Lời mở đầu.
Tài chính là một lĩnh vực vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của một quốc gia. Trình độ phát triển của một quốc gia được biểu hiện rất nhiều thông qua nền tài chính của quốc gia đó.
Tài chính là thuốc bôi trơn giúp nền kinh tế đạt được sự hiệu quả, giảm được rất nhiều chi phí. Chính vì tầm quan trọng này mà luôn có sự quan tâm, điều hành đặc biệt từ các cơ quan chính phủ, nhằm đảm bảo ổn định, lành mạnh nền tài chính.Với chính sách tài chính của mình chính phủ có thể điều tiết các chính sách kinh tế vĩ mô của mình. Thế nhưng, việc điều hành đó của chính phủ cũng không làm cho nền tài chính của quốc gia mình thoát khỏi quy luật chung của sự phát triển. Mà một trong những giai đoạn khó khăn nhất của một nền tài chính đó là thời kì khủng hoảng.Do vậy, bài tiểu luận này sẽ giúp người đọc hiểu được một số vấn đề có liên quan đến khủng hoảng tài chính.
Bài tiểu luận này được bố cục theo 3 phần:
Phần I:Những hiểu biết chung về khủng hoảng tài chính.
1. Khủng hoảng tài chính là gì?
2. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính.
Phần II: Tìm hiểu về cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997 . Bài học được rút ra sau cuộc khủng hoảng.
Phần III: Các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu khủng hoảng của hệ thống
tài chính.
Bài tiểu luận này không mong mang lại cho người đọc những hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ về vấn đề khủng hoảng tài chính, mà chỉ mong mang lại cho người đọc một cái nhìn khái quát chung nhất về vấn đề này. Mong độc giả thông cảm
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2856 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu khủng hoảng của hệ thống tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh. Tài chính là những quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực
tiếp của nhà nước, của pháp luật, nhưng tài chính không phải là luật lệ tài
chính. Luật tài chính là công cụ của nhà nước để điều tiết các quan hệ tài
chính nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà nước.
Trong nền kinh tế các quan hệ tài chính xuất hiện đan xen nhau liên hệ, tác
động ràng buộc lẫn nhau trong một thể thống nhất tạo nên hệ thống tài
chính. Có thể chia hệ thống tài chính làm 2 kênh dẫn vốn: kênh dẫn vốn qua
thị trường tài chính (trực tiếp), kênh dẫn vốn qua các trung gian tài chính
như ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng… (gián tiếp). Nhờ
2 kênh này mà vốn được lưu chuyển thuận lợi, giảm được rất nhiều chi phí
giao dịch giữa hai bên cung và cầu vốn.
Vấn đề khủng hoảng tài chính chúng ta nói ở đây là khủng hoảng trong hệ
thống tài chính và khủng hoảng taì chính. Có nghĩa là khủng hoảng ở đây
xảy ra trong các mối quan hệ tài chính và các kênh dẫn vốn trong nền kinh
tế. Chúng có liên hệ mật thiết với nhau, khủng hoảng tài chính dẫn đến các
kênh dẫn vốn trở nên kém hiệu quả. Khủng hoảng tài chính là sự rối loạn
trong dòng luân chuyển vốn làm cho cả hệ thống tài chính không phát huy
được chức năng dẫn vốn của nó. Khủng hoảng tài chính nảy sinh từ mối
quan hệ tài chính, các mối quan hệ này đạt tới mức thấp có nghĩa là bên
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 3 -
cung vốn không muốn tài sản tài chính mà mình có cho bên cầu vốn nữa. Và
điều này tác động lên các kênh dẫn vốn, làm cho nó bị tê liệt không phát huy
được tác dụng và do đó sẽ làm sụp đổ hoặc suy yếu các tổ chức, định chế tài
chính. Các tổ chức định chế tài chính này không bao giờ biệt lập với nhau
mà chúng có quan hệ mật thiết và do đó khủng hoảng tài chính thường làm
sụp đổ hàng loạt tổ chức, định chế này, gây thiệt hại to lớn. Khủng hoảng tài
chính là vấn đề có liên quan đến một phạm trù, đó là chu kì kinh doanh. Quy
luật chung của con đường phát triển được miêu tả như đồ thị hình sin. Đó là
bất kì một lĩnh vực nào cũng có thời kì phát triển rực rỡ, huy hoàng, có lúc
ổn định và có thời gian thoái trào. Nghiên cứu kinh tế Mỹ đã chỉ ra rằng tiền
tệ -tài chính đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tạo ra chu kì kinh
doanh. Mỗi cơn suy thoái trong thế kỉ XX đã đứng liền sau một sự suy giảm
tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ. Ngược lại nếu nền kinh tế lâm vào suy thoái cũng là
nguyên nhân không nhỏ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính.(vấn đề này
sẽ được bàn đến ở phần nguyên nhân của khủng hoảng tài chính). Điều này
được giải thích bởi quan hệ tài chính có mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với
nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Nguyên nhân khủng hoảng tài chính.
Có hai nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính. Đó là nguyên nhân từ
ngoài nền tài chính và nguyên nhân bên trong nền tài chính.
Nguyên nhân bên ngoài:
Như đã đề cập ở trên, các quan hệ tài chính là một phần của quan hệ kinh tế,
các quan hệ tài chính có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nền sản xuất
hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hệ thống tài chính được coi như huyết
mạch trong nền kinh tế. Đây là nơi cung cấp vốn cho bên cầu vốn(công ty,
chính phủ…) để kinh doanh sản xuất. Phần lớn nguồn vốn của các công ty,
tập đoàn được đáp ứng từ các hệ thống tài chính: có thể vay của các ngân
hàng thương mại hoặc thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị
trường chứng khoán… Mặt khác lợi nhuận hoặc vốn tạm thời nhàn rỗi của
chúng cũng có thể được đem gửi vào các ngân hàng hay có thể cho vay nóng
thông qua các hợp đồng mua lại (repo)… Nhờ có hệ thống tài chính mà nền
kinh tế đã giảm được rất nhiều chi phí giao dịch, tức là nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các trung gian tài chính còn có nghiệp vụ
trung gian thanh toán. Các tổ chức định chế tài chính kiếm được lợi nhuận
thông qua các nghiệp vụ đó. Bây giờ nếu nền kinh tế suy thoái, tức là nền
sản xuất hàng hoá giảm sút, không thu được lợi nhuận. Để đảm bảo an toàn
cho tiền của mình bên cung vốn(chủ yếu là các hộ gia đình…) muốn rút vốn
lại và cất vào két hoặc không muốn cho vay vì sợ không thu hồi được nợ. Và
do đó các ngân hàng, tổ chức tài chính sẽ phải đối mặt với một lượng tiền
mặt lớn để trả cho người gửi, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trên thị trường
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 4 -
chứng khoán lúc này giá trị thực của các công ty niêm yết sẽ tụt dốc thảm
hại do tình trạng làm ăn thua lỗ làm xuất hiện tình trạng bán tháo cổ phiếu
trái phiếu… Ngoài ra các tài sản do các tổ chức định chế tài chính nắm giữ
cũng bị mất giá nghiêm trọng làm giá trị thực của chúng bị giảm, gây nên
tình trạng khủng hoảng. Tính thanh khoản của thị trường theo đó cũng đi
xuống một cách thảm hại.
Chẳng những thế tình trạng làm ăn thua lỗ, phá sản của các công ty, tập
đoàn sản xuất cũng kéo theo những khoản đền bù khổng lồ từ các công ty
bảo hiểm làm cho các công ti này cũng bị sụp đổ theo. Thông thường các
công ty, tập đoàn sản xuất là những khách hàng lớn và chủ yếu của các công
ty bảo hiểm. nếu bây giờ, chúng bị sụp đổ thì tiền đền bù sẽ rất lớn và các
công ty bảo hiểm sẽ không đủ khả năng chi trả, có nghĩa là phải tuyên bố
phá sản
Suy thoái kinh tế là vấn đề mang tính chu kì do đó khủng hoảng tài chính
bắt nguồn từ suy thoái kinh tế cũng mang tính chu kì. Nền kinh tế suy thoái
chứng kiến sự thua lỗ, phá sản của hàng loạt không những của hãng sản xuất
mà còn cả sự sụp đổ trong lĩnh vực tài chính. Suy cho cùng tài chính cũng là
một bộ phận của kinh tế.
Nguyên nhân bên trong:
Trên thị trường tài chính: khủng hoảng tài chính có thể do nguyên nhân từ
chính hoạt động bên trong của chính nền tài chính ấy. Trong nền tài chính
của bất kì một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng phải đối mặt với
những vấn đề như: thông tin không cân xứng, chọn lựa đối nghịch, rủi ro
đạo đức…
Thông tin không cân xứng là hiện tượng những giao dịch diễn ra trên thị
trường tài chính một bên thường không biết tất cả những gì mà họ cần biết
để có những quyết định đúng đắn. Thường thì bên cung vốn ít khi có đầy đủ
thông tin cần thiết về bên cầu vốn khi thực hiện giao dịch.
Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi
diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên thị trường tài chính
khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong
muốn(đối nghịch) -tức là rủi ro không trả được nợ-là những người tích cực
tìm vay tiền nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do việc
chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện cho
những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể
quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Do những người liều lĩnh, mạo hiểm có nhiều động cơ và sẽ thắng lớn nếu
kế hoạch đầu tư mạo hiểm của họ thành công nên là hăng hái tìm vay và dễ
được chọn lựa nhất. chẳng hạn bạn là nhà đầu tư gặp phải hiện tượng thông
tin không cân xứng bạn sẽ không phân biệt được đâu là chứng khoán tốt, đâu
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 5 -
là chứng khoán xấu.Do đó bạn sẽ có xu hướng đặt giá trung bình cho những
chứng khoán mà bạn mua trong khoảng giá trị của những công ty tồi đến
những công ty tốt. Do vậy nhũng công ty tốt có trong tay đầy đủ thông tin và
biết được rằng giá trị công ty của họ đã bị đánh giá thấp và không muốn bán
cho bạn với giá đó. Ngược lại những công ty tồi luôn sẵn lòng bán cho bạn ở
mức giá mà bạn trả. Nếu bạn là người thông minh thì chắc sẽ không muốn
nắm giữ nó.Và như vậy sẽ tạo ra nghi ngại, lưỡng lự, cân nhắc khi thực hiện
mua bán trên thị truờng tài chính.
Rủi ro đạo đức là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc
giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị truờng tài chính xảy ra khi
nguời cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những
hoạt động không tốt( thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay,
bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay này sẽ hoàn trả.
Rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có
thể quyết định thôi không cho vay nữa. Khía niệm rủi ro đạo đức chỉ ra rằng
các bên luôn có sự nghi ngờ, không tín nhiệm lẫn nhau. Do đó ngăn cản hoạt
động kinh doanh và cả sự lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Khủng hoảng tài chính xảy ra khi vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức trong thị trường tài chính trở nên quá tồi tệ đến mức mà thị trường tài
chính không còn khả năng khơi nguồn vốn một cách hữu hiệu từ những
người tiết kiệm tới những người có những cơ hội đầu tư sinh lợi. kết quả của
sự bất lực của thị truờng tài chính không hoạt động hữu hiệu là có một sự
thu hẹp quan trọng trong các hoạt động kinh tế.
Trong hoạt động của các trung gian tài chính thì nguyên nhân lớn nhất đuợc
cho là dẫn đến khủng hoảng tài chính do sự đổi mới tài chính, với sự xuất
hiện của các quỹ bảo hiểm tiền gửi. trở ngại nghiêm trọng nhất của hệ thống
điều hành hoạt động ngân hàng xuất phát từ rủi ro đạo đức. Rủi ro đạo đức là
một đặc điểm quan trọng của dàn xếp bảo hiểm nói chung bởi vì sự tồn tại
của bảo hiểm mang lại những ý muốn mạnh hơn đối với việc mang lấy
những rủi ro và điều đó có thể đưa đến một sự thanh toán bảo hiểm. Những
người gửi tiền có bảo hiểm biết rằng họ sẽ không gánh chịu tổn thất nếu
ngân hàng vỡ nợ, họ không áp đặt một kỉ luật thị trường cụ thể lên các ngân
hàng bằng cách rút tiền gửi khi họ nghi ngờ rằng ngân hàng của họ đang
mang lấy quá nhiều rủi ro. Kết cục các ngân hàng có bảo hiểm tiền gửi có
thể có nhiều rủi ro hơn so với trường hợp không có bảo hiểm. Thế nhưng
chính điều này tạo nên sự lỏng lẻo trong hoạt động các ngân hàng làm cho
chúng dễ dàng nhận lấy rủi ro để hi vọng kiếm lợi mà không bị ràng buộc
bởi những người gửi tiền. Nếu không có bảo hiểm những người gửi tiền luôn
thận trọng lựa chọn các ngân hàng mà họ gửi cùng với những điều kiện cụ
thể đảm bảo cho khoản cho vay của họ sẽ được an toàn. Mặt khác các ngân
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 6 -
hàng cũng không muốn mang lấy những rủi ro lớn nếu nó có nguy cơ đe doạ
một sự phá sản. Vấn đề lựa chọn đối nghịch cũng xảy ra đối với bảo hiểm
tiền gửi, vấn đề này dễ xảy ra đối với những ngưòi có nhiều khả năng tạo ra
kết cục đối nghịch được bảo hiểm, là những người mà muốn thu lợi từ việc
bảo hiểm này hơn cả. Do những người gửi tiền có bảo hiểm ít có lí do để
giám sát ngân hàng của họ, còn những kẻ đầu cơ thấy công nghiệp ngân
hàng là một công nghiệp hấp dẫn đặc biệt, họ biết có thể thực hiện những
hoạt động rủi ro cao. Tệ hơn là những người gửi tiền có bảo hiểm ít giám sát
các hoạt động ngân hàng của họ nên những kẻ lừa đảo trắng trợn thấy hoạt
động ngân hàng là một lĩnh vực hấp dẫn cho những hoạt động của chúng,
bởi vì chúng dễ bỏ chốn với món tiền biển thủ.
Những nhân tố gây các cuộc khủng hoảng tài chính.
Những nguyên nhân nêu trên là những nhân tố sâu xa, khởi sự của các cuộc
khủng hoảng tài chính. Khi xuất hiện nhưng nhân tố này thì kéo theo sự xuất
hiện của 5 nhân tố: sự tăng lãi suất, sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu, sự sụt
giảm bất ngờ về mức giá, sự tăng tính không chắc chắn, sự hoảng loạn ngân
hàng.
Sự tăng lãi suất đồng nghĩa với việc chi phí của đồng vốn sử dụng sẽ cao
hơn. Nguyên lí quan trọng là các món vay có mức độ rủi ro càng cao thì lãi
suất càng cao. Những cá nhân công tuy với những dự án đầu tư rủi ro nhất
chắc chắn là những người sẵn lòng chịu vay với lãi suất cao nhất. sự tăng lãi
suất làm cho giảm bớt những vụ vay tín dụng có triển vọng tốt, làm tăng
những món vay khó đòi, làm tỉ lệ nợ khó đòi của ngân hàng đó ở mức báo
động. Nếu thông tin này đến tai người gửi sẽ làm cho người gửi ồ ạt rút tiền
khỏi ngân hàng. Sự đổ vỡ của một ngân hàng làm liên luỵ đến các ngân hàng
khác, tức là xảy ra hiệu ứng domino.
Sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu: điều này có thể làm tăng lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức trong thị truờng tài chính và tạo ra một cuộc khủng
hoảng tài chính. Sự sụt giảm đồng nghĩa với giá trị tài sản ròng cũng sụt
giảm theo, nó sẽ ít có khả năng bảo vệ hơn cho người vay, nguy cơ tổn thất
từ các món vay sẽ cao hơn khiến nhà đầu tư giảm bớt ý định cho vay. Ngoài
ra sự sụt giảm nói lên làm tăng ý muốn gây rủi ro đạo đức ở những công ty
đi vay thực hiện những phi vụ rủi ro.
Những sự sụt giảm bất ngờ về mức giá: cũng làm giảm giá trị tài sản ròng
của các công ty. Hiện tượng này còn làm tăng giá trị các món nợ của các
công ty theo hiện vật nhưng không tăng giá trị thực, làm tăng các vấn đề lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Sự tăng tính không chắc chắn: một sự tăng tính không chắc chắn trong thị
trường tài chính, có thể do sự thất bại của một tổ chức tài chính hoặc phi tài
chính nổi tiếng khiến cho người vay khó phân biệt được đâu là tín dụng có
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 7 -
triển vọng tốt, đâu là xấu, làm cho họ giảm bớt ý định cho vay, đầu tư vào
hoạt động kinh tế tổng hợp.
Sự hoảng loạn ngân hàng: ngân hàng đóng một vai trò quan trọng, phần lớn
nguồn vốn trong nền kinh tế luân chuyển qua hệ thống ngân hàng. Sự hoảng
loạn này làm giảm tổng số các hoạt động trung gian tài chính mà ngân hàng
thực hiện, làm giảm khối lượng vốn cung ứng, dẫn đến việc tăng lãi suất. Và
như đã nói trên sự tăng lãi suất là một trong yếu tố trực tiếp tạo nên khủng
hoảng tài chính.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 8 -
II. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á năm 1997. Bài học
được rút ra sau cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu
từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường
chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác
ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những
con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng
hoảng tiền tệ Đông Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất
bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị
ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan,
Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh
hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua
những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông
Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng
hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các
nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Nguyên nhân
Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà
kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị
đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự
do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập
niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo
vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính
sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô
hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt
ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ
trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn
Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa
quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá
hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt
tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi
vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi
ro
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 9 -
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó
còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông
Á".Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là
do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao
động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức
độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng
trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có
thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi
như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính
ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng
hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.
Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở
nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới
tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra
nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do
hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát
triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của
chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á
bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp
mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ
không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa
chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)
Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu
Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với
Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu
của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á.
Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy
thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo
của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát.
Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các
nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông
qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền
của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các
nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng
trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm
suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 10 -
Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là
những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản
của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn
tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện
thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một
số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư
nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng
hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng
lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên
cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại
càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống
tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền
kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại
Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25
tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước
ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của
ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân
hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã
gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương
EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới.
Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự
Hội nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày
17 tháng năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể
nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ
chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể
xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất
bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được
áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm
trầm trọng.
Diễn biến
Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới
của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong
bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 11 -
khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn
chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công
đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan ó đã xuống đến
mức 56 baht mới đổi được 1 còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn
hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance
One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng
dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Chavalit Yongchaiyudh
tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2
tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, n Lan
đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một
gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF
thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung
ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ
đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ
15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một
dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên
quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng
chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán
Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000
điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên
làm tổng thống.
Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này
vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm
phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn
công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó
tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên
Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền
của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày
20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15
tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên
thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ
Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang
Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang,
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 12 -
lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua
vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các
loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng
khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar
Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng
khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà
đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính
phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức
7,8 : 1.
Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh
nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn
ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy
ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu
bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm
1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1
xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong
ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại
tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách
khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ
mức 1000 KRW/USD.
Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng
Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị
sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ
xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là
từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những
người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng
thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit
trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống
khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức
24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 13 -
Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và
Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và
đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng
chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một
gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng
Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng
khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia,
đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên.
Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán
Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của
IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai
mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã
bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng
hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa
năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng
2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức
18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ
của Indonesia đã giảm đi.
Hậu quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất
giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước
châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy
xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh
hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của
Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống
phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh
ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu
người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất
giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 14 -
Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức
8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia
giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD
xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn
tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước
không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu
giảm và do FDI vào giảm.
Ý nghĩa
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết
phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này
thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các
quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác
động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành
những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này.
Bên cạnh đó,những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống
phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như
Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3,
Sáng kiến Thị trường Trái phiếu Châu Á, ...
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của
các mô hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích
nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ
lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như
mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý
thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền
tệ,...
Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh
tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ,
gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài
chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ
mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế.
Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối
đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá
hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ
lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005,
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 15 -
năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ
ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
Cải cách khu vực tài chính
Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu
vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2)
Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám sát và áp dụng
các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính
khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường
giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị
trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng
phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu
gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách
cho họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay
đổi tập quán cho vay của mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa
vay nhiều hơn.
Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá
sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu
chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao
quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán
và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh
nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với
doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài.
Cải cách các thị trường
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng
nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí
nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các
nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn.
Baì học rút ra sau cuộc khủng hoảng
Bài học thứ nhất: Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc
khủng hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước
không tự do hóa thị trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị
trường vốn, cũng không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những
tác động của cuộc khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật
pháp tốt nhất.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 16 -
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình
trạng quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó
là các khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các
ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân
hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh
như khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
Bài học thứ hai: Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó
không trang bị cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp
để giám sát việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của
các nước đang phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây dựng hệ
thống luật pháp phù hợp và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm
1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước
châu Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo
theo việc đầu tư dư thừa vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy
đua sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ
hơn, việc “thừa tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị
trường bất động sản, từ đó lại quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các
ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của tài sản thế chấp. Kết quả là khi
“bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có
tỷ lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và
Singapore (19%), tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
Bài học thứ ba: Nguy cơ dư thừa vốn.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 17 -
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ”
vì nguồn cơn của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không
nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của họ.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do sự “tắc trách” của
người châu Á gây ra. Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở
mức cân bằng hoặc thặng dư, và không hề có lạm phát. Cuộc khủng hoảng
xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về mô hình của hoạt động trung gian
tài chính quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập
niên 90 đã làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn
thế giới. Vì thế, các giám đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi
nhuận cao hơn, thông qua các dự án đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở
Mỹ, việc thâm hụt ngân sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng
lên đã dẫn đến tốc độ lạm phạt giảm và do đó lãi suất giảm.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi
suất ở châu Á cao hơn, còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy
đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên Nhật có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn
vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng
thêm tình hình thâm hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá
đồng tiền, tình hình càng trở nên xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà
đầu tư nước ngoài. Thị trường tài chính châu Á chao đảo.
Liệu điều tương tự có thể xảy ra lần nữa? Câu trả lời là hoàn toàn có thể.
Trong suốt thời gian diễn ra khủng hoảng, đã có khá nhiều thảo luận về việc
hình thành một “kiến trúc tài chính toàn cầu”. Tuy nhiên từ đó đến nay, cái
“kiến trúc” đó hầu như không có gì thay đổi. Vẫn chưa có được những công
cụ điều tiết luồng vốn một cách hiệu quả.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 18 -
Về hành lang pháp lý, đã có nhiều cải tiến kể từ năm 1997. Giờ đây nhiều
ngân hàng của châu Á hoạt động bền vững hơn, với tỷ lệ vốn lưu động tăng
lên trong khi tỷ lệ nợ xấu giảm xuống.
Tuy nhiên, trình độ quản lý vẫn chưa được cải thiện. Một cuộc điều tra gần
đây của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấy trên thực tế, chất
lượng trình ở 4 trong 5 nước bị ảnh hưởng nặng nhất của cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á - Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan - thậm chí
còn có chiều hướng kém đi so với năm 1997, ở 6 thước đo: trách nhiệm quản
lý, sự ổn định chính trị, hiệu quả của chính phủ, chất lượng của hệ thống luật
pháp, sự tuân thủ pháp luật và tình hình kiểm soát tham nhũng.
Hiện nay lại đang xảy ra tình trạng tính thanh khoản quốc tế lên quá cao.
Tuy nhiên, lần này nguyên nhân lại khác - dự trữ của các nước châu Á đã
tăng từ mức 250 tỷ USD của năm 1997 lên 2,5 nghìn tỷ USD trong năm nay,
chủ yếu nhờ Trung Quốc.
Luồng vốn chảy vào các thị trường châu Á mới nổi trung bình chiếm 6-7%
GDP, cùng mức với thời điểm trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-
98. Tuy nhiên, không như hồi thập kỷ 90, hiện nay luồng vốn phần lớn là
đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài (FDI và FPI) chứ không phải là đầu
tư ngắn hạn.
Dù vậy, giới lãnh đạo tài chính châu Á đã chỉ ra rằng tỷ lệ lãi suất thấp trong
suốt một thời gian dài đã dẫn đến sự phát triển bong bóng của thị trường
chứng khoán, bất động sản, thị trường hàng hóa và hoạt động đầu tư tư nhân.
Và như Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đã cảnh báo, nếu tình trạng mất
cân đối trên thị trường tài chính quốc tế không được giải quyết một cách
nhịp nhàng thì nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng.
Nói như nhà soạn kịch Eugene O'Neill, không có hiện tại hay tương lai, mà
chỉ có quá khứ cứ lặp đi lặp lại. Cách nói này có thể hơi cường điệu. Có lẽ sẽ
chính xác hơn khi nói rằng lịch sử luôn lặp lại, nhưng có một chút thay đối.
Nếu khôn ngoan và thận trọng, chính phủ các nước sẽ cố gắng tìm ra sự khác
biệt đó để có các biện pháp đề phòng.
III.các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tác hại của khủng hoảng tài chính.
Khủng hoảng tài chính một khi đã xảy ra thì nó sẽ gây hậu quả rất lớn, gây
nên sự phá sản hàng loạt của các tổ chức, định chế tài chính. Có thể coi đây
là thời kì thanh lọc của hệ thống tài chính. khủng hoảng tài chính mang tính
chu kì. Tuy thế ta có thể ứng phó, ngăn chặn hoặc đề ra các biện pháp giảm
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 19 -
thiểu tổn thất nếu như ta dự đoán được truớ tính chu kì của nó. Giải pháp
đưa ra dựa trên nguyên nhân tạo nên khủng hoảng. giải pháp bền vững và
mang tính lâu dài nhất là giải quyết những vấn đề nội tại trong chính nền tài
chính: thông tin không can xứng, chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức là hai vấn đề mang tính tiềm ẩn của
nền tài chính. Nói chung lai thì chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức đêu bắt
nguồn từ hiện tượng thông tin bất đố xứng. Đê khắc phục tình trạng này
chính phủ là người có vai trò quan trọng nhất.
Biên pháp giải quyết vấn đề lựa chọn đối nghịch.
Chính phủ có thể cung cấp thông tin giúp nhà đầu tư phân biệt được đâu là
công ty tốt, đâu là công ty tồi một cách miễn phí. Hoặc chính phủ có thể
khuyến khích các công ty tiết lộ thông tin về bản thân mình. Chẳng hạn
những qui định các công ty bán chứng khoán phải tôn trọng những nguyên
tắc kế toán chuẩn, và phải cho biết thông tin về doanh số, tài sản, thu nhập
của họ. Tuy vậy những quy chế của chính phủ chỉ giảm nhẹ vấn đề lựa chọn
đối kháng mà không loại bỏ được nó.
Một giải pháp khác: đó là trung gian tài chính, như một ngân hàng, trở nên là
một chuyên gia trong việc tạo ra thông tin về các công ty, do đó có thể phân
loại các trường hợp đầu tư tốt với các trường hợp đầu tư xấu. Khi đó họ có
thể thu vốn từ những nguòi gửi tiền và cho những công ty tốt vay. Một ngân
hàng có khả năng thực hầu hết những mon cho vay tới những công ty làm ăn
tốt, nên ngân hàng các ngân hang này có thể kiếm được lợi nhuận cao hơn
do những món vay này so với lãi mà họ phải thanh toán cho những người
gửi tiền. Một thành phần quan trọng nằm trong năng lực thu lợi của một
ngân hàng từ thông tin họ tạo ra. Là ở chỗ họ tránh được vấn đề đi xe không
tốn tiền, trước hết bằng việc thực hiện các món cho vay riêng.hơn là việc
mua các chứng khoán trên thị trường tự do. Bởi vì các món cho vay riêng
không thể mua bán được, những nhà đầu tư khác không thể theo dõi được
ngân hàng đang làm gì và không thể đặt giá cạnh tranh món cho vay này
khiến cho ngân hàng đó không nhận được khoản bù đắp cho thông tin mà
ngân hàng đó tạo ra. Vai trò của một ngân hàng như một trung gian nắm giữ
hầu hết các tài sản cho vay không thể đem ra mua bán được là chìa khoá cho
sự thành công cua các ngân hàng trong việc giảm thông tin không cân xứng
trên thị trường tài chính.
Biện pháp giải quyết vấn đề rủi ro đạo đức.
Giá trị tài sản ròng: Khi một người vay tiền có nhiều tiền vốn bởi vì giá trị
tài sản ròng của anh ta lớn, thì ý muốn lao vào rủi ro đạo đức sẽ giảm đi
nhiều do chỗ anh ta co nhiều để mất. Một cách mô tả giải pháp mà giá trị tài
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 20 -
sản ròng cao mang lại cho vấn đề rỉu ro đạo đức là nó làm cho ý muốn của
người vay ngang hàng với người cho vay.
Việc giám sát và bắt thông qua những quy định hạn chế: những quy định hạn
chế được nhắn voà việc giảm rủi ro đạo đức bằng cách loại bỏ những sử xự
không mong muốn hộăc bằng cách sử xự mông muốn.
Sự trung gian tài chính: tuy có các quy định hạn chế giúp giảm vấn đề rủi ro
đạo đức, nhưng chúng không hoàn toàn bị loại bỏ được vấn đề này. Hầu như
không thể viết được những quy định hạn chế để loại bỏ mọi hoat động có rủi
ro. Một khó khăn khác với những quy định hạn chế là ở chỗ chúng phải
được giám sát và cưỡng chế. Một quy định hạn chế coi nhu kém ý nghĩa nếu
người vay có thể vi phạm nó do anh ta biết người cho vay không kiểm tra no
hoặc không sẵn lòng chi tiên để khởi sự những khiện cáo.
Trong điều kiên hiên nay, với tình hình kinh tế toàn cầu đi xuống. Với một
độ mở kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giơi như ngay nay thì cuộc
khủng hoảng lá cuộc khủng hôảng toàn cầu. Để đối phó với những thách
thức đối với nền tài chính non trẻ cua VN, ta cũng co những giải pháp sau:
Tham dự Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ hai (19-20/9, tại Hà Nội), Thứ
trưởng Tài chính - Trần Xuân Hà cho rằng, để đối phó với cuộc khủng
hoảng tài chính hiện nay, sẽ thực hiện 6 nhóm giải pháp quan trọng để tránh
khủng hoảng tài chính có thể xảy ra đối với Việt Nam.
Tiếp tục thắt chặt chính sách tài chính - tiền tệ
Theo Thứ trưởng Trần Xuân Hà, trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế vĩ
mô đã có những chuyển biến và cải thiện rõ nét. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng
8 tháng đầu năm 2008 so với 8 tháng đầu năm 2007 tăng 22,14% nhưng tốc
độ tăng giá trong những tháng gần đây đã chậm lại.
Tháng 7 chỉ tăng 1,13% so với tháng 6; tháng 8 tăng 1,56% so với tháng 7
nhưng chủ yếu là do ảnh hưởng chính của chính sách tăng giá xăng dầu vào
cuối tháng 7 để giảm bù lỗ ngân sách và khuyến khích sử dụng tiết kiệm
xăng dầu.
Về cán cân thương mại, mặc dù trong 8 tháng đầu năm mức thâm hụt đã lên
đến 16 tỷ USD nhưng mức thâm hụt đã giảm hẳn qua các tháng (tháng 7 và
8, thâm hụt khoảng 800-900 triệu USD).
Nguồn kiều hối chuyển về trong nước vẫn tiếp tục đà tăng mạnh từ các năm
trước và khá ổn định (đạt khoảng 4,5 tỷ USD nửa đầu năm 2008) cũng đã hỗ
trợ lớn tài khoản vãng lai không bị thâm hụt nặng như cán cân thương mại.
Về tài khoản vốn, nguồn tài trợ cho thâm hụt tài khoản vãng lai thông qua
vốn FDI, ODA; tiền gửi ngoại tệ và đầu tư gián tiếp khá dồi dào và ổn định.
Tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong 8 tháng đầu năm 2008 đã đạt
trên 47 tỷ USD với số vốn thực hiện đạt khoảng 7 tỷ USD. Vốn ODA đã ký
kết trong 8 tháng đạt 1,7 tỷ USD với số vốn giải ngân đạt 1,3 tỷ USD.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 21 -
Theo ông Hà, trong những tháng cuối năm 2008 và năm 2009, các ngành,
lĩnh vực sản xuất kinh doanh vẫn sẽ còn chịu tác động đáng kể từ chính sách
thắt chặt tiền tệ, chính sách giảm chi tiêu công…
Sáu nhóm giải pháp tránh khủng hoảng tài chính
Để tránh sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và tránh cuộc
khủng hoảng tài chính xảy ra đối với Việt Nam, Bộ Tài chính đưa ra 6 nhóm
giải pháp quan trọng.
Thứ nhất, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tài chính -
tiền tệ thắt chặt để thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm
phát; trong đó, đặc biệt chú trọng đến việc sử dụng linh hoạt các công cụ lãi
suất, dự trữ bắt buộc và các công cụ thị trường mở cùng với cắt giảm chi đầu
tư công, bao gồm cả việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của hệ thống doanh
nghiệp nhà nước.
Chính phủ sẽ tiếp tục kiên trì thực hiện chính sách giá cả theo cơ chế thị
trường, linh hoạt theo lộ trình phù hợp để kiểm soát giá các mặt hàng thiết
yếu.
Thứ hai về thị trường tài chính, tín dụng, thị trường chứng khoán, quan điểm
quản lý nhà nước là không can thiệp trực tiếp vào thị trường mà tập trung
vào thực hiện chức năng tăng cường kiểm tra, giám sát hệ thống ngân hàng
và các định chế tài chính để tránh rủi ro hệ thống và khủng hoảng tài chính;
tiếp tục thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, xem xét thời điểm
phù hợp của các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu của các Tổng cty, tập đoàn
kinh tế lớn cùng với việc đẩy mạnh tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, đối với thị trường bất động sản, tập trung nâng cao chất lượng tín
dụng bất động sản thông qua việc kiểm soát quy trình, giám sát nghiêm việc
cho vay bất động sản của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng để
đảm bảo an toàn hệ thống.
Thứ tư, giải quyết hợp lý bài toán nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần
được coi là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa chiến lược đối với nền kinh tế Việt
Nam trong thời gian tới.
Về đầu tư công, trong thời gian tới cùng với nỗ lực cơ cấu lại chi tiêu công,
tập trung cho an sinh xã hội, Chính phủ sẽ tiếp tục điều chỉnh lại cơ cấu chi
đầu tư phát triển, trong đó tập trung vào khu vực nông nghiệp và nông thôn
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kết hợp với khu vực tư nhân nhưng tránh đầu
tư chồng chéo vào những khu vực tư nhân có thể tự đầu tư và thu hồi vốn.
Thứ năm, tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp là
yếu tố cơ bản và gốc rễ của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững; trong
đó, các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực trong việc áp dụng các biện
pháp phòng ngừa rủi ro về tỷ giá-lãi suất...
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 22 -
Vai trò thúc đẩy, hỗ trợ của Nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực hỗ trợ
nguồn vốn tín dụng, hỗ trợ khoa học, công nghệ cơ bản; hỗ trợ cung cấp và
đào tạo nguồn nhân lực; hệ thống thông tin thị trường và cơ sở hạ tầng.
Cuối cùng, cần đẩy mạnh cải cách hành chính là điều kiện quan trọng trong
việc góp phần phát triển sản xuất, tăng cung và điều hoà thị trường trong
nước; tăng cường pháp chế, chống tham nhũng và đảm bảo thực thi pháp
luật nghiêm để tăng uy tín của Chính phủ.
Việc bảo đảm hệ thống hành chính hoạt động có chất lượng và hệ thống
pháp luật thực thi có hiệu quả có thể được coi là cú hích quan trọng để thúc
đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo cơ chế thị trường vận hành hiệu quả. Góp
phần đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khó khăn và hướng tới quỹ đạo
phát triển bền vững.
TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ
- 23 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiền tệ-ngân hàng và thị trường tài chính: P.S.Mínkhin
Lý thuyết tài chính- tiền tệ: trường đại học Thương Mại
Cùng một số nguồn khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu khủng hoảng của hệ thống tài chính.pdf