MỞ ĐẦU
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo, đất nước đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới: thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế của Việt nam đã có nhiều biến tích cực, tăng trưởng ngày càng cao. Sự phát triển của công nghiệp,nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ,đặc biệt là công nghiệp đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn xã hội, song cũng chính từ sự phát triển đó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Vì vậy nhiệm vụ bảo vệ môi trường hiện đang là vấn đề hết sức cấp bách của thời đại, là thách thức gay gắt đối với tương lai phát triển của tất cả các quốc gia trên hành tinh, trong đó có Việt Nam.
Để thực hiện các mục tiêu về môi trường cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam đang sử dụng công cụ pháp lý hay còn gọi là “Mệnh lệnh-Kiểm soát” trong quản lý môi trường. Đây là biện pháp hữu hiệu, thường đưa lại kết quả nhanh. Tuy nhiên “Mệnh lệnh-Kiểm soát” chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp lựa chọn giải pháp tối ưu là tuân thủ quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường.
Các công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với mục đích điều hòa xung đột giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động lập kế hoạch bảo vệ môi trường va tuân thủ pháp luật thông qua việc lồng ghép chi phí bảo vệ môi trường với chi phí sản xuất kinh doanh va giá thành sản phẩm. Đây là biện pháp đang được nhiều nước trên thế giới vận dụng và đã đem lại những kết quả khả quan. Trong điều kiện của nướchiện nay, khi mà ngân sách nhà nước còn khó khăn,khả năng bố trí kinh phí cho các mục tiêu về quản lý, giữ gìn và bảo vệ môi trường còn hạn chế thì việc sử dụng các công cụ kinh tế để huy đọng nguồn lực toàn xã hội tham gia bảo vệ môi trường (thông qua các công cụ thuế,phí,các quỹ bảo vệ môi trường ) là hướng đi đúng, vừa giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa giúp đạt được các mục tiêu về bảo vệ môi trường với hiệu quả cao hơn.
Vì vậy nghiên cứu việc sử dụng các công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiêp có ý nghĩa rất quan trọng.
Do đó em đã chọn đề tài này, tuy nhiên chỉ là những vấn đề mang tính tổng quát nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy!
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2730 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo, đất nước đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới: thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế của Việt nam đã có nhiều biến tích cực, tăng trưởng ngày càng cao. Sự phát triển của công nghiệp,nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ,đặc biệt là công nghiệp đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn xã hội, song cũng chính từ sự phát triển đó đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Vì vậy nhiệm vụ bảo vệ môi trường hiện đang là vấn đề hết sức cấp bách của thời đại, là thách thức gay gắt đối với tương lai phát triển của tất cả các quốc gia trên hành tinh, trong đó có Việt Nam.
Để thực hiện các mục tiêu về môi trường cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam đang sử dụng công cụ pháp lý hay còn gọi là “Mệnh lệnh-Kiểm soát” trong quản lý môi trường. Đây là biện pháp hữu hiệu, thường đưa lại kết quả nhanh. Tuy nhiên “Mệnh lệnh-Kiểm soát” chưa tạo điều kiện để các doanh nghiệp lựa chọn giải pháp tối ưu là tuân thủ quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường.
Các công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường với mục đích điều hòa xung đột giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động lập kế hoạch bảo vệ môi trường va tuân thủ pháp luật thông qua việc lồng ghép chi phí bảo vệ môi trường với chi phí sản xuất kinh doanh va giá thành sản phẩm. Đây là biện pháp đang được nhiều nước trên thế giới vận dụng và đã đem lại những kết quả khả quan. Trong điều kiện của nướchiện nay, khi mà ngân sách nhà nước còn khó khăn,khả năng bố trí kinh phí cho các mục tiêu về quản lý, giữ gìn và bảo vệ môi trường còn hạn chế thì việc sử dụng các công cụ kinh tế để huy đọng nguồn lực toàn xã hội tham gia bảo vệ môi trường (thông qua các công cụ thuế,phí,các quỹ bảo vệ môi trường…) là hướng đi đúng, vừa giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa giúp đạt được các mục tiêu về bảo vệ môi trường với hiệu quả cao hơn.
Vì vậy nghiên cứu việc sử dụng các công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiêp có ý nghĩa rất quan trọng.
Do đó em đã chọn đề tài này, tuy nhiên chỉ là những vấn đề mang tính tổng quát nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy!
MỤC LỤC
Trang
NỘI DUNG
I. Thực trạng ô nhiễm môi trường và quản lý môi trường trong phát triển công nghiệp.
1.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường.
Ô nhiễm môi trường là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hóa học hoặc các dạng năng lượng như tiếng ồn, nhiệt, ánh sáng... tới mức độ gây ảnh hưởng có hại cho sức khỏe con người, các cơ thể sống khác, hoặc hại cho chính môi trường. Có 3 loại ô nhiễm môi trường chính là: Ô nhiễm môi trường đất, ô nhiễm môi trường nước. và ô nhiễm môi trương không khí.
Ô nhiễm môi trường đất xảy ra khi các chất hóa học bị nhiễm đất qua các hoạt động chủ động của con người như bón phân hóa học, phun thuốc trừ sâu,... hoặc do bị rò rỉ từ các thùng chứa ngầm. Ngày nay khi công nghiệp càng phát triển, gày càng có nhiêu các loai thuốc trừ sâu, hay phân bón hóa học được sử dụng… là nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường cục bộ, làm suy thoái môi trương đất. Thực tế cho thấy các loại đất bị thoái hóa chiếm hơn 50% diện tích của nước.
Với sự phát triển của nến văn minh công nghiệp đã làm giảm độ đa dạng sinh giới. Do nhu cầu phát triển và xây dựng các thành phố, khu công nghiệp – con người đã tàn phá và làm giảm diện tích rừng. Làm cho đất rừng nước ta bị tàn phá nghiêm trọng. Sau 50 năm, diện tích rừng nước ta từ 14,2 triệu ha (1943) chiếm 43,5% diện tích tự nhiên, giảm còn 8,6 triệu ha vào năm 1993. Đến nay bình quân mỗi năm rừng bị mất từ 110.000 đến 120.000 ha. Tỷ lệ mất rừng nước ta vào thời gian này vào loại cao nhất thế giới.
Ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Theo ước tính, mỗi khu công nghiệp thải ra khoang từ 3000-10.000 m nước thải/ngày đêm. Như vậy tổng lượng nước thải công nghiệp của các khu công nghiệp trên cả nước lên khoảng 500.000-700.000m3/ngày đêm.
Ô nhiễm không khí, nhiễm không khí là kết quả của sự thải ra không khí các chất thải khí độc hại ở thể hơi, bụi, khí. Làm tăng đột biến các chất như CO2, NOX, SOX...
Cùng với sự phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm không khí đang gia tăng ở Việt Nam. Giải quyết vấn đề này khá phức tạp, đòi hỏi phải xác định được mức độ ô nhiễm, nhận dạng các quy luật diễn biến chất ô nhiễm và nguồn phát sinh để từ đó có hướng xử lý đúng.
Theo các chuyên gia môi trường, nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng là do dân số, xe máy, ôtô, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển quá nhanh, nhất là không gian đô thị phát triển nhanh hơn hạ tầng cơ sở.
. Thực tế cho thấy khói thải từ khí đốt các ngành công nghiệp, sinh hoạt …đã và đang làm chất lượng không khí xấu đi. Theo thống kê của Cục Bảo vệ Môi trường, một nhà máy có công suất 675 MW khi xây dựng xong, mỗi giờ sẽ thải vào khí quyển một lượng lớn các chất ô nhiễm như sau: Tổng lưu lượng 3.578.000 m3; trong đó: SO2: 8721 Kg; N02 438 Kg; Bụi 43 Kg… Sức khoẻ của người dân trong những khu vực này. Nhiều căn bệnh phát sinh như: ngộ độc, hen suyễn, ung thư...
Một vấn đề nữa, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh... nồng độ bụi cao hơn mức cho phép từ 1,5-3 lần, ở các nút giao thông cao hơn 3-5 lần, đặc biệt ở các khu phố có hoạt động xây dựng, nồng độ bụi vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10-20 lần
1.2. Thực trạng quản lý môi trường.
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia
Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được khuôn khổ pháp lý tốt cho công tác quản lý môi trường, bắt đầu bằng Điều 29 của Hiến pháp năm 1992 và Luật Bảo vệ môi trường năm 1994. Hiện nay, bộ luật này đang được sửa đổi để trình Quốc hội xem xét vào năm 2005. Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa được thành lập trên cơ sở sáp nhập Cục Môi trường quốc gia, Tổng cục Địa chính và Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn. Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001-2010 xác định ba mục tiêu chính sách lớn của quốc gia: ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm; bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên; và cải thiện chất lượng môi trường ở các khu vực thành thị, nông thôn và khu công nghiệp. Kế hoạch Hành động Quốc gia về Bảo vệ môi trường hiện nay (2001-2005) tiếp tục xác định các lĩnh vực ưu tiên, đó là: phát triển bền vững, quản lý chất thải rắn và nước thải, quản lý rừng, tăng cường các định chế về môi trường, giáo dục môi trường và sự tham gia của cộng đồng vào việc bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu trên đây vẫn là một thách thức đối với các cơ quan của Chính phủ. Các cơ quan này thường thiếu năng lực, công cụ và tầm ảnh hưởng để làm cho việc bảo vệ môi trường trở thành một nhân tố then chốt trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó, hiện tại chi phí xây dựng hệ thống chất thải cùng với việc chưa có cơ chế hỗ trợ thỏa đáng từ phía nhà nước, là một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư chậm triển khai hệ thống này. Ngoài ra, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp còn chưa hoàn chỉnh. Chưa hình thành hệ thống các quy định thống nhất về công tác quản lý môi trường theo các loại hình ô nhiễm rắn, lỏng, khí và chưa thích hợp với đặc điểm của các KCN - đòi hỏi quản lý ô nhiễm theo từng ngành và theo cả hệ thống trong KCN là chưa phù hợp. Quy định về thẩm định môi trường đối với các dự án trong KCN chậm được đổi mới và không có chế tài mang tính bắt buộc. Ngoài cơ chế hỗ trợ theo Quyết định 183 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ, thì cơ chế hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý chất thải ở KCN vẫn chưa được hình thành. Hơn nữa, việc có nhiều đầu mối quản lý KCN cũng dẫn đến hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị trong quản lý môi trường trong KCN chưa được tốt
Quản lý Nhà nước về tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường có vị trí và vai trò cực kỳ quan trọng trong mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên: đó là vai trò quản lý, điều chỉnh, kiểm soát và giám sát việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Cho nên, Việt Nam cần phải có sự hợp tác khu vực và quốc tế trong việc giải quyết vấn đề môi trường.
II. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng các công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp.
2.1. Cơ sở phương pháp luận.
2.1.1. Quan hệ tương tác giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.
Kinh tế và môi trường có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau.
Môi trường có quan hệ trực tiếp với kinh tế. Môi trường đóng một vai trò cực kỳ to lớn, có tính chất quyết định với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó không chỉ cung cấp các nguồn tài nguyên (đầu vào) cho các quá trình sản xuất, cung cấp tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa đựng và hấp thụ các chất thải do các quá trình sản xuất và tiêu thụ của con người tạo ra. Điều đó có nghĩa bất cứ một sự biến đổi nào của môi trường cũng kéo theo sự biến đổi của kinh tế.
Ngược lại các hoạt động kinh tế là nguyên nhân trực tiếp làm biến đổi môi trường. Sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc sử dụng ngày càng nhiều các nguồng tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên không thể tái tạo được. Mặt khác, sản xuất ngày càng phát triển, khối lượng sản phẩm ngày càng tăng thì đồng thời lượng chất thải sản sinh ra từ các quá trình sản xuất cũng tăng. Ví dụ như theo Công trình khảo sát chất thải toàn cầu của Tổ chức Hàng hải Quốc tế, cứ tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 1 tỉ USD sẽ làm phát sinh khoảng 4.500 tấn chất thải công nghiệp, trong đó 20% là CTNH. Tuy nhiên khả năng tiếp nhận và đồng hóa của môi trường đối với các chất thải là có hạn,cho nên nếu không được kiểm soát tốt thì chất thải sẽ phá vỡ trạng thái cân bằng của môi trường.
Hiện nay khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường người ta con thấy nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường là do nghèo đói và do giàu có.
Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường ở các nước giàu có, các nước công nghiệp phát triển, là do lượng chất thải của công nghiệp và sinh hoạt đưa vào môi trường quá lớn. Ngược lại các nước nghèo đói, nền kinh tế kém phát triển, phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên tự nhiên sẵn có thì nguyên nhân gây ra ô nhiễm và suy thoái môi trường là do khai thác cạn kiệt quá mức các nguồn TNTN mà không sự bù đắp trở lại cho tự nhiên.
Cả hai nguyên nhân trên đều có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển kinh tế không chú ý tới bảo vệ môi trường. Đến lượt nó, chính môi trường sẽ là nguyên nhân làm giảm sút tăng trưởng kinh tế và tác động trực tiếp tới sức khỏe con người.
2.1.2. Phát triển kinh tế bền vững.
Để đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế có tính ổn định và bền vững các quốc gia cần phải đồng thời quan tâm tới 3 mục tiêu cơ bản là: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu môi trường. Nếu nền kinh tế của quốc gia nào thục sự đạt được 3 mục tiêu đó thì chính là nền kinh tế hướng tới sự phát triển bền vững.
Như vậy để hướng tới một sự phát triển bền vững, các quốc gia đều phải cân nhắc, tính toán, xem xét, cân bằng cả 3 mục tiêu đã nêu trên. Ba mục tiêu này có quan hệ mật thiết với nhau, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Phát triển kinh tế nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu vật chất của con người trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, bảo đảm tính ổn định, vững chắc.
Bảo vệ môi trường nhằm duy trì và phát huy sự đa dạng sinh học, bảo tồn các nguồn TNTN , ngăn chặn ô nhiễm là các tiền đề cơ bản bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển bền vững của toàn xã hội. Để bảo vệ môi trường một cách hữu hiệu các quốc gia cần tiến hành thường xuyên đánh giá tác động tới môi trường của các hoạt động phát triển, tiền tệ hóa tác động môi trường của chúng thông qua các công cụ có hiệu lực của nền kinh tế thị trường – các công cụ kinh tế.
2.2. Cơ sở khoa học - thực tiễn.
2.2.1. Nguyên tắc PPP.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền ( tiếng Anh là popluter pays principle, viết tắt là PPP ).
Theo nguyên tắc này thì người gây ra ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện,nhằm khắc phục và hoàn trả.
Nguyên tắc PPP xuất phát từ những luận điểm của Pigou về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ có thẻ phản ánh đày đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường( bao gồm chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên, cũng như những dạng ảnh hưởng khác tới môi trường ). Giá cả phải “nói lên sự thật” về chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nếu không sẽ dẫn đến việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở lên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối với xã hội.
Việc buộc người gây ô nhiễm phải trả tiền là một trong những cách tốt nhất để giảm bớt tác động của ngoại ứng gây tác động xấu đến thị trường. Nguyên tắc PPP chủ trương sửa chữa “thất bại thị trường” do không tính chi phí môi trường trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ hoặc tính thiếu bằng cách bắt buộc những ngườigây ô nhiễm phải “tiếp thu”đầy đủ chi phí sản xuất. Cuối cùng những chi phí này ở một mức độ nhất định, sẽ lại chuyển sang người tiêu dùng thông qua việc tăng giá hàng hóa và dịch vụ.
2.2.2. Nguyên tắc BPP.
Nguyên tắc “Người hưởng thụ phải trả tiền” ( tiếng Anh là Benefil pays principle, viết tắt là BPP ) chủ trương tạo laapjmootj cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối nghịch với việc người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc BPP một cách tổng quát hơn là “ tất cả những ai hưởng lợi do có được một môi trường trong lành không bị ô nhiễm, thì đều phải nộp phí”.
Nguyên tắc BPPđưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường với một cách nhìn nhận riêng. Thay vì PPP, nguyên tắc BPP chủ trương việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho các chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Về thực chất nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như là một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu môi trường, cho dù đó là các mục tiêu bảo vệ hay phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể được thu chỉ để dành cho các mục tiêu môi trường thì lúc đó chính sách này có thể được coi là chính sách hiệu quả về môi trường. Mục đích hướng tới của BPP là nhằm bảo vệ môi trường, do đó công chúng ủng hộ rộng rãi.
III. Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp.
3.1. Sự cần thiết phải sử dụng các công cụ kinh tế.
Các công cụ kinh tế là một trong số các công cụ của quản lý môi trường. Chúng có thể được sử dụng thay thế hoặc bổ sung cho các công cụ khác của quản lý môi trường. Khi sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên và môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái.
Công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ dựa vào thị trường là những công cụ chính sách được sử dụng nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của các hoạt đông kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường (các cá nhân và tổ chức kinh tế )để tạo ra các ảnh hưởng đến hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường.
Hiện nay công cụ kinh tế đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới, đặc biệt là tại các nước công nghiệp phát triển OECD.
Ở các nước đang phát triển chính sách môi trường thường sử dụng hai loại
công cụ chủ yếu là mệnh lệnh và kiểm soát (hay pháp lý) và các công cụ kinh tế. Các công cụ khác như: công cụ kỹ thuật quản lý, công cụ giáo dục truyền thông…cũng được sử dụng nhằm bổ sung hỗ trợ và góp phần hoàn chỉnh hai công cụ pháp lý và kinh tế. Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ kinh tế là cần thiết vì nó đem lại nhiều điều thuận lợi sau:
3.1.1. Tăng hiệu quả chi phí.
Hệ thống công cụ kinh tế ( tiếng Anh là Economic Instrument System, viết tắt là EIs ) thường đạt được thành công cùng với mục tiêu môi trường như là các quy định “điều hành và kiểm soát” (CAC) nhưng ở mức chi phí thấp hơn. Việc sử dụng giá cả và cung cấp tính linh hoạt trong việc ứng phó với
tín hiệu giá cả, cho phép mọi người và các công ty tìm kiếm chi phí hiệu quả nhất trong khả năng lựa chọn của họ.
3.1.2. Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới.
EIs không ra lệnh cho chiến lược kiểm soát mà những người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm. Els có thể tiếp tục tác động đến các hoạt động kinh tế một cách tích cực đẻ phát triển và lựa chonjchi phí kiểm soát hiệu quả không theo quy ước.
3.1.3. Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn.
EIs cơ bản dựa vào thị trường, nó phát hiện ra chiến lược hiệu quả chi phi, cho phép gặp gỡ những mục tiêu môi trường. Chẳng hạn một quy định điều hành và kiểm soát (CAC) cần phải đảm bảo chắc chắn việc giảm ô nhiễm thành công khi có chi phí thấp nhất, nhưng điều đó sẽ yêu cầu mọi người thành lập các quy chế có thông tin về những công nghệ khác nhau và những chi phí của việc áp dụng các công nghệ nàyđối với các nguồn ô nhiễm khác nhau. EIs hướng tới sức mạnh thị trường để xác định việc lựa chọn công nghệ có chi phí thấp nhất.
Ngoài ra, một số thuận lợi khác của công cụ kinh tế cũng được chỉ ra, bao gồm: tăng hiệu quả môi trường, hành đọng nhanh chóng, linh hoạt va mềm dẻo hơn. Đó là những thuận lợi thường xuyên và đặc trưng khi áp dụng công cụ kinh tế.
Các công cụ kinh tế tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với người gây ô nhiễm, vì chúng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với những quy định có tính chât pháp lý trong điều hành và kiểm soát (CAC).
3.2. Các loại công cụ kinh tế.
3.2.1. Thuế và phí ô nhiễm môi trường.
Thuế ô nhiễm môi trường là loại thuế thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh gây ra ô nhiễm môi trường.
Loại công cụ kinh tế này được sử dụng nhằm: một mặt tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác hạn chế hoặc ngăn chặn các tác nhân gây ô nhiễm môi trường tại các đô thị và khu công nghiệp.
Để đảm bảo công bằng xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, bất kể một doanh nghiệp nào, trong quá trình hoạt động sản xuất sản xuất kinh doanh mà thải ra các loại chất độc hại gây ô nhiễm môi trường, đều phải nộp thuế ô nhiễm môi trường. Đây là công cụ hữu hiệu có tác dụng điều hoà trực tiếp các quan hệ lợi ích giữa xã hội và doanh nghiệp; từ đó, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, đồng thời khuyến khích ý thức tiết kiệm, giảm bớt sự lãng phí trong quá trình khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường.
Để phát huy tối đa công cụ thuế ô nhiễm môi trường, chúng ta cần phải coi trọng tới cả hai hình thức thu gián tiếp và thu trực tiếp. Việc tính thuế phải được dựa trên cơ sở xác định các yếu tố đầu vào (nguyên, nhiên liệu được sử dụng trong sản xuất) hoặc dựa trên cơ sở xác định các yếu tố đầu ra (tiêu thụ các hàng hoá liên quan tới việc gây ô nhiễm môi trường). Xác định các yếu tố đầu vào của sản xuất hoặc dịch vụ, nguyên nhân có thể gây ra ô nhiễm môi trường để tính thuế có tác dụng điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng tích cực, tạo ra sự hài hoà giữa lợi ích của xã hội và của các doanh nghiệp.
Cho tới nay, trên thế giới đã xuất hiện một số loại thuế ô nhiễm môi trường hoặc các loại thuế có liên quan tới bảo vệ môi trường. Loại thuế ô nhiễm môi trường đầu tiên được một nhà khoa học người Anh, tên là Pigou đưa ra vào năm 1920 (loại thuế này được gọi là thuế Pigou). Với mục đích của việc thu thuế là nhằm thu hẹp khoảng cách giữa chi phí cá nhân (MC) biên giới chi phí xã hội (MSC) biên; phương pháp chủ yếu là đánh thuế vào từng đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm môi trường.
Gọi T là mức thuế đánh vào 1 đơn vị chất thải
T + MSC - MC
Xuất phát từ nhận thức các hoạt động sản xuất kinh doanh, thường gây ô nhiễm môi trường thông qua quá trình thải loại các chất thải. Đối với các doanh nghiệp gây ngoại ứng tiêu cực khi chi phí cá nhân (MPC) biên, nhỏ hơn chi phí xã hội (MSC) biên. Chi pí ngoại ứng biên, là hiệu số giữa chi phí xã hội biên và chi phí cá nhân biên. Do vậy, việc thu lại khoản chi phí mà xã hội phải bỏ ra để khắc phục các hậu quả về môi trường do chi phí ngoại ứng biên gây ra sẽ có tác dụng không chỉ tăng thu cho ngân sách mà còn kích thích các doanh nghiệp tìm kiếm các giải pháp hạn chế tối đa các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.
Vấn đề đặt ra đối với việc xác định mức thuế ô nhiễm môi trường là: một mặt cần khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, không ngừng tăng lợi nhuận; mặt khác phải thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường (đảm bảo đáp ứng được các quy định về tiêu chuẩn chất lượng môi trường). Trong thực tế, việc triển khai thực hiện thu thuế ô nhiễm môi trường gặp rất nhiều khó khăn; do việc lựa chọn các chỉ tiêu thích hợp với từng loại sản phẩm của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, để trên cơ sở đó tính toán một cách chính xác mức thuế ô nhiễm môi trường mà mỗi doanh nghiệp phải nộp là vấn đề rất nan giải. Tuy nhiên, thuế Pigou là một giải pháp tài chính cần phải được quan tâm; vì nó đã khởi xướng cho việc nghiên cứu và lựa chọn các giải pháp hữu hiệu trong lĩnh vực bảo vệ và quản lý môi trường. Một số phương pháp tính thuế ô nhiễm môi trường cần được sử dụng ở Việt Nam
Tính thuế dựa vào khối lượng tiêu thụ các nguyên, nhiên liệu đầu vào. Tính thuế dựa vào lợi nhuận của doanh nghiệp
Tính thuế dựa vào khối lượng sản phẩm được sản xuất ra:
Tính thuế theo mức độ gây ô nhiễm môi trường
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải sử dụng các phương pháp tính thuế thích hợp để vừa đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, chú trọng vào việc xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, thực hiện một số mục tiêu kinh tế nhất định, Nhà nước đưa ra một số sắc thuế có tác động tích cực đối với môi trường như thuế tiêu thụ đặc biệt, đây là loại thuế đánh vào một số loại sản phẩm hàng hoá mà xã hội không khuyến khích sử dụng như: thuốc lá, rượu, bia... loại thuế này có tác dụng gián tiếp làm hạn chế các nguyên nhân gây ô nhiễm, các loại thuế này cần phải được coi trọng. Việc áp dụng các phương pháp tính thuế đúng, theo quy định của luật pháp không chỉ khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh sản xuất, mà còn buộc các doanh nghiệp sử sụng các nguồn tài nguyên một cách tiết kiệm và tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ môi trường.Phí ô nhiễm môi trường là công cụ hỗ trợ cho các hoạt động bảo vệ và quản lý môi trường.
Phí là khoản thu của nhà nước, được sử dụng để bù đắp một phần các chi phí cho công tác bảo vệ và quản lý môi trường, đồng thời đảm bảo cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người nộp phí. Như vậy, khác với thuế ô nhiễm môi trường, phần lớn nguồn thu từ phí sẽ được sử dụng cho công tác bảo vệ và quản lý môi trường, giải quyết một phần các vấn đề môi trường do những người đóng phí gây ra.
+ Phí phát thải các chất gây ô nhiễm môi trường.
Đây là loại phí được thu từ các cơ sở sản xuất kinh doanh, phát thải các chất thải gây ô nhiễm ra môi trường (khí thải, nước thải hoặc chất thải rắn). Phí phát thải được thu dựa trên cơ sở xác định số lượng và tính chất độc hại của các chất gây ô nhiễm môi trường. Nếu lượng các chất phát thải càng lớn, tính độc hại của các chất gây ô nhiễm môi trường càng cao thì doanh nghiệp phải nộp phí càng nhiều.
Chỉ cần phân tích các dữ liệu (lượng, loại chất thải gây ô nhiễm), để xác định mức tổn thất môi trường đó các chất thải gây ra. Các quy định về mức được xả thải đối với mỗi doanh nghiệp cần phải nhất quán với các giấy phép đã được cấp. Nếu có những quy định khác nhau giữa các ngành, giữa các lĩnh vực sản xuất kinh doanh về mức phí phải nộp, thì cần phải có sự điều chỉnh cho thích hợp.
Việc thu phí này cũng có tác dụng khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật và công nghệ, nhằm để giảm mức phí phải nộp.
+ Phí ô nhiễm môi trường đánh vào sản phẩm hàng hoá
Đây là phí được đánh vào đầu của sản phẩm được sản xuất ra, loại phía này có thể thay thế cho phí phát thải trong trường hợp không thể thu được phí phát thải (phí xăng dầu, phí phân bón, phí chất tẩy rửa...).
Đối với các loại chất thải gây ô nhiễm môi trường, loại phí này không thể sử dụng được với các loại chất thải có chứa các loại chất nguy hiểm với môi trường. Tuy nhiên, phí sản phẩm có thể áp dụng tốt trong điều kiện nguồn gây ô nhiễm môi trường không cố định và các loại sản phẩm có thể nhận dạng được, thích hợp với hệ thống quản lý tài chính của chúng ta hiện nay. Loại phí này có khả năng tăng nguồn thu cho ngân sách, chúng có thể được sử dụng để xử lý trực tiếp nguồn gây ô nhiễm môi trường, tạo điều kiện cho việc tái chế và sử dụng các sản phẩm đã qua sử dụng. Loại phí này kích thích các cơ sở sản xuất kinh doanh, giảm hoặc thay thế nguyên, nhiên liệu gây hại cho môi trường bằng các nguyên, nhiên liệu ít gây ô nhiễm môi trường hơn.
3.2.2. Thuế tài nguyên.
Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào các hoạt động khai tác tài nguyên thiên nhiên( TNTN).
Đôí tượng thu thuế tài nguyên là mọi tổ chức cá nhân khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (bao gồm: khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, kể cả khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, đất được khai thác, nước khoáng nước nóng thiên nhiên, dầu mỏ, khí đốt, sản phẩm của rừng tự nhiên, thúy sản tự nhiên, nước thiên nhiên va các loại tài nguyên thiên nhiên khác)
Mục đích thuế tài nguyên là nhằm xác lập mức tối đa về sử dụng TNTN , khuyến khích những hành vi bảo đảm cũng như bền vững.
Thuế tài nguyên phải được sử dụng từng bước để tránh làm mất cân bằng kinh tế, phải hợp lý và dễ điều chỉnh, có lợi cho kinh tế xã hội. Nếu muốn giảm suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường, chính phủ cần tăng thuế. Ngược lai nếu muốn tăng việc làm, giảm thất nghiệp cần giảm thuế. Thuế tài nguyên có sự phân biệt giữa các sản phẩm cùng loại với mức độ tác động khác nhau lên môi trường theo hướng ngày càng gây tác hại tới môi trường, mức thuế phải nộp càng cao.
Thuế tài nguyên gồn các loại thuế chủ yếu: thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng.
Theo thông tư 42/2007 của Bộ Tài Chính mới được ban hành đã ấn định mức thuế tài nguyên từ 0 – 40% áp dụng cho các loại TNTN trên lãnh thổ Việt Nam. Các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, không phân biệt ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động, nếu có khai thác TNTN theo quy định của pháp luật Việt Nam đều phải đăng ký, kê khai và nộp thuế tài nguyên. Thuế tài nguyên dược tính theo công thức:
Thuế tài nguyên phải nộp trong kỳ =Sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác * giá tính thuế đơn vị tài nguyên * Thuế suất -Số thuế tài nguyên được miễn giảm(nếu có).
Cụ thể nước thiên nhiên khai thác để sản xuất nước đá( trừ sản xuất nước đá tinh lọc) áp dụng thuế suất thuế tài nguyên là 1%. Quặng apatit khai thác và bán ra áp dụng thuế suất là 2%, nhóm khoáng sản kim loại có thuế suất 2-5%, khoáng sản không kim loại 1-8%, sản phẩm rừng tự nhiên 5-40%, thủy sản tự nhiên 2-10%, nước khoáng nước thiên nhiên 0-4%...
3.2.3. Cấp giấy phép ô nhiễm chuyển nhượng.
Loại giấy này cho phép được đỏ phế thải hay sử dụng một nguồn tài nguyên đến một mức định trướcdo pháp luật quy định và được chuyển nhượng bằng cách đấu thầu hoặc trên cơ sở quyền sử dụng đã có sẵn. Các hãng kinh doanh được phép mua và bán giấy phép sử dụng này. Những giấy phép chuyển nhượng này ưu việt hơn thuế trong trường hợp cần xác lập một mức độ tối đa số rác thải hoặc định mức sử dụng tài nguyên. Bất cứ một hệ thống giấy phép chuyển nhượng nào cũng phải dựa trên những tiêu chuẩn thích hợp và bền vững đối với chất lượng môi trường xung quanh và bảo vệ những nguồn tái tạo được. Giấy phép chuyển nhượng sẽ không có hiệu lực khi những phế thải bị hạn chế đến một tỷ lệ rất nhỏ so với toàn bộ chi phí sản phẩm, lúc đó sẽ không còn tác dụng khuyến khích sự tham gia nữa. Nó cũng không áp dụng đối với những chất phế thải nguy hại vì những thứ này cần phải được xử lý đặc biệt nghiêm ngặt. Nói chung nó được coi là một biện pháp tạm thời trong khi chờ đợi đạt được những tiêu chuẩn chính xác hơn.
3.2.4. Quỹ bảo vệ môi trường.
Quỹ môi trường được xem như một mô hình đầu tư tài chính, trong đó có huy động nguồn vốn cho bảo vệ môi trường thành công và đã được áp dụng ở nhiều nước phát triển và đang phát triển trên thế giới. Trên thế giới có quỹ môi trường toàn cầu GEF.
Nguồn vốn của quỹ môi trường quốc gia là từ ngân sách nhà nước, các khoản thu từ phí, lệ phí môi trường, đóng góp của nhân dân, các tổ chức quốc gia, tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Nguồn của quỹ môi trường toàn cầu GEF do các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc như: UNDP, WB, UNEP…
Mục đích chính của quỹ môi trường là tài trợ kinh phí cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Ở các nước đạt nhiều thành tựu trong bảo vệ môi trường, chính phủ phải điều chỉnh chi tiêu ngân sách, đặc biệt giảm chi phí quân sự, huy động vốn trong nước và các khoản quyên góp ủng hộ tự nguyện, các khoản vốn viện trợ, vốn vay ngân hàng thế giới dành cho công tác bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam, Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam (Quỹ BVMTVN) được thành lập vào tháng 6/2002 và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2003. Hơn 3 năm qua, với những nỗ lực của mình, Quỹ BVMTVN đã tích cực giúp đỡ, tư vấn và hỗ trợ tài chính cho các dự án tại các địa phương.
Năm 2005, Quỹ tiếp tục hỗ trợ tài chính cho các dự án môi trường theo hai phương thức: cho vay với lãi suất ưu đãi và tài trợ không hoàn lại với tổng số vốn hơn 21 tỷ đồng. Ngoài ra Quỹ đã tài trợ 650 triệu đồng để khắc phục ô nhiễm môi trường của cơn bão số 7, 8 tại chín địa phương ở miền Bắc, Miền Trung, Nam trung Bộ và miền núi Bắc Bộ. Quỹ đã cho các dự án môi trường vay vốn thời hạn 5 năm với lãi suất ưu đãi 5,4%/năm. Năm 2006, nhờ được nâng cao một phần cơ sở vật chất và có thêm kinh nghiệm trong các hoạt động cùng với sự hỗ trợ về cơ chế của Hội đồng Quản lý, kế hoạch triển khai của Quỹ được xúc tiến thuận lợi hơn. 6 tháng đầu năm 2006, Quỹ đã hỗ trợ được hơn 20 tỷ đồng cho 7 dự án. Đặc biệt, khi cơn bão số 6 có tên quốc tế Xangsane phá hoại nặng nề các tỉnh miền Trung, Quỹ BVMTVN đã tiến hành hỗ trợ khẩn cấp cho các tỉnh với số tiền 210 triệu đồng.
Như vậy, trong hơn 4 năm hoạt động Quỹ BVMTVN đã tiến hành hỗ trợ cho các dự án với số vốn trên 40 tỷ đồng và tài trợ khẩn cấp gần 900 triệu đồng. Ngoài ra Quỹ còn tham gia cùng các cơ quan trong và ngoài nước tài trợ cho các chiến dịch ngày làm sách thế giới , ngày môi trường và cuộc thi viết báo về đề tài bảo vệ môi trường của Việt Nam.
3.2.5 Một số công cụ kinh tế khác.
Đầu tư cho bảo vệ môi trường là công cụ quan trọng tạo ra chi phí cơ hội tốt nhất cho phát triển bền vững. Thực tiễn cho thấy những quốc gia nào nhìn nhận sớm vấn đề này sẽ tránh được những thiệt hại không đáng có do ô nhiễm và suy thoái môi trường gây ra. Đầu tư cho bảo vệ môi trường có thể được phân thành 2 nhóm cơ bản:
Đầu tư quốc tế: Tức là đầu tư của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và cá nhân nước noài cho nước sở tại với mục tiêu bảo vệ môi trường. Ví dụ như nguồn vốn của UNDP, ODA, WB…
Đầu tư trong nước: Bao gồm việc huy động vốn từ ngân sách nhà nước, vốn trong dân cho mục tiêu bảo vệ môi trường.
Chương trình ký quỹ, đặt cọc So với các công cụ kinh tế được đã được áp dụng một cách tự phát từ trước tới nay (như “đặt cọc - hoàn trả” đối với người mua bia chai, nước uống đóng chai thủy tinh... của một số sản xuất kinh doanh các mặt hàng này). Việc áp dụng tự phát trước đây còn mang tính cục bộ, chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu về làm sạch môi trường nên thường không được hỗ trợ từ phía Nhà nước hoặc các cơ quan hữu quan về cả kỹ thuật, hoạch định chương trinh lẫn chủ trương, chính sách và cơ chế tạo lập. Do vậy, các yêu cầu dặt ra như tính bền vững, tính hiệu quả môi trường, hiệu quả kinh tế ,… ít được đảm bảo. Do vậy, Nhà nước và đặc biệt cơ quan quản lý nhà nước về môi trường cần sớm có sự quan tâm về vấn đề này.
Bảo hiểm môi trường, trách nhiệm pháp lý đối với môi trường của các nhà sản xuất kinh doanh co quan hệ mật thiết với hoạt động tham gia bảo hiểm. Thí dụ Nhà máy xi măng Hoàng Thạch phải đền bù cho nhân dân huyện Chí Linh ( Hải Dương) khoản thiệt hại về môi trường sinh thái, giảm năng suất hoa mầu do vụ nổ hệ thống lọc bụi tĩnh điện năm 1988. Tổng công ty xăng dầu phải bồi thường thiệt hại về đất đai, môi trường, cây trồng cho các địa phương có đường ống dẫn xăng dầu đi qua bị vỡ hoặc rò rỉ…Bảo hiểm môi trường không chỉ là một công cụ tuyên truyền về trách nhiệm môi trường mà nó còn là một công cụ tài chính hữu hiệu đảm bảo cho các đối tượng tham gia bảo hiểm có nguồn lực tài chính để thực hiện nghĩa vụ khắc phục sự cố, phục hồi môi trường trong trường hợp xảy ra các rủi ro ngoài ý muốn. Vì vậy, Nhà nước cần sớm đặt ra cho các nhà kinh tế, các nhà quản lý một đề án nghiên cứu về bảo hiểm môi trường để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét cho phép triển khai áp dung từ sau năm 2010 là phù hợp với thực tế nước ta.
IV. Những giải pháp đẩy mạnh sử dụng các công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp.
4.1. Những giải pháp có tính chiến lược.
4.1.1 Các giải pháp về chính sách.
Từ năm 1991 đến nay, sau khi ban hành “Kế hoạch hành động quốc giai về bảo vệ môi trường và phát triển lâu bền”, Việt Nam đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường và một số văn bản khác liên quan tới công tác bảo vệ môi trường. Theo thông kê sơ bộ trong 10 năm qua đã có gần 500 văn bản pháp quy được ban hành liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác bảo vệ môi trường. Ngoài những văn bản pháp luật và chính sách của cơ quan trung ương ban hành còn có nhiều các văn bản của các cấp chính quyền địa phương có liên quan. Những cải cách lớn về chính sách đã góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường. Có thể kể đến một số thay đổi lớn về chính sách liên quan trong giai đoạn 1991-2000 như sau:
Luật bảo vệ môi trường được ban hành tháng 12 năm 1993 là cơ sở quan trọng nhất cho các hoạt động bảo vệ môi trường nói chung và việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường nói riêng. Nghị định của chính phủ số 175/CP ngày 18 tháng 10 năm 1994 qui định chi tiết việc thi hành Luật bảo vệ môi trường và Pháp lệnh về phí và lệ phí của của ủy ban thường vụ quốc hội sô 38/2001/PL-UBTVQH 10; Nghị định số 57/2002/NĐ-CP của chính phủ ngày 3/6/2002 qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh về Phí và lệ phí là những căn cứ pháp lý quan trọng cho việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản ly môi trường.
Trong nhận thức và chủ trương của Đảng và Nhà nước đã xác định quan điểm trong thiết kế, hoạch định mọi chính sách quản lý kinh tế xã hội là phát triển kinh tế xã hội gắn với bảo vệ môi trường. Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã có chỉ thị số 36-CT/TW ngay25/6/1998 về “tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định rằng bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả các cấp, các nghành. Sau khi chỉ thị số 36-CT/TW ra đời vai trò của các cơ quan quản lý môi trường các cấp đã được nâng cao đáng kể, đồng thời các doang nghiệp cũng nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường. Vừa qua Bộ chính trị ( khóa IX )đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15-11-2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Thur tướng chính phủ cũng đã có Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg, ngày 22-2-2005 ban hành Chương trình hành động của chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, tạo sự chuyển biến sâu rộng từ nhận thức đến hành động của các nghành, các cấp, các doanh nghiệp và cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Tiếp theo Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững năm 1991-2000 (là chiến lược mang tư tưởng sâu đậm của Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về môi trường và phát triển, Rio 1992), Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chiến lược xác định 8 thách thức đối với môi trường Việt Nam trong những năm tới là: nhiều vấn đề môi trường bức xúc chưa được giải quyết; thách thức trong việc lựa chọn các lợi ích phát triển kinh tế và môi trường; cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu; gia tăng dân số, di dân và đói nghèo; nhận thức về bảo vệ môi trường còn thấp; tổ chức và năng lực quản lý chưa đáp ứng yêu cầu; hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của các vấn đề môi trường khu vực và toàn cầu.
Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ với bảo vệ môi trường; bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội; phòng ngừa là chủ yếu và bảo vệ môi trường phải kết hợp giữa nội lực và hợp tác quốc tế, Chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2010 là hạn chế tốc độ gia tăng ô nhiễm và định hướng mục tiêu đến 2020 là ngăn chặn về cơ bản tốc độ gia tăng ô nhiễm, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức ổn định và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về môi trường để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa
4.1.2. các giải pháp về thể chế.
Môi trường và phát triển bền vững là một vấn đề có tính thời đại liên quan đến nhiều ngành nhiều lĩnh vực. Đối với Việt Nam, bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những biên pháp mà nhà nước sử dụng để bảo vệ môi trường, pháp luật đóng vao trò đặc biệt quan trọng. Sự hình thành hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường và hệ thống các cơ quan quản lý môi trường các cấp đã tạo nền tảng thể chế cần thiết cho việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ của hoat động bảo vệ môi trường
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công cụ kinh tế quản lý môi trường, Nhà nước cần có các giải pháp nhằm:
Hoàn thiện quy định của Luật bảo vệ môi trườngvà các văn bản có liên quan; (tiến hành bổ sung, sửa đổi Luật bảo vệ môi trường trình quốc hội phê duyệt).
Tăng cường năng lực về thể chế, đảm bảo sự thi hành các quy định của pháp luậtvề bảo vệ môi trường; để đạt được các mục tiêu nêu trên, cần xác định phương hướng hoàn thiện cơ sở pháp lý và thể chế cho quản lý môi trưởng Việt Nam như sau:
+ Rà soát sự chồng chéo để có hướng phân định lại chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên tránh tình trạng chồng chéo như hiện nay. Cần chú ý cả việc phân định, phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn giữa cơ quan quản lý ở trung ương với cơ quan quản lý ở địa phương;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thông tiêu chuẩn môi trường phù hợp với điều kiện của nước ta để làm cơ sở cho việc thực hiện và đánh giá tình hình thực hiện.
+ Tiếp tục thể chế hóa các chính sách về sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh hoat động Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam và mở rộng các quỹ bảo vệ môi trường nghành, quỹ bảo vệ môi trường địa phương, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu phí bảo vệ môi trường đối với các đối tượng đã được quy định trong Nghị định 175/CP;
+ Tăng cường năng lực thể chế , cơ chế khuyến khích kiểm tra, giám sát sự tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Hoàn thiện các quy dịnh về thanh tra môi trường, tiếp tục đào tạo nâng cao và tiêu chuẩn hóa các thanh tra viên;
+ Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của người dân;
4.1.3. Các giải pháp về nâng cao nhận thức cộng đồng.
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp quần chúng, mang tính chât xã hội rộng lớn, đòi hỏi không ngừng nâng cao trinh độ dân trí. Thông qua giáo dục, ý thức bảo vệ môi trường của cá nhân và cộng đồng ngày một nâng cao. Thực tế cho thấy ở các quốc gia, các vùng, các địa phương khác nhau có những nhận thức khác nhau về môi trường và tầm quan trộng của nó. Cho nên, ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường cũng khác nhau. Để bảo vệ môi trường tốt hơn, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện của con người hướng tới một xã hội phát triển bền vững, cần phải giáo dục thường xuyên, tuyên truyền sâu rộng ở khắp nơi, mọi lúc về môi trường và bảo vệ môi trường.
Dựa trên rất nhiều kết quả của rất nhiều nghiên cứu khảo sát trên quy mô toàn cầu , Ngân hàng thế giới khuyến nghị phải tăng cường giáo dục tuyên truyền cho bảo vệ môi trường thành một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm xã hội cho mỗi công dân trong cả nước.
Chính sách giáo dục môi trường cho mọi tầng lớp nhân dân, nên bắt buộc đưa vào trong cơ cấu của môn học bậc phổ thông từ mẫu giáo đến hết cấp trung học. Ở bậc đại học, tùy theo đặc trưng của từng ngành học mà xây dựng nội dung chương trình môn học cho phù hợp, nhưng về cơ bản có hai dạng chính: Giáo dục môi trường cho giai đoạn đại cương và giáo dục môi trường chuyên ngành.
Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, đào tạo chuyên sâu và truyền thông trên các phương tiện thông tin, bao gồm:
Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh và hoạch định chính sách các cấp. Đối với các đối tượng này những kiến thức về kinh tế môi trường phải là bộ phận bắt buộc trong cơ cấu kiến thức chuyên môn.
Đối với quảng đại dân chúng cần có những chương trình truyền thông sâu rộng, liên tục thông qua các chương trình hoạt động bổ ích, thiết thực tránh hình thức. Tuy nhiên, hiệu quả của các chương trình hoạt động này phải có sự hỗ trợ đắc lực của luật pháp, các tiêu chuẩn môi trường.
Nếu chương trình hoạt động này có kết quả sẽ đạt được mục tiêu kép: Một là nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân, từ đó có thể tiết kiệm được những chi phí vô cùng tốn kém cho việc giam sát và sử lý ô nhiễm,đặc biệt ở các khu công nghiêp. Hai là khi bảo vệ môi trường đã trở thành ý thức của nhân dân có thể tạo ra được áp lực xã hội ngày càng mạnh mẽ và sắc bén để bảo vệ môi trường nhất là trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Đối với doanh nghiệp cần đề cao, tuyên truyền vấn đề bảo vệ môi trường để họ nhận thức được trách nhiệm của họ đối với môi trường, đặc biệt là quán triệt cho họ nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền và người sử dụng phải trả tiền.
4.2. Những giải pháp cần giải quyết trước mắt.
Cần đầu tư vào hệ thống thoát nước cấp nước sạch
Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong toàn dân và tren các phương tiện thông tin đại chúng
Xây dựng các dự án đầu tư cho việc xử lý các bãi giác thải độc hại và nguy hiểm, đặc biệt là cho các khu công nghiệp
KẾT LUẬN
Cũng như ở nhiều nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh ở Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua đă làm tăng sức ép đối với môi trường sống. Nhằm mục tiêu giảm thiêu những tổn hại do hoạt động kinh tế gây ra,đăc biệt trong quá trinh phát triển công nghiệp nhà nuước ta đã bước đầu có những nỗ lực lớn trong việc thực thi các biệ pháp bảo vệ môi trường, trong đó việc áp dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường.
Tuy còn tương đối mới ở nước ta, nhưng qua nghiên cứu và thực tiễn đã cho thấy tính ưu việt của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường , nó cần có sự phối hợp sử dụng với các công cụ pháp lý và các công cụ khác để mang lại hiệu quả quản lý môi trường cao.
Điều này trước hết là do các công cụ kinh tế không thể được thực hiện một cách thành công nếu không có hệ thông tiêu chuẩn, một khả năng giám sát hoặc cưỡng chế thi hành thich hợp. Sau nữa, ở nước ta khả năng thay thế ngay lập tức các công cụ pháp lý truyền thống hiện vẫn còn phát huy hiệu lực bằng các công cụ kinh tế mới đang ở giai đoạn nghiên cứu đẻ áp dụng thử, sẽ là một điều bất hợp lý và dễ đem lại các rủi ro cho môi trường. Vì thế, trong thiết kế các chính sách, chiến lược về môi trườngvấn đè cơ bản sẽ không phải là chọn công cụ kinh tế hay công cụ pháp lý, mà là làm thế nào để lựa chọ được sự phối hợp tối ưu giưa các loại hình công cu này, xuất phát từ thực tiễn kinh tế, chính trị và khả năng thực thi cụ thể.
Trong điều kiện hệ thống các tiêu chuẩn, qui chế môi trường còn chưa hoàn chỉnh, các quan hệ thị trường đang dần dần dược hoàn thieenjnhuw ở Việt Nam hiện nay, việc áp dụng các công cụ kinh tế nên bắt đầu từ những loại hình đơn giản, dễ thực hiện, phù hợp với cơ cấu thể chế và năng lực hiện có.
Trong giai đoạn tới la giai đoạn đất nươc ta đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nướcsẽ đặt ra rất nhiều vấn đề to lớn và cấp bách cho công tác bảo vệ môi trường. Vì vậy, ngoài vác công cụ pháp lý và các công cụ khác của quản lý môi trường, công cụ kinh tế cần sớm đượcáp dụng với nhiều loại hình khác nhau để có thể phát huy được những ưu điểm của công cụ này trong công tác bảo vệ môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Phan, Nguyễn Kế Tuấn, Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp, NXB ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội – 2007.
2.Trần Thanh Lâm, Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, NXBLĐ Hà Nội - 2006.
3. Nguyễn Thế Chinh , Áp dụng các cộng cụ kinh tế để nâng cao năng lực quản lý môi trường ở Hà Nội, NXBCTQG Hà Nội - 1999.
4. Nguyễn Thanh Hải, Thuế và phí ô nhiễm môi trường: Công cụ tài chính quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ mooii trường,, vst.vista.gov.vn, 19/4/2004.
5. Khả năng áp dụng công cụ thuế môi trường ở Việt Nam, mof.gov.vn, 23/10/2007.
6. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Giải pháp đi từ quy hoạch đến thực tiễn, ciren.gov.vn, 27/04/2004.
7. Quỹ bảo vệ môi trường việt Nam và vấn đề tăng cường thu hút các nguồn lực tài chính đầu tư cho môi trường, vietbao.vn, 11/9/2006.
8. Mức thuế tài nguyên cao nhất lên tới 40%, thuvienphapluat.com,
18/05/2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm bảo vệ môi trường trong phát triển công nghiệp.DOC