LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở tạo ra một sân chơi tự do và công bằng. Tháng 12/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là một cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ trước đến nay. Bên cạnh cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế, giao lưu với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam cũng phải đương đầu với rất nhiều thách thức. Có lẽ khó khăn lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt đó là những tác động tiêu cực do cạnh tranh gây ra , nhất là trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất nội địa Việt Nam còn rất yếu kém. Không riêng gì Việt Nam, đây cũng là bài toán hóc búa đặt ra cho rất nhiều quốc gia. Do vây, tiền thân của tổ chức thương mại thế giới là GATT đã đi tiên phong trong việc đề ra biện pháp tạo điều kiện cho ngành sản xuất trong nước có cơ hội điều chỉnh để tồn tại và phát triển, tránh những tồn tại nghiêm trọng khi tham gia vào tự do hoá thương mại. Đó chính là cơ chế tư vấn thương mại đối với hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong khi nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của các biện pháp tự vệ và có những cách vận dụng khác nhau thì tại Việt Nam, việc áp dụng cơ chế này vẫn là một đề tài mới mẻ. Bởi vậy, để trả lời câu hỏi làm sao Việt Nam có thể áp dụng một cách có hiệu quả các biện pháp tự vệ thương mại, nhóm thuyết trình lớp A11 xin được chọ đề tài “Các biện pháp tự vệ thương mại và điều kiện áp dụng tại Việt Nam”
12 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các biện pháp tự vệ thương mại và điều kiện áp dụng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở tạo ra một sân chơi tự do và công bằng. Tháng 12/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là một cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ trước đến nay. Bên cạnh cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế, giao lưu với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam cũng phải đương đầu với rất nhiều thách thức. Có lẽ khó khăn lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt đó là những tác động tiêu cực do cạnh tranh gây ra , nhất là trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất nội địa Việt Nam còn rất yếu kém. Không riêng gì Việt Nam, đây cũng là bài toán hóc búa đặt ra cho rất nhiều quốc gia. Do vây, tiền thân của tổ chức thương mại thế giới là GATT đã đi tiên phong trong việc đề ra biện pháp tạo điều kiện cho ngành sản xuất trong nước có cơ hội điều chỉnh để tồn tại và phát triển, tránh những tồn tại nghiêm trọng khi tham gia vào tự do hoá thương mại. Đó chính là cơ chế tư vấn thương mại đối với hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong khi nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của các biện pháp tự vệ và có những cách vận dụng khác nhau thì tại Việt Nam, việc áp dụng cơ chế này vẫn là một đề tài mới mẻ. Bởi vậy, để trả lời câu hỏi làm sao Việt Nam có thể áp dụng một cách có hiệu quả các biện pháp tự vệ thương mại, nhóm thuyết trình lớp A11 xin được chọ đề tài “Các biện pháp tự vệ thương mại và điều kiện áp dụng tại Việt Nam”
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỰ VỆ THƯƠNG MẠI
Khái niệm về tự vệ thương mại
Tự vệ thương mại là hành động của chính phủ các nước nhập khẩu dưới hình thức tăng mức thuế hiện hành, áp dụng hạn ngạch, cá khoản phụ thu hay các biện pháp thích hợp khác, áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu trong trường hợp những hàng hoá này được nhập khẩu một cách quá mức, gây thiệt hại ngiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa.
“Thiệt hại nghiêm trọng” là sự giảm sút đáng kể về vị thế của ngành công nghiệp trong nước. Để xác định có hay không thiệt hại nghiêm trọng cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu như : lượng hàng hoá nhập khẩu tăng tuyệt đối cũng như tương đối, mức độ tăng thị phần nhập khẩu của thị trường trong nước, hay sự giảm sút về doanh số, số lượng, hiệu suất, hệ số sử dụng, công suất, lợi nhuận, lỗ lãi và việc làm của ngành sản xuất nội địa.
“Ngành công nghiệp trong nước” không chỉ giới hạn ở những hãng sản xuất những mặt hàng giống hệt nhau mà còn mở rộng đối với những mặt hàng tương tự, những hàng hoá có thể thay thế hàng hoá nhập khẩu, cạnh tranh trực tiếp trên thị trường.
Các biện pháp tự vệ thương mại
Theo điều XIX vá Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO, một quốc gia có quyền lựa chọn 1 trong các biện pháp tự vệ sau:
-Tăng mức thuế đã cam kết vượt lên trên mức thuế trần(biện pháp thuế quan)
-Áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng như hạn ngạch(biện pháp phi thuế quan)
2.1 Biện pháp thuế quan:
Đây là biện pháp mà WTO cho phép để bảo hộ thị trường trong nước và chủ yếu dưới dạng tăng thuế nhập khẩu, vì đây là công cụ đảm bảo tính minh bạch và dễ dự doán, được thực hiện bằng những con số rõ ràng, do vậy người ta có thể thấy được mục đích bảo hộ dành cho 1 ngành sản xuất của mỗi quốc gia. Ngoài ra, do biện pháp thuế quan chỉ làm tăng giá sản phẩm nên cũng không làm cho thương mại bị bóp méo và đảm bảo cho “bàn tay vô hình”của thị trường thực hiện được chức năng của mình. Tuy nhiên khi tham gia vào quá trình hội nhập, các nước phải cam kết ràng buộc với một mức thuế trần nhất định và phải có lịch trình cắt giảm cụ thể.
2.2 Các biện pháp phi thuế quan:
Trước kia các nước nhập khẩu thường sử dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện(VERs- Voluntary Export Restrains), qua đó lợi dụng ảnh hưởng của mình để qua đó ép buộc các nước đối tác tự nguyện hạn chế xuất khẩu, đồng thời cơ chế này cũng thể hiện sự phân biệt đối xử rất rõ. Vì vậy trrong hiệp định về các biện pháp tự vệ, WTO đã cấm sử dụng VERs mà thay vào đó là các biện pháp hạn chế định lượng bao gồm:
a) Hạn ngạch:
Hạn ngạch là biện pháp dùng để hạn chế số lượng hay giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu từ một thị trường nào đó trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm).Có 2 loại hạn ngạch:
- Hạn ngạch tuyệt đối : là hạn gạch mà khi áp dụng, nếu hàng hoá nhập khẩu vượt quá môt khối lượng đã qui định thì không được cấp giấy phép XK.
- Hạn ngạch thuế suất thuế quan : là hạn ngạch mag khi áp dụng, nếu khối lượng hàng hoá nhập khẩu không vượt quá mức đọ qui định thì sẽ đánh thuế suất thông thường, ngược lại sẽ đánh thuế suất bổ sung hay đánhd thuế tăng lên theo phân tăng lên theo tưng phần tăng tương ứng của số lượng hàng hoá NK
b) Các công cụ khác:
Một số biện pháp phi thuế quan khác mà các quốc gia có thể áp dụng là cấm NK, cấp giấp phép nhập khẩu hay phụ thu đối với hàng NK..v..v..Cá biện pháp này thường mang tính chủ quan của nước NK với mục đích bảo hộ nền sản xuất nội địa nên WTO coi nhữn biện pháp này làm hạn chế rõ rệt tác dụng của tự do thương mại và yêu cầu xoá bỏ thay vao đó là các biện pháp hạn ngạch hoặc hạn ngạch thuế quan
3. Điều kiện chung áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại:
WTO trong các văn bản của mình đã đề ra những điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại mà theo đó, 1 quốc gia chỉ được quyền áp dụng biện pháp này nếu xét thấy đã hội dủ các điều kiện sau
3.1 Phải có sự gia tăng đột biến về lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa
Sự gia tăng hàng hoá nhập khẩu dẫn đến áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại được xác định dựa vào 1 số tiêu chí cụ thể : đó là sự gia tăng một cách một cách tương đối hay tuyệt đối về sản lượng số lượng hay giá trị củ loại hangf hoá đó so với số lượng, khối lượng hay giá trị của hàng hoá tương tự hay hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước. Mục 1(a) điều XIX hiệp định GATT 1994 đưa ra khái niệm “sự thay đổi không lường trước - unforeseen development” theo đó sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập khẩu phải không lường trước được, nghĩa là sự biến đổi đó xảy ra sau khi các bên đã đàm phán và không có gì để khẳng định rằng các nhà đàm phán, những người đã đưa ra nhượng bộ thuế quan, có thể hay lẽ ra phải dự đoán được sự biến đổi đó. Thực tiễn xét xử các vụ kiện liên quan đến tự vệ thương mại cho thấy sự gia tăng nhập khẩu để dẫn đến quyền áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại phải đáp ứng được các tiêu chí cả về định lượng cũng như định tính. Sự gia tăng này phải vừa mới diễn ra, phải mang tính bất ngờ, phải ở mức độ đủ lớn và phải gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng.
3.2 Việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu đó phải gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa
Việc xác định tổn hại dựa trên kết quả điều tra theo đó cơ quan chức năng đánh giá những yếu tố kinh tế có liên quan dến tình hình sản xuất của ngành này gồm:
Tốc độ và sản lượng gia tăng nhập khẩu của sản phẩm liên quan một cách tuyệt đối hay tương đối
Lượng gia tăng nhập khẩu lấy đi bao nhiêu%thị phần trong nước.
Sự giảm sút thực tế về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng suất, tỉ suất đầu tư..
Tác động đến thị trường lao động.
Việc điều tra sẽ do 1 cơ quan chuyên trách ở mỗi quốc gia đảm nhiệm.Tuy nhiên, nếu như xét thấy bất kì 1 sự trì hoãn nào có thể làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn và khó phục hồi, các quốc gia có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời mà chỉ dựa vào những dấu hiệu ban đầu cho thấy có thiệt hại nghiêm trọng bắt nguồn từ gia tăng nhập khẩu, không cần đợi kết quả điều tra. biện pháp này chỉ kéo dài tối đa 200 ngày và được áp dụng dưới hình thức tăng thuế suất. Khoảng thời gian áp tự vệ tạm thời cũng sẽ được tính vào tổng thời gian áp dụng tự vệ thương mại. Nếu sau này kết quả cho thấy không đủ điều kiện áp dụng tự vệ thương mại thì các bên sẽ phải hoàn trả cho nhau ngay lập tức khoản thuế gia tăng đã thu được.
3.3 Sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập khẩu đó phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra những thiệt hại nói trên.
Một quốc gia sẽ không thể áp dụng được các biện pháp tự vệ thương mại nếu như không chứng minh được rằng có tồn tại bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ nhân quả giữa lượng nhập khẩu gia tăng đột biến của loại hàng hoá có liên quan với thiệt hại nghiêm trọng gây ra. Việc chứng minh mối quan hệ này có thể dựa trên sự tương quan về thời gian xảy ra việc tăng lượng hàng hóa nhập khẩu tăng và thời gian xảy ra thiệt hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu có những yếu tố khác không phải là gia tăng nhập khẩu, cùng trong thời gian đó gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra tổn hại thì không thể suy diễn là thiệt hại đó là do việc hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh. Điều này đồng nghĩa là các nhân tố gây thiệt hại cần phải được phân biệt và làm rõ, từ đó tạo nên giới hạn cho việc áp dụng tự vệ thương mại.
4. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của WTO
4.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc cơ bản của WTO. Tự vệ thương mại cũng cần tuân thủ nguyên tắc này; theo đó các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng với mọi sản phẩm nhập khẩu không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Đối tượng điều tra để áp dụng tự vệ thương mại cũng phải là toàn bộ hàng nhập khẩu chứ không phải hàng hóa từ một nước cụ thể.
Hiệp định về tự vệ thương mại của WTO đưa ra một ngoại lệ yêu cầu:Nước nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn chế số lượng thì phải tham khảo ý kiến của các nước thành viên khác có lợi ích đáng kể liên quan đến hàng hóa bị áp dụng tự vệ thương mại để đưa ra tỷ lệ phân bổ hạn ngạch.
4.2 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại trong phạm vi và mức độ cần thiết:
Mục đích chính của TVTM là để giúp nền công nghiệp trong nước có thời gian để điều chỉnh cơ cấu, khắc phục thiệt hại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nước ngoài. Do vậy nước nhập khẩu chỉ được áp dụng tự vệ thương mại ở giới hạn cần thiết và chỉ nhằm để ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại do lượng nhập khẩu tăng đột biến gây ra và nhằm tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nội địa chứ không phải nhằm bất kỳ mục đích nào khác.
Áp dụng TVTM không phải để hạn chế cạnh tranh, do vậy nó chỉ được áp dụng trong một thời gian nhất định. Theo WTO, thời hạn áp dụng tối đa là 4 năm. Trong trường hợp cần thiết, có thể được gia hạn thêm một lần nhưng không quá 4 năm tiếp theo. Đối với các nước đang phát triển, có thể được ưu đãi gia hạn với thời gian không quá 6 năm tiếp theo. Tuy nhiên, ngay cả trong thời hạn áp dụng, nếu những điều kiện cho sự tồn tại của nó không còn nữa thì nước áp dụng TVTM phải dỡ bỏ ngay hoặc đình chỉ biện pháp tự vệ đang được áp dụng với hàng hóa đó.
Trong thời gian áp dụng TVTM, nước nhập khẩu phải tiến hành rà soát các biện pháp tự vệ để đảm bảo quyền lợi cho nước bị áp dụng đồng thời cũng để cho việc luân chuyển hàng hóa diễn ra bình thường.
4.3 Nguyên tắc đảm bảo bồi thường tổn thất thương mại
Khác với các biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạh do hành động bán phá giá hay trợ cấp của Chính phủ, một nước thành viên khi áp dụng biện pháp tự vệ phải đảm bảo đền bù thỏa đáng cho nước bị áp dụng TVTM. Việc đền bù này thường thông qua việc giảm thuế cho một số mặt hàng có lợi ích xuất khẩu cho nước bị áp dụng TVTM. Mức độ đền bù phải tương đương đáng kể.
Nếu các bên không thể thỏa thuận được mức độ bồi thường tương xứng thì các nước bị áp dụng TVTM có thể áp dụng các biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, quyền thực hiện trả đũa thương mại chỉ có thể tiến hành sau 3 năm kể từ khi biện pháp TVTM thực hiện.
4.4 Nguyên tắc ưu tiên cho các nước đang phát triển
WTO thừa nhận cần phải có sự cần thiết phải dành cho những nước đang và chậm phát triển những điều kiện thuật lợi hơn trong thương mại quốc tế, dành cho các nước này những chế độ đãi ngộ đặc biệt và khác biệt trong thương mại quốc tế mà không yêu cầu có đi có lại trong các cam kết.
Điều 9 Hiệp định về TVTM của WTO quy định: Các biệ pháp TVTM không được áp dụng với hàng hóa có nguồn gốc từ một nước thành viên đang phát triển nếu như thị phần xuất khẩu hàng hóa của nước này tại nước nhập khẩu không vượt quá 3 %. Hoặc nếu có nhiều nước thành viên đang phát triển có thị phần từng nước dưới 3% và tổng thị phần của các nước này không lớn hơn 9 % thì không bị áp dụng TVTM.
Về phần mình, một nước thành viên đang phát triển lại có quyền mở rộng thời hạn áp dụng TVTM với nước khác thêm 2 năm nữa so với thời hạn tối đa được áp dụng TVTM thông thường là 8 năm.
II. SỰ CẦN THIẾT ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ TRONG XU THẾ TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI
1. Tình hình nhập khẩu cảu Việt Nam trong những năm gần đây:
Trong những năm vừa qua, nước ta đã tham gia sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Nhưng đi cùng với sự phát triển đó cũng là khá nhiều trở ngại, đặc biệt là vấn đề nhập siêu. Ta có thể thấy được sự biến động đó qua biểu đồ sau:
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Nhập khẩu (tỷ USD)
16,162
19,733
25,227
31,954
36,978
44,410
60,830
Tốc độ tăng nhập khẩu (%)
4.4
22.1
27.8
26.7
15.7
20.1
35.5
Nguồn Thống kê nhập khẩu của Tổng cục thống kê từ năm 2001 đến năm 2007.
Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu 10 mặt hàng chủ yếu từ năm 2001 đến 8 tháng đầu năm 2008:
Đơn vị: triệu USD
STT
Tên hàng
2004
2005
2006
2007
8 tháng 2008
1
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
1349
1706
2055
2944
9601
2
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng
5249
5281
6555
10376
2346
3
Nguyên phụ liệu dệt may, da giày
2253
4680
5760
6750
4216
4
Ô tô nguyên chiếc
234
280
208
523
843
5
Phân bón
819
648
673
996
1188
6
Sắt thép
2509
2984
2905
4881
5473
7
Tân dược
510
502
547
700
539
8
Linh kiện và phụ tùng xe máy
452
476
490
578
424
9
Linh kiện ô tô
647
795
500
921
1111
10
Xăng dầu
3571
4969
5848
7501
9118
Nguồn: Thống kê hàng năm của tổng cục thống kê
Trước tiên, nhìn vào biểu đồ 1 ta thấy nhập khẩu liên tục tăng qua các năm mặc dù tốc dộ tăng không dồng đều. Đây là hiện tượng mà chúng ta cần chú ý bởi vì xuất phát điểm để áp dụng các biện pháp tự vệ là tình trạng nhập khẩu tăng mạnh. Tình hình nhập siêu cũng biến động tăng theo từng năm. Tính đến 8 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đã lên đến 16 tỷ USD, bằng 36.8% tổng kim ngạch xuất khẩu, gấp 2 lần mức nhập siêu cùng kì năm 2007. Trong tình hình nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam, có 2 đặc điểm cần chú ý.
Thứ nhất, theo như bảng số liệu 1, ta có thể thấy, trong số 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008, hầu hết là mặt hàng nguyên, phụ liệu thuộc nhóm ngành công nghiệp phụ trợ. Đây là nhóm ngành hàng có vai trò hỗ trợ và là trung gian đầu vào cho việc sản xuất các sản phẩm chính, cụ thể là nhóm ngành linh kiện điện tử, máy móc thiết bị phụ tùng, linh kiện phụ tùng xe máy, linh kiện phụ tùng ô tô hay nguyên phụ liệu dệt may da giày… Bên cạnh đó, các mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế cũng nằm trong mười mặt hàng luôn có kim ngạch nhập khẩu cao là sắt thép và phân bón. Thị trường thép đặc biệt trong thời gian gần đây luôn trong tình trạng khủng hoảng khi một lượng lớn các sản phẩm thép giá rẻ của Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Trong khi đó, giá phôi thép nhập khẩu lại liên tục biến dộng, cùng với các chi phí vận chuyển lưu kho cao và năng lực sản xuât thấp kém của chínhcác doanh nghệpp sản xuất thép trong nước đã làm đội giá thép thành phẩm lên cao, trong tương lai không xa có nguy cơ thị trường Việt Nam sẽ tràn ngập thép nhập khẩu giá rẻ. Còn về phân bón, năm lức sản xuất trong nước cũng mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu thị trường nội địa, phần còn lại phải dựa vào nguồn phân urê nhập khẩu, do đó thị trường phân bón Việt Nam rất dễ rơi vào tình trạng bị lũng đoạn bởi nguồn phân nhập khẩu. Về lâu về dài, vẫn cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất thép và sản xuất phân bón cải tiến công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh, mà một trong các biện pháp là áp dụng tự vệ thương mại.
Một đặc điểm thứ 2 cũng rất đáng quan tâm là nhập siêu quá lớn từ khu vực châu Á, đặc biệt là từ một số nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc. Đây thực sự là các đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam mà chúng ta khó có thể loại bỏ bằng các biện pháp bảo hộ thông thường do bị ràng buộc bởi những cam kết và ràng buộc về thuế quan và phi thuế quan, đặc biệt là Thái Lan và Malaysia vốn nằm trong khối thị trường chung ASEAN.
2. Năng lực cạnh tranh yếu kém của các ngành sản xuất trong nước
Ta sẽ đi sâu phân tích năng lực cạnh tranh của nhóm các sản phẩm mà Việt Nam đang phải nhập với số lượng lớn như đã nêu trong phần trên.
Trước tiên là nhóm ngành phụ trợ, mặc dù đóng vai trò quan trọng, nhưng ở Việt Nam, các sản phẩm công nghiệp phụ trợ còn rất yếu kém, hầu hết là với quy mô nhỏ. Đến nay, công nghiệp phụ trợ vẫn chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn nhà nước sản xuất, phần lớn cung cấp sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao do công nghệ lạc hậu và quản lý kém, do đó chỉ được tiêu thụ trong nội bộ các doanh nghiệp trong nước.
Còn đối với ngành thép, bản thân năng lực sản xuất còn thấp, mới chỉ sản xuất ra đựoc các sản phẩm thép dài mà vẫn chưa có khả năng sản xuất các sản phẩm thép cán nóng và cán nguội, hơn nữa sản lượng sản xuất ra cũng chưa đủ đáp ứng nhu cầu nội địa , nên lượng thép nhập khẩu là tương đối lớn.
3. Xu thế tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu thực hiện những cam kết quốc té - giảm thuế nhập khẩu đồng thời xoá bỏ hàng rào phi thuế quan:
Việt Nam và đang trở thành thành viên của nhiều tổ chức thương mại quốc tế và khu vực như ASEAN, AFTA, APEC và đặc biệt là WTO, có quan hệ kinh tế với trên 170 nước. Chương trình cát giảm thuế nhập khẩu và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan để thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư là không thể tránh khỏi trong quá trình hội nhập. Trong cam kết WTO về thuế quan , Việt Nam đã có kết quả dàm phán cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu (10.600 dòng thuế), và cam kết cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so với mức hiện hành, thực hiện chủ yếu trong 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Trong số 10.600 dòng thuế nhập khẩu sẽ có 36% phải cắt giảm, lộ tình cắt giảm kéo dài bình quân 5-7 năm. Mức thuế bình quân cho nông nghiệp là 21%, công nghiệp là 12.6%, so với mức bình quân hiện hành là 23,5% và 16.6% … Ngoài ra trong các cơ chế hợp tác, tự do hoá ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Nhật, ASEAN-Hàn Quốc…. mà Việt Nam tham gia cũng quy định tiến trình cụ thể về cắt giảm thuế và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan.
Tất cả những điều này sẽ khiến cho môi trường kinh doanh ở nước ta ngày cành cạnh tranh do sức ép mạnh mẽ từ luồng hành hoá nhập khẩu chủ yếu là từ Trung Quốc và ASEAN, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phỉa nỗ lực để vượt qua thách thức.
Trong bối cảnh ấy, việc đặt ra nhu cầu bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước có điều kiện điều chỉnh cơ cầu và nâng cao sức cạnh tranh là cần thiết. Đã đến lúc chúng ta đứng lên bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần kiện ngược lại chứ không chỉ loay hoay bị động với các vụ khởi kiện từ nước ngoài. Lâu nay, chúng ta chỉ lo lắng đối phó với việc nước ngoài kiện sản phẩm của mình bán phá giá vào thị trường họ hoặc sản phẩm của mình đựơc nhập khẩu tràn lan đe doạ đến ngành sản xuất trong nước họ. Đã đến lúc doanh nghiệp Việt Nam khởi kiện hàng hoá của nước ngoài được trợ cấp, bán phá giá hay nhập khẩu quá mức đang đe doạ nhiều ngành công nghiệp non yếu của mình
III. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VỀ TỰ VỆ THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
1. Tổng quan về môi trường pháp lý về tự vệ thương mại tại Việt Nam
Cho đến thời điểm này, hai văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề tự vệ thương mại là Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ quốc hội ngày 25 tháng 5 năm 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng nước ngoài vào Việt Nam và nghị định số 150/2003/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nói trên. Trước đó, Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định hay giải thích về các biện pháp tự vệ; bởi vạy, sự hiểu biết về các vấn đề liên quan đến vấn đề này ngay trong các cơ quan và công chức hoạch định chính sách thương mại còn rất hạn chế.
Về cơ bản, nội dung của hai văn bản pháp luật này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các quy định của Điều XI GATT năm 1947 về tự vệ khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu và hiệp định tự vệ của WTO nhưng được chuyển hoá, điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam gồm 8 chương, 33 điều quy định về các biện pháp tự vệ, điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất troaing nước. Nghị định 150/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành gồm 4 chương, 17 điều, quy định chi tiết hơn về các biện pháp tự vệ, thủ tục điều tra áp dụng các biện pháp này.
Ngoài ra, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 và nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 nêu rõ nếu hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam thì bị áp dụng biện pháp tăng mức thuế nhập khẩu theo quy định của Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Hai nghị định 04/NĐ-CP và 06/NĐ-CP cùng ban hành ngày 09/01/2006 quy định cụ thể các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu của Hội đồng xử lý vụ việc chống bạn phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
2. Tác động của việc ban hành Pháp lệnh và nghị định về tự vệ
2.1. Những tác động tích cực
- Nước ta có một công cụ bảo hộ hợp pháp, ngăn chặn hoặc hạn chế những diễn biến bất lợi do việc nhập khẩu hàng hoá gia tăng thất thường gây ra.
- Sản xuất trong nước được bảo vệ, tránh khỏi nguy cơ bị đảo lộn, thậm chí phá sản do nhập khẩu hàng hoá quá mức gây ra.
- Góp phần xây dựng một hệ thống chính sách quản lý thương mại rõ ràng và ổn định hơn, cũng như nâng cao kiến thức của các doanh nghiệp về vấn đề tự vệ thương mại.
- Là một bước chủ động chế định hoá các định chế của WTO vào luật pháp Việt Nam và điều chỉnh luật pháp của ta phù hợp với các chuẩn mức của thế giới, tạo điều kiện cho việc gia nhập WTO.
2.2. Những tác động tiêu cực
- Việc áp dụng các biện pháp tự vệ cũng có thể làm giảm cơ hội của các ngành sản xuất sử dụng hàng hoá nhập khẩu đầu vào cho sản xuất với giá thấp hoặc chất lượng tốt hơn, hạn chế người tiêu dùng có được những hàng hoá tương tự với giá rẻ hơn.
- Trong một số trường hợp, việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể làm thay đổi đáng kể các cơ hội thị trường mà các đối tác nước ngoài có được và do vậy có thể dẫn đến sự khiếu nại từ phía chính phủ nước ngoài, thậm chí khi tham vấn liên chính phủ không thành công có thể bị trả đũa.
- Nếu lạm dụng các biện pháp tự về sẽ làm nảy sinh sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào sự bảo hộ quá mức của Nhà nước.
KẾT LUẬN
Tự vệ thương mại là một công cụ bảo hộ được thừa nhận rộng rãi và đang ngày càng được sử dụng một cách phổ biến trong thực tiễn thương mại các nước. Tất nhiên, cũng giống như các công cụ bảo hộ kiểu mới khác như chống bán phá giá và chống trợ cấp, tự vệ thương mại chứa đựng nhiều quy định phức tạp mà muốn sử dụng thành công, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng. Công tác nghiên cứu không chỉ giới hạn trong những quy tắc, lý thuyết đơn thuần mà phải mở rộng ra thực tiễn áp dụng của các nước trên thế giới. Vấn đề này đòi hỏi phải có sự đầu tư về nhân lực, thời gian và công sức. Ở Việt Nam, mặc dù tự vệ thương mại còn là một vấn đề khá mới mẻ và còn nhiều bất cập trong việc vận dụng cơ chế tự vệ nhưng bước đầu ta đã làm được một số nhiệm vụ quan trọng. Chúng ta đã từng bước xây dựng cho mình những khuôn khổ pháp lý, có những sự chuẩn bị cần thiết xét trên khía cạnh quản lý nhà nước cũng như nỗ lực nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về tự vệ thuơng mại. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được nhằm tăng cường áp dụng các biện pháp này. Tuy nhiên bản thân các biện pháp tự vệ thương mại cũng có những hạn chế, nhất là khi chúng ta áp dụng một cách không phù hợp với hoàn cảnh, tình huống, thời hạn, phạm vi, mức độ thì chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Do vậy, trong quá trình áp dụng cần tìm cách giới hạn những tác động tiêu cực không mong muốn để tư vấn thương mại trở thành công cụ hữu ích giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn , rộng hơn, hiệu quả hơn vào hội nhập kinh tế quốc tế, không ngừng đưa nền kinh tế Việt Nam theo kịp các cường quốc trên thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan.doc
- Slide.ppt