................. 13 2. Nội dung và vai trò của quản lý chi phí .............................................. 14 3. Các biện pháp quản lý chi phí ............................................................ 15 3.1 Xây dựng định mức chi phí và lập dự toán ngân sách ................... 15 3.1.1 Xây dựng định mức chi phí ..................................................... 15 3.1.2 Lập dự toán sản xuất kinh doanh ........................................... 19 3.2. Xây dựng trung tâm quản lý chi phí ............................................. 21 3.2.1. Trung tâm quản lý chi phí ..................................................... 21 3.2.2. Mã chi phí ............................................................................. 22 3.3. Phương pháp chi phí mục tiêu (Target Cost) ............................... 23 3.4 Phương pháp kế toán chi phí dựa trên hoạt động – ABC (Activity based costing) .................................................................................... 27 CHƢƠNG II ............................................................................................... 33 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU VÀ CÁC BIỆN PHÁP CẮT GIẢM CHI PHÍ CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI . 33 I.Khủng hoảng tài chính, ảnh hƣởng của nó tới nền kinh tế thế giới và các doanh nghiệp trên thế giới: .............................................................. 33 1.Sơ lược về cuộc khủng hoảng tài chính và nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính ...................................................................................... 33 2.Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tới nền kinh tế thế giới và các doanh nghiệp trên thế giới ................................................... 35 22 Khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế thế giới trên nhiều phương diện ................................................................................. 36 II Cắt giảm chi phí - biện pháp cần thiết của các doanh nghiệp trong cuộc khủng hoảng tài chính .................................................................... 44 1.Cắt giảm chi phí và tầm quan trọng của việc cắt giảm chi phí ............. 44 2.Phương pháp chung của việc cắt giảm chi phí trong doanh nghiệp ..... 46 2.1 Cần có một cái nhìn tổng thể ........................................................ 46 2.2 Tăng chi phí tốt, giảm chi phí xấu. ............................................... 47 2.3 Cắt giảm đúng trọng tâm .............................................................. 48 2.4 Có tầm nhìn hướng về tương lai ................................................... 49 III.Các biện pháp cắt giảm chi phí của một số doanh nghiệp trên thế giới ........................................................................................................... 50 1. Biện pháp cắt giảm chi phí của hãng điện thoại di động Nokia .......... 50 1.1 Nokia và những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính ............... 50 1.2 Biện pháp cắt giảm chi phí của Nokia ......................................... 52 2.Biện pháp cắt giảm chi phí của đại gia Ford ....................................... 54 2.1 Ford và những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính.................. 54 2.2 Biện pháp cắt giảm chi phí của Ford ............................................ 55 3 Biện pháp cắt giảm chi phí của Dell.................................................... 58 3.1 Dell đối mặt với khủng hoảng tài chính: ....................................... 58 3.2 Biện pháp cắt giảm chi phí của Dell ............................................ 59 CHƢƠNG III .............................................................................................. 62 GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƢỚNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG VIỆC CẮT GIẢM CHI PHÍ ............................................ 62 I. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tới nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam .......................................................................... 62 1. Tác động tới nền kinh tế Việt Nam .................................................... 62 2. Tác động tới các doanh nghiệp Việt Nam .......................................... 70 II. Một số đề xuất cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc cắt giảm chi phí ............................................................................................................ 78 1.Đề xuất cho chính phủ ........................................................................ 78 2. Đề xuất cho các doanh nghiệp ........................................................... 81 KẾT LUẬN ................................................................................................. 86 33 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CP : Chi phí TSCĐ : Tài sản cố định KHTSCĐ : Khấu hao tài sản cố định NCTT : Nhân công trực tiếp SX : Sản xuất NVL : Nguyên vật liệu ABC : Activity based costing NHTM : Ngân hàng thương mại DN : Doanh nghiệp PC : Personal computer NNPTNT : Nông nghiệp phát triển nông thôn HN : Hà Nội VN : Việt Nam LĐ : Lao động HĐQT : Hội đồng quản trị CPBH : Chi phí bán hàng CPQLDN : Chi phí quản lý doanh nghiệp SX & CN : Sản xuất và công nghệ NC : Nghiên cứu 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn mực số 01. 2. Cost management, Edward J.Blocker, KungHchen, Thomas Wlin, 2002. 3. Kế toán quản trị doanh nghiệp, Nguyễn Năng Phúc, 2007, NXB Tài chính. 4. Kế toán quản trị kinh doanh thương mại, Trần Thế Dũng, Nguyễn Quang Hùng, 2004, NXB Thống kê. 5. Quản lý chi phí và thực trạng quản lý chi phí tại các công ty cổ phần Việt Nam, LV01926,Đại học Ngoại Thương. 6. Quản trị chiến lược, Đại học kinh tế Quốc dân, PGS.TS. Lê Văn Tâm, 2000, NXB Thống kê. 7. Tài chính doanh nghiệp, Đại học kinh tế Quốc dân, PGS.TS.Lưu Thị Hương, 2005, NXB Thống kê. 8. Thời báo kinh tế Sài Gòn, 25-12-2008, trang 14 9. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, 11/2008, trang 50 – 52 10. Thời báo kinh tế Sài Gòn, 8-1-2009, trang 25,26. 11. Các website: - chinh-my/193293/index.htm - - n=2&m_itemid=15400&m_magaid=1514&m_category=266 - truong-boc-hoi-hang-chuc-nghin-ty-dong.htm - thitruong/2009/1/16823.html - tut-doc.htm - - -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4362_2974.pdf
Luận văn liên quan