Đề tài Các giải pháp tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Đồng Nai

Lý luận về tín dụng. 1.1.1. Sự ra đời và bản chất của tín dụng: Quan hệ tín dụng đã có từ lâu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Lúc đầu, các quan hệ tín dụng hầu hết đều là tín dụng bằng hiện vật và một phần nhỏ là tín dụng hiện kim. Cùng với sự phát triển của xã hội, hình thức biểu hiện của tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, do vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về tín dụng. Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào và tính phức tạp bao nhiêu thì quan hệ tín dụng vẫn có chung một bản chất và có thể hiểu tín dụng một cách tổng quát như sau: Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến các giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.1.2. Các hình thức của tín dụng: Dựa vào các chủ thể của quan hệ tín dụng, trong nền kinh tế xã hội tồn tại các hình thức tín dụng sau đây: 1.1.2.1. Tín dụng thương mại (Commercial credit): Tín dụng thương mại (TDTM) là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá cho nhau. Đối tượng của TDTM là hàng hoá thông thường, chứ không phải tiền tệ. TDTM đều có lợi cho cả hai phía và cả cho nền kinh tế. Đối với người bán, TDTM giúp họ đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, chiếm lĩnh thị trường Đối với người mua, TDTM giúp họ có được hàng để tiến hành sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. -2- Công cụ của TDTM là thương phiếu để đảm bảo cho hành vi mua bán chịu được tiến hành và việc thực hiện thanh toán tiền hàng mua chịu được thực hiện chắc chắn. Thương phiếu bao gồm lệnh phiếu (Promissory note) và hối phiếu (Bill of exchange). 1.1.2.2. Tín dụng Ngân hàng: Tín dụng Ngân hàng (TDNH) là quan hệ tín dụng, trong đó bên cho vay là các TCTD và bên đi vay là các chủ thể trong nền kinh tế xã hội. Đối tượng của TDNH là cho vay chủ yếu dưới hình thức vốn bằng tiền và là hình thức tín dụng quan trọng nhất đối với nền kinh tế. TDNH vừa là tín dụng mang tính chất sản xuất kinh doanh gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa là tín dụng tiêu dùng, không gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy quá trình vận động và phát triển của TDNH không hoàn toàn phù hợp với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Công cụ của hoạt động TDNH trong lĩnh vực huy động như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm và trong lĩnh vực tín dụng như hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ Tác dụng của TDNH có những ưu thế hơn so với TDTM: - TDTM chỉ bó hẹp giữa những nhà sản xuất kinh doanh quen biết nhau hoặc có mối liên hệ với nhau về cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Trái lại, TDNH có thể mở rộng cho mọi đối tượng trong xã hội. - TDTM thường bị giới hạn về số lượng và quy mô hoạt động thì trái lại TDNH không bị giới hạn về quy mô, có nghĩa là TDNH có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế với số lượng rất lớn. - Hoạt động của TDNH còn có tác động và ảnh hưởng lớn đối với tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Nhờ hoạt động TDNH mà vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử dụng tối đa cho nhu cầu phát triển kinh tế, đẩy mạnh chu chuyển vốn, tập trung qua hệ thống ngân hàng. -3- 1.1.2.3. Tín dụng Nhà nước: Tín dụng Nhà nước (TDNN) là quan hệ vay mượn giữa Nhà nước và các đơn vị, cá nhân trong xã hội, trong đó, Nhà nước chủ yếu đứng ra huy động vốn của các Tổ chức, cá nhân. Khi Nhà nước phát hành và bán các trái phiếu, lúc đó đóng vai trò là người đi vay, ngược lại, khi Nhà nước mua trái phiếu từ dân chúng, các TCKT, khi đó Nhà nước là người cho vay. Người sở hữu trái phiếu có thể đem chiết khấu, cầm cố vay ngân hàng hoặc bán trên thị trường chứng khoán. 1.1.2.4. Tín dụng Quốc tế: Ngoài các hình thức tín dụng nói trên, còn có loại hình tín dụng quốc tế. Đây là quan hệ tín dụng giữa Chính phủ, giữa các tổ chức tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau để phát triển kinh tế, xã hội của một nước. 1.1.3. Vai trò của TDNH đối với sự nghiệp CNH - HĐH: 1.1.3.1. Sự nghiệp CNH - HĐH là sự phát triển khách quan và đúng quy luật: CNH - HĐH nền kinh tế đất nước, trước hết chúng ta cần nắm bắt những thành tựu khoa học, công nghệ vừa hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của nước ta để áp dụng vào việc quản lý: Sản xuất, tổ chức lưu thông, phân phối của nền kinh tế. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, nghề trên cơ sở lợi thế từng vùng, mỗi ngành, đồng thời kết hợp với những công nghệ mới tham gia vào quá trình hợp tác trong nước và quốc tế. Cùng với quá trình CNH - HĐH là xây dựng một hệ thống các doanh nghiệp có quy mô và trình độ sản xuất, quản lý khác nhau. Trong đó, cần chú ý xây dựng các DNNVV, vì các DNNVV đáp ứng được yêu cầu về tình hình cụ thể ở nước ta hiện nay, đó là: cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ quản lý còn thấp, trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động chưa cao

pdf59 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2494 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xử lý), chiếm tỷ trọng 1,0% trên tổng dư nợ. Nếu chỉ tính riêng nợ quá hạn bình thường là 86 tỷ đồng và tỷ trọng là 0,78% trên tổng dư nợ. Nói tóm lại, hoạt động tín dụng của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian vừa qua là khá tốt. Chính từ sự tăng trưởng các chỉ tiêu này đã đẩy mạnh sự đóng góp to lớn của các TCTD đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai. Việc thay đổi cơ cấu đầu tư của các TCTD đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế tỉnh -30- nhà theo hướng Công nghiệp - Nông nghiệp - Thương mại, Dịch vụ, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH nền kinh tế Tỉnh nhà. 2.3.2. Nguồn vốn cho các DNNVV. Vốn là yếu tố cơ bản quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Doanh nghiệp càng lớn nhu cầu vốn càng lớn, thông thường vốn của DNNVV được hình thành như sau: + Vốn tự có và xem như tự có. + Vốn đi vay. 2.3.2.1 Vốn tự có của các DNNVV: Là vốn riêng của chủ doanh nghiệp, vốn góp của các cổ đông. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn, chiếm từ 15 - 20% nguồn vốn của doanh nghiệp. - Vốn coi như tự có là vốn góp của bạn bè, người thân, chiếm dụng vốn hợp pháp, như tiền mua hàng chưa thanh toán cho người bán, tiền bán hàng ký gửi… 2.3.2.2. Vốn vay : Bao gồm vay ngắn hạn và vay trung, dài hạn, nguồn vốn này chủ yếu từ các TCTD. Ngoài ra, một số doanh nghiệp sản xuất một số mặt hàng mang tính đặc thù, có quan hệ tốt với một tổ chức Phi Chính phủ có thể nhận được nguồn vốn tài trợ từ tổ chức đó. Hiện nay có nhiều tổ chức quốc tế rất quan tâm tới sự phát triển của các DNNVV ở Việt Nam, Dự án VIE/98 MO2/SID giữa Chính phủ Việt Nam (qua VCCI - Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) và Chính phủ Thụy Điển – ILO có trị giá 1,7 triệu USD dành cho các DNNVV, chương trình hỗ trợ phát triển dự án MeKong (MPDF) do Công ty tài chính quốc tế (IFC) quản lý và hỗ trợ thành lập, phát triển DNNVV. Ngày 9 tháng 11 năm 2004, Thống đốc NHNN và đại diện Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã ký kết khoản vay 60 triệu USD nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho các DNNVV, dự án hỗ trợ việc đăng ký doanh nghiệp với chi phí thấp, xây dựng hệ thống qui trình cấp phép, đơn giản hoá hệ thống kế toán cho DNNVV. Tăng -31- cường việc sử dụng đăng ký đất đai và phát triển hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp và kỹ thuật ở Việt Nam. 2.3.3. Tình hình đầu tư TDNH trong thời gian qua đối với các DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Khi thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả đã điều tra một số chỉ tiêu liên quan đến DNNVV đối với các TCTD trên địa bàn, hình thức điều tra là gửi bảng mẫu đến các TCTD trên địa bàn và tổng hợp, kết quả như sau: 2.3.3.1. Tình hình số DNNVV quan hệ tín dụng với các TCTD: Bảng số 2.4: Số DNNVV đang quan hệ tín dụng với các TCTD trên địa bàn qua các năm: Loại hình doanh nghiệp Năm 2002 Năm 2003 Quí I/ 2004 1. DNNN 42 59 36 2. DNĐTNN 5 10 10 3. CTCP 9 14 17 4. TNHH 87 150 186 5. DNTN 235 380 467 6. HTX 4 6 5 7. Cá thể 5.753 6.885 6.417 (Nguồn: Thống kê từ báo cáo của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai) Qua bảng tổng hợp trên, tổng số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng và hiện còn dư nợ tại các TCTD như sau: Năm 2002: 6.135 doanh nghiệp chiếm 22,23% tổng số doanh nghiệp Năm 2003: 7.484 doanh nghiệp chiếm 27,12% tổng số doanh nghiệp Quí I/2004: 7.138 doanh nghiệp chiếm 25,86% tổng số doanh nghiệp. -32- Biểu đồ số 2.9: Tình hình DNNVV (chưa kể hộ kinh doanh cá thể) quan hệ tín dụng với các TCTD qua các năm: 42 59 36 5 1010 9 14 17 87 150 186 235 380 467 4 6 50 100 200 300 400 500 DNNN DNĐTNN CT CP CT THHH DNTN HTX 2002 2003 Q1/2004 2.3.3.2. Nhu cầu về vốn đầu tư của các DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai: Theo số liệu điều tra, trong năm 2004 nhu cầu vốn vay của 7.138 doanh nghiệp đang quan hệ tín dụng với các TCTD trên địa bàn là 1.789.802 triệu đồng, tăng 59% so với dư nợ của DNNVV tại các TCTD cuối năm 2003 trên toàn địa bàn tỉnh Đồng Nai. Trong đó, loại hình DNNN và hộ kinh doanh cá thể có nhu cầu vốn vay cao nhất, chiếm 68% tổng nhu cầu vốn của các DNNVV. Nhu cầu về vốn là rất lớn và ngày càng tăng, trong khi khả năng cung ứng vốn của các TCTD trên địa bàn gặp nhiều khó khăn, khó khăn đến từ chính các TCTD, từ bản thân các DNNVV và chính sách của Nhà nước. Vì vậy, điều cấp thiết là phải tìm những khó khăn và nguyên nhân gây ra để từ đó có các giải pháp phù hợp và khả thi nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn tín dụng cho các DNNVV. 2.3.3.3. Tình hình về cho vay DNNVV trên địa bàn: Năm 2002: 1.172 tỷ đồng, chiếm 9,71% tổng DSCV trên địa bàn. Năm 2003: 1.948 tỷ đồng, chiếm 12,56 % tổng DSCV trên địa bàn. Quí I/2004: 609 tỷ đồng, chiếm 6,62 % tổng DSCV trên địa bàn. -33- Bảng số 2.5: DSCV đối với DNNVV của các TCTD trên địa bàn qua các năm: Đơn vị: Triệu VND. Loại hình DN Năm 2002 Năm 2003 Quí I/ 2004 1. DNNN 571.580 664.555 132.485 2. DNCVĐTNN 17.125 63.371 6.669 3. CTCP 24.348 314.214 58.433 4. TNHH 129.460 190.044 80.623 5. DNTN 93.815 217.891 130.866 6. HTX 22.611 26.768 5.035 7. Cá thể 313.601 471.966 195.652 (Nguồn: Thống kê từ báo cáo của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai) 2.3.3.4. Tình hình dư nợ tín dụng các DNNVV trên địa bàn: Bảng 2.6: Dư nợ cho vay của các TCTD đối với DNNVV trên địa bàn qua các năm: Đơn vị: Triệu VND. Loại hình DN Năm 2002 Năm 2003 Quí I/ 2004 1. DNNN 326.351 338.053 363.510 2. DNCVĐTNN 13.633 43.509 47.952 3. CTCP 13.144 78.647 83.559 4. TNHH 73.186 181.037 201.794 5. DNTN 60.236 146.235 172.169 6. HTX 5.829 6.955 7.327 7. Cá thể 209.829 330.060 373.403 Tổng 702.208 1.124.496 1.249.714 (Nguồn: Thống kê từ báo cáo của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai) Qua bảng tổng hợp trên, dư nợ cho vay các DNNVV của các TCTD như sau: -34- Đến cuối năm 2002 là: Dư nợ đạt 702 tỷ đồng, chiếm 9,18% tổng dư nợ trên địa bàn. Đến cuối năm 2003 là : Dư nợ đạt 1.124 tỷ đồng, chiếm 12,28% tổng dư nợ trên địa bàn. Quý I/2004: Dư nợ 1.249,7 tỷ đồng, chiếm 12,34% tổng dư nợ đến cuối quý I/2004 trên địa bàn. Biểu đồ 2.10: Tình hình dư nợ của DNNVV tại các TCTD qua các năm. Tình hình dư nợ DNNVV tại các TCTD trên địa bàn 7379 181 201 172 373 6 209 326 13 14 60 7 330 338 44 146 7 363 83 48 0 50 100 150 200 250 300 350 400 DNNN DNĐTNN CT CP CT THHH DNTN HTX Hộ cá thể D ư n ợ : t ỷ đồ ng 2002 2003 Q1/2004 2.3.3.5. Chất lượng của các khoản vay đối với các DNNVV, biểu hiện qua: • Nợ quá hạn đến cuối năm 2002: 2.796 triệu đồng, chiếm 0,3% dư nợ của DNNVV • Nợ quá hạn đến cuối năm 2003: 8.223 triệu đồng, chiếm 0,7% dư nợ của DNNVV • Nợ quá hạn đến cuối quý I/2004: 16.645 triệu đồng, chiếm 1,3% dư nợ của DNNVV. -35- 2.3.4. Một số khó khăn tồn tại trong việc cấp TDNH đối với các DNNVV tại Đồng Nai. Khó khăn liên quan đến việc cấp TDNH cho các DNNVV tại Đồng Nai, có thể chia thành ba loại: 2.3.4.1. Những khó khăn từ phía doanh nghiệp: - Đa số doanh nghiệp thiếu tài sản để làm đảm bảo vay vốn ngân hàng, chưa đủ uy tín để ngân hàng cho vay không có tài sản bảo đảm. - Vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh thấp, nên hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay tại các TCTD. - Một số doanh nghiệp có đất đai nhưng do chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không có cơ sở pháp lý để nhận làm tài sản bảo đảm. Có doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng giá trị tính toán làm cơ sở đảm bảo không cao, các TCTD thông thường cho vay số tiền khoảng 70% giá trị tài sản đảm bảo theo thoả thuận, nên tổng số tiền được vay thấp, không đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. - Một số doanh nghiệp dùng vốn tự có đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng … nhưng do quá trình xây dựng không theo đúng thủ tục xây dựng cơ bản nên không làm được thủ tục hoàn công để cấp giấy chứng nhận sở hữu công trình, do đó cũng không có cơ sở làm tài sản thế chấp. - Nhiều doanh nghiệp không thực hiện việc mua bảo hiểm cho tài sản theo yêu cầu của TCTD đối với nhà xưởng, máy móc thiết bị, công trình xây dựng …nên không được các TCTD nhận làm tài sản bảo đảm. - Đa số DNNVV chưa chấp hành tốt chế độ kế toán, thống kê, làm giảm độ tin cậy đối với các TCTD khi thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh để đầu tư vốn. -36- - Nhiều doanh nghiệp ngại tiếp xúc với các cơ quan chức năng cũng như các TCTD vì cho rằng kinh tế tư nhân mà đa số có quy mô vừa và nhỏ sẽ bị phân biệt đối xử và gây khó dễ khi vay vốn. - Đại đa số DNNVV sản xuất, kinh doanh mang tính thương vụ hoặc ngắn hạn, không có định hướng lâu dài nên không lập được các kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh. - Mặc dù nhu cầu vay vốn cao, nhưng khả năng lập các dự án, phương án sản xuất kinh doanh, chứng minh tính khả thi và hiệu quả của dự án hoặc phương án của nhiều DNNVV còn yếu và thiếu sức thuyết phục trước các TCTD. 2.3.4.2. Những khó khăn từ phía các TCTD: - Các TCTD đã và đang khan hiếm nguồn vốn trung, dài hạn, trong lúc đó các DNNVV lại có nhu cầu lớn về loại vốn này để mua máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, xây dựng nhà xưởng sản xuất. - Vốn ngoại tệ khan hiếm, do đó khi có dự án vay vốn bằng ngoại tệ, ngoài việc phải trực tiếp làm công tác thẩm định dự án, lại phải liên hệ với ngân hàng cấp trên hoặc Ngân hàng khác để mua ngoại tệ, sau đó mới quyết định cho vay hay không. - Tài sản đảm bảo trong trường hợp các bên không thỏa thuận để xử lý được, mặc dù đã được các cấp Toà án xét xử, bản án có hiệu lực pháp luật nhưng chậm được thi hành án, nên các TCTD không thể thu hồi nguồn vốn cho vay được. - Công tác thẩm định dự án của CBTD còn bất cập, nhiều CBTD với năng lực hạn chế, thiếu kinh nghiệm trong việc thẩm định các dự án, đặc biệt là các dự án đầu tư mới về máy móc thiết bị, các dây chuyền sản xuất…dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng. - Áp lực từ khối lượng công việc do số lượng DNNVV lớn, nên nhiều cán bộ tín dụng có tâm lý ngại cho vay. - Các Chi nhánh TCTD trên địa bàn chưa được phân cấp, uỷ quyền đúng mức, mức phán quyết giao cho các chi nhánh rất thấp. Vì vậy, các hồ sơ tín dụng vượt mức phán quyết phải trình ngân hàng cấp trên xem xét, kéo dài thời gian xét duyệt, dẫn đến -37- khách hàng phải mất nhiều thời gian chờ đợi, kết quả là cơ hội kinh doanh cho khách hàng lẫn các TCTD bị bỏ nhỡ. - Thiếu thông tin tin cậy về DNNVV, thông tin về năng lực pháp lý, về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng với các TCTD khác…do đó các TCTD rất khó khăn để đưa ra quyết định cho vay. 2.3.4.3 Khó khăn từ các cơ quan quản lý, các Ban, ngành, địa phương: - Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, do đó, các DNNVV thiếu tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng. - Thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo theo Thông tư liên tịch 03/2003/TTLT- BTP-BTNMT, theo đó, các pháp nhân khi thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản là đất hoặc tài sản gắn liền với đất thì phải đăng ký tại Sở Tài nguyên môi trường. Thời gian từ khi khách hàng gửi đầy đủ hồ sơ đến khi khách hàng nhận lại hồ sơ là đúng bảy ngày làm việc. Như vậy là quá chậm, đó là chưa kể những hồ sơ còn sai sót, chính vì vậy làm nhỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. - Mặc dù toàn tỉnh có 21 cụm công nghiệp được quy hoạch dành cho các DNNVV, nhưng số doanh nghiệp thuê đất còn ít, đến nay chỉ có khoảng 119 doanh nghiệp. - Việc xử lý tài sản đảm bảo cho các TCTD chậm, thậm chí đã có bản án hiệu lực của Toà án nhưng công tác thi hành án còn chậm. Một trong những lý do là số lượng hồ sơ phải thi hành án lớn, trong khi số lượng cán bộ thi hành án ít. 2.3.5. Nguyên nhân của những tồn tại trên là: Trong hoạt động TDNH, có nhiều vướng mắc, khó khăn gây cản trở quá trình đầu tư tín dụng của các TCTD trên cả nước nói chung và tại Đồng Nai nói riêng, những khó khăn ấy bắt nguồn từ nhiều khía cạnh, đối tượng khác nhau. Có thể phân chia thành các nhóm đối tượng sau đây: -38- 2.3.5.1. Nguyên nhân từ phía DNNVV: - Do đại đa số DNNVV hiện nay, với quy mô nhỏ và vừa nên giá trị tài sản của doanh nghiệp thấp, tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án thấp, đặc biệt là các dự án đổi mới máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ. Mặt khác, tài sản đảm bảo chưa đủ giấy tờ pháp lý để các TCTD nhận làm tài sản đảm bảo. - Do phần lớn các DNNVV chưa có tầm nhìn xa trong hoạt động sản xuất kinh doanh, kể cả về đào tạo nguồn nhân lực nên khó có khả năng thích ứng kịp với thị trường, chất lượng đội ngũ quản lý và nhân viên của DNNVV thấp. - Có doanh nghiệp khi tiến hành xây dựng công trình, nhà xưởng đã không quan tâm đến việc xin giấy phép xây dựng, nên khi muốn làm thủ tục hoàn công để có được giấy chủ sở hữu công trình gặp nhiều khó khăn. - Do chính sách thuế chưa chặt chẽ đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp mua bán hoá đơn để hoàn thuế hay kê khai không đúng giá trị đầu vào, đầu ra theo hướng có lợi cho doanh nghiệp để giảm thuế. Điều này đã làm khó khăn cho TCTD khi thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp. - Do DNNVV chưa có nhiều kinh nghiệm trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, nên còn lúng túng, thiếu sự chuẩn bị cần thiết. 2.3.5.2. Nguyên nhân từ phía các TCTD trên địa bàn: - Nguồn vốn còn hạn chế, phần lớn các TCTD trên địa bàn còn phải nhận vốn điều hoà từ cấp trên. Khả năng huy động vốn của các TCTD khó khăn vì trên địa bàn hiện nay ngoài hệ thống các NHTM, còn có nhiều tổ chức khác được phép huy động vốn như: Quỹ Tín dụng Nhân dân, Công ty bảo hiểm, Bưu điện, Quỹ hỗ trợ Phát triển. Mặt khác, các TCTD chưa có chiến lược kế hoạch về nguồn vốn, khi khách hàng rút vốn đột ngột dẫn đến có thời điểm phải ngưng cho vay, không thể đáp ứng nhu cầu vốn vay cho doanh nghiệp. - Các TCTD còn tâm lý e ngại khi quan hệ tín dụng với các DNNVV. Do tâm lý cho rằng, đầu tư vốn vào DNNVV sẽ chịu nhiều rủi ro, vì tình hình tài chính, uy tín và -39- khả năng trả nợ của doanh nghiệp thấp. Mặt khác, các TCTD còn có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, xem DNNN là “điểm đến” an toàn vì cho rằng, khi doanh nghiệp bị phá sản sẽ được Nhà nước bảo hộ, trong khi cho DNNVV vay, nếu gặp rủi ro sẽ khó xử lý và dễ bị mất vốn. - Các TCTD còn xem nặng vấn đề tài sản đảm bảo trong các điều kiện vay vốn, trong khi các DNNVV không đủ tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng. - Trình độ của CBTD chưa tương xứng với yêu cầu công việc, nguyên nhân chính bắt nguồn từ công tác tuyển dụng, bố trí, đào tạo của các TCTD và tiếp cận công việc của từng cán bộ. - Các TCTD chưa linh hoạt trong việc xem xét các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là điều kiện về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đa số không muốn đưa doanh thu quá cao dẫn đến phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp nhiều, nên việc các TCTD thường dựa vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để tính toán, thẩm định cho vay sẽ dẫn đến mức cho vay thấp hoặc có thể từ chối cho vay. Hơn nữa, báo cáo tài chính, cụ thể là báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông thường báo cáo lỗ hoặc lãi rất thấp, nhưng thực tế có lãi thật và thậm chí lãi lớn hơn. Các TCTD khi thấy tình hình tài chính như vậy sẽ rất e ngại trong quyết định cho vay. - Công tác định giá tài sản đảm bảo của các TCTD chưa sát thực tế đã gây hạn chế quy mô đầu tư tín dụng cho doanh nghiệp. - Do áp lực công việc, cộng thêm tính nhạy cảm của hoạt động tín dụng nhiều rủi ro dễ dẫn đến khả năng bị hình sự hoá, nên cán bộ tín dụng còn e ngại, chưa mạnh dạn trong việc đưa ra quyết định cho vay. - Công tác tuyên truyền, giới thiệu về quy chế cho vay, các điều kiện vay vốn của các TCTD trên địa bàn còn yếu, dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhất là DNNVV còn lúng túng về thủ tục giao dịch với ngân hàng, thiếu thông tin về hoạt động ngân hàng, nhất là các thông tin mang tính thời sự, cần cập nhật. -40- - Các TCTD cung cấp thông tin cho Trung tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN chưa chính xác, thiếu thông tin và không cập nhật. 2.3.5.3. Nguyên nhân từ phía Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh, các Sở, Ban, Ngành : - Do số lượng hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quá lớn, trong khi số lượng cán bộ liên quan trực tiếp giải quyết hồ sơ còn hạn chế, nên gây ra tình trạng ách tắc trong xét duyệt hồ sơ. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân từ chủ quan của cán bộ địa chính, đó là giải quyết không theo thứ tự hồ sơ vì một số lý do khác nhau… - Việc quy hoạch các cụm công nghiệp chưa đồng bộ và bền vững. Một số cụm công nghiệp đã có doanh nghiệp thuê đất nhưng tiến độ đầu tư cơ sở hạ tầng quá chậm, làm cho doanh nghiệp không thể tiến hành đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị. Mặt khác, do chi phí cho thuê đất và các dịch vụ kèm theo khác còn cao so với quy mô của DNNVV nên khó thu hút các DNNVV vào đầu tư. - Công tác thi hành án còn nhiều bất cập, chưa kiên quyết và tích cực trong xử lý tình huống thi hành án. Có trường hợp đã có bản án hiệu lực của Toà án nhưng đương sự không chấp hành, cơ quan thi hành án vẫn không có biện pháp cứng rắn để xử lý một cách hiệu quả. Sự phối kết hợp của các cơ quan, ban, ngành trong khi thi hành án chưa đồng bộ và dứt khoát. - Chưa có chính sách ưu đãi dành riêng cho các DNNVV như: thủ tục giới thiệu địa điểm đầu tư, cấp phép, ưu đãi về thuế, lãi suất, hải quan… -41- KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Do điều kiện tự nhiên của tỉnh Đồng Nai thuận lợi, kinh tế liên tục phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao; Luật Doanh nghiệp ra đời, hành lang pháp lý cho các DNNVV được xác lập, các qui định được đổi mới thông thoáng hơn, đã tạo điều kiện cho các DNNVV ra đời ngày càng nhiều và hoạt động sản xuất, kinh doanh ngày càng thuận lợi, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP của Tỉnh, giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, đóng góp cho ngân sách, tạo ngoại tệ từ xuất khẩu, phát triển ngành nghề truyền thống. Mặc dù còn nhiều khó khăn từ các cơ chế, chính sách, khó khăn từ chính các DNNVV cũng như của các TCTD, nhưng thời gian qua hoạt động tín dụng đối với các DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã đạt được những kết quả hết sức phấn khởi, số DNNVV được vay vốn ngày càng tăng, doanh số và dư nợ vay ngày càng lớn. Hy vọng trong thời gian tới từ chủ trương cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ, các chính sách hỗ trợ được triển khai, trình độ của các doanh nghiệp được nâng cao, khó khăn của các TCTD sớm được khắc phục, chắc chắn rằng lĩnh vực đầu tư tín dụng vào các DNNVV sẽ là sân chơi lớn của các TCTD. Để tháo gỡ từng bước những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tín dụng đối với các DNNVV, chúng ta phải tìm những nguyên nhân khó khăn đó để có những giải pháp thích hợp và kịp thời tạo cho hoạt động tín dụng đối với các DNNVV được thuận lợi, tạo điều kiện về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy quá trình CNH – HĐH Tỉnh nhà. -42- CHÖÔNG 3 3.1 Các định hướng vĩ mô cho việc phát triển các DNNVV thúc đẩy quá trình CNH – HĐH. 3.1.1. Định hướng chung: Xác định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc phát triển các DNNVV trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ thực hiện CNH –HĐH, Chính phủ đã xây dựng các định hướng chung cho thời gian tới là: ™ Về tổ chức: - Thành lập Cục phát triển DNNVV, trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư, là cơ quan thay mặt Chính phủ chuyên chăm lo việc phát triển DNNVV. Nhiệm vụ chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế quản lý và chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư …, xúc tiến phát triển DNNVV, đăng ký kinh doanh, khuyến khích đầu tư… - Thành lập Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV. - Thành lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật các DNNVV. - Chính phủ khuyến khích thành lập và củng cố các tổ chức trợ giúp DNNVV thuộc các cơ quan, đơn vị ™ Về xây dựng các chính sách hỗ trợ các DNNVV - Chính sách khuyến khích bằng đầu tư vốn thông qua biện pháp tài chính, tín dụng, áp dụng trong một thời gian nhất định đối với các DNNVV. Đầu tư vào một số ngành nghề, bao gồm các ngành nghề truyền thống tại các địa bàn cần khuyến khích đầu tư. - Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV nhằm giúp đỡ các DNNVV khi vay vốn tại các TCTD không có hoặc thiếu tài sản đảm bảo. -43- - Tạo điều kiện mặt bằng cho các DNNVV xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, có chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền lợi khác về sử dụng đất theo quy định của pháp luật. - Tạo mọi điều kiện để các DNNVV tiếp cận thông tin, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Có chính sách giúp đỡ, tạo điều kiện cho các DNNVV đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc để phát triển sản xuất, phát triển sản phẩm mới, hiện đại hóa, nâng cao trình độ quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Khuyến khích và tạo điều kiện cho các DNNVV xuất khẩu hàng hoá hoặc liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu. Trợ giúp một phần chi phí để các DNNVV đi khảo sát, học tập, tham gia hội chợ triển lãm để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường - Trợ giúp kinh phí đào tạo nguồn nhân lực, giúp cho các DNNVV có nguồn nhân lực trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu sản xuất. 3.1.2. Định hướng của Tỉnh Đồng Nai về phát triển DNNVV nhằm góp phần thúc đầy quá trình CNH – HĐH: Căn cứ vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế trên địa bàn và vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các DNNVV vào việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, thời gian vừa qua, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xây dựng các định hướng cơ bản nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển DNNVV từ nay đến năm 2005 và 2010 là: - Khuyến khích, tạo điều kiện cho các DNNVV ngành công nghiệp chế biến nông sản, vì đây là thế mạnh của tỉnh. Tạo điều kiện để các DNNVV phát triển sản xuất ổn định, lâu dài, vừa nâng cao được giá trị nông sản. Vận động tư nhân đầu tư lâu dài theo hướng: chuyển từ ngành thương mại, dịch vụ sang ngành công nghiệp, nhất là -44- ngành công nghiệp chế biến nông sản, chuyển dần từ địa bàn đô thị sang địa bàn nông thôn, gần với nguồn nguyên liệu, tận dụng triệt để lao động nông thôn, tạo điều kiện thay đổi bộ mặt nông thôn mới, nông thôn thời kỳ CNH – HĐH. - Xây dựng chính sách khuyến khích đối với các ngành nghề truyền thống cần phát triển, xác định các địa bàn cần khuyến khích đầu tư. - Xây dựng các cụm công nghiệp địa phương, ngân sách địa phương hỗ trợ một phần vốn đầu tư ban đầu và xây dựng cơ chế thu hồi vốn thích hợp nhằm tạo điều kiện cho các DNNVV vào sản xuất tại các cụm công nghiệp tập trung, tạo cho công tác quản lý doanh nghiệp được thuận lợi, tiết kiệm một phần chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng cho từng doanh nghiệp, đảm bảo vệ sinh môi trường. - Xây dựng và ban hành tiêu chí làng nghề, công nhận các làng nghề làm căn cứ đầu tư và thực hiện các chính sách hỗ trợ khuyến khích đối với làng nghề. - Hỗ trợ kinh phí đào tạo nguồn lao động, kể cả cán bộ quản lý doanh nghiệp. - Triển khai chuẩn bị thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNNVV, theo đó đã chỉ đạo các sở, ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp xây dựng đề án, thành lập Ban trù bị…để Quỹ bảo lãnh tín dụng sớm hình thành tại tỉnh Đồng Nai. - Định hướng đóng góp của DNNVV đối với nền kinh tế Tỉnh Đồng Nai đến năm 2005: ™ Tỷ trọng GDP của DNNVV chiếm khoảng 40 - 41%. ™ Các khoảng đóng góp ngân sách nhà nước chiếm 15 - 16% trong tổng thu ngân sách. ™ Kim ngạch xuất khẩu chiếm 25-30% kim ngạch xuất khẩu địa phương. - Định hướng đóng góp của DNNVV đến 2010: ™ Tỷ trọng GDP của DNNVV chiếm khoảng 41-42%. ™ Các khoảng đóng góp ngân sách nhà nước chiếm 18-20% trong tổng thu ngân sách. ™ Kim ngạch xuất khẩu chiếm 35-40% kim ngạch xuất khẩu địa phương. -45- 3.2 Các giải pháp TDNH đối với việc phát triển DNNVV góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH ở Đồng Nai: Như đã phân tích trên đây, TDNH đóng vai trò quan trọng trong quá trình CNH – HĐH nền kinh tế. Để các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng nhằm đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ và tăng quy mô vốn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH, cần có những giải pháp sau: 3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý, bao gồm Chính phủ, NHNN, Uỷ ban nhân dân Tỉnh và các Ban, Ngành ở Trung ương và địa phương: 3.2.1.1. Nghiên cứu, xem xét các điều kiện thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV : Để trợ giúp các DNNVV vay vốn, Chính phủ đã ban hành Quyết định 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/2/2001 về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV, theo đó các DNNVV có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay, có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại TCTD theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay. Không có nợ đọng thuế, nợ quá hạn tại các TCTD hoặc các TCKT khác. Nếu DNNVV hội đủ các điều kiện trên thì Quỹ bảo lãnh sẽ cấp bảo lãnh tín dụng tối đa bằng 80% giá trị chênh lệch giữa khoản vay và giá trị tài sản thế chấp tại TCTD. Mức phí bảo lãnh tín dụng là 0.8% /năm tính trên số tiền được bảo lãnh và mức phí thẩm định hồ sơ bảo lãnh mỗi lần là 50.000 VND. Như vậy, chúng ta thấy rằng, để giải quyết vấn đề thiếu tài sản bảo đảm cho DNNVV vay vốn tại các TCTD, các DNNVV có thể đề nghị Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương bảo lãnh vay vốn. Tuy nhiên, hiện nay tiến trình thành lập Quỹ còn quá -46- chậm. Một trong những lý do quan trọng đó là nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh. Theo quy định, một trong số các điều kiện để được thành lập Quỹ là có đủ mức vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng và tại Điều 3 Nghị định 193 quy định: Vốn của ngân sách cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương tối đa không quá 30% vốn điều lệ tối thiểu của Quỹ. Hiện nay, quy định Ngân sách Tỉnh, Thành phố phải tham gia tối thiểu 30% vốn điều lệ đã được Chính phủ bãi bỏ bằng Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg của Chính phủ ngày 25/6/2004. Tuy nhiên, đối với Tỉnh Đồng Nai, việc bãi bỏ quy định trên không ảnh hưởng lớn đến tiến trình thành lập quỹ, chỉ có ảnh hưởng đối với những tỉnh có quy mô ngân sách nhỏ. Vậy, tại Đồng Nai hiện nay, khó khăn lớn nhất và mang tính quyết định là việc tham gia góp vốn của các TCTD trên địa bàn. Tại cuộc họp gần đây nhất ngày 24/12/2004 do NHNN tỉnh Đồng Nai chủ trì, tham dự có các Giám đốc các TCTD trên địa bàn, kết quả như sau: Các TCTD đã nhất trí cao với chủ trương trên và đã có báo cáo xin ý kiến với Ban Tổng Giám đốc các TCTD cấp trên và đã được trả lời cụ thể như sau: Ngân hàng Công thương Việt Nam không đồng ý cho Ngân hàng Công Thương Đồng Nai góp vốn, các TCTD khác đồng ý góp vốn nhưng kèm theo đó là các điều kiện như: Tham gia quản lý điều hành, hưởng lãi từ vốn góp, bổ sung thêm quy định về xử lý rủi ro…Chi nhánh Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Liên doanh Việt Thái chưa được Hội đồng quản trị thông qua, còn NHTM cổ phần nông thôn Đại á, do trụ sở chính đặt tại Đồng Nai nên việc quyết định nhanh chóng hơn, đã đồng ý mức góp vốn 1 tỷ đồng. Nguồn vốn từ ngân sách tỉnh đã chuyển đủ 50% vốn điều lệ Quỹ, tương ứng 15 tỷ vào Quỹ bảo lãnh. Từ những khó khăn trên cho thấy, việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương sẽ rất khó khăn do phần vốn còn lại phải chờ các TCTD góp vốn. Các TCTD lại đưa ra những yêu cầu khi tham gia góp vốn. Vì vậy, để Quỹ bảo lãnh tín dụng sớm thành lập và đi vào hoạt động, Chính phủ, Bộ Tài Chính, NHNN phải xem xét, sửa đổi cho phù hợp, nhất là quy định vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng. -47- 3.2.1.2. Mở chi nhánh công ty cho thuê tài chính trực thuộc các TCTD tại Đồng Nai: Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê được hai bên thỏa thuận. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Những thuận lợi mà hoạt động cho thuê tài chính mang lại là: ™ Đối với Doanh nghiệp thuê tài chính: Doanh nghiệp không phải bỏ khoản tiền lớn ngay để mua sắm động sản, có thể nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, tận dụng được cơ hội kinh doanh do tài sản thuê được khấu hao nhanh, giảm thuế lợi tức do tiền thuê được hạch toán thẳng vào chi phí. Mặc dù doanh nghiệp không bỏ tiền ra để mua động sản nhưng doanh nghiệp có quyền chọn lựa, thỏa thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, thời gian giao nhận, lắp đặt, bảo hành đúng loại tài sản mà họ có nhu cầu sử dụng. Không quan tâm đến việc có tài sản đảm bảo tiền vay hay không khi thuê tài chính, mà đây là vấn đề khó khăn nhất hiện nay khi vay vốn tại các ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp có thể tăng khả năng sử dụng vốn tự có bằng hình thức tái thuê, có nghĩa là người thuê bán lại tài sản của họ cho bên cho thuê, đồng thời ký hợp đồng -48- mua lại chính tài sản đã bán nhằm giải phóng vốn đầu tư khỏi tài sản cố định và có thêm vốn lưu động để hoạt đông… ™ Đối với các TCTD: Mở rộng tín dụng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển các TCTD. Trong khi các DNNVV với số lượng rất lớn, thị trường đầy tiềm năng, nhu cầu trang bị máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và các động sản khác đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn. Song, do các DNNVV không hội đủ các điều kiện vay vốn, nhất là thiếu tài sản đảm bảo nên việc mở rộng tín dụng qua hình thức cho vay thông thường khó thực hiện được. Khi thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính, các công ty cho thuê tài chính sẽ có những mặt lợi sau: + Duy trì được tốc độ tăng trưởng tín dụng thông qua các đơn vị cho thuê tài chính trực thuộc. + Đảm bảo độ an toàn cao khi thực hiện cho thuê tài chính vì trong quá trình cho thuê, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê. + Do quá trình hoạt động và bề dày kinh nghiệm, các TCTD có mối quan hệ rộng lớn với khách hàng, nên có điều kiện để tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến cho thuê tài chính. + Có điều kiện thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính. ™ Đối với nền kinh tế: Do thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính, các DNNVV có điều kiện trang bị mới máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đóng góp tương xứng vào sự phát triển chung của nền kinh tế, tạo được nhiều việc làm, tăng xuất khẩu, thu lượng ngoại tệ lớn và đặc biệt là thúc đẩy quá trình CNH – HĐH nền kinh tế cả nước mà Nhà nước ta đang cố gắng thực hiện. -49- Tuy nhiên, với những tiện ích phân tích ở trên, hoạt động cho thuê tài chính hiện nay ở nước ta vẫn còn một số khó khăn, đó là: - Đối tượng cho thuê tài chính theo Nghị định 16/2001/NĐ-CP thì chỉ có máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Nhưng thực tế hiện nay, các DNNVV đang có nhu cầu thuê rất lớn các tài sản là bất động sản như nhà xưởng, mặt bằng sản xuất… - Hiện tại các công ty tài chính trực thuộc các NHTM chỉ mới có trụ sở ở các thành phố lớn như Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, lượng khách hàng là các DNNVV lại phân bố rộng khắp cả nước, ví dụ tại Đồng Nai, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương…đây là hạn chế lớn về mạng lưới hoạt động, hạn chế tốc độ phát triển của hoạt động cho thuê tài chính. - Hoạt động cho thuê tài chính tương đối mới đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV chưa có thói quen thuê tài sản để mở rộng sản xuất kinh doanh, nên hạn chế khả năng mở rộng hoạt động của các công ty cho thuê tài chính. Như vậy, hoạt động cho thuê tài chính rất phù hợp với loại hình DNNVV, là đối tượng có nhu cầu vốn trung, dài hạn rất cao để mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ. 3.2.1.3. Các TCTD nghiên cứu thành lập Chi nhánh ngân hàng tại Đồng Nai chuyên cho các DNNVV vay vốn. Ở các nước như Đài Loan đã thành lập Ngân hàng chuyên cho các DNNVV vay vốn trực thuộc Chính Phủ. Nhưng tại Việt Nam, chỉ cho phép thành lập các ngân hàng chuyên cho các DNNVV vay vốn trực thuộc các TCTD. Khi thành lập ngân hàng này sẽ có những điểm lợi sau: - Do chỉ chuyên cho các DNNVV vay vốn nên việc theo dõi, tìm kiếm thông tin, giải quyết và quản lý món vay có nhiều thuận lợi. - Các TCTD có điều kiện lựa chọn trong số nhiều DNNVV đến xin vay những doanh nghiệp có uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, do đó hạn chế rủi ro. -50- - Có điều kiện để đào tạo cán bộ chuyên sâu về hoạt động của DNNVV, từng bước giải quyết món vay hiệu quả hơn, giảm thiểu rủi ro. Một ví dụ cụ thể là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có chiến lược mạnh dạn, đó là thành lập tại các Tỉnh, Thành lớn các chi nhánh chuyên phục vụ khách hàng là DNNVV. Hiện nay, đã thành lập Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thành lập từ 9/2003. Qua thời gian hoạt động cho thấy, tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu về tín dụng tăng cao, khách hàng là DNNVV mới ngày càng đông và đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng. 3.2.1.4. NHNN tỉnh làm đầu mối tổ chức hội thảo về vấn đề vay vốn của các DNNVV: Đến nay, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai chưa có một TCTD nào tổ chức hội thảo chuyên đề về vấn đề vay vốn của DNNVV. Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN tỉnh Đồng Nai nên đứng ra làm đầu mối tổ chức hội thảo này, đối tượng chính là các DNNVV, đồng thời mời các TCTD trên địa bàn tham gia để giới thiệu sản phẩm tín dụng và các vấn đề liên quan đến việc vay vốn, qua đó tạo điều kiện cho các DNNVV có thể tiếp cận được cách thức, điều kiện cần có khi vay vốn. Khi biết được yêu cầu của các TCTD, các DNNVV sẽ có bước chuẩn bị tốt hơn, không còn e ngại tiếp xúc khi vay vốn. 3.2.2. Giải pháp đối với các TCTD trên địa bàn: Các TCTD trên địa bàn cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng. Thực tế, thị phần cấp tín dụng cho các DNNVV đầy tiềm năng nhưng các TCTD chưa có biện pháp khả thi để khai thác tốt lượng khách hàng này. Vì vậy, để thâm nhập thị trường tín dụng khu vực DNNVV một cách hiệu quả, các TCTD cần có chính sách và chiến lược cụ thể để có thể chủ động triển khai thực hiện: 3.2.2.1. Cần có chiến lược huy động vốn hiệu quả và có chất lượng: -51- Như phân tích ở Chương 2, nguồn vốn huy động tại chỗ trên địa bàn không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của nền kinh tế nói chung, trong đó có DNNVV. Tính đến cuối năm 2004, vốn huy động tại chỗ chỉ đáp ứng khoảng 74% so với dư nợ nền kinh tế, phải dùng vốn điều chuyển từ TCTD ở Trung ương với chi phí cao và dễ bị động. Điều đó cho thấy thực trạng về nguồn vốn của các TCTD trên địa bàn đang gặp khó khăn. Mặc dù thời gian vừa qua, các TCTD đã rất năng động và tìm mọi biện pháp để khơi tăng vốn huy động tại chỗ như: Đơn giản hoá thủ tục gửi, rút tiền, có chính sách ưu đãi lãi suất cho khách hàng có số dư tiền gửi cao, đa dạng hình thức, sản phẩm huy động vốn như tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm có thưởng, gửi tiền một nơi rút ở nhiều nơi… Ngoài việc gia tăng nguồn vốn như trên, các TCTD trên địa bàn cần nâng cao hơn nữa chất lượng vốn huy động, thể hiện qua: Chi phí huy động thấp, cơ cấu huy động hợp lý để đáp ứng yêu cầu hoạt động tín dụng cho từng loại hình cho vay. Các TCTD cần có chiến lược huy động vốn hiệu quả. Hàng năm, tuỳ thuộc vào từng thời điểm khác nhau, dự báo tình hình nguồn vốn trong thời gian tới để chuẩn bị đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu cho doanh nghiệp. 3.2.2.2. Từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng nâng dần tỷ trọng cho vay đối tượng khách hàng là các DNNVV, góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH ở tỉnh Đồng nai: Thực tế hoạt động tín dụng trong thời gian qua, các TCTD trên địa bàn Tỉnh chưa quan tâm đúng mức đến việc đầu tư tín dụng đối với các DNNVV, thể hiện qua tỷ trọng dư nợ tín dụng thấp, chỉ vào khoảng 13-14% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn. Hơn nữa, khi tập trung đầu tư vốn vào một số khách hàng lớn, nếu rủi ro xảy ra, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, ví dụ các vụ án lớn như Epco Minh Phụng, Công ty Huy Hoàng…Vì vậy, các TCTD cần thay đổi nhận thức nhằm chuyển dịch tỷ trọng cho vay sang đối tượng các DNNVV, sẽ phân tán được rủi ro, mở rộng nhiều đối tượng khách hàng, từ đó mở rộng tín dụng. -52- 3.2.2.3. Nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và gắn trách nhiệm đi kèm quyền lợi cho CBTD: Trên địa bàn Đồng Nai, tình hình cạnh tranh về hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi các TCTD cần chủ động hơn trong việc thu hút khách hàng để tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Để thực hiện được điều này, yêu cầu cán bộ ngân hàng mà trực tiếp nhất là đội ngũ CBTD có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt có tâm huyết với ngành. Trong khi tìm kiếm các cơ hội đầu tư tín dụng, đòi hỏi CBTD phải có khả năng thẩm định các điều kiện vay vốn của khách hàng, đặc biệt là dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm sẵn có, CBTD phải luôn học hỏi, nghiên cứu, cập nhật kiến thức, thông tin mới về thị trường, về khách hàng…để có thể giải quyết mọi vấn đề một cách nhanh, nhạy, phù hợp và kịp thời cho khách hàng, không bỏ nhỡ cơ hội đầu tư mà còn hạn chế rủi ro cho TCTD và cho chính mình. Chúng ta phải thừa nhận rằng, trong các hoạt động ngân hàng, hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất mà người trực tiếp thực hiện là CBTD. Với trách nhiệm rất nặng nề, cộng với áp lực công việc ngày càng cao đòi hỏi các cấp lãnh đạo các TCTD cần kịp thời nhận thấy và có những hành động cần thiết, như quan tâm đến quyền lợi vật chất và tinh thần cho đội ngũ CBTD nhiều hơn nữa. Thực hiện chế độ khen thưởng kịp thời và đúng lúc, đúng nơi là yếu tố giúp cho CBTD ngày càng hăng say với ngành, tập trung nghiên cứu và học hỏi và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. 3.2.2.4. Xem xét mở rộng cho vay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Theo khoản 16, Nghị định 85/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/10/2002 sửa đổi, bổ sung Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 28/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các TCTD, quy định: TCTD xem xét, quyết định việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình -53- thành từ vốn vay, nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Đối với khách hàng vay: Một là, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ; Hai là, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật; Ba là, có vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% vốn đầu tư của dự án hoặc phương án đó. - Đối với tài sản: Một là, tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng; xác định được giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay là vật tư, hàng hoá, thì ngoài việc có đủ điều kiện này, TCTD phải có khả năng quản lý, giám sát tài sản đảm bảo; Hai là, đối với tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm, thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng. Nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định cho vay với biện pháp bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay chỉ áp dụng đối với cho vay trung, dài hạn, điều kiện khách hàng phải có tín nhiệm với các TCTD và có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm cố tối thiểu 50% vốn đầu tư của dự án. Nhưng Nghị định 85/2002/NĐ-CP đã mở ra kể cả đối tượng cho vay ngắn hạn, không cần điều kiện là khách hàng phải có tín nhiệm với các TCTD và giảm mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm cố của khách hàng tối thiểu xuống còn 15% vốn đầu tư của dự án. Khi xem xét các điều kiện trên, các TCTD phải linh hoạt đối với các báo cáo tài chính chính của doanh nghiệp, về thẩm định tính khả thi và hiệu quả của dự án hay phương án sản xuất kinh doanh. -54- 3.2.2.5. Nâng cao hơn nữa công tác phân tích tài chính DNNVV: Như những nội dung phân tích về những khó khăn hiện nay đối với cho vay DNNVV là tình hình báo cáo tài chính chưa lành mạnh và minh bạch. Không nên xem nặng vấn đề tài sản đảm bảo khi giải quyết món vay, mà phải quan tâm một cách linh hoạt đến tình hình tài chính và nguồn trả nợ. Nguồn trả nợ của doanh nghiệp dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, qua đó, các TCTD có thể phân tích những dòng tiền vào, ra của doanh nghiệp, từ đó dự đoán khả năng tạo tiền của doanh nghiệp và đây cũng là nguồn thu của các TCTD trong kỳ kế hoạch. 3.2.2.6. Đa dạng hoá các hình thức cho vay: Nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của các DNNVV, đặc biệt là nhu cầu vốn trung, dài hạn các TCTD, ngoài áp dụng các hình thức cho vay thông thường như: Cho vay từng lần, cho vay hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, nên áp dụng hình thức cho vay theo hạn mức thấu chi đối với những doanh nghiệp có uy tín và cho vay chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Không chỉ cho vay chiết khấu giấy tờ có giá do chính TCTD đó phát hành mà còn chiết khấu cả giấy tờ có giá do các TCTD khác phát hành. 3.2.2.7. Tổ chức giới thiệu và trả lời trực tiếp trên truyền hình, dành riêng cho các DNNVV: Qua kênh này, các TCTD có thể giới thiệu những nội dung về thể lệ, chế độ hiện hành liên quan đến hoạt động ngân hàng. Các DNNVV có thể gọi điện thoại trực tiếp đến tổng đài trực tuyến để yêu cầu các chuyên gia ngân hàng giải đáp thắc mắc. 3.2.2.8. Định kỳ hàng tháng, cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro tại NHNN kịp thời, đầy đủ và chính xác. Trong hoạt động kinh doanh nói chung, yếu tố thông tin đóng vai trò quan trọng để các doanh nghiệp xem xét đưa ra các quyết định. Trong lĩnh vực hoạt động ngân -55- hàng, do yếu tố nhạy cảm và rủi ro cao, nên các TCTD càng phải quan tâm hơn yếu tố thông tin về khách hàng. TCTD không chỉ dựa vào thông tin do Trung tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN cung cấp mà cần thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như trên thị trường, phương tiện truyền thông, quan hệ bạn bè …để có cơ sở thẩm định cho vay. Hiện nay, tình hình DNNVV đăng ký kinh doanh ngày càng tăng, trong đó có không ít “doanh nghiệp ma”, rất khó phát hiện. Vì vậy, việc thu thập đầy đủ thông tin càng nhiều nguồn khác nhau sẽ càng hạn chế rủi ro cho các TCTD. 3.3.2.9. Cần thay đổi nhận thức về vai trò của DNNVV: Nhận thức đúng vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế cả nước nói chung, Đồng Nai nói riêng, để từ đó có những chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận vốn TDNH dễ dàng hơn. 3.2.3. Giải pháp đối với DNNVV. 3.2.3.1. Xem việc công khai tài chính là động lực cho sự phát triển: Hiện nay, nhiều DNNVV không gửi báo cáo tài chính hoặc gửi chiếu lệ cho các cơ quan quản lý, do họ chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của báo cáo tài chính, hoặc sợ lộ bí mật kinh doanh. Khi doanh nghiệp báo cáo tình hình tài chính không đúng sự thật, cụ thể khai thấp kết quả kinh doanh để được hưởng lợi từ thuế thu nhập phải nộp, nhưng khi có nhu cầu về vốn đầu tư thì rất khó khăn. Do đó, các DNNVV cần xem công khai và minh bạch tình hình tài chính sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn đầu tư từ các TCTD và các định chế tài chính khác. Quan trọng hơn, là cơ sở để Nhà nước có chính sách phù hợp đối với việc phát triển từng ngành nghề. 3.2.3.2. Thay đổi tâm lý tự ti trong quan hệ vay vốn các TCTD: Đa số DNNVV với tâm lý tự ti vì cho rằng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ sẽ khó được các TCTD giải quyết cho vay, vì vậy thường e ngại khi tiếp xúc vay vốn tại các TCTD. Điều này đã làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn TDNH -56- của các DNNVV. Hơn nữa, Nhà nước ta hiện nay với chủ trương công bằng giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, các DNNVV cần phải mạnh dạn hơn trong quan hệ vay vốn tại các TCTD, có như vậy mới có cơ hội tiếp cận nguồn vốn quan trọng này. 3.2.3.3. Cần sự chuẩn bị chu đáo khi tiếp xúc với các TCTD: Khi tiếp xúc với TCTD, các doanh nghiệp cần tránh những sơ xuất có thể làm cho đề nghị vay vốn bị từ chối, như thiếu sự chuẩn bị chu đáo về phương án xin vay, dự án đầu tư, thiếu thông tin, không diễn đạt được mục đích, nhu cầu vay vốn. Điều này, sẽ gây cho TCTD thiếu sự tin tưởng và nghĩ rằng, doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều đến phương án, dự án vay vốn. 3.2.3.4. Tăng cường củng cố, nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực DNNVV: Một trong những nguyên nhân khiến việc vay vốn của các DNNVV bị từ chối đó là trình độ lập các dự án, phương án vay vốn của các doanh nghiệp còn yếu, khả năng tìm hiểu, nắm bắt vấn đề liên quan chưa sâu, cho nên cần phải xây dựng chiến lược về đội ngũ nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu công việc. 3.3. Một số kiến nghị: 3.3.1. Đối với Bộ tư pháp: Đề nghị Bộ tư pháp thành lập chi nhánh đăng ký giao dịch đảm bảo đối với động sản tại Tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, cả nước chỉ có hai cơ quan được phép đăng ký giao dịch đảm bảo là động sản, bao gồm: Cơ quan đăng ký quốc gia tại Hà Nội và chi nhánh đăng ký giao dịch đảm bảo tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai là một Tỉnh công nghiệp, vì vậy, số lượng giao dịch tài sản đảm bảo là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và các động sản khác rất lớn. Để tạo điều kiện cho các TCTD và các doanh nghiệp trên địa bàn, cần thiết thành lập chi nhánh đăng ký giao dịch đảm bảo tại Tỉnh Đồng Nai. -57- 3.3.2. Đối với NHNN Việt Nam: - Tranh thủ tối đa và sử dụng một các hiệu quả nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức tài chính quốc tế hỗ trợ cho chương trình phát triển DNNVV. - Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro nhằm tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho các TCTD. - Cần có hướng dẫn về quy chế cho vay chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá để các TCTD có thể thực hiện. 3.3.3. Đối với UBND tỉnh: - UBND tỉnh chỉ đạo các đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản để doanh nghiệp có đủ điều kiện về tài sản bảo đảm để vay vốn tại các TCTD. - Để DNNVV có mặt bằng sản xuất kinh doanh, kiến nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các Ban, ngành liên quan để ban hành quyết định công bố rõ chủ trương và giải pháp đầu tư đối với từng cụm công nghiệp địa phương, trong đó mỗi cụm công nghiệp cần phải công bố rõ các nội dung như: Tổng diện tích được quy hoạch, đầu mối để doanh nghiệp liên hệ khi cần, giá cho thuê đất, giá các dịch vụ kèm theo mà doanh nghiệp phải ký hợp đồng với các đơn vị chức năng như điện, nước, thông tin liên lạc, xử lý môi trường…và các chính sách ưu đãi riêng. - Để thực hiện tốt Nghị định 85/CP của Chính phủ, trong đó có nội dung về định giá giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường, đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng như Trung tâm đấu giá, Sở Tài nguyên và môi trường, Sở Thương mại thường xuyên niêm yết hoặc thông tin trên các phương tiện truyền thông về giá thị trường nhà đất để các TCTD có cơ sở xác định giá trị tài sản đảm bảo. 3.3.4. Đối với các TCTD cấp trên: -58- - Các TCTD cấp trên cần nghiên cứu việc nâng mức phán quyết cho vay tối đa theo hướng tạo tính chủ động đối với các chi nhánh nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay. - Nghiên cứu cải cách thủ tục hành chính trong việc vay vốn theo hướng đơn giản hoá nhưng đầy đủ thủ tục và đảm bảo an toàn. 3.3.5. Đối với Liên Minh các HTX và Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tỉnh: - Tham mưu tốt cho Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng và ban hành các chủ trương, chính sách về phát triển DNNVV. - Làm tốt công tác tư vấn, hỗ trợ các DNNVV trong việc xây dựng các dự án, phương án kinh doanh, vay vốn, thông tin thị trường. - Làm cầu nối tìm thị trường cho DNNVV đối với các nhà cung cấp nguyên vật liệu và bên mua hàng để thúc đẩy quá trình kinh doanh của DNNVV. 3.3.6. Đối với các Sở, Ban, Ngành trong Tỉnh: Cần nâng cao hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát, theo dõi các mặt hoạt động của DNNVV qua thực tế kiểm tra hoặc từ các báo cáo của DNNVV. Việc làm này có ý nghĩa quan trọng không chỉ cho các Sở, Ngành quản lý mà còn là cơ sở đáng tin cậy cho các TCTD trên địa bàn trong việc xem xét, quyết định cho vay. 3.3.7. Kiến nghị khác: - Định kỳ 6 tháng, Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức gặp mặt các DNNVV cùng với các Sở, Ban, Ngành liên quan như: Ngân hàng, Thuế, Hải quan, Sở Thương mại, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Công nghiệp, Liên minh HTX và Doanh nghiệp ngoài quốc doanh… để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có dịp tiếp xúc, đựơc giải đáp thắc mắc, giao lưu học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Đồng thời cũng là dịp nắm bắt các thông tin về chế độ, chính sách mới liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. - Đề nghị NHNN, Bộ tài chính phối hợp để giải quyết các khoản nợ tồn đọng đã xử lý cho phép xoá nợ để cấp vốn cho các TCTD. -59-

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf42864.pdf
Luận văn liên quan