Thủy phân mạnh protein làm giảm khả năng cố định mùi. Một lượng
6-7mg 1hexanal có thể được cố định bởi 1kg protein đậu nành, nhưng nếu
protein này bị thủy phân bởi protease acid của vi khuẩn, khả năng cố định chỉ
còn 1/ mg kg. Tương tự, thủy phân protein có thể được sử dụng để khử mùi
ngái của protein đậu nành.
Sự biến tính nhiệt - ngược lại – làm tăng khả năng cố định các hợp
chất bay hơi. Khi có mặt lipid, khả năng hấp thụ và giữ các thành phần bay
hơi carbonyl tăng lên, kể cả các chất mùi tạo ra do hiện tượng oxy hóa chất
béo.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 15406 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các tính chất và chức năng của protein trong thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính chất tạo bọt của protein ........................................... 19
1.3.13.Khả năng cố định mùi của protein ......................................... 22
PHẦN 2: HỨ NĂNG ỦA PROTEIN ................................................ 26
PHỤ LỤ ..................................................................................................... 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 30
KẾ HOẠ H PHÂN NG LÀM VIỆ
M N: HÓA HỌC THỰC PHẨM
NHÓM 01, LỚP 01DHTP1
SÁNG THỨ 4_TIẾT 5,6
ĐỀ TÀI:
TÍNH HẤT VÀ HỨ NĂNG ỦA PROTEIN
TRONG THỰ PHẨM
STT N I DUNG THỰ
HIỆN
HẠN N P NG ỜI
NHẬN
KÝ
NHẬN
KÝ GỬI GHI
CHÚ
01 Khái niệm về protein
ấu trúc protein
10/11/2011
HUỲNH
TẤN
ĐẠT
02 Tính tan, tính hydrat,
độ nhớt của protein
12/11/2011
03 Hằng số điện môi, tính
chất điện ly, biểu hiện
quang học của protein
14/11/2011
04 kết tủa thuận nghịch
và không thuận
nghịch, các phản ứng
hóa học của protein
16/11/2011
05 iến tính protein 18/11/2011
06 Khả năng tạo gel, tạo
nhũ của protein
20/11/2011
07 ác tính chất tạo bọt
và khả năng cố dịnh
mùi của protein
22/11/2011
08 Tổng hợp chức năng
của Protein
24/11/2011
Nhóm Trưởng: HUỲNH TẤN ĐẠT
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, nhóm ngành Công nghiệp thực phẩm đã và đang phát triển mạnh ở
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có quốc gia Việt Nam chúng ta. Công
nghiệp thực phẩm không chỉ đơn giản là chế biến, sản xuất, bảo quản, xuất
khẩu thực phẩm cả trong và ngoài nước mà bên cạnh đó, công nghiệp thực
phẩm còn nghiên cứu và ứng dụng các tính chất và chức năng của các thành
phần hóa học cấu tạo nên thực phẩm, trong đó có protein. Protein không chỉ là
đơn vị cấu tạo cơ bản trong cơ thể động vật và người mà còn giữ những vai
trò, những chức năng rất quan trọng như là nâng đỡ, bảo vệ các mô cơ quan,
vận chuyển oxy trong tế bào máu đến để nuôi các tế bào…Do đó, việc tìm
hiểu và nghiên cứu các tính chất và chức năng của protein trong thực phẩm là
vô cùng quan trọng và cần thiết đối với tất cả mọi người nói chung và các bạn
học sinh sinh viên đang theo học nhóm ngành này nói riêng. Vì vậy mà nhóm
chúng em đã cùng nhau nhau nghiên cứu và đưa ra một bài tiểu luận về những
“TÍNH HẤT VÀ HỨ NĂNG ỦA PROTEIN TRONG THỰ
PHẨM” nhằm củng cố kiến thức và giúp cho mọi người có một cái nhìn tổng
quát hơn, sâu sắc hơn về protein.
Dù đã cố gắng rất nhiều và do kiến thức có giới hạn nên sẽ không tránh khỏi
những sai sót trong bài. Rất mong được sự góp ý của cô để những bài nghiên
cứu về sau sẽ đầy đủ và ít sai sót hơn.
TẬP THỂ NHÓM
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 1
PHẦN 1: TÍNH HẤT ỦA PROTEIN
1.1. Khái niệm về protein
Protein là những đại phân tử được cấu tạo theo nguyên tắc đa phân mà
các đơn phân là các axit amin. Chúng kết hợp với nhau thành một mạch dài
nhờ các liên kết peptide (gọi là chuỗi polypeptide). Các chuỗi này có thể xoắn
cuộn hoặc gấp theo nhiều cách để tạo thành các bậc cấu trúc không gian khác
nhau của protein.
1.2. ấu trúc của protein
1.2.1. Axit amin – Đơn phân tạo nên protein
Protein là một hợp chất đại phân tử được tạo thành từ rất nhiều các đơn
phân là các axit amin. Axit amin được cấu tạo bởi ba thành phần: một là
nhóm amin (-NH2), hai là nhóm Cacboxyl (-COOH) và cuối cùng là các
nguyên tử Cacbon trung tâm đính với một nguyên tử Hydro và nhóm biến đổi
R quyết định tính chất của axit amin. Người ta đã phát hiện ra được tất cả 20
axit amin trong thành phần của tất cả các loại protein khác nhau trong cơ thể
sống.
1.2.2. ác bậc cấu trúc của protein
Người ta phân biệt biệt ra 4 bậc cấu trúc của Protein:
ấu trúc bậc một: Các axit amin nối với nhau bởi liên kết peptit hình
thành nên chuỗi polypeptide. Đầu mạch polypeptit là nhóm amin của
axit amin thứ nhất và cuối cùng là nhóm cacboxyl của axit amin cuối
cùng. Cấu trúc bậc một của protein thực chất là trình tự sắp xếp các axit
amin trên chuỗi polypeptide. Cấu trúc bậc một của protein có vai trò rất
quan trọng vì trình tự các axit amin trên chuổi polypeptide sẽ thể hiện
tương tác giữa các phần trong chuỗi polypeptide, từ đó tạo nên hình
dạng lập thể của protein và do đó quyết định tính chất cũng như vai trò
của protein. Sự sai lệch trong trình tự sắp xếp của các axit amin có thể
dẫn đến sự biến đổi cấu trúc và tính chất của protein.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 2
ấu trúc bậc hai: Là sự sắp xếp đều đặn các chuỗi polypeptide trong
không gian. Chuỗi polypeptide thường không ở dạng thẳng mà ở xoắn
lại tạo nên cấu trúc xoắn
và cấu trúc nếp gấp
, được cố định bởi
các liên kết hydro giữa những axit amin gần nhau. Các protein sợi như
keratin, collagen…(có trong lôn, tóc, móng, sừng) gồm nhiều xoắn
,
trong khi các protein cầu có nhiều nếp gấp
hơn.
ấu trúc bậc ba: Các xoắn
và phiến nếp gấp
có thể cuôn lại với
nhau thành từng búi có hình dạng lập thể đặc trưng cho từng loại
protein. Cấu trúc không gian này có vai trò quyết định đối với hoạt tính
và chức năng của protein. Cấu trúc này lại đặc biệt phụ thuộc vào nhóm
–R trong các mạch polypeptide. Chẳng hạn nhóm –R của cysteine có
khả năng tạo cầu disunfur (-S-S), nhóm –R của proline cản trở việc
hình thành xoắn, từ đó vị trí của chúng sẽ xác định điểm gấp hay, hay
những nhóm –R ưa nước thì nằm phía ngoài phân tử, còn các nhóm kị
nước thì chuôi vào bên trong phân tử…Các liên kết yếu hơn như liên
kết hydro hay điện hóa trị có ở giữa các nhóm –R có điện tích trái dấu.
ấu trúc bậc bốn: Khi protein có nhiều chuỗi polypeptide phối hợp
với nhau thì tạo nên cấu trúc bậc bốn của protein. Các chuỗi
polypeptide liên kết với nhau nhờ các liên kết yếu như liên kết hydro.
1.3. Tính chất Lý – Hóa của protein
1.3.1. Tính tan của protein
Các loại protein khác nhau có khả năng hòa tan dễ dàng trong một số
loại dung môi nhất định, chẳng hạn như albunmin dễ tan trong nước, globulin
dễ tan trong muối loãng, prolamin tan trong ethanol, glutelin chỉ tan trong
dung dịch kiềm hoặc acid loãng v.v…
1.3.2. Tính hydrat hóa của protein
Phần lớn thực phẩm là những hệ rắn hydrat hóa. Các đặc tính hóa lý,
lưu biến của protein và các thành phần khác của thực phẩm phụ thuộc không
chỉ riêng vào sự có mặt của nước mà còn phụ thuộc vào hoạt tính của nước.
Ngoài ra, các chế phẩm protein concentrate và isolate dạng khô trước khi sử
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 3
dụng phải được hydrat hóa. Do đó, các tính chất hydrat hóa và tái hydrat hóa
của protein thực phẩm có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Hydrat hóa protein ở trạng thái khô có thể được phân chia thành các
gian đoạn liên tiếp như sau:
Sơ đồ 1: Quá trình hydrat hóa một protein ở dạng khô
Hấp thụ nước (còn gọi là cố định nước), trương nở, thấm ướt, khả năng
giữ nước, tính dính, dẻo liên quan đến 4 giai đoạn đầu; khả năng phân tán, độ
nhớt, độ đặc của protein liên quan đến giai đoạn 5. Trạng thái cuối cùng của
protein – tan hoặc không tan (một phần hay hoàn toàn) – có liên quan đến các
tính chất chức năng quan trọng như tính tan hoặc tính tan tức thời (giai đoạn 5
xảy ra nhanh). Tính tạo gel liên quan đến sự tạo thành khối không tan hydrat
hóa tốt, nhưng các phản ứng protein – protein đóng vai trò chính. Cuối cùng,
các tính chất bề mặt như nhũ tương hóa và tạo bọt cũng cần protein có khả
năng hydrat hóa và phân tán cao hơn các đặc tính khác.
Trong quá trình hydrat hóa, protein tương tác với nước qua các nối
peptide hoặc các gốc R ở mạch bên nhớ liên kết hydro.
ác yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tính chất hydrat hóa
Nồng độ protein, pH, nhiệt độ, thời gian, lực ion, sự có mặt của các
thành phần khác là những yếu tố ảnh hưởng đến các phản ứng protein –
protein và protein - nước. Các tính chất chức năng được xác định trong điều
kiện cân bằng của các lực này.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 4
Lượng nước hấp thụ tổng số tăng khi tăng nồng độ protein. pH thay đổi
dẫn đến thay đổi mức độ ion hóa và sự tích điện trên bề mặt các phân tử
protein, làm thay đổi lực hút và đẩy giữa các phân tử này và khả năng liên kết
với nước. tại điểm đẳng điện pI, phản ứng protein – protein là cực đại, các
phân tử protein liên kết với nhau, co lại và khả năng hydrat hóa và trương nở
là cực tiểu.
Nói chung khả năng giữ nước của protein giảm khi nhiệt độ tăng do
làm giảm các liên kết hydro. Biến tính và tập hợp (
aggregation
) khi đun nóng
làm giảm bề mặt phân tử protein và các nhóm phân cực có khả năng cố định
nước. Tuy nhiên, đối với một số ngoại lệ, khi đun nóng trong nước protein có
cấu trúc chặt chẽ cao, sự phân ly và duỗi ra của các phân tử có thể làm lộ ra
trên bề mặt các liên kết peptide và mạch ngoại phân cực mà trước đó bị che
dấu, kết quả là làm tăng khả năng cố định nước.
Bản chất và nồng độ các ion gây ảnh hưởng đến lực ion trong môi
trường và sự phân bố điện tích trên bề mặt phân tử protein nên cũng ảnh
hưởng đến khả năng hydrat hóa. Người ta nhận thấy có sự cạnh tranh phản
ứng (liên kết) giữa nước, muối và các nhóm ngoại của acid amin. Khi nồng độ
muối (như NaCl) thấp, tính hydrat hóa của protein có thể tăng do sự đính
thêm các io giúp mở rộng mạng lưới protein. Tuy nhiên, khi nồng độ muối
cao, các phản ứng muối - nước trở nên trội hơn, làm giảm liên kết protein -
nước và protein bị “sấy khô”.
Sự hấp thụ và giữ nước của protein có ảnh hưởng đến tính chất và kết
cấu của nhiều thực phẩm như bánh mì, thịt băm…
Khả năng hóa tan của protein
Thực phẩm ở trạng thái lỏng và giàu protein đòi hỏi protein phải có độ
hòa tan cao. Độ hòa tan cao là một chỉ số rất quan trọng đối với protein được
sử dụng trong đồ uống. Ngoài ra, người ta còn muốn protein có thể tan được ở
những giá trị pH khác nhau và bền với nhiệt độ.
Độ hòa tan của protein ở pH trung tính và pH đẳng điện là tính chất
chức năng đầu tiên được đo đạc ở các giai đoạn chế biến và chuyển hóa
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 5
protein. Người ta thường sử dụng chỉ số “Nitơ hòa tan” (Nitrogen Solubility
Index – NSI) để xác định đạc tính này. Biết được độ hòa tan của protein rất có
ích cho các quá trình công nghệ như trích ly, tinh chế, tủa phân đoạn protein
cũng như định hướng sử dụng các loại protein.
Protein của lactoserum hòa tan tốt ở khoảng pH và lực ion rộng. Ngược
lại, độ hòa tan của caseinate phụ thuộc nhiều vào pH, lực ion (và nồng độ
Ca
2+
), nhưng ít phụ thuộc vào nhiệt độ như protein của lactoserum và protein
đậu nành.
Tính tan của phần lớn protein bị giảm mạnh và không thuận nghịch
trong quá trình đun nóng. Tuy nhiên, trong chế biến thực phẩm, đun nóng
luôn là cần thiết với các mục đích diệt vi sinh vật, giảm mùi khó chịu, tách
bớt nước…Ngay cả trường hợp đun nóng nhẹ (sử dụng khi trích ly và làm
sạch các chế phẩm protein) cũng gây nên sự biến tính nhất định và làm giảm
độ hòa tan.
Không phải tất cả protein có độ hòa tan ban đầu tốt sẽ luôn có các tính
chất chức năng khác tốt. Có trường hợp khả năng hấp thụ nước của protein
được cải thiện khi làm biến tính ở một mức độ nào đó. Đôi khi, khả năng tạo
gel vẫn giữ được sau khi biến tính và không hòa tan một phần protein. Tương
ứng với điều đó, việc tạo thành nhũ tương, hệ bọt và gel có thể liên quan tới
các mức độ làm duỗi mạch, tập hợp và không hòa tan protein khác nhau.
Ngược lại, protein của lactoserum caseinate và một vài protein khác cần có độ
hòa tan ban đầu đủ lớn nếu muốn chuyển hóa nó thành dạng gel, hệ bọt hay
hệ nhũ tương tốt.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 6
1.3.3. Độ nhớt của dung dịch protein
Khi protein hòa tan trong dung dịch, mỗi loại dung dịch của những
protein khác nhau có độ nhớt khác nhau. Người ta có thể lợi dụng tính chất
này để xác định khối lượng phân tử protein (độ nhớt càng cao thì khối lượng
phân tử càng cao).
Bảng 1: Độ nhớt của một số loại protein
Protein Nồng độ %
(trong nước)
Độ nhớt tương đối
(của nước bằng 1)
Gelatin 3,0 4,54
Albumin trứng 3,0 1,20
Gelatin 3,0 14,2
Albumin trứng 8,0 1,57
1.3.4. Hằng số điện môi của dung dịch protein
Khi thêm các dung môi hữu cơ trung tính như ethanol, aceton vào dung
dịch protein trong nước thì độ tan của protein giảm tới mức kết tủa do giảm
mức độ hydrat hóa của các nhóm ion hóa protein, lớp áo mất nước, các phân
tử protein kết hợp với nhau thành tủa. Như vậy hằng số điện môi làm ngăn
cản lực tĩnh điện giữa các nhóm tích điện của protein và nước. Mối liên hệ đó
được đặc trưng bởi biểu thức:
2 2
2
L l
F
Dr
Trong đó: D - hằng số điện môi của dung dịch
F - lực tĩnh điện giữa các ion tích điện
L1, l2 – điện tích các ion
r – khoảng cách giữa các ion
Ở đây lực tĩnh điện giữa các ion tỉ lệ nghịch với hằng số điện môi và khoảng
cách giữa các ion protein.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 7
1.3.5. Tính chất điện ly của protein
Cũng như các amino acid, protein là chất điện ly lưỡng tính vì trong
phân tử protein có nhiều nhóm phân cực mạnh (gốc bên R) của amino acid.
Ví dụ nhóm COOH thứ hai của Asp, Glu; nhóm NH2 của Lys; nhóm OH của
Ser, Thr, Tyr v.v…Trạng thái tích điện của các nhóm này phụ thuộc vào pH
của môi trường. Ở pH nào đó mà tổng điện tích dương (+) bằng tổng điện tích
âm (-) của phân tử protein bằng không, phân tử protein không di chuyển trong
điện trường thì giá trị pH đó được gọi là pHi (isoeletric-điểm bằng điện) của
protein. Như vậy protein chứa nhiều Asp, Glu (amino acid có tính acid mạnh)
thì pHi ở trong vùng acid, ngược lại nhiều amino acid kiềm như Lys, Arg,
His thì pHi ở trong vùng kiềm.
Ở môi trường có pH < pHi , đa số protein là một cation, số điện tích
dương lớn hơn số điện tích âm. Ở pH > pHi phân tử protein thể hiện tính acid,
cho ion H
+, do đó số điện tích âm lớn hơn số điện tích dương, protein là một
đa ion, tích điện âm.
ảng 2: Giá trị pHi của một số proetein
Protein pHi Protein pHi
Pepsin 1,0 Globulin sữa 5,2
Albumin trứng 4,6 Hemoglobin 6,8
Casein 4,7 Ribonuclease 7,8
Albunmin
huyết thanh
4,9 Tripsin 10.5
Gelatin 4,9 Prolamin 12.0
Trong môi trường pH=pHi , protein dễ dàng kết tụ lại với nhau vì thế người ta
lợi dụng tính chất này để xác định pHi của protein cũng như để kết tủa
protein. Mặt khác do sự sai khác nhau về pHi giữa các protein khác nhau, có
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 8
thể điều chỉnh pH của môi trường để tách riêng các protein ra khỏi hỗn hợp
của chúng.
Sự kết muối của dung dịch protein
Muối trung tính có ảnh hưởng rõ tới độ hòa tan của protein hình cầu:
với nồng độ thấp chúng làm hòa tan nhiều protein. Tác dụng đó không phụ
thuộc vào bản chất của muối trung tính, mà phụ thuộc vào nồng độ các muối
và số điện tích của mỗi ion trong dung dịch, tức là phụ thuộc vào lực ion
của dung dịch (
21/ 2
1 1
C Z
trong đó
là kí hiệu của tổng, C1 là nồng độ
của mỗi ion, Z1 là điện tích của mỗi ion). Các muối có ion hóa trị II (MgCl2,
MgSO4...) làm tang đáng kể độ tan của protein hơn các muối ion có hóa trị I
(NaCl, NH4Cl, KCl…) . Khi tăng đáng kể nồng độ muối trung tính thì độ tan
của protein bắt đầu giảm van ở nồng độ muối rất cao, protein có thể bị tủa
hoàn toàn.
Các protein khác nhau tủa ở những nồng độ muối trung tính khác nhau.
Người ta sử dụng tính chất này để chiết xuất và tách riêng từng phần protein
ra khỏi hỗn hợp. Đó là phương pháp diêm tích (kết tủa protein bằng muối).
Thí dụ dùng muối ammonium sulfate 50% bão hòa kết tủa globulin và dung
dịch ammonium sulfate bão hòa để kết tủa albumin từ huyết thanh.
1.3.6. iểu hiện quang học của protein
Cũng như nhiều chất hóa học khác , protein có khả năng hấp thụ và bức
xạ ánh sáng dưới dạng lượng tử
h
. Vì vậy có thể đo cường độ hấp thụ của
protein trong dung dịch hay còn gọi là mật độ quang thường kí hiệu bằng chữ
OD (Optical Density). Dựa trên tính chất đó người ta đã sản xuất ra các loại
máy quang phổ hấp thụ để phân tích protein. Nhìn chung, protein đều có khả
năng hấp thụ ánh sáng trong vùng khả kiến (từ 350nm-800nm) và vùng tử
ngoại (từ 320nm xuống tới 180nm).
Trong vùng ánh sáng khả kiến protein kết hợp với thuốc thử hấp thụ
mạnh nhất ở vùng ánh sáng đỏ 750nm (định lượng protein theo Lowry).
Đối với vùng tử ngoại dung dịch protein có khả năng hấp thụ ánh sáng tử
ngoại ở hai vùng bước sóng khác nhau: 180nm-220nm và 250nm-300nm).
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 9
Ở bước sóng từ 180nm-220nm đó là vùng hấp thụ của liên kết peptide
trong protein, cực đại hấp thụ ở 190nm. Do liên kết peptide có nhiều trong
phân tử protein nên độ hấp thụ khá cao, cho phép định lượng tất cả các loại
protein với nồng độ thấp. Tuy nhiên vùng hấp thụ này của các liên kết peptide
trong protein có thể bị dịch về phía có bước sóng dài hơn khi có một số tạp
chất lẫn trong dung dịch protein. Mặt khác chính các tạp chất này cũng hấp
thụ ánh sáng tử ngoại ở vùng bước sóng 180nm-220nm. Vì thế trong thực tế
thường đo độ hấp thụ của dung dịch protein ở bước sóng 220nm-240nm.
Ở bước sóng từ 250nm-300nm là vùng hấp thụ các amino acid thơm
(Phe, Tyr, Trp) có trong phân tử protein hấp thụ cực đại ở 280nm. Có thể sử
dụng phương pháp đo độ hấp thụ của dung dịch protein ở bước sóng 280nm
để định tính và định lượng các protein có chứa các amino acid thơm. Hàm
lượng các amino acid thơm trong các protein khác nhau thay đổi khá nhiều,
do đó dung dịch của các protein khác nhau có nồng độ giống nhau có thể khác
nhau về độ hấp thụ ở bước sóng 280nm. Và được đánh giá bằng hệ số tắt, ví
dụ: hệ số tắt của albumin huyết thanh bò băng 6,7 khi cho ánh sáng có bước
sóng 280nm đi qua 1cm dung dịch có nồng độ 10mg/ml; trong khi hệ số tắt
của kháng thể IgG bằng 13,6. Ngoài ra có nhiều chất khác trong dung dịch
cũng có ảnh hưởng đến độ hấp thụ protein. Vì vậy các phương pháp đo độ ấp
thụ ở vùng ánh sáng tử ngoại thường được dùng để định lượng protein đã
được tinh sạch hoặc để xác định protein trong các phân đoạn nhận được khi
sắc ký tách các protein qua cột.
1.3.7. Kết tủa thuận nghịch và không thuận nghịch của protein
Khi protein bị kết tủa đơn thuần bằng dung dịch muối trung tính có
nồng độ khác nhau hoặc bằng alcohol, aceton ở nhiệt độ thấp thì protein vẫn
giữ nguyên được mọi tính chất của nó kể cả tính chất sinh học và có thể hòa
tan trở lại gọi là kết tủa thuận nghịch. Các yếu tố kết tủa thuận nghịch được
dùng để thu nhận chế phẩm protein. Trong quá trình kết tủa thuận nghịch
muối trung tính vừa làm trung hòa điện vừa loại bỏ lớp vỏ hydrat hóa của
protein, còn dung môi hữu cơ háo nước phá hủy lớp vỏ hydrate nhanh chóng.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 10
Trong chế phẩm protein nhận được còn lẫn các chất đã dùng để kết tủa, cần
sử dụng phương pháp thích hợp để loại bỏ các chất này. Ví dụ có thể dùng
phương pháp thẩm tích để loại bỏ muối.
Ngược lại kết tủa không thuận nghịch là phân tử protein sau khi bị kết
tủa không thể phục hồi lại trạng thái ban đầu. Sự kết tủa này thường được sử
dụng để loại bỏ protein ra khỏi dung dịch, làm ngưng phản ứng của enzyme.
Một trong những yếu tố gây kết tủa không thuận nghịch đơn giản nhất là đun
sôi dung dịch protein (sẽ nói kỹ hơn trong phần biến tính protein ở phần sau).
1.3.8. ác phản ứng hóa học của protein
1.3.8.1. Phản ứng với thuốc thử Folin-Ciocalteau
Thuốc thử Folin-Ciocalteau có chứa acid phosphomolipdic và acid
phosphovolframic. Các chất này làm tăng độ nhạy của phản ứng biure, mặt
khác phản ứng với gốc Tyr và Trp trong phân tử protein. Các gốc amino acid
này tham gia trong quá trình tạo phức chất màu xanh da trời.
1.3.8.2. Phản ứng với Ninhydrin
Tất cả các amino acid trong phân tử protein đều phản ứng với hợp
chất ninhydrin tạo thành phức chất màu xanh tím, phản ứng được thực hiện
qua một số bước như sau:
Dưới tác dụng của ninhydrin ở nhiệt độ cao, amino acid tạo thành
NH3, CO2 và aldehit, mạch polypeptide ngắn đi một Carbon; đồng thời
ninhydrin chuyển thành
diceto oxy hindrien.
Diceto oxy hindrien,
NH3 mới tạo thành tiếp
tục phản ứng với một
phân tử ninhydrin khác
để tạo thành phức chất màu xanh tím.
Protein cũng có thể tham gia nhiều phản ứng tạo màu khác như: phản
ứng xanthproteic, các gốc amino acid Tyr, Trp, Phe trong protein tác dụng với
HNO3 đặc tạo thành màu vàng và sau khi thêm kiềm sẽ chuyển thành màu
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 11
nâu; phản ứng Pauli, các gốc Tyr, His trong protein tác dụng với
diasobenzosulfate acid tạo thành màu đỏ anh đào; phản ứng Milon gốc Tyr
tác dụng với thủy ngân nitrate trong HNO3 đặc tạo thành kết tủa màu nâu đất
v..v…
1.3.9. iến tính protein
1.3.9.1.Khái niệm chung
Sau khi protein bị kết tủa , nếu loại bỏ các yếu tố gây kết tủa mà protein
vẫn mất khả năng tạo thành dung dịch keo bền như trước và mất những tích
chất ban đầu , chẳng hạn độ hòa tan giảm, tính chất sinh học bị mất gọi là sự
biến tính protein. Vì vậy, đối với việc bảo quản protein, người ta thường để
dung dịch protein ở nhiệt độ thấp thường là từ
00 4 C
. Song ở nhiệt độ này
dung dịch protein dần dần cũng bị biến tính , biến tính càng nhanh khi dung
dịch protein càng loãng. Sự biến tính ở nhiệt độ thấp của dung dịch protein
loãng được gọi là sự biến tính “bề mặt”: protein bị biến tính tạo nên một lớp
mỏng trên bề mặt dung dịch, phần dưới lớp mỏng là những nhóm ưa nước
nằm trong dung dịch, phần trên lớp mỏng là những gốc kị nước của amino
acid kết hợp với nhau bởi lực Van der Waals. Ở dung dịch đặc các phân tử
protein kết hợp với nhau chặt chẽ hơn do đó làm giảm bớt và hạn chế sự biến
tính bề mặt. Để bảo quản tốt các chế phẩm protein như enzyme, hormon,
-
globulin kháng độc tố v..v…người ta tiến hành làm đông khô (làm bốc hơi
nước của dung dịch protein ở áp suất và nhiệt độ thấp), bột thu được có thể
bảo quản được ngay cả ở nhiệt độ phòng thí nghiệm trong các ống hàn kín.
1.3.9.2. ác yếu tố gây biến tính
Có nhiều yếu tố tác động gây ra sự biến tính protein như: nhiệt độ cao,
tia tử ngoại, sóng siêu âm, acide, kiềm, kim loại nặng. Vì vậy, trong thực tế
người ta rất chú ý ảnh hưởng của các yếu tố có khả năng làm biến tính
protein, ví dụ: khi chiết xuất và tinh chế protein, đặc biệt là các protein
enzyme, cũng như khi xác định hoạt độ của chúng, phải chú ý đề phòng biến
tính. Muốn vậy phải đảm bảo những điều kiện thích hợp nhất cho quy trình kỹ
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 12
thuật, như tiến hành thí nghiệm trong lạnh và đảm bảo pH thích hợp của các
dung dịch sử dụng.
1.3.9.3. Tính chất của protein biến tính
Những thay đổi dễ thấy nhất ở protein biến tính là thay đổi tính tan, khả
năng phản ứng hóa học và hoạt tính sinh học như: hemoglobin bị biến tính
không kết hợp với oxy được, tripsin khi bị biến tính không thủy phân được
protein, kháng thể biến tính mất khả năng kết hợp với kháng nguyên v.v…
Nghiên cứu cấu trúc không gian cho thấy khi bị biến tính phân tử
protein không còn cuộn chặt như trước mà thường duỗi ra hơn, kết quả là phá
vỡ cấu hình không gian cần thiết để thực hiện hoạt tính sinh học. Sự biến tính
không làm đứt liên kết peptide mà làm đứt các liên kết hydro, liên kết muối
v.v…nối các khúc của chuỗi polypeptide hoặc các chuỗi polypetide với nhau,
vì vậy cấu trúc của nhóm kị nước của protein bị đảo lộn, các nhóm kị nước
quay ra phía ngoài và các nhóm ưa nước quay vào trong, sự hydrat hóa của
protein giảm (protein mất lớp áo nước) các phân tử protein dễ kết hợp với
nhau, độ tan giảm và có thể kết tủa. Sự biến đổi cấu trúc khiến protein biến
tính dễ bị tiêu hóa hơn
protein nguyên thủy, thí
dụ tripsin không thủy
phân ribonuclease nguyên
thủy, nhưng phân giải rất
nhanh ribonuclease biến
tính.
Người ta phân biệt hai dạng biến tính: biến tính thuận nghịch (biến tính
trở lại dạng ban đầu với tính chất và chức năng nguyên thủy của nó, đó là sự
hoàn nguyên) và biến tính không thuận nghịch (protein không trở lại dạng ban
đầu của nó). Lòng trắng trứng luộc là một ví dụ điển hình về biến tính không
thuận nghịch, còn về biến tính thuận nghịch ta có thể nêu trường hợp tripsin:
đun nóng tripsin ở pH bằng 3 tới
090 C
, cấu trúc của phân tử tripsin bị biến đổi
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 13
(biến tính) nhưng sau khi làm lạnh một thời gian nhất định, tripsin trở lại cấu
trúc ban đầu và lại có hoạt tính enzyme.
1.3.10. Khả năng tạo gel của protein
Hiện tượng gel hóa là sự tập hợp các phân tử bị biến tính và tạo
thành một mạng lưới protein có trật tự.
Khả năng tạo gel là một tính chất chức năng quan trọng của nhiều
protein. Nó đóng vai trò chủ yếu trong chế biến nhiều loại thực phẩm. Một số
sản phẩm sữa như phomai, gel lòng trắng trứng, sản phẩm thịt cá dạng nghiền
(giò, chả), gel keratin, gel protein đậu nành, bột nhào làm bánh mì, protein
thực vật được cấu trúc bằng đùn nhiệt dẻo (extrusion) hay kéo sợi (các thịt
giả) là những sản phẩm có cấu trúc gel. Tạo gel protein được sử dụng không
chỉ để tạo thành các gel cứng,
dẻo nhớt mà còn đồng thời cải
thiện được tính chất hấp thụ
nước, tính đặc chắc (tạo độ
dày), cải thiện lực liên kết của
các tiểu phần (tính bám dính) và
để làm bền các hệ nhũ tương, hệ
bọt thực phẩm. Gel protein điển
hình chính là miếng đậu hủ,
được sản xuất từ protein đậu
nành.
Điều kiện tạo Gel
Trong phần lớn các trường hợp, gia công nhiệt là cần thiết cho việc
tạo gel. Làm lạnh bên trong có thể cần thiết và acid hóa nhẹ đôi khi có lợi.
Tương tự, cho thêm muối đặc biệt là ion Ca2+ có thể cần thiết để làm tăng tốc
độ tạo gel, hoặc tăng độ cứng của gel (đối với trường hợp của protein đậu
nành, lactoserum, serum albumin).
Tuy nhiên, nhiều protein có thể tạo gel mà không cần đun nóng, chỉ
nhờ thủy phân nhẹ bằng enzyme (mixen casein, lòng trắng trứng, fibrin); đơn
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 14
giản cho thêm Ca2+ (mixen casein) hay từ môi trường kiềm đưa về pH trung
tính hoặc pI đẳng điện (như sản xuất đậu phụ).
Trong khi nhiều gel được hình thành từ protein trong dung dịch
(ovalbumin hoặc protein khác của lòng trắng trứng,
-lactoglobulin hoặc các
protein khác của lactoserum, serum albumin, mixen casein, protein đậu nành),
một số hệ phân tán trong nước hoặc trong dung dịch muối ăn của protein ít
hoặc không tan trong nước cũng có thể tạo thành gel (callagen, actomyosin,
protein isolate đậu nành bị biến tính một phần hay toàn phần…). Như vậy tính
tan của protein không phải luôn cần thiết cho sự tạo gel.
Cơ chế tạo gel và cấu trúc gel
Cơ chế và các phản ứng liên quan đến việc hình thành mạng lưới
protein ba chiều đặc trưng của các gel hiện vẫn chưa được hiểu biết hoàn
toàn. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, người ta thấy rằng sự duỗi ra của các
mạch polypeptide (biến tính) luôn là cần thiết, xảy ra trước gian đoạn phản
ứng có trật tự giữa protein-protein và hiện tượng tập hợp protein. Điều đó giải
thích tại sao protein isolate đậu nành đã bị biến tính bởi nhiệt, dung môi hữu
cơ hoặc kiềm có thể tạo gel không cần đun nóng bên trong. Sự tạo thành
mạng lưới của protein là kết quả của sự cân bằng giữa các phản ứng protein-
protein, protein-nước, lực hút và đẩy của các mạch polypeptide nằm kề nhau.
Tham gia vào việc tạo nên cấu trúc gel là các liên kết kỵ nước (tăng theo
chiều nhiệt độ), liên kết tĩnh điện (như các cầu với ion Ca2+ và các ion có hóa
trị II khác), liên kết hydro (tăng theo chiều giảm nhiệt độ) và các cầu
disulfide. Sự góp phần của mỗi kiểu liên kết này thay đổi sự phụ thược vào
bản chất protein, các điều kiện môi trường và các giai đoạn khác nhau của quá
trình gel hóa. Các lực đẩy tĩnh điện và các phản ứng protein-nước có xu
hướng phân tách các mạnh polypeptide.
Sự hình thành các cầu đồng hóa trị disulfide thường dẫn đến tạo gel
bền chắc với nhiệt và không có tính thuận nghịch. Ví dụ, gel của ovalbumin
hay
-glactoglobulin. Gel của gelatin được tạo nên chủ yếu bởi các liên kết
hydro. Đây là liên kết yếu, tạo ra sự linh động cho cấu trúc gel, làm gel có độ
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 15
dẻo nhất định. Gel gelatin có tính thuận nghịch, chảy khi đun nóng (khoảng
30
0
C) và chu kì tạo gel, nóng chảy có thể lặp lại nhiều lần. Gel của protein
đậu nành có đặc tính trung gian, độ cứng của gel sẽ giảm khi đun nóng trên
80
0
C.
Một vài protein có tính chất khác nhau có thể tạo thành gel khi đun
nóng đồng thời (cogelefication). Protein cũng có thể tạo gel bởi phản ứng với
các polysaccharide có khả năng tạo gel. Các liên kết ion không đặc hiệu giữa
gelatin tích điện (+) và alginate hoặc các pectate tích điện (-) tạo thành gel có
độ cứng, độ đàn hồi và nhiệt độ nóng chảy cao hơn (khoảng 800C). Người ta
biết rằng, ở pH của sữa, các liên kết ion đặc hiệu có thể được tạo ra giữa các
trung tâm tích điện (+) của casein K và carrageenate.
Nhiều gel tồn tại dưới dạng cấu trúc hydrat hóa mạnh, chứa tới hơn
10g nước trên 1g protein và các thành phần thực phẩm khác nằm bên trong
“cái bẫy” của mạng lưới protein Nhiều gel protein có thể chứa đến 98% nước.
Nước có thể ở dạng hydrat hóa (liên kết chặt chẽ với các nhóm có cực của
protein) hoặc nước tự do trong các mạng lưới gel, tuy là nước tư do nhưng
tách chúng ra không dễ dàng.
1.3.11. Khả năng tạo nhũ của protein
Đại cương về sự hình thành và phân hủy nhũ tương
Hệ nhũ tương là các hệ phân
tán giữa hai chất lỏng không
hào tan vào nhau, một ở dạng
những giọt nhỏ phân tán, còn
chất lỏng kia ở dạng pha phân
tán liên tục.
Phần lớn các hệ nhũ tương thực phẩm là loại “dầu trong nước” để chỉ
chất lỏng phân cực ưa nước hydrophile và dầu là chất lỏng kị nước
hydrophobe. Nhiều nhũ tương thực phẩm còn chứa cả bóng khí và chất rắn
phân tán.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 16
Trong phần lớn trường hợp, đường kính của các giọt lỏng phân tán
khoảng
0,1 50 m
với mức độ phân tán khác nhau xung quanh giá trị trung
bình. Sự tạo thành các giọt nhũ tương đồng thời với việc hình thành bề mặt
phân chia hai chất lỏng không tan vào nhau (còn gọi là bề mặt liên pha). Diện
tích của bề mặt phân chia này tăng theo hàm số mũ khi đường kính các giọt
giảm trong cùng một khối lượng pha phân tán và có thể đạt đến
21 /m ml
nhũ
tương.
Các hệ nhũ tương thường không bền do 3 hiện tượng chủ yếu sau:
a) Sự nổi lên hay sự lắng xuống của các giọt lỏng do lực trọng trường.
Hiện tượng này sẽ giảm khi đường kính của các giọt nhỏ và độ nhớt
của pha liên tục lớn.
b) Sự kết tụ của các giọt lỏng do các điện tích bị triệt tiêu và các lực đẩy
tĩnh điện giữa các giọt cũng biến mất khi thay đổi pH hoặc lực ion. Các
giọt dính nhau không trật tự, nhưng giữa chúng vẫn có sự phân cách
bởi một lớp mỏng pha liên tục. Sự tập hợp sẽ làm tăng kích thước biểu
kiến của các giọt và làm tăng tốc độ lắng.
c) Sự hợp nhất hay sự “chảy” của giọt lắng này vào giọt lắng khác do
hiện tượng lắng, va chạm và do chuyển động Brown…Đây là hiện
tượng tự nhiên theo quan điểm nhiệt động học, làm tăng không ngừng
kích thước các giọt phân tán, cuối cùng dẫn đến tách hai pha thành hai
lớp riên biệt bởi một bề mặt phân chia phẳng có diện tích nhỏ nhất.
Hình 5: Cơ chế hư hỏng của một nhũ tương
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 17
Các protein là những chất làm bền nhũ tương thực phẩm
Nhiều sản phẩm thực phẩm là hệ nhũ tương như sữa bò, sữa đậu
nành, kem, nước cốt dừa, bơ, phomai nóng chảy, mayonnaise, xúc xích thịt
cá…và những thành phần protein thường đóng vai trò nổi bật trong việc
làm bền các hệ này.
Protein được hấp thụ ở bề mặt phân chia giữa các giọt dầu phân tán
và pha nước liên tục có các tính chất vật lý và lưu biến (làm đặc, tạo độ
nhớt, “cứng - dẻo”) có tác dụng ngăn cản các giọt chất béo hợp nhất. Tùy
theo pH, ion hóa các gốc R của các acid amin trong mạch polypeptide
cũng tạo ra các lực đẩy tĩnh điện, góp phần làm bền hệ nhũ tương.
Nói chung, protein ít có khả năng làm bền hệ nhũ tương nước/dầu. Nguyên
nhân có thể do phần lớn protein có bản chất ưa nước và do đó chúng bị
hấp thụ ở pha nước gần bề mặt phân chia.
Hình 6: Khả năng hấp thụ và làm bền nhũ tương của protein
Tính chất bề mặt của protein
Đặc tính quan trọng nhất của protein hòa tan đối với tính chất nhũ
tương hóa của nó là khả năng protein khuếch tán đến bề mặt phân chia dầu
nước và bị hấp thụ ở đó. Khả năng này phụ thuộc vào nhiệt độ và MW của
phân tử protein.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 18
Bảng 3: Khả năng làm bền nhũ tương của một số Protein
Protein hỉ số hoạt tính nhũ tương hóa (số
2m
của bề
mặt phân chia được làm bởi 1g protein)
pH 6,5 pH 8
Protein nấm men (88%
đã succinyl hóa)
322 341
Bovine serum albumin - 197
Caseinate Na 149 166
-Lactoglobuline - 153
Lactoserum 119 142
Protein isolate đậu
nành
41 92
Hemoglobin - 75
Protein của nấm men 8 59
Albunmin của trứng - 49
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhũ tương
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hệ nhũ tương như nhiệt độ, pH, lực ion,
sự có mặt của các chất hoạt động bề mặt có MW thấp, sự có mặt của oxy. bản
chất của dầu, hàm lượng protein hòa tan và các tính chất nhũ tương hóa của
protein.
pH có ảnh hưởng khác nhau đến các tính chất nhũ tương hóa của
protein. Tại pI, một số protein trở nên ít hòa tan nên giảm khả năng tạo nhũ
tương, đồng thời cũng không góp phần tạo điện tích bề mặt cho các giọt dầu-
yếu tố làm bền nhũ tương do tác động của lực đẩy tĩnh điện. Ở một vài giá trị
pH hoặc lực ion, protein có cấu trúc đặc chắc và độ nhớ dẻo cao. Trạng thái
này, hoặc sẽ ngăn cản hiện tượng duỗi và hấp thụ protein ở bề mặt phân chia
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 19
hoặc ngược lại sẽ làm bền màng protein đã được hấp thụ và làm bền hệ nhũ
tương.
Đun nóng nói chung thường làm giảm độ nhớt và độ cứng của màng
protein bị hấp thụ ở bề mặt phân chia nên làm giảm độ bền của hệ nhũ tương.
Tuy nhiên, gia nhiệt cũng giúp tạo cấu trúc gel cho màng protein ở bề mặt
phân chia, tăng khả năng giữ nước, làm tăng độ nhớt bề mặt và độ cứng của
nó và vì thế trong một số trường hợp giúp làm bền nhũ tương. Trong thực tế,
gel hóa protein myofibril góp phần làm bền nhiệt hệ nhũ tương của thịt như
xúc xích, làm cho khả năng cố định nước và chất béo tăng, giúp chế phẩm có
độ dính lớn hơn.
Ngoài ra, người ta còn cho thêm các chất hoạt động bề mặt nhằm mục
đích để màng protein bị hấp thụ trên bề mặt các giọt dầu đủ dày và có các tính
chất lưu biến mong muốn. Trong thực tế, người ta thường sử dụng nồng độ
protein từ
0,5 5%
và nồng độ protein ở bề mặt phân chia sẽ đạt từ
20,5 20 /mg m
.
1.3.12. Các tính chất tạo bọt của protein
Giới thiệu chung về các hệ bọt thực phẩm
Các hệ bọt thực phẩm gồm các bọt khí phân tán trong pha liên tục là
lỏng hoặc bán rắn có chất hoạt động bề mặt hòa tan.
Có rất nhiều loại thực phẩm có dạng bọt như bánh xốp, kem, bọt của
bia…Trong nhiều trường hợp, khí tạo bọt là không khí, một số khác là CO2
còn pha liên tục là một dung dịch hoặc huyền phù nước có chứa protein. Một
số hệ bọt thực phẩm là những hệ keo phức tạp. Ví dụ, kem là một hệ nhũ
tương (hoặc huyền phù) của các giọt chất béo, một huyền phù của các tinh thể
đá phân tán, một gel polysaccharide, một dung dịch đường nồng độ cao, dung
dịch protein và các bọt khí.
Các bọt khí thường chứa khí có áp suất lớn hơn áp suất ngoài , ép vào
nhau nên bóng khí có hình đa diện. Trong các hệ bọt, pha liên tục gồm các lớp
mỏng chất lỏng hay các màng mỏng ngăn cách ngăn cách các bọt khí. Bề mặt
phân chia khí lỏng có thể đạt đến
21 /m ml
chất lỏng. Tương tự như trường hợp
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 20
tạo nhũ tương, cần cung cấp năng lượng cơ học (như khuấy, thổi khí…) để
tạo bề mặt phân chia này. Để duy trì bề mặt phân chia chống hiện tượng hợp
nhất các bọt khí, cần sử dụng các chất hoạt động bề mặt để làm giảm sức căng
bề mặt và tạo thành mạng lưới bảo vệ đàn hồi. Một số peotein có khả năng tạo
thành màng bảo vệ bị hấp thụ ở bề mặt phân chia khí/lỏng. Trong trường hợp
đó, một tấm mỏng ngăn cách hai bọt khí kề nhau sẽ gồm hai lớp màng protein
ngăn cách nhau bởi một màng mỏng chất lỏng.
Kích thước các bọt khí có thể biến thiên trong một khoảng rộng từ
1 m
đến vài
cm
tùy thuộc sức căng bề mặt, độ nhớt của chất lỏng, năng lượng cơ
học cung cấp…
Các phương pháp tạo hệ bọt:
a) Cho khí đi qua một vật cản xốp (như thủy tinh xốp) vào dung dịch
protein trong nước với nồng độ thấp (
0,01 2%
).
b) Khuấy mạnh dung dịch protein trong nước khi có mặt một khối lượng
lớn khí. Phương pháp này được áp dụng nhiều trong sản xuất thực
phẩm. So với phương pháp sục khí thì phương pháp này đòi hỏi lực cơ
học cao hơn (lực khuấy cắt) và tạo được hệ phân tán khí đồng nhất hơn.
Nhu cầu protein cũng cao hơn (
1 40%
) do lực cơ học cũng tăng sự hợp
giọt và ngăn cản protein hấp thụ lên bề mặt liên pha. Trong quá trình
khuấy, dung tích khí phối trộn dần đạt đến giá trị cực đại (cân bằng
động học) và dung tích của hệ có thể tăng lên từ
300 2000%
.
c) Giảm đột ngột áp suất của một dung dịch đã được nén sơ bộ.
Sự khác biệt giữa các hệ nhũ tương và hệ bột thực phẩm là trong hệ bọt dung
tích riêng phần của pha phân tán (pha khí) thay đổi trong một khoảng rộng
hơn rất nhiều so với hệ nhũ tương. Các hệ bọt thường ít bền bởi vì chúng có
tổng diện tích bề mặt phân chia rất lớn.
Có 3 cơ chế chủ yếu phá vỡ hệ bọt:
a) Sự rút (hoặc chảy) của chất lỏng từ các màng lỏng do lực trọng trường,
sự chênh lệch áp suất và sự bốc hơi. Trong các hệ bọt mật độ thấp, các
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 21
bọt khí có xu hướng ép mạnh lẫn nhau làm tăng sự chảy của màng chất
lỏng.
“Sự chảy” sẽ giảm khi pha lỏng có độ nhớt cao (ví dụ cho thêm đường)
và độ nhớt của màng protein bị hấp phụ tăng. Độ nhớt này phụ thuộc
cường độ của các phản ứng protein-protein và protein-nước.
b) Sự khuếch tán khí từ các bọt khí có kích thước nhỏ sang các bọt khí có
kích thước lớn hơn. Sự khuếch tán xảy ra do sự hòa tan khí trong pha
nước.
c) Sự “đứt gãy” các màng chất lỏng ngăn cách các bọt khí đưa đến sự hợp
nhất, làm tăng kích thước của bọt khí và dẫn đến phá vỡ hệ bọt.
Có mối quan hệ tương hỗ giữa các hiện tượng “chảy” và “đứt gãy”. Sự “đứt
gãy” làm tăng hiện tượng “chảy” và từ đó chiều dày và độ bền của màng chất
lỏng giảm.
Khi hai màng protein bị hấp thụ ở hai phía của màng chất lỏng sát lại
gần nhau ở khoảng cách 50-150A0 (do hiện tượng chảy), chúng va chạm nhau
và hiện tượng đức gãy xảy ra. Người ta chưa biết rõ rằng, với khoảng cách
như vậy của hai màng protein, các lực đẩy hay các lực hút tĩnh điện của các
phân tử protein đóng vai trò quan trọng hơn. Các màng protein bị hấp thụ có
chiều dày lớn và đàn hồi sẽ có độ bền và khả năng chống đứt gãy tốt hơn.
Ba yếu tố quan trọng nhất có tác dụng làm tăng độ bền của hệ bọt bao gồm
sức căng bề mặt phân chia bé, pha lỏng có độ nhớt cao và các màng mỏng
protein bị hấp thụ bền, đàn hồi và không thấm khí.
Hoạt tính tạo bọt của một số protein
Protein là chất tạo bọt và làm bền bọt. Sự hình thành hệ bọt liên quan
đến sự khuếch tán các protein hòa tan đến bề mặt phân chia không khí/nước.
Ở đó, chúng cần duỗi ra, tập trung lại và trải dài ra một cách tức thời để làm
giảm sức căng bề mặt phân chia. Các phân tử có MW thấp, nghèo cấu trúc
bậc 2,3 sẽ tác dụng một cách có hiệu quả như một chất hoạt động bề mặt. Sự
hấp thụ của protein lên bọt thực hiện qua các vùng kỵ nước.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 22
Độ bền của hệ bọt trong mối liên quan đến các đặc tính tạo thành bọt
của protein lại có vài khác biệt nhỏ. Để hệ bọt protein bền, màng (film) tạo
thành xung quanh mỗi bọt khí phải dày, có độ dính, dẻo, đàn hồi, liên tục và
không thấm khí thích hợp. Trong trường hợp này, không phải các phân đoạn
protein nhỏ linh động mà ngược lại dường như các protein hình cầu có khối
lượng phân tử lớn và khó duỗi mạch lại có khả năng này.
Trong thực tế, để tạo thành các màng bền, nhiều lớp mỏng các đoạn
protein “duỗi” từng phần phải liên kết ngược lại với nhau qua các liên kết kỵ
nước, liên kết hydro và cả liên kết tĩnh điện. Mặt khác, protein cần được hấp
thụ mạnh ở bề mặt phân chia không khí/nước bằng các mối liên kết trung gian
kỵ nước để tránh hiện tượng “giải hấp thụ” và làm mất lớp chất lỏng do
“chảy”. Tính mềm dẻo và linh động đầy đủ của phân tử protein là cần thiết để
chống lại các lực làm biến dạng, làm nở (
extension
) bề mặt phân chia, làm
mỏng các màng mỏng. Làm nở rộng bề mặt phân chia gây nên sự giảm nồng
độ các phân tử bị hấp thụ và làm tăng sức căng bề mặt. Protein đối với hệ bọt
có độ bền tốt cần có khả năng dịch chuyển từ vùng có sức căng bề mặt phân
chia thấp đến vùng có sức căng bề mặt phân chia cao và cùng với chúng là
các phân tử nước nằm sát cạnh, tái tạo lại chiều dày ban đầu của các màng
mỏng. Cuối cùng, các gốc ngoại phân cực của protein sẽ cố định nước của các
màng mỏng và hạn chế hiện tượng “chảy”.
Protein có hoạt tính tạo bọt tốt là protein của lòng trắng trứng, globin và
hemoglobin, serumalbumin, gelatin, protein của lactoserum, các mixen
casein, casein
, protein của lúa mì (đặc biệt là glutenine), protein đậu nành,
một số chế phẩm thủy phân của protein.
Có những điểm giống nhau giữa sự tạo thành hệ nhũ tương và hệ bọt.
Tuy nhiên, không có sự tương ứng chặt chẽ giữa hoạt tính tạo bọt và tạo nhũ
tương của protein. Để làm bền bọt, cấu trúc của protein tại màng quan trọng
hơn so với để làm bền hệ nhũ tương.
1.3.13. Khả năng cố định mùi của protein
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 23
Trong chế biến thực phẩm, kể cả các chế phẩm protein có nhiều
trường hợp cần phải tẩy mùi để hạn chế hoặc tách các mùi khó chịu. Các hợp
chất như andehyde, ketone, rượu, phenol, acid béo đã bị oxi hóa… có thể cho
mùi ôi, khét, mùi ngái và cho vị đắng, the, cay…khi chúng liên kết với protein
và các thành phần khác của thực phẩm. Các chất này chỉ được tách ra khi đun
nóng hoặc nhai. Một số liên kết rất chặt chẽ, khó tách ngay cả khi trích ly
bằng hơi nước hoặc dung môi.
Bên cạnh vấn đề tách các mùi khó chịu, người ta còn sử dụng khả
năng này của protein để mang đến cho thực phẩm các mùi dễ chịu (ví dụ,
mang mùi thơm của thịt đến cho các protein thực vật đã được tạo kết cấu).
Điều này thật là lý tưởng nếu các thành phần dễ bay hơi của những mùi dễ
chịu có thể liên kết bền vững với thực phẩm, không bị tổn thất trong quá trình
chế biến và bảo quản, nhưng lại được giải phóng nhanh trong miệng khi sử
dụng thực phẩm và không bị biến đổi.
ác phản ứng giữa chất bay hơi và protein
Mùi của thực phẩm được tạo ra từ các thành phần dễ bay hơi có nồng
độ rất bé ở gần bề mặt và nồng độ này phụ thuộc vào sự cân bằng giữa khối
lượng thực phẩm và “khoảng không gian” mà nó chiếm chỗ (head space).
Người ta thấy rằng, bổ sung protein vào hệ nước-chất mùi làm giảm nồng độ
các chất bay hơi trong “khoảng không gian” vừa nói đến ở trên.
Cố định các chất mùi có thể liên quan đến sự hấp thụ ở bề mặt thực
phẩm hoặc đi sâu vào bên trong thự phẩm bởi sự khuếch tán. Có hai loại hấp
thụ lên chất rắn: hấp thụ vật lý thuận nghịch bởi các liên kết trung gian Van
der Waals; hấp thụ hóa học bởi các liên kết đồng hóa trị hoặc tĩnh điện. Cố
định chất mùi do hấp thụ còn liên quan đến các liên kết hydro và liên kết kỵ
nước. Các thành phần phân cực như alcohol có thể liên kết hydro và kỵ nước
với các gốc acid amin không phân cực; đây là các phản ứng chủ yếu cố định
các thành phần bay hơi có phân tử lượng thấp. Trong một số trường hợp, các
thành phần bay hơi được cố định bởi các liên kết đồng hóa trị và quá trình
thường không thuận nghịch (ví dụ cố định aldehyde và ketone bởi các nhóm
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 24
amine, hoặc nhóm amine bởi nhóm carboxyl…). Cố định không thuận nghịch
có khả năng xảy ra hơn với các chất bay hơi có phân tử lượng lớn. Ví dụ,
trong cùng nồng độ, protein đậu nành chỉ có thể cố định 10% octaral thay vì
50% đối với 2-dodecanal. Cố định không thuận nghịch có thể làm giảm cường
độ mùi của các chất bay hơi ban đầu.
Sự cố định các chất mùi chỉ có thể xảy ra khi các “trung tâm hấp thụ”
ở dạng tự do chưa tham gia vào các phản ứng protein-protein hoặc các phản
ứng khác.
Người ta thấy rằng, các trung tâm hấp thụ tăng dần trong thời gian cố
định các chất bay hơi. Trong quá trình này, các mạch protein bị duỗi ra và
nhiều gốc acid amin kỵ nước trở nên tự do và tham gia vào quá trình hấp thụ.
Một số tác giả cho rằng, các thành phần bay hơi không phân cực chui vào và
phản ứng với các trung tâm kỵ nước của protein, thay thế các phản ứng kỵ
nước protein-protein bên trong hoặc bên ngoài phân tử. Hiện tượng này làm
cho protein trở nên không bền và có thể làm biến đổi độ hòa tan của protein.
ác yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cố định chất mùi
Mọi yếu tố làm biến đổi cấu hình của protein đều ảnh hưởng đến
hoạt tính hấp thụ các chất bay hơi.
Nước làm tăng khả năng cố định các chất dễ bay hơi phân cực do
tăng độ linh động của các hợp chất này và tạo cho chúng khả năng tiếp xúc
với các trung tâm hấp thụ dễ dàng hơn; tuy nhiên nước hầu như không ảnh
hưởng đến khả năng cố định các chất bay hơi không phân cực.
Trong môi trường hydrat hóa mạnh hoặc trong các dung dịch, khả
năng các gốc acid amin phân cực hay không phân cực cố định các hợp chất
carbonyl, alcohol, ester ở pH trung tính và kiềm tốt hơn ở pH acid. Các ion
Cl
,
2
4SO
ở nồng độ thấp làm bền cấu trúc tự nhiên của protein hình cầu
nhưng ở nồng độ cao có thể làm thay đổi cấu trúc của nước, gây duỗi mạch
protein, từ đó cải thiện các liên kết với các hợp chất bay hơi (như carbonyl).
Các hóa chất gây nên sự phân ly protein thành các tiểu phần tử
thường làm yếu mối liên kết của các chất bay hơi không phân cực, do các
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 25
vùng kỵ nước giữa các phân tử sẽ có xu hướng bị che dấu cùng với sự thay
đổi cấu hình của các tiểu phần tử.
Thủy phân mạnh protein làm giảm khả năng cố định mùi. Một lượng
6-7mg 1hexanal có thể được cố định bởi 1kg protein đậu nành, nhưng nếu
protein này bị thủy phân bởi protease acid của vi khuẩn, khả năng cố định chỉ
còn
1 /mg kg
. Tương tự, thủy phân protein có thể được sử dụng để khử mùi
ngái của protein đậu nành.
Sự biến tính nhiệt - ngược lại – làm tăng khả năng cố định các hợp
chất bay hơi. Khi có mặt lipid, khả năng hấp thụ và giữ các thành phần bay
hơi carbonyl tăng lên, kể cả các chất mùi tạo ra do hiện tượng oxy hóa chất
béo.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 26
PHẦN 2: HỨ NĂNG ỦA PROTEIN
Một số chức năng của protein gồm:
1) Globulin miễn dịch G là loại kháng thể lưu thông trong máu và nhận
biết hạt ngoại lai gây hại. Foreign particle binding site : điểm bám
của hạt ngoại lai.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 27
2) Enzyme phenylalanine hydroxylase được hình thành từ 4 tiểu đơn vị.
Enzyme sẽ chuyển hóa amino acid phenylalanine thành amino acid
tyrosine.
3) Hormone tăng trưởng là protein thông tin hình thành từ tuyến yên.
Nó điều tiết tăng trưởng tế bào bằng cách bám vào protein gọi là thụ
quan hormone tăng trưởng (growth hormone receptor).
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 28
4) Sợi actin, một loại protein cấu trúc hình thành từ nhiều tiểu đơn vị,
giúp co cơ và duy trì hình dạng tế bào.
5) Ferritin, loại protein hình thành từ 24 tiểu đơn vị, liên quan với sự dự
trữ ion.
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 29
6) Kháng thể (Antibody): Kháng thể sẽ bám vào các phân tử ngoại lai như
virus và vi khuẩn nhằm bảo vệ cơ thể. Ví dụ: Immunoglobulin G (IgG) .
7) Enzyme: Enzyme xúc tác cho hầu hết các phản ứng hóa học xảy ra trong tế
bào. Chúng cũng giúp đỡ hình thành những phân tử mới bằng cách đọc thông
tin di truyền lưu trữ trong DNA . Ví dụ: Phenylalanine hydroxylase
8) Thông tin (Messenger ): Protein thông tin, như một số loại hormone,
truyền tải tín hiệu để phối hợp các quá trình sinh học giữa các tế bào, mô, cơ
quan khác nhau. Ví dụ: hormone tăng trưởng (Growth hormone )
9) Thành phần cấu trúc (Structural component): Những protein này cung cấp
cấu trúc và nuôi dưỡng tế bào. Trong một phạm vi lớn hơn, chúng còn cho
phép tế bào di chuyển. Ví dụ: Actin
10) Vận chuyển/ Dự trữ (Transport/storage): Các protein này bám vào những
nguyên tử và phân tử nhỏ bên trong tế bào và lưu thông trong cơ thể. Ví dụ:
Ferritin
KHOA NG NGHỆ THỰ PHẨM GVHD: THS TRẦN THỊ MINH HÀ
HÓA HỌ THỰ PHẨM Trang 30
PHỤ LỤ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Kim Anh (2008)
Hóa Học Thực Phẩm
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật
2. Lê Ngọc Tú chủ biên (2002)
Hóa Sinh Công Nghiệp
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật
3. Tài liệu trên mạng Internet
-
cua-protein.182580.html
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_hhtp_5_3212.pdf