Về lĩnh vực đào tạo, H ọc viện của Q uỹ đã đào tạo một số lượng lớn các quan chức cao cấp và
trung cấp của N gân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại
và Tổng cục Thống kê . thông qua một loạt các khoá đào tạo và hội thảo về nhiều chủ đề
khác nhau tại Washington, Viên và Singapore. Ngoài ra, gần đây hàng năm IMF còn phối hợp
với chính phủ Nhật Bản tổ chức hội thảo cho các cán bộ cao cấp của các nước đang trong quá
trình chuyển đổi, trong đó có Việt Nam, về quản lý kinh tế vĩ mô và kinh nghiệm của N hật
Bản. Điều này đã góp phần cải thiện và mở rộng kiến thức của các cán bộ quản lý kinh tế của
Việt Nam.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3727 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các tổ chức tài chính – WTO, WB, IMF, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y và
trách nhiệm của WTO, đóng góp tích cực vào việc xây dựng một hệ thống thương mại đa
phương công bằng, bình đẳng và cùng có lợi.(Báo Điện tử ĐCSVN)
*** Một số nhận định về việc gia nhập WTO của Việt Nam***
Ông Thomas Tobin - Chủ tịch và CEO HSBC Việt Nam: “Xứng đáng là “con hổ
mới” của châu Á”
Việt Nam đang có được niềm tin tốt nhất từ các nhà đầu tư nước ngoài với triển vọng đầu
tư rất cao. Thời gian qua, chúng ta đã nhìn thấy nhiều thay đổi lớn trong chính sách của Chính
phủ, kết quả của quá trình tự do hóa thị trường ở Việt Nam. Chúng tôi trông đợi năm 2008 và
những năm kế tiếp sẽ là một năm bùng nổ cho ngành tài chính ngân hàng với những cải cách
không ngừng của Chính phủ.
Song song với những triển vọng tốt đẹp đối với Việt Nam nói chung và khu vực ngân
hàng tài chính nói riêng, vẫn còn không ít những thách thức mà một trong số đó là sự khan hiếm
nguồn nhân lực có chuyên môn cao. Cơ sở hạ tầng vẫn còn là một trở ngại không nhỏ khi hệ
thống đường sá, cảng biển, cơ sở vật chất và các dự án xây dựng… đang chịu một áp lực không
nhỏ để theo kịp đà phát triển nhanh chóng cũng như tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn sắp
tới.
Ông Henry Birr - Phó Chủ tịch Tập đoàn Metro: “Nhấn mạnh vai trò của một quốc
gia thương mại”
Việc gia nhập WTO đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Nam như một quốc gia
thương mại. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã chứng minh được chính sách kinh tế
vững mạnh và đáng tin cậy. Metro hoàn toàn tin tưởng đường lối này sẽ được tiếp tục và sẽ tạo
nền tảng vững chắc cho đầu tư và cho thành công trong tương lai. (Thương mại)
B. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WORLD BANK)
I. Giới thiệu:
1. Tổng quan:
World Bank Group, thường được gọi tắt là Ngân hàng Thế giới và được viết tắt là WB là
một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở
các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này. Nhóm Ngân
hàng Thế giới bao gồm năm tổ chức tài chính thành viên, đó là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và
Phát triển, Hội Phát triển Quốc tế, Công ty Tài chính Quốc tế, Trung tâm Quốc tế Giải quyết
Mâu thuẫn Đầu tư, và Cơ quan Đảm bảo Đa phương.
Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD: International Bank for Reconstruction
and Development): được chính thức thành lập ngày 27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài
chính cho các nước Tây Âu để họ tái thiết kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho
phát triển kinh tế ở các nước nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế, IBRD
cấp tài chính cho các nước đang phát triển không nghèo.
Hội Phát triển Quốc tế (IDA: International Development Association): được thành lập
năm 1960 chuyên cấp tài chính cho các nước nghèo.
Công ty Tài chính Quốc tế (IFC : International Financial Corporation): thành lập năm
1956 chuyên thúc đẩy đầu tư tư nhân ở các nước nghèo.
Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID: International Centre for
Settlement of Investment Disputes): thành lập năm 1966 như một diễn đàn phân xử hoặc trung
gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước nhận đầu tư.
Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA: Multilateral Investment Guarantee
Agency): thành lập năm 1988 nhằm thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển.
2. Mục tiêu hoạt động của WB
- Tăng trưởng kinh tế và X óa đói giảm nghèo của quốc gia thành viên
- Hỗ trợ sự phát triển và nâng cao mức sống của người dân tại các quốc gia thành viên.
II. Chức năng của WB:
Chức năng của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện.
1. IBRD và IDA:
IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại (hiện WB
có 184 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng được vay WB. Cá nhân và công
ty không được WB cho vay. Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc
dân trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ
cao hơn lãi suất mà WB đã đi vay một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc
dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của
IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm.
Trong hai thập kỳ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá trị các
khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao thông vận tải.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan trọng nhất,
song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục, y tế, dinh dưỡng, kế hoạch
hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Các hoạt động của
IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến giúp đỡ người nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài
chính lẫn kỹ thuật.
Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRD và IDA bắt
đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các nước đang phát triển.
Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu hiện nay của IBRD và IDA.
2. IFC:
IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là
vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu
tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án. Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy
đầu tư vào khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo và cải thiện
đời sống nhân dân. IFC cấp vốn cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn
trên thị trường tài chính quốc tế. IFC cũng cung cấp trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính phủ và
doanh nghiệp.
IFC là tổ chức đa phương cung cấp vốn cổ phần và vốn vay lớn nhất cho các doanh
nghiệp tư nhân tại các nước đang phát triển. Nguồn vốn của IFC là dài hạn và theo điều kiện thị
trường.
Vốn điều lệ của IFC do 175 nước thành viên cung cấp, và họ cùng quyết định chính sách
và phê duyệt các khoản đầu tư của IFC.
Trong năm 2001 IFC phê duyệt 240 dự án, cung cấp 3.7 tỷ USD vốn của IFC và 1.6 t ỷ
USD từ các ngân hàng tư nhân qua các chương trình cho vay hợp vốn.
IFC chia sẻ rủi ro dự án cùng với chủ đầu tư và các đối tác tài chính khác nhưng không
tham gia vào việc quản lý dự án.
IFC chỉ cấp vốn cho một phần tổng chi phí dự án. Cứ 1 USD vốn của IFC, các nhà đầu tư
và cho vay khác cung cấp 5 USD.
Điều lệ của IFC yêu cầu công ty hoạt động có lãi và công ty luôn có lãi kể từ khi ra đời.
IFC không chấp nhận bảo lãnh của chính phủ.
IFC có khoảng 2000 nhân viên làm việc tại Washington D.C. và trên 70 văn phòng đại
diện.
Sự tham gia của IFC và các dự án giúp đảm bảo và cân bằng như cầu của các bên trong
một giao dịch: Nhà đầu tư nước ngoài, đối tác trong nước, các tổ chức tín dụng khác và chính
quyền.
3.MIGA:
MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các
nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
Cùng vói các liên minh thành lập giữa các năm 1956 và 1988, IBRD là một phần của
nhóm Ngân hàng thế giới. Trụ sở đặt tại Washington, D.C. Nó là một tổ chức quốc tế do các
chính phủ thành viên nắm giữ. Mặc dù nó đem lại lợi nhuận nhưng lợi nhuận của nó được tái sử
dụng để góp phần vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo.
Về mặt kỹ thuật mà nói thì WB là một phần của hệ thống Liên Hợp Quốc, nhưng cơ cấu
về nước thành viên thì lại khác, mỗi chi nhánh của Nhóm ngân hàng thế giới nằm dưới sự quản
lý của chính phủ đó được đại diện bởi phần góp vốn và tỷ lệ phiếu bầu tương ứng. Thành viên có
quyền bỏ phiếu như các quốc gia khác nhưng có thể có thêm số phiếu tùy thuộc vào đóng góp
tài chính vào tổ chức
Kết quả là, Ngân hàng thế giới được hoạt động chủ yếu bởi các quốc gia phát triển, trong
khi khách hàng hầu hết là các quốc gia đang phát triển. Một vài ý kiến ghi nhận rằng cơ cấu
chính phủ ấy đã làm lợi phần lớn cho các quốc gia phát triển. Ví dụ vào 1/11/2006 M ỹ giữ
16,4% tổng số phiếu; Nhật:7,9%; Đức:4,5% và Anh, Pháp mỗi bên giữ 4,3%. Và kết quả chỉ
được thông qua khi đạt được 85% trên tổng số phiếu.
Như thế chứng tỏ M ỹ có thể khống chế được hầu hết chính sách hay thay đổi của WB.
III. Vị thế của Việt nam tại WB
1. Vị thế:
- Gia nhập WB: Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam gia nhập WB. Ngày
21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại WB của Chính quyền Sài
gòn cũ.
- Cổ phần của Việt nam tại
+ IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,08%
+ IDA là 14.778 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 19.203, chiếm 0,14%
+ IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03%
+ M IGA là 388 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 565, chiếm 0,29%
2. Các hoạt động của WB tại Việt Nam
2.1. Quan hệ VN - WB giai đoạn 1978-1993
- Năm 1978, WB đã cho Việt Nam vay một khoản tín dụng trị giá 60 triệu USD để thực hiện dự
án Thuỷ lợi Dầu tiếng. Tháng 1/1985, IMF và WB đình chỉ quyền vay vốn của Việt nam do
Việt nam mắc nợ quá hạn.
2.2. Quan hệ VN-WB giai đoạn 93 đến nay
Sau một thời gian bị gián đoạn, đến tháng 10/1993, với nỗ lực to lớn và quyết tâm thực
hiện cải cách của Chính phủ Việt Nam cùng với sự vận động dàn xếp tài chính thiện chí của các
nhà tài trợ thuộc Câu lạc bộ Paris, quan hệ tín dụng giữa WB và Việt Nam đã chính thức được
nối lại.
Văn phòng Đại diện của WB tại Việt Nam: Ngày 14/09/1994, WB chính thức mở Văn
phòng tại Hà nội. Từ năm 1993 đến nay, WB đã bổ nhiệm 03 cán bộ giữ chức vụ Giám đốc Văn
phòng WB tại Việt nam: ông Bradley Babson (1993-1997), ông Andrew Steer (1997-2002) và
hiện này Ajay Chhibber..
Trong số các tổ chức cho vay thuộc nhóm WB, hỗ trợ tài chính dưới hình thức cho vay ưu
đãi và hỗ trợ kỹ thuật của IDA cho Việt nam chiếm vai trò chủ đạo trong mối quan hệ giữa Việt
nam với nhóm WB (thời hạn vay 40 năm, phí dịch vụ 0,75%/năm, phí cam kết 0- 0,5%/năm,
không lãi suất, 10 năm ân hạn). Ngoài ra, IFC cũng cho vay các dự án thuộc khu vực tư nhân của
Việt Nam với lãi suất thị trường. M IGA đã ký kết một số hiệp định bảo lãnh cho các dự án đầu
tư vào Việt nam.
2.3. Tài trợ của WB dối với Việt nam
Tính đến tháng 31/12/2003, WB đã cam kết tài trợ 41 dự án và chương trình cho Việt
Nam với tổng số vốn cam kết đạt hơn 4,38 tỷ USD (kể cả dự án Thuỷ lợi Dầu tiếng vay vốn WB
tháng 8/1978 và khoản bảo lãnh dự án điện BOT Phú Mỹ 2-2). Tổng số vốn giải ngân tính đến
tháng 31/12/2003 đạt hơn 2,18 tỷ USD, chiếm khoảng 50% tổng số vốn cam kết. Các dự án mà
WB tài trợ cho Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực ưu tiên cao của Nhà nước như:
nông nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng, cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, giao thông, y tế, giáo dục,
tài chính ngân hàng. Các dự án này đã đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cấp cơ sở
hạ tầng kinh tế, phát triển các dịch vụ xã hội, tăng cường thể chế và phát triển nguồn nhân lực,
quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, Việt nam là nước vay
IDA lớn nhất
Ngoài việc cho vay các dự án và chương trình, WB cũng cung cấp các khoản Hỗ trợ Kỹ
thuật (HTKT) cho Việt Nam, kể cả các khoản HTKT uỷ thác của các nước. Tổng số HTKT của
WB tính đến tháng 31/12/2003 là hơn 135 khoản với trị giá khoảng 322 triệu USD; trong đó bao
gồm 19 khoản đồng tài trợ trị giá 210,6 triệu USD.
2.4. Các hoạt động khác của WB tại Việt nam
Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Trung tâm Thông tin Phát triển Việt nam
(VDIC) trực thuộc Văn phòng WB tại Hà nội đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 4/1/2001.
Mục tiêu của Trung tâm này là mở rộng quan hệ hợp tác, tăng cường chất lượng hoạt động, nâng
cao hiệu quả hỗ trợ của Nhóm WB cho Việt nam cũng như tăng cường sự hợp tác với các cơ
quan hỗ trợ phát triển đang hoạt động tại Việt nam. Trung tâm này hỗ trợ Việt nam tiếp cận tri
thức và thông tin phát triển mới nhất cũng như chia sẻ kinh nghiệm với các nước khác trên thế
giới; đồng thời góp phần giúp cho thế giới bên ngoài hiểu rõ hơn về Việt nam. Trong thời gian
hoạt động vừa qua, Trung tâm đã tổ chức một số khoá học liên quan tới các lĩnh vực ưu tiên
phát triển.
Hiện nay, WB đang dự kiến việc mở thêm một Trung tâm Đào tạo Từ xa tại TP. Hồ Chí
Minh và mở rộng mạng kết nối đào tạo phát triển toàn cầu (GDLN) .
3. Chiến lược hỗ trợ của WB tại Việt Nam
Chiến lược hỗ trợ quốc gia của Ngân hàng Thế giới là “kế hoạch kinh doanh” được trực
tiếp thông tin cũng như hướng dẫn của Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện của
Chính phủ Việt Nam (CPRGS), chiến lược này đặt mục tiêu giảm nghèo và tăng trưởng ở trung
tâm của các chiến lược phát triển của Chính phủ.
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện được Thủ tướng chính phủ thông qua
tháng 5 năm 2002, được xây dựng trên cơ sở tham vấn rộng rãi với các bộ, ngành, các nhà tài trợ
và các cộng đồng trong xã hội, đóng vai trò là một kế hoạch hành động cho Chính phủ và thông
qua Chiến lược hỗ trợ quốc gia mới cho Việt Nam, là khuôn khổ cho chương trình hỗ trợ của
Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam trong tương lai. Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn
diện đặt ra ba mục tiêu lớn và ba mục tiêu này lại được coi là các nguyên tắc tổ chức chính của
Chiến lược hỗ trợ quốc gia của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam.
Mục tiêu thứ nhất là hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, sẽ vẫn tiếp
tục là mục tiêu trung tâm của các hoạt động của Ngân hàng Thế giới, với sự chuyển hướng từ
“thiết kế” sang hỗ trợ Chính phủ “thực hiện” chương trình cải cách chính sách.
Các chương trình kế hoạch được thiết kế trong Chiến lược hỗ trợ quốc gia tập trung vào
phát triển ngành tài chính; cải cách các doanh nghiệp nhà nước; hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư
nhân đang nổi lên; quản trị doanh nghiệp và sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng.
Công ty tài chính quốc tế IFC, Chương trình Phát triển Dự án Mê kông MPDF và Tổ chức bảo
lãnh đầu tư đa phương M IGA sẽ mở rộng chương trình hoạt động để cải thiện môi trường đầu tư
trong nước cũng như nước ngoài.
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện đưa ra một chương trình 6 bước nêu bật
các thách thức trong tương lai để đạt được mục tiêu lớn thứ hai của chiến lược này là củng cố
phát triển công bằng, hội nhập và bền vững. Mục tiêu này được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tích
cực thông qua toàn bộ giai đoạn thực hiện của Chiến lược hỗ trợ quốc gia CAS. Các ưu tiên
chính được đưa ra ở mục tiêu này gồm phối hợp với Chính phủ thu hẹp các khoảng cách phát
triển của các vùng khó khăn và tụt hậu; nâng cao mức sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số;
nhận thức rõ công bằng giới và tiến bộ của phụ nữ; người nghèo có thể tiếp cận và trả tiền được
các dịch vụ xã hội cơ bản; giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai và các chấn động khác; và củng cố
phát triển môi trường bền vũng. Những vấn đề này được nhấn mạnh trong toàn bộ chương trình
hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới.
Nằm trong khuôn khổ mục tiêu lớn thứ ba thúc đẩy quản trị tốt, Ngân hàng Thế giới sẽ
tập trung hỗ trợ giúp Chính phủ cải thiện quản lý tài chính công, thông tin và tính minh bạch và
cũng củng cố phát triển luật pháp. Các hỗ trợ kỹ thuật chủ yếu sẽ được cung cấp cho từng lĩnh
vực và các dự án sẽ được xây dựng là Quản lý tài chính công, Chính phủ điện tử và có thể cả
phát triển luật pháp. Chiến lược hỗ trợ quốc gia cũng nêu rõ quan hệ đối tác là chìa khoá để đạt
được tiến bộ trong lĩnh vực quản trị. Nhóm Ngân hàng Thế giới sẽ tiếp tục cố gắng hỗ trợ Việt
Nam giải quyết nạn tham nhũng, trực tiếp qua chương trình hỗ trợ của Ngân hàng và thông qua
việc hỗ trợ Chính phủ giải quyết vấn đề này một cách có hệ thống.
Để hỗ trợ ba mục tiêu chính yếu này, Chiến lược hỗ trợ quốc gia đưa ra một chương trình
hỗ trợ theo kế hoạch trong ba năm tới bao gồm các hoạt động nghiên cứu và tư vấn, dự án hỗ trợ
thông qua chương trình cho vay của Ngân hàng Thế giới và các hoạt động hỗ trợ của Công ty tài
chính quốc tế IFC, Chương trình Phát triển Dự án Mê kông M PDF và Tổ chức bảo lãnh đầu tư
đa phương MIGA để hỗ trợ khu vực tư nhân và đầu tư, và một loạt các tín dụng giảm nghèo
hàng năm (PRSCs) hỗ trợ giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam, quan hệ đối tác và điều phối
chương trình ODA.
Trong từng lĩnh vực mà Ngân hàng Thế giới đặt kế hoạch hỗ trợ đều đã được Chính phủ
và các nhà tài trợ nhất trí nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn ODA được hiệu quả cao nhất. Chiến
lược hỗ trợ quốc gia đưa ra các chương trình cho vay dự kiến từ 300 đến 760 triệu đô la M ỹ mỗi
năm, trực tiếp hỗ trợ các mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam được đặt ra trong Chiến lược tăng
trưởng và giảm nghèo toàn diện (CPRGS), tập trung cho bốn ngành chính: phát triển nông thôn;
phát triển đô thị; cơ sở hạ tầng và phát triển con người.
4. Đánh giá chung
Về quan hệ VN - WB: Kể từ khi nối lại quan hệ với tín dụng với Việt Nam đến nay, WB
đã có những đóng góp và hỗ trợ tích cực vào công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, đặc biệt là
công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt nam. Quan hệ giữa Việt Nam và WB ngày càng được củng
cố và phát triển. Điều này được thể hiện thông qua các chuyến thăm và làm việc chính thức tại
Việt Nam của Chủ tịch WB - Ngài James D. Wolfensohn năm 1996 và 2000 và các chuyến thăm
của các Tổng Giám đốc, các Phó Chủ tịch. Phía WB đã đánh giá cao những kết quả đạt được và
nỗ lực to lớn của Chính phủ Việt Nam trong công cuộc cải cách kinh tế, xoá đói giảm nghèo và
thực hiện công bằng xã hội
Quan hệ với IFC: Kể từ năm 1993, IFC đã thông qua 30 dự án với tổng số vốn đầu tư là
605 triệu USD dưới hình thức tài trợ trực tiếp và hợp vốn, hỗ trợ cho các dự án có tổng số vốn
đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Hoạt động của IFC chủ yếu đầu tư vào khu vực ngoài quốc doanh
của nền kinh tế như sản xuất xi măng, thép, khách sạn, may mặc, chế biến nông sản... Ngoài ra,
IFC còn thành lập Chương trình Phát triển Dự án Mê kông (MPDF). Trong thời gian vừa qua,
MPDF đã hỗ trợ tiếp cận tài chính cho 72 dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SM E) trị giá
50 triệu USD và thực hiện 15 khoản HTKT. M PDF đã tích cực giúp đánh giá môi trường kinh
doanh cho các doanh nghiệp tư nhân ở Việt nam, trong lĩnh vực đào tạo cho các ngân hàng và
các nhà quản lý trong nước, và xây dựng năng lực cho tư vấn trong nước
Quan hệ với MIGA: với mục tiêu hoạt động của mình, MIGA đã phát hành 7 Hiệp định
bảo lãnh ở Việt nam với tổng trị giá 451 triệu USD trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, chế biến
xuất khẩu cà phê, xây dựng nhà máy sản xuất kính và dự án điện BOT Phú M ỹ 3.
IV. Vai trò của WB đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và xu hướng ODA của WB
cho Việt Nam.
Kể từ khi nối lại quan hệ tín dụng với WB vào 10/1993, WB cung cấp 3 loại dịch vụ chủ
yếu là: (1) thiết kế và tài trợ cho các dự án phát triển; (2) hỗ trợ kỹ thuật (TA), tư vấn về chính
sách và các báo cáo phân tích; và (3) điều phối viện trợ
(1) Tài trợ của WB cho Việt nam thường tập trung vào các dự án trong các lĩnh vực phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển thể chế và nguồn nhân lực ... nay hướng trọng tâm vào xoá đói
giảm nghèo, các khoản vay chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các khoản vay chương
trình theo ngành trong thời gian tới. Điều này cho thấy Việt nam đã dần dần nâng cao năng lực
tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua
Chương trình Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu (SAC I) và Chương trình Tín dụng Hỗ trợ
Giảm nghèo (PRSC) I và II tập trung vào 5 lĩnh vực cải cách trọng tâm của nền kinh tế bao gồm
: (i) cải cách ngân hàng; (ii) cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước; (iii) cải cách chi tiêu
công; (iv) tự do hoá thương mại; và (v) phát triển khu vực tư nhân. Ngoài ra, chương trình PRSC
II còn được mở rộng sang một số lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Việt nam
sẽ chuẩn bị tiếp nhận các PRSC trong những năm tiếp theo.
(2) HTKT và tư vấn về chính sách và các báo cáo phân tích
Các HTKT của WB tập trung vào các lĩnh vực như: hỗ trợ chuẩn bị các dự án do WB tài
trợ tín dụng, phát triển thể chế nhằm xây dựng và nâng cao năng lực quản lý điều hành của một
số ngành và cơ quan liên quan đến dự án, xây dựng và phát triển chính sách nhằm nâng cao
khuôn khổ chính sách, pháp lý cho các dự án hạ tầng cơ sở thuộc ngành điện, vệ sinh môi
trường, cấp thoát nước, tài chính, ngân hàng v.v. và đã phát huy được hiệu quả trong quá trình
thực hiện
Ngoài ra, hàng năm WB còn cử các đoàn vào Việt nam phối hợp với các bộ ngành soạn
thảo và phát hành các báo cáo kinh tế, báo cáo ngành, xây dựng Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia
(CAS) cho Việt Nam
(3) Điều phối viện trợ: hàng năm Hội nghị tư vấn giữa các nhà tài cho Việt nam (CG) -
do WB làm đồng chủ tọa - được tổ chức nhằm vận động các nhà tài trợ cung cấp hỗ trợ tài chính,
kỹ thuật và điều phối viện trợ giữa các nhà tài trợ . Nhờ đó, vốn viện trợ được sử dụng hiệu quả
hơn phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam. WB đã tái khẳng định cam kết tiếp
tục hỗ trợ Việt nam theo Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CAS) cho Việt nam trong thời kỳ 2 năm
tới, từ 2004 - 2006.
Tóm lại, các hỗ trợ dưới hình thức cho vay ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của IDA cho
Việt nam chiếm vai trò chủ đạo trong mối quan hệ giữa Việt nam với nhóm WB. Đặc biệt, bên
cạnh hỗ trợ về tài chính, Chính phủ Việt nam đánh giá cao vai trò tư vấn về chính sách để thực
hiện thành công Chương trình Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu (SAC I) và các Chương trình Tín
dụng Hỗ trợ Giảm nghèo (PRSC ) I và II. Với vai trò đồng chủ tọa Hội nghị CG hàng năm, WB
đã làm tốt vai trò điều phối và kêu gọi tài trợ trực tiếp để hỗ trợ Việt nam phát triển kinh tế, qua
đó tăng uy tín của Việt nam trong cộng đồng tài chính quốc tế, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt nam. Điều này thể hiện qua việc đồng tổ chức thành công Hội nghị CG năm
2003 với mức cam kết 2,8 tỷ USD cho Việt nam trong năm 2004.
V. Các Tổ chức thành viên của WB tại Việt Nam
1. IFC tại Việt Nam
Từ năm 1994, cho đến tháng 10 năm 2001, IFC đã cam kết cấp vốn cho 15 dự án tại Việt
Nam.
Đối với các dự án này IFC đã cung cấp 383 triệu USD trong đó 180 triệu USD do bản
thân IFC và 203 triệu USD cho các ngân hàng tham gia.
IFC hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân tại Việt Nam qua đầu tư và tư vấn. Ưu tiên
chiến lược của IFC tại Viêt Nam là tiếp tục tập trung vào:
Xây dựng tổ chức và thị trường tài chính trong nước.
Phát triển cơ sở hạ tầng qua tư nhân hoá và đầu tư.
Cải cách Doanh nghiệp nhà nước.
Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs).
Cải thiện môi trường đầu tư.
Ngoài ra, IFC quản lý Chưong Trình Phát Triển Dự Án Mekong (MPDF), một hoạt động
do nhiều tổ chức tài trợ nhằm đẩy mạnh việc thành lập và phát triển của các SMEs tại Việt Nam,
Lào, Cambodia.
Từ khi thành lập vào năm 1997, MPDF đã cung cấp hỗ trợ cho 80 công ty và thu xếp tài
chính trị giá khoảng 40 triệu USD.
IFC, cùng với Ngân Hàng Thế Giới, hiện đang tích cực đẩy mạnh Diễn Đàn Doanh
Nghiệp. Mục tiêu của diễn đàn nhằm cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam và tổ chức 2
lần một năm hội nghị giữa các nhà hoạch định chính sách, đại diện doanh nghiệp và các nhà tài
trợ.
Các Dự án IFC tại Việt Nam
Tài Chính: vào năm tài chính 1997 IFC giúp thành lập Công ty Cho Thuê Quốc Tế Việt Nam
(Vietnam International Leasing Company Limited (VILC), công ty thuê tài chính đầu tiên tại
Việt Nam).
VILC đóng vai trò là quan trọng trong, cung cấp nguồn tài chính trung hạn cho các SM Es
tại Việt Nam. Từ khi thành lập, VILC đã cung cấp 35 triệu USD vốn thuê mua tài chính cho gần
250 công ty. Nguồn vốn của công ty đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mua sắm
nhiều tài sản cố định bao gồm máy móc, thiết bị văn phòng và cho nhà máy.
VILC phát triển từ chương trình hỗ trợ của IFC vào năm 1991: IFC tư vấn cho chính phủ
Việt Nam về thuê mua và xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho việc cấp phép, quản lý và
thực hiện hoạt động cho thuê tài chính.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ: IFC cung cấp khoản vay trị giá 300,000 USD cho công ty Vinh Phat
(Vinh Phat), một cơ sở sản xuất và xuất khẩu sản phẩm may mặc trong nước. Khoản đầu tư này
tạo điều kiện cho Vĩnh Phát mở rộng sản xuất và trang thiết bị và mua dây chuyền thiết bị mới.
Dự án giúp công ty tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.
Giáo dục: Vào năm tài chính 2001 IFC phê duyệt khoản vay trị giá 7.25 triệu USD để thành lập
Trường Đại Học Tổng Hợp RMIT (RM IT). Đóng tại Thành Phố Hồ Chính Minh, RMIT là
trường đại học nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Do thiếu trường đại học và trung cấp, chỉ có 1
trong 6 sinh viên có thể vào học tại các trường đại học tại Việt Nam.
Dự án sẽ tạo điều kiện hàng nghìn học sinh có thể có được giáo dục đại học hiện đại chất
lượng cao mà không phải đi ra nước ngoài. Trường đại học sẽ cung cấp các chương trình đào tạo
có bằng, dạy ngoại ngữ và đào tạo chuyên môn xây dựng theo nhu cầu thị trường.
2. Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) tại Việt Nam
Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (M IGA) hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực có sự
tham gia và có vai trò lớn của khu vực tư nhân trong ngành điện và các lĩnh vực truyền
tải, và hỗ trợ phát triển cho khả năng thúc đẩy đầu tư.
Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) cũng đã tiến hành nghiên cứu tổng quan
về các kinh nghiệm tốt nhất của thúc đẩy đầu tư cho Chính phủ. Tổ chức cũng thiết kế và tiến
hành các chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho thúc đẩy đầu tư của Việt Nam, bao gồm cả xây dựng
và cho ra đời trang thông tin để thúc đẩy đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) hiện đang tìm kiếm khả năng hợp tác với
khối ASEAN để hỗ trợ cho các chương trình xây dựng năng lực thúc đẩy đầu tư được chỉnh sửa
cho các nước thành viên mới nhất của ASEAN( trong đó có Việt Nam) nhằm làm giảm bớt
khoảng cách phát triển giữa những nước này và các thành viên khác của ASEAN.
Tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2003, tổng hỗ trợ của M IGA cho Việt Nam là 10 triệu đô
la M ỹ. Số tiền này bao gồm cả một dự án viễn thông được bảo lãnh vào năm 2001. MIGA hiện
cũng đang xem xét hỗ trợ cho một dự án năng lượng ( lên đến khoảng 100 triệu đô la M ỹ).
Chương trình Việt Nam - MIGA, năm tài chính 1999-2002
1999 2000 2001 2002 ước tính
Công cụ đầu tư (%)
Khoản cho vay 0 100 100 30
Góp vốn 14
Những khoản đóng góp tương đương
với vốn
56
Các công cụ khác
Tổng cộng 0 100 100 100
Các tín dụng bảo lãnh MIGA (US$m) 36.00 36.00 20.00 20.00
3. Chương trình Phát triển Dự án Mê Kông (MPDF)
Chương trình Phát triển Dự án Mê Kông (MPDF) là chương trình
do nhiều bên tài trợ được điều hành bởi Công ty Tài chính Quốc
tế (IFC), bộ phận kinh tế tư nhân thuộc Tập đoàn Ngân hàng Thế
giới.
Các nhà tài trợ khác của MPDF bao gồm: Ngân hàng Phát triển Châu A, Canada,
Australia, IFC, Na Uy, Nhật Bản, Phần Lan, Thuỵ Sỹ, Thuỵ Điển, và Vương quốc Anh. Sứ mện
của MPDF là thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa
(DNNVV) sở tại ở Việt nam, Căm pu chia và Lào.
Với văn phòng tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Phnôm Pênh, và Viên Chăn, MPDF thưc
hiện ba hoạt động chính sau:
Dịch vụ Hỗ trợ Tư vấn Doanh nghiệp: MPDF cung cấp hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp cho các
DNNVV có mong muốn cải tiến hoạc mở rộng hoạt động hiện có, hoặc cần giúp đỡ thiết lập
hoạt động mới. Với mức độ phát triển và nhu cầu của doanh nghiệp thay đổi, MPDF có thể cung
cấp các dịch vụ khác nhau như:
- Đánh giá hoạt động doanh nghiệp: dịch vụ này được tiến hành nhằm xác định vấn đề và
khuyến cáo các biện pháp giải quyết
- Kết nối doanh nghiệp với các nhà tư vấn và các nhà cung cấp dịch vụ doanh nghiệp sở tại
- Phát triển các dự án đầu tư và thu xếp nguồn tài chính
Chương trình Phát triển Doanh nghiệp: M PDF cung cấp trợ giúp để tăng cường năng lực của
các cơ quan sở tại có cung cấp dịch vụ thiết yếu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Đào tạo quản lý và học tập linh hoạt
- Trung tâm Đào tạo Ngân hàng
- Phát triển các hiệp hội doanh nghiệp
- Xúc tiến xuất khẩu
Môi trường Hỗ trợ Doanh nghiệp: MPDF hợp tác với các đối tác tiến hành nghiên cứu và đối
thoại về chính sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các nghiên cứu, điều tra về khu vực tư nhân
- Cinema, hội thảo về các vấn đề phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Đem đến Việt Nam các kinh nghiệm quốc tế
VI. WB nhận định những thách thức của kinh tế Việt Nam
Báo cáo được ông bố ngày 7/12 đã dành một phần khá lớn để nói về những mặt được của
kinh tế Việt Nam trong năm qua như mức tăng GDP, xuất khẩu, vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư
trong nước hay thành công trong xoá đói giảm nghèo... Tuy nhiên, điều mà nhiều người muốn
biết là những nhận định của WB về các thách thức của nền kinh tế vì chúng có thể giúp chúng ta
có một cái nhìn khách quan hơn, nhằm xác định hướng phát triển cho những năm tới.
Những quan ngại về tỷ lệ lạm phát
Một trong những vấn đề nóng hiện nay là t ình hình lạm phát gia tăng. Tính đến tháng 11,
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái, tức là đã tăng 9,5% kể từ đầu
năm, vượt xa mục tiêu của Chính phủ giữ tỉ lệ này thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP. Nguyên
nhân chính, theo WB, là do chính sách tỷ giá của Việt Nam gắn chặt với đồng USD nên việc
tăng giá một số mặt hàng trao đổi được trên thị trường thế giới đã có ảnh hưởng rất lớn đến một
nền kinh tế mở như Việt Nam.
Thêm vào đó, những biến động do cung đẩy lạm phát tăng nhanh vẫn chưa lắng xuống.
Trong đó phải kể đến những cú sốc như các đợt dịch bệnh gia súc gia cầm, lũ lụt ở miền Trung,
và giá các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như sắt thép, xi măng và các sản phẩm xăng dầu...
Báo cáo của WB cho biết: Chính phủ Việt Nam đã dành một khoản ngân sách khoảng
500 triệu USD để trợ giá xăng dầu, trong đó khoảng 140 triệu USD được chi tính đến cuối tháng
10/2007. Tuy nhiên, giá bán lẻ xăng dầu đã tăng 15% (từ 11.300 đồng lên 13.000 đồng/lít) vào
ngày 22/11, khi giá dầu thế giới đạt ngưỡng gần 100 USD/thùng. Giá bán lẻ dầu diesel cũng tăng
từ 8.600 đồng lên 14.500 đồng/lít.
Về mặt tín dụng, báo cáo cho rằng quan ngại chủ yếu là mức tăng trưởng tín dụng quá
nhanh sẽ không đảm bảo chất lượng tín dụng. M ặc dù mức tăng trưởng tín dụng đã được kiềm
chế và giảm xuống còn 25% trong năm 2006 nhưng đã lại tăng quá nhanh lên đến 40% tính tới
tháng 8/2007. Những tháng gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã tỏ ra lo ngại về những rủi ro liên
quan tới kế hoạch tăng vốn của các ngân hàng thương mại.
Với sự sôi động của thị trường chứng khoán, nhiều ngân hàng đã lợi dụng cơ hội này để
tăng vốn mà thiếu những kế hoạch kinh doanh thích hợp. Do vậy, một quy định mới ra gần đây
đã yêu cầu các ngân hàng muốn tăng vốn thì phải cung cấp kế hoạch kinh doanh chi tiết, trong
đó nêu rõ mức lợi nhuận trên vốn cổ phần và tỷ lệ cổ tức dự kiến sau khi tăng vốn.
Thất vọng về cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước
WB cũng nhắc đến sự thất vọng của các nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia vào quá
trình cổ phần hoá một số ngân hàng thương mại Nhà nước. Các nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài mong đợi mức trần quy định sẽ tăng từ 10% lên 20%, song cuối cùng lại được chốt lại ở
mức 15%. Trong một số trường hợp cụ thể, Thủ tướng có thể cho phép áp dụng mức 20%.
C. QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ- IMF
I. Giới thiệu chung về Q uỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF)
1.1. Mục tiêu hoạt động:
Tăng cường hợp tác tiền tệ quốc tế thông qua một tổ chức thường trực, tổ chức này thiết
lập cơ chế cho công tác tư vấn và hợp tác về các vấn đề tiền tệ quốc tế.
Tạo điều kiện thực hiện những mục tiêu cơ bản của chính sách kinh tế như mở rộng và
tăng trưởng cân bằng thương mại quốc tế, và từ đó góp phần củng cố và duy trì tỉ lệ công ăn việc
làm và thu nhập thực tế cao và góp phần vào sự phát triển của các nguồn lực hữu ích của tất cả
các nước hội viên.
Tăng cường ổn định ngoại hối, duy trì các giao dịch ngoại hối có trật tự giữa các nước hội
viên, và tránh việc giảm giá hối đoái có tính cạnh tranh.
Hỗ trợ xây dựng hệ thống thanh toán đa biên đối với các giao dịch vãng lai giữa các nước
hội viên và hỗ trợ cho việc loại bỏ các hạn chế ngoại hối làm cản trở tăng trưởng thương mại thế
giới.
Tạo lòng tin cho các nước hội viên bằng cách cho các nước hội viên được sử dụng tạm
thời Nguồn Vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp, từ đó tạo cho họ những cơ hội
điều chỉnh những sai lệch trong cán cân thanh toán mà không phải sử dụng những biện pháp có
phương hại đến tiềm năng của quốc gia cũng như quốc tế.
Rút ngắn thời gian và giảm nhẹ mức độ mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế của
các nước hội viên.
1.2. Vai trò chủ yếu:
Cung cấp hỗ trợ tài chính
Hỗ trợ kỹ thuật
Đào tạo
1.3. Ngân sách hoạt động
Dựa vào Nguồn vốn chung của Quỹ. chủ yếu là vốn cổ phần của các nước thành viên và
tích luỹ của IMF. Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất nhập
khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra, trong trường hợp cần
thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để phục vụ cho các hoạt động
của mình. Đến ngày 31/8/2004, tổng vốn cổ phần của IMF là 311 tỷ USD, trong đó cổ phần các
nước thành viên là: Mỹ (17,46%) – chiếm vị trí lớn nhất, Đức (6,11%), Nhật bản (6,26%), Anh
(5,05%) và Pháp (5,05%).
1.4. Các hình thức hỗ trợ:
IMF không cam kết cho vay vốn theo tài khoá.
IMF xem xét cho các nước thành viên vay tín dụng khi thâm hụt cán cân thanh toán quốc
tế (do nhập siêu hoặc trả nợ), đồng thời các nước này không có nợ quá hạn đối với các tổ chức tài
chính quốc tế (IMF, WB, ADB...)
Để được vay IMF, nước xin vay phải lập và thực hiện chương trình cải cách cơ cấu trung
hạn (3-5 năm) với sự thoả thuận và giám sát thực hiện của IM F (gồm khung khổ chính sách về
cải cách kinh tế vĩ mô và các biện pháp thực hiện các cải cách).
Tín dụng IMF được cung cấp và hoàn trả dưới dạng tiền mặt (quy đổi về SDR tại thời
điểm rút vốn hoặc trả nợ). Tiền rút về cho Ngân sách chủ yếu để hỗ trợ cán cân thanh toán quốc
tế hoặc đưa vào dự trữ ngoại lệ, trả nợ. Ngân sách có điều kiện bù đắp cho các khoản chi khác
của Chính phủ.
Trong thời gian thực hiện khoản vay, nếu nước vay nợ không thực hiện đầy đủ các cam
kết (khung chính sách và các biện pháp) sẽ bị ngừng cấp tín dụng. Khi đã bị IMF tuyên bố
ngừng cấp tín dụng thì các tổ chức tài chính quốc tế khác cũng ngừng cấp tín dụng đối với các
khoản vay đang thực hiện. Do vậy, khi đã vay IMF, các quốc gia vay nợ phải thực hiện đầy đủ
các cam kết và không được cam kết những gì ngoài khả năng
II. Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu hiện hành của IM F gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc Điều hành, Tổng
Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.
Hội đồng Thống đốc: Bộ phận ra quyết định cao nhất tại IMF. Hội đồng Thống đốc bao
gồm các Thống đốc (thường là Thống đốc Ngân hàng Trung ương hoặc Bộ trưởng Tài chính) và
một Thống đốc phụ khuyết do từng nước hội viên IM F bổ nhiệm. Hội đồng thống đốc có một số
các quyền hạn cụ thể, chẳng hạn như kết nạp hội viên mới, quyết định cổ phần, và phân bổ đồng
SDR cũng như các quyền hạn khác không phân cấp cho Ban Giám đốc Điều hành hoặc Tổng
Giám đốc. Hội đồng Thống đốc IMF họp Hội nghị thường niên kết hợp với Hội nghị thường
niên của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Thế giới.
Ủy ban Tài chính Tiền tệ Q uốc tế: Trước đây gọi là Ủy ban Lâm thời, do Hội đồng Thống
đốc IMF thành lập vào tháng 10/1974 với chức năng là để tư vấn cho các Thống đốc về các vấn
đề tiền tệ quốc tế. M ỗi thành viên trong số 24 thành viên của Ủy ban Tài chính Tiền tệ Q uốc tế
cũng là Thống đốc tại IM F, một Bộ trưởng hay một quan chức có chức vụ tương đương.
Ban Giám đốc Điều hành: gồm 1 Tổng Giám đốc điều hành và 24 Giám đốc điều hành,
trong đó 5 Giám đốc điều hành đại diện cho 5 nước có cổ phần lớn nhất tại Quỹ (Mỹ, Nhật, Đức,
Anh, Pháp) và 19 Giám đốc điều hành đại diện cho các nhóm nước có đặc điểm giống nhau về
kinh tế địa lý, văn hóa, trừ Nga và Trung quốc có Giám đốc điều hành riêng.
Tổng Giám đốc: do Ban Giám đốc Điều hành lựa chọn, với nhiệm kỳ đầu tiên là 5 năm.
Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Tài chính Tiền tệ
Quốc tế và Ủy ban Phát triển. Ngoài ra, Tổng Giám đốc còn phụ trách các cán bộ IMF. Mỗi Phó
Tổng Giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc, có nhiệm vụ chủ trì
các buổi họp của Ban Giám đốc Điều hành và duy trì các mối liên hệ với các quan chức chính
phủ của nước hội viên, với các Giám đốc Điều hành, với các cơ quan thông tin và các tổ chức
khác.
Cán bộ Quỹ: có khoảng 2700 cán bộ từ hơn 191 nước, được tổ chức thành 5 Vụ khu vực
(Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á, Vụ Châu Á Thái Bình Dương và Vụ
Tây Bán cầu); 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt (Vụ Tài chính, Vụ Các vấn đề ngân sách,
Học viện IMF (bao gồm các học viện tại Washington D.C, học viện Viên, học viện Châu Phi và
học viện Singapore), Vụ Các Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các Hệ thống Tài chính
Tiền tệ, Vụ Xây dựng và Kiểm điểm Chính sách, Vụ Nghiên cứu, Vụ Thống kê); 3 Vụ về
thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn phòng thông tin liên lạc khu vực Châu Á Thái Bình
Dương, Văn phòng Quỹ tại Liên Hợp Quốc); 3 Bộ phận giúp việc (Vụ thư ký, Vụ Nguồn nhân
lực, và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ). Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại
nhiều nước thế giới có trách nhiệm báo cáo cho các Vụ khu vực tương ứng.
Tổng số nước hội viên của IMF cho tới nay là 184 nước, Cộng hòa Đông Timor là nước
mới được chấp nhận là thành viên của IMF.
Việt Nam là thành viên của IMF từ 21/9/1956.
III.Các thể thức cho vay của IMF:
1.Các thể thức cho vay thông thường:
Cho vay dự phòng (SBA): Được khởi xướng từ năm 1952 nhằm hỗ trợ cho các quốc gia gặp
khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán và là thể thức được sử dụng nhiều nhất. Thông
thường thì thời hạn của thể thức này là 12-18 tháng. Việc trả nợ được thực hiện từ 21/4 – 4
năm tính từ sau đợt rút vốn, trừ khi được gia hạn và trả nợ theo quý.
Cho vay mở rộng (EFF): Được khởi xướng từ năm 1974 nhằm hỗ trợ các quốc gia xử lý
những khó khăn dài hạn trong cán cân thanh toán bắt nguồn từ cơ cấu nền kinh tế. Thời hạn
trả nợ của khoản vay này khá dài, từ 4,5 - 7 năm, đủ để các hành động cải cách được thực thi
và phát huy hiệu quả. Các quốc gia vay EFF cần áp dụng một chương trình 3 năm có lịch
trình điều chỉnh cơ cấu và dự kiến các chính sách chi tiết hàng năm cho năm tiếp theo. Việc
trả nợ được thực hiện theo bán niên.
Cho vay bổ sung dự trữ (SRF): Được khởi xướng từ năm 1997 nhằm hỗ trợ tài chính cho
những khó khăn đặc biệt về cán cân thanh toán bắt nguồn từ sự khủng hoảng và đổ vỡ lòng
tin của thị trường dẫn đến những nhu cầu vốn ngắn hạn quy mô lớn. Để được vay theo thể
thức này đòi hỏi quốc gia đi vay phải có các chính sách điều chỉnh mạnh mẽ. Thể thức này
không có hạn mức mà dựa trên nhu cầu tài trợ, khả năng trả nợ và mức độ mạnh mẽ của
chương trình điều chỉnh của nước đi vay. Thời hạn hoàn trả là 2-2,5 năm và việc trả nợ được
thực hiện theo bán niên.
Cho vay bù đắp thất thu xuất khẩu (CFF): Được khởi xướng vào những năm 1960 để hỗ trợ
các nước hội viên bị thất thu xuất khẩu tạm thời hoặc phải tăng chi phí nhập khẩu lương thực
quá mức do biến động giá hàng hoá trên thế giới. Trả nợ được thực hiện từ 31/4 đến 5 năm
theo quý.
2.Các thể thức cho vay ưu đãi và các thể thức đặc biệt:
Thể thức tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (PRGF): Đây là thể thức được xây dựng năm
1999 thay thế cho thể thức ESAF trước đây. Thể thức cho vay ưu đãi này dành cho các nước
nghèo và hướng nhiều hơn tới người nghèo và tăng trưởng. Các chương trình được hỗ trợ bởi
thể thức PRGF phải xuất phát từ Văn bản Chiến lược giảm nghèo (PRSP) của bản thân quốc
gia đó. Do các chỉ tiêu và điều kiện chính sách của chương trình này đều xuất phát từ PRSP
nên so với các thể thức khác, PRGF có sự tham gia rộng rãi hơn của người dân và tăng cường
quyền làm chủ của nước hội viên và chương trình được hỗ trợ bởi PRGF phản ánh những ưu
tiên về tăng trưởng và giảm nghèo của quốc gia, đồng thời quan tâm nhiều hơn đến các tác
động của chính sách kinh tế vĩ mô chủ chốt đối với xã hội và đối với nghèo đói. Hạn mức
cho vay là 140% so với cổ phần của nước hội viên tại Quỹ, một số trường hợp ngoại lệ là
185%. Lãi suất là 0,5%/năm. Thời hạn hoàn trả là 5,5 – 10 năm và trả nợ theo bán niên.
Trợ giúp khẩn cấp (EA): IMF thực hiện trợ giúp khẩn cấp cho các nước hội viên gặp khó
khăn về cán cân thanh toán phát sinh do thiên tai bất ngờ hoặc do xung đột vũ trang. Hình
thức trợ giúp này được thực hiện dưới hình thức giải ngân nhanh và thường không quá 25%
cổ phần và với một mức phí nhất định. Trợ giúp như vậy không đòi hỏi các chỉ tiêu thực hiện
hoặc phân chia giai đoạn giải ngân, nhưng đòi hỏi nước hội viên phải phối hợp với IMF để
tìm giải pháp xử lý các khó khăn về cán cân thanh toán. Riêng đối với các nước được nhận
trợ giúp khẩn cấp để tài trợ khó khăn về cán cân thanh toán do xung đột vũ trang, chính phủ
cần nêu rõ dự định sớm chuyển sang một trong những thể thức khác của IMF như cho vay dự
phòng, cho vay mở rộng hoặc tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Thời hạn hoàn trả là 3 1/4 -
5 năm và trả theo quý.
Thể thức giảm nợ theo Sáng kiến dành cho các nước nghèo mắc nợ nặng nề (Sáng kiến
HIPC): Là một phương pháp tổng hợp được IMF và WB khởi xướng vào năm 1996 nhằm
giảm nợ cho các nước nghèo mắc nợ nặng nề đang theo đuổi các chương trình cải cách và
điều chỉnh do IMF và WB hỗ trợ. Mục đích của sáng kiến này là đảm bảo không một nước
nghèo nào phải chịu gánh nặng nợ nần không thể gánh nổi. Sáng kiến này được phối hợp
thực hiện bởi cộng đồng tài chính quốc tế, kể cả các chính phủ và tổ chức đa phương, để giảm
nợ nước ngoài cho các nước nghèo mắc nợ nặng nề nhất xuống một mức có thể chịu đựng
được, đồng thời nhằm mục đích tăng cường mối liên kết giữa giảm nợ, xoá đói giảm nghèo
và chính sách xã hội. Để được nhận trợ giúp theo Sáng kiến HIPC, một nước cần đáp ứng 3
điều kiện sau: (i) Có gánh nặng nợ nần không thể chịu đựng được; (ii) Có quá trình cải cách
và các chính sách lành mạnh theo các chương trình được IMF và WB hỗ trợ; và (iii) Đã xây
dựng Văn bản Chiến lược Xoá đói Giảm nghèo (PRSP) với sự tham gia rộng rãi của người
dân.
IV.Quan hệ giữa IMF và Việt Nam:
1.Nhóm nước tham gia tại IMF:
Tại IMF, Việt Nam thuộc nhóm Đông Nam Á gồm các nước sau đây: Brunây, Campuchia, Fiji,
Indonesia, Lào, M alaysia, M yanmar, Nepal, Singapore, Thái Lan, Tonga, và Việt Nam.
2.Hoạt động của IMF tại Việt nam:
2.1Hoạt động cho vay của IMF đối với Việt nam:
Chính quyền Sài gòn gia nhập IMF ngày 18/8/1956. Từ đó đến trước ngày Miền Nam hoàn
toàn giải phóng, IM F chưa cho Chính quyền Sài gòn vay một khoản nào.
Ngày 21/9/1976, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam chính thức kế tục chân hội viên của
Việt nam tại IMF và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF. Trong giai đoạn 1976-1981,
IMF đã cho Việt nam vay khoảng 200 triệu USD nhằm giải quyết những khó khăn trong cán
cân thanh toán. Từ tháng 2/1984 Việt nam bắt đầu phát sinh nợ quá hạn với IMF.
Ngày 15/1/1985, IMF quyết định đình chỉ quyền vay vốn của Việt nam với lý do không trả
được nợ quá hạn. Trong suốt giai đoạn từ 1/85 đến 10/93, quan hệ giữa Việt nam và IMF
được duy trì thông qua đối thoại thường xuyên trên lĩnh vực chính sách chủ yếu dưới hình
thức tham khảo thường niên trên lĩnh vực kinh tế vĩ mô.
Tính đến ngày 03/10/1993, tổng số nợ quá hạn của Việt Nam với IMF lên tới 100.179.340
SDR. Việt Nam đã huy động vốn dưới hình thức vay bắc cầu để trả nợ quá hạn IM F. Tháng
10/1993, một khoản vay bắc cầu đã được ký kết với các ngân hàng nước ngoài (16 ngân
hàng) do ngân hàng BFCE (Pháp) và JEXIM (Nhật) đứng ra huy động với tổng số 85 triệu
USD, cộng thêm với viện trợ không hoàn lại của 9 nước bao gồm Nhật, Pháp, Thuỵ điển,
Thuỵ sỹ, úc, Bỉ, Canada, Phần Lan, Áo để trả hết nợ quá hạn cho IMF.
Tháng 10/1993, sau khi thanh toán nợ quá hạn, Việt nam đã nối lại quan hệ tài chính với IM F.
Ngay trong tháng 10/1993, IMF đã cho Việt nam vay hai khoản theo lãi suất thị trường: (i)
theo thể thức dự phòng (SBA) với số tiền tương đương 157 triệu USD và (ii) theo thể thức
chuyển đổi hệ thống (STF) trị giá khoảng 34 triệu USD để trả nợ cho khoản vay bắc cầu.
Tháng 11/1994, IM F đã thông qua chương trình cho vay điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) 3
năm (1994-1997) với lãi suất ưu đãi hơn với tổng trị giá khoảng 535 triệu USD. Sau khi hoàn
thành các điều kiện của chương trình ESAF năm thứ nhất và thứ hai, Việt nam đã rút được
tổng số tiền là 360 triệu USD. Đến tháng 10/1997, chương trình ESAF 3 năm 1994-1997 kết
thúc.
Ngày 13/4/2001 IM F thông qua chương trình PRGF cho Việt nam với tổng số vốn cam kết là
368 triệu USD chia làm 7 đợt rút vốn bằng nhau trong 3 năm (2001-2004). Tính đến tháng
8/2002,Việt nam đã thực hiện được 3 đợt rút vốn theo chương trình này với tổng số tiền là
158,8 triệu USD. Sau 3 đợt rút vốn, do chính sách an toàn mà IM F đưa ra làm điều kiện cho
các khoản giải ngân tiếp theo không phù hợp với khuôn khổ luật pháp hiện hành của Việt
nam nên chương trình PRGF của IMF với Việt nam đã kết thúc vào ngày đến hạn, ngày
12/4/2004 vừa qua.
BẢNG SỐ LIỆU TÓM TẮT VỀ CÁC KHOẢN CHO VAY
CỦA IMF GIAI ĐO ẠN 1993 - 2003
(Đơn vị: Triệu USD)
TÊN KHOẢN VAY NGÀY KÝ
KẾT
SỐ CAM
KẾT
SỐ GIẢI NGÂN
1. Chuyển đổi hệ thống (STF) 06/10/1993 34 34
2 Dự phòng (SBA) 06/10/1993 157 118
3. Điều chỉnh cơ cấu mở rộng
(ESAF)
11/11/1994 535 360
4. Tăng trưởng và Xóa đói Giảm
nghèo (PRGF)
13/04/2001 368 158.8
Tổng cộng 1.094 670,8
2.2Hỗ trợ kỹ thuật của IMF cho Việt nam:
Trước khi nối lại quan hệ tín dụng, IM F đã cử nhiều đoàn chuyên gia kinh tế vào giúp Việt
nam xây dựng các chương trình kinh tế, trong đó có các biện pháp chống lạm phát. IMF cũng
đã nhận đào tạo một số cán bộ của các ngành kinh tế tổng hợp về kiến thức kinh tế thị trường
và cùng với UNDP thực hiện trợ giúp kỹ thuật cho NHNN và Bộ tài chính trị giá 1,9 triệu
Đôla Mỹ dưới hình thức cử các chuyên gia tư vấn ngắn, trung và dài hạn về nghiệp vụ chính
sách đồng thời tổ chức các khoá tập huấn, hội thảo trong nước cũng như các khảo sát tại các
nước có những kinh nghiệm về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ tương tự như Việt nam.
Dự án VIE/93/007 về “Tăng cường thể chế và chính sách tài chính” được hỗ trợ của
IMF/UNDP đã đem lại những kết quả đáng khích lệ trong các lĩnh vực điều hành và quản lý
tiền tệ, xây dựng các thị trường vốn, quản lý ngoại hối, hệ thống thanh toán, thanh tra ngân
hàng trung ương, chế độ báo cáo, thống kê tiền tệ....
Các chuyên gia của IMF đã giúp tư vấn về cách thức, phương pháp hoạch định và điều hành
chính sách tiền tệ. Các thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng đã được thành lập. Thị
trường đấu thầu tín phiếu kho bạc cũng đã được hình thành. Các quy chế quản lý dự trữ bắt
buộc, lãi suất, trần tín dụng, quản lý ngoại hối đã được soạn thảo và sửa đổi với những ý kiến
tư vấn và sự giúp đỡ của các chuyên gia IMF thường trú tại Việt nam. Hoạt động thanh tra
ngân hàng đã được cải tiến và nâng cao theo mô hình các nước tiên tiến dưới hình thức đào
tạo tại chỗ do các chuyên gia ngắn hạn và dài hạn thực hiện. Cố vấn dài hạn đã giúp tư vấn về
các quy chế thanh tra, kiểm tra, các bước tiến hành giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, tư vấn
cho các nghiệp vụ thanh tra và tổng kiểm soát, kiểm toán nội bộ, phòng ngừa rủi ro trong
thanh toán liên ngân hàng, quản lý và kinh doanh ngoại hối. Hệ thống kế toán ngân hàng đã
được sửa đổi và hệ thống thanh toán liên ngân hàng đã được củng cố giúp cho các hoạt động
kinh doanh ngoại hối, tín dụng liên ngân hàng. Hàng năm, Vụ Tiền tệ và Ngoại hối (nay là
Vụ Các hệ thống Tài chính Tiền tệ) và Vụ Thống kê của IMF đã cử các đoàn chuyên gia vào
tìm hiểu nhu cầu và cung cấp những trợ giúp kỹ thuật cần thiết cho Ngân hàng Nhà nước và
các cơ quan hữu quan. Gần đây, IMF tập trung hỗ trợ kỹ thuật vào các lĩnh vực cải cách thuế,
thanh tra ngân hàng và sẵn sàng hỗ trợ cho lĩnh vực hoạt động tiền tệ và phòng chống rửa tiền
và tài trợ cho khủng bố
Về lĩnh vực đào tạo, Học viện của Q uỹ đã đào tạo một số lượng lớn các quan chức cao cấp và
trung cấp của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại
và Tổng cục Thống kê ... thông qua một loạt các khoá đào tạo và hội thảo về nhiều chủ đề
khác nhau tại Washington, Viên và Singapore. Ngoài ra, gần đây hàng năm IMF còn phối hợp
với chính phủ Nhật Bản tổ chức hội thảo cho các cán bộ cao cấp của các nước đang trong quá
trình chuyển đổi, trong đó có Việt Nam, về quản lý kinh tế vĩ mô và kinh nghiệm của Nhật
Bản. Điều này đã góp phần cải thiện và mở rộng kiến thức của các cán bộ quản lý kinh tế của
Việt Nam.
Vai trò của Việt Nam trong quỹ tiền tệ quốc tế IMF:
Mở rộng phạm vi hoạt động
Đa dạng hóa mối quan hệ các thành viên trong IMF
Thu lợi từ các hoạt động tín dụng
Giúp IMF thực hiện được mục tiêu hoạt động của mình: (tham khảo phần mục tiêu hoạt
động IMF)
Tóm lại qua việc tìm hiểu về các tổ chức tài chính, chúng em thấy được sự khác biệt giữa 2 tổ
chức IM F và WB về vấn đề cho vay như sau:
IMF:
- Mục tiêu hoạt động là ổn định việc mất cân đối trên thị trường.
- Chỉ cho vay nợ nhà nước.
- Độc lập trong chính sách tiền tệ chính vì thế mà phải trả giá rất nhiều
WB:
- Mục tiêu hoạt động: đầu tư phát triển xoá đói giảm nghèo
- Cho nhà nước, tư nhân vay.
- Thông qua nhà nước cho các công ty vay.
WTO đã giúp cho các quốc gia tự do hoá tài khoản vãng lai, mở rộng quan hệ quốc tế giao lưu
với thế giới, tiếp thu được các cơ hội kinh doanh v.v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia__1471.pdf