Đề tài Cải cách tài chính Việt Nam theo hướng tư do hóa trong thời hội nhập

FDI do người không cưtrú chuyển vào, VN hầu nhưkhông có cản trởnào trừquy định phần vốn góp không quá 49% đối với một sốngành dịch vụ - FDI do người cưtrú chuyển ra, VN không có văn bản nào giới hạn thời gian, số tiền chuyển ra liên quan đến FDI vào  Đối với FDI ra : VN chính thức cho phép các DN đầu tưtrực tiếp ra nước ngoài từnăm 1999. - Các DN phải chuyển lợi nhuận vềnước - Mởrộng các nguồn ngoại tệmà DNVN được phép sửdụng đểchuyển ra nước ngoài góp vốn và thực hiện dựán đầu tư Và hiệu ứng từgia nhập WTO đã đẩy làn sóng FDI vào Việt Nam lên cao, thế nhưng Việt Nam còn có tiềm năng lớn đểthu hút FDI ởmức độcao hơn nhiều. Điều này đã được minh chứng trong khảo sát triển vọng đầu tưthếgiới của UNCTAD 2007-2009, trong đó Việt Nam được xếp thứ6 trong sốnền kinh tếhấp dẫn nhất để đưa FDI vào Tiềm năng này có thểtrởthành hiện thực nếu Việt Nam tiếp tục có những khuôn khổvà chính sách thích hợp trong thu hút FDI. Có nhiều biểu hiện cho thấy rằng Việt Nam hiện đang đi theo hướng đó với việc nghiêm túc thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Điều này được thểhiện qua việc Vốn FDI đã tập trung vào lĩnh vực cần thiết : • Năm 2007, tính chung cảcấp mới và tăng vốn, thu hút nguồn vốn FDI đạt 20,3 tỷUSD, tăng gần 70% so với năm 2006, gần bằng tổng mức FDI trong 20 năm qua, kểtừkhi có Luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam 1987 đến nay.

pdf26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2619 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải cách tài chính Việt Nam theo hướng tư do hóa trong thời hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhằm tranh thủ cơ hội từ việc khai thác các dòng vốn quốc tế. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 4 | P a g e December 24, 2009 Tự do hóa tài chính được phân làm hai cấp độ: Tự do hóa tài chính nội địa (xóa bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng) và tự do hóa tài chính quốc tế (loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại hối). Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất và cần thiết phải kiểm soát quá trình tự do hóa lãi suất. 3) Nội dung hoá tự do tài chính được sắp đặt theo trình tự tối ưu: Chính phủ phải kiểm soát được chính sách tài khoá và thực thi chính sách tài khoá có hiệu quả. Nguồn thu của nhà nước phải chuyển dần sang khu vực tư nhân. Tự do hoá các dịch vụ tài chính : các dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm; dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác. Mở cửa thị trường vốn trong nước sao cho người gửi tiền nhận được lãi suất thực đã điều chỉnh theo lạm phát, mở cửa thị trường vốn trong nước và tự do hoá lãi suất. Tự do hoá tỷ giá hối đoái. Tự do hoá các giao dịch trên tài khoản vốn II. Lợi ích và những thách thức trong quá trình tự do hóa tài chính. 1) Lợi ích của tự do hoá tài chính : Cải cách tài tài chính ở VIỆT NAM theo hướng tự do hóa sẽ mang lại nhiều lợi ích đáng kể qua các khía cạnh sau: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Có được là do sự tăng lên trong mức độ đầu tư & kèm theo đó là tỷ suất sinh lợi của các khoản đầu tư được cải thiện do tiếp cận được kinh nghiệm quản lý hiện đại, lĩnh hội được các thành quả công nghệ mới, tiếp cận được thị trường rộng lớn, các thông tin được phản hồi một cách đầy đủ và kịp thời vào giá cả hàng hóa của các nhà sản xuất…. Cho phép cá nhân tự bảo vệ chính mình: Các nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro thông qua các sản phẩm phái sinh không cân đối trong nền kinh tế. Các nhà đầu tư có thể tự đa dạng hóa đầu tư, khai thác các thị trường mới… Xử lý mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư: Theo WB thì nếu dòng vốn vào đạt 3% - 4% GDP thì tốc độ tăng trưởng của tỷ suất sinh lợi là 0,5% - 1 đôla FDI sẽ làm tăng Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 5 | P a g e December 24, 2009 tổng số đầu tư trong nước và nước ngoài hơn 1 đôla, FDI bổ sung chứ không làm giảm đi đầu tư nội địa… Kích thích sự phát triển của thị trường vốn: Làm gia tăng chiều sâu & tính thanh khoản trên thị trường vốn. Việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư gián tiếp sẽ thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng khoán – qua đó giá trị cổ phiếu được niên yết trên TTCK ngày càng phát triển, giả được chi phí sử dụng vốn, giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp cận được các nguồn vốn quốc tế có chi phí sử dụng vốn thấp hơn. Thúc đẩy cải cách kinh tế vĩ mô tốt hơn: Sự tác động hai chiều sẽ làm các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định hơn trong ngắn hạn cũng như dài hạn. 2) Thách thức của tự do hóa tài chính : Tuy có những lợi ích đáng kể trên những bên cạnh đó cũng sẽ gặp phải những rủi ro trong quá trình hội nhập, có hai thách thức lớn thường gặp như: Dòng vốn chảy vào ào ạt (tương tự căn bệnh Hà Lan): Dòng vốn chảy vào ào ạt có mối quan hệ chặt chẽ với quy mô của nền kinh tế. Dòng vốn chảy vào ào ạt làm tăng nguy cơ dễ bị tổn thương của nền kinh tế do tình trạng đầu cơ vào thị trường bất động sản… Sự ngưng đọng đột ngột – sự đảo chiều của dòng vốn quá nhanh sẽ làm cho nền kinh tế đi vào khủng hoảng, dẫn đến bất ổn trong điều hành các chính sách tiếp theo của Chính Phủ như: lạm phát, thất nghiệp, tiền lương, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thanh toán, rối loạn tỷ giá hối đoái, rối loạn chính sách thuế, lãi suất… III. Lộ trình tự do hóa tài chính Tự do hoá tài chính được tiến hành sau quá trình tự do hoá thương mại. Lộ trình thực hiện tự do hoá tài chính được tiến hành qua các bước sau: Bước 1: Tiếp tục cải cách và hiện đại hóa ngân hàng (điều kiện cần thiết để phát triển cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính). Cải cách tài chính ở VIỆT NAM theo hướng tự do hóa tài chính thì Hệ thống Ngân hàng đóng một vai trò to lớn. Hiện đại hóa ngân hàng chính là một ngôn ngữ của hội Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 6 | P a g e December 24, 2009 nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống Ngân hàng phải được hiện đại hóa để theo kịp sự phát triển kinh tế đất nước. Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực chất của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều chỉnh theo định hướng. Tự do hoá lãi suất phải gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: cơ cấu lại các khoản nợ khó đòi trong bảng cân đối ngân hàng; tiến hành tư nhân hoá một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước; áp dụng các biện pháp kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng. Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động trong một giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của NHTW Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế phân bổ quota và những rào cản khác trên các giao dịch tài khoản vãng lai. Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn. Tự do hóa giao dịch vốn (GDV) là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với những giao dịch này như xóa bỏ hoàn toàn những quy định về hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn về nước với các khoản đầu tư dài hạn – ngắn hạn thông qua hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Cho phép các doanh nghiệp trong nước tự do tiếp cận các nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành cổ phiếu – trái phiếu. . Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác, các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao. Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương và hoạt động kinh doanh của các TCTD, các tập đoàn và ngân Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 7 | P a g e December 24, 2009 hàng lớn ngày càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá trình tự do hóa GDV ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia các GDV quốc tế và thông qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh tế, gây khó khăn về quản lý tài sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất, phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay. IV. Điều kiện để phát triển tài chính theo hướng tự do hóa Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng bước các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt Nam muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh hoạt - ổn định đáng tin cậy. Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là: + Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao. + Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế. + Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả. + Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả. + Không có khoản cho vay mang tính chất chính trị và lạm dụng hệ thống tài chính. + Một Chính Phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí. + Tính minh bạch trong công bố thông tin. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 8 | P a g e December 24, 2009 CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM I. Chính sách tài khóa Trong gần hai thập niên qua , chính sách tài khóa của Việt Nam được cải cách mạnh mẽ theo các hướng như : • Tăng thu ngân sách nhà nước thông qua cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản hóa hệ thống thuế ( giảm bớt thủ tục hành chính có liên quan ) và áp dụng các loại thuế tiên tiến. • Tăng chi ngân sách trong đó có trợ cấp cho đầu tư phát triển nhằm nâng cao năng lực các ngành hàng trong nước và đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho các chính quyền cấp dưới, địa phương. Chính sách thuế quan của Việt Nam ngày càng tương thích hơn với các quy định của WTO như : • Cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan : nhiều mặt hàng đang có thuế suất cao từ 20%-30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm : dệt may (63%), cá và sản phẩm cá (38%), gỗ và giấy (33%),… • Đối xử bình đẳng hơn giữa các Doanh Nghiệp thuộc các loại hình sở hữu, trong và ngoài nước. • Bãi bỏ nhiều loại trợ cấp đối với các ngành hàng trong nước nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thu hút đầu tư của các nước trong khu vực và Quốc tế. • Mở cửa thị trường : Việt Nam cam kết mở cửa các thị trường tài chính : viễn thông, bảo hiểm, thị trường bán lẻ, dịch vụ khai thác dầu khí, …  Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí, Việt Nam cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 9 | P a g e December 24, 2009  Đối với dịch vụ ngân hàng, cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007  Từ ngày 1/7/2010, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam đều được tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông,… Nhìn chung, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong quá trình cải cách, điều chỉnh chính sách tài khóa để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gia nhập WTO. II. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ 1. Cải cách hệ thống ngân hàng Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc lành mạnh hoá khu vực ngân hàng thông qua việc triển khai Đề án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP (năm 1998) và Đề án cơ cấu lại các NHTMNN (năm 2001) nhằm lành mạnh hoá tài chính, tăng cường kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chương trình cải cách ngân hàng cũng nhận được sự hỗ trợ quan trọng về tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc tế, đặc biệt WB, ADB, IMF và chính phủ các nước. Vấn đề cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể chia theo 2 giai đoạn, tương ứng với sự phát triển và thay đổi chính sách của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Giai đoạn 1: Trước thời điểm gia nhập WTO (07/11/2006) a. Tăng trưởng về quy mô và số lượng Sau giai đoạn bùng phát vào đầu những năm 1990 và thu hẹp bớt trong giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính năm 1997, hệ thống NH Việt Nam trong những năm qua khá ổn định về mặt số lượng. Với khoảng 78 ngân hàng các loại trong năm 2006, bao gồm 5 NHTM nhà nước, 37 NHTMCP, 31 chi nhánh NH nước ngoài và 5 NH liên doanh. Trong đó, quan trọng nhất là hệ thống NHTM quốc doanh và NHTMCP. 1991 1993 1995 1997 1999 2001 2005 2006 Ngân hàng TMQD 4 4 4 5 5 5 5 5 Ngân hàng TMCP 4 41 48 51 48 39 37 37 Chi nhánh NHNN 0 8 18 24 26 26 29 31 Ngân hàng LD 1 3 4 4 4 4 4 5 Tổng số 9 56 74 84 83 74 75 78 Bên cạnh sự tăng trưởng về số lượng, quy mô của các ngân hàng cũng tăng trưởng khá mạnh mẽ. Sự tăng trưởng tập trung vào 2 mảng hoạt động truyền thống là cho vay và Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 10 | P a g e December 24, 2009 huy động. Tốc độ tăng trưởng hoạt động tín dụng và huy động tiền gửi ở mức rất cao, đạt trung bình khoảng 30% trong suốt giai đoạn 2002 – 2006. Bảng 1: Tăng trưởng tín dụng và tiền gửi giai đoạn 2002 – 2006. 0.00% 5.00% 10.00% 15.00% 20.00% 25.00% 30.00% 35.00% 40.00% 45.00% 2002 2003 2004 2005 2006 Tăng trưởng tín dụng Tăng trưởng tiền gửi Tăng trưởng GDP Tuy nhiên, việc tăng trưởng nhanh của tín dụng khiến ngành ngân hàng có nguy cơ đối mặt với rủi ro lớn hơn khi mà tỷ lệ tín dung/tiền gửi toàn ngành luôn ở mức trên 90%, cao hơn mức trung bình của khu vực (khoảng 83%). Ngoài 2 mảng hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động vốn, các mảng hoạt động dịch vụ khác của các ngân hàng trong giai đoạn này chưa có sự phát triển mạnh và đa dạng. b. CPH NHTM nhà nước diễn ra chậm chạp : Là những trụ cột của nền tài chính Việt Nam, hệ thống NHTM quốc doanh đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, xu thế hội nhập của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng tạo ra sức ép cạnh tranh khá lớn, đòi hỏi phải có những cải cách lớn đối với hệ thống ngân hàng quốc doanh. Vì thế chủ trương Cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại nhà nước ra đời với nhằm tạo sức bật mới cho hệ thống ngân hàng trước ngưỡng cửa gia nhập WTO. Nhưng tiến trình này diễn ra hết sức chậm chạp. Đến trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2007, vẫn chưa có NHTM nhà nước nào được cổ phần hóa, mặc dù chủ trưởng đã có từ nhiều năm trước đó. Giai đoạn 2: Từ sau ngày 07/11/2006 đến nay. Từ ngày 01/04/2007, theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chính thức cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngành ngân hàng là ngành có tính đặc thù và được đánh giá là có mức độ cạnh tranh cao nên việc thành lập ngân hàng mới phải đáp ứng những quy định khắt khe. Ngân hàng mới thành lập phải có vốn điều lệ tổi thiểu 1.000 tỷ đồng và phải đạt 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Room với các nhà đầu tư nước ngoài vẫn hạn chế ở mức 30%. Các cổ đông chiến lược nước ngoài chỉ được nắm giữ tối đa 20% vốn điều lệ và các tổ chức này phải có tổng tài sản tối thiểu là 20 tỷ USD. Tuy Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 11 | P a g e December 24, 2009 nhiên, sức hấp dẫn về tiềm năng tăng trưởng và lợi nhuận của ngành ngân hàng đã khiến nhiều tổ chức trong và ngoài nước tham gia thành lập ngân hàng mới. Bảng 2: Số lượng các ngân hàng giai đoạn từ 2006 - 2009 2006 2007 2008 2009 Ngân hàng TMQD 5 5 3 3 Ngân hàng TMCP 37 37 39 39 Chi nhánh NHNN 31 33 39 40 Ngân hàng liên doanh 5 5 5 5 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 0 0 5 5 Tổng số ngân hàng 78 80 91 92 Tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn này khá nhanh, đặc biệt vào năm 2007, khi mà tăng trưởng tín dụng đã lên tới 54% do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế tăng cao, trong đó bao gồm cả nhu cầu vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản. Ngoài 2 mảng hoạt động truyền thống, mảng hoạt động dịch vụ cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Các NHTM đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ và nâng cao năng lực quản trị, điều hành trên cơ sở tăng cường áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp và từng bước thiết lập các định chế quản trị rủi ro. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành năm 2002 và hạ tầng công nghệ thông tin của ngành ngân hàng được hiện đại hoá một bước góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, đặc biệt các dịch vụ thanh toán và ngân hàng điện tử (internet banking, telephone banking, ATM, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,,,,). Các NHTM Việt Nam ngày càng hoạt động mang tính chuyên nghiệp và có uy tín hơn với quốc tế. Điển hình là các NH: ACB, Techcombank, Phương Nam,... Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bán lẻ tăng trưởng mạnh cùng với sự tăng trưởng kinh tế. Theo IMF, số lượng tài khoản ngân hàng tại Việt Nam trong năm 2006 ước tính chỉ ở mức hơn 8 triệu tài khoản, chiếm khoảng 9,4% dân số và tập trung chủ yếu vào các đối tượng có thu nhập cao tại các khu đô thị và các doanh nghiệp. Phương thức thanh toán tiền măt vẫn là phương thức thanh toán khá phổ biến. Mặc dù tỷ lệ Tiền mặt/Tổng phương tiện thanh toán (M2) có xu hướng giảm dần nhưng tỷ lệ này ở Việt nam vẫn là cao nhất trong khu vực. Điều nay mở ra tiềm năng cho ngành ngân hàng khi các sản phẩm dịch vụ đã hoàn thiện. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 12 | P a g e December 24, 2009 Theo cam kết với WTO về ngành ngân hàng, từ tháng 12/2007, Việt Nam đã chính thức thực hiện việc cổ phần hóa Ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tiên là Vietcombank. Tiếp sau đó là Vietinbank và sắp tới là BIDV. Việc đẩy mạnh cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh đã góp phần vào việc nâng cao trình độ quản lý, tinh gọn bộ máy nhân sự, đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng cải cách cơ chế của hoạt động kinh doanh, giảm bớt sự phụ thuộc vào Nhà nước, đem lại những cơ hội mới về huy động nguồn vốn dài hạn hiệu quả, nhanh chóng và thuận tiện từ thị trường chứng khoán. Cho vay chính sách được tách khỏi cho vay thương mại và chấm dứt tình trạng cơ quan quản lý nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các TCTD để bảo đảm các TCTD, kể cả các NHTMNN, thực hiện kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, tối đa hoá lợi nhuận. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về tài chính và các rủi ro ngày càng được thể chế hóa rõ ràng và thực hiện tương đối hiệu quả, nhất là khu vực ngân hàng cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 2. Tự do hoá lãi suất - lộ trình tự do hoá ở Việt nam a. Giai đoạn trước tháng 6/1992 : NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp đựơc duy trì trong suốt thời kỳ này. b. Giai đoạn từ tháng 6/1992 – 1995 : Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương, xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giưã các thành phần kinh tế, quản lý lãi suất theo một khung bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. NHNN cho phép NHTM được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu –lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0.2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2.1%/tháng) c. Giai đoạn từ năm 1996 - tháng 7/2000 : Chuyển quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi – lãi suất tối đa về tiền vay thành quy định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lại suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân 0.35%/tháng. Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ quy định chênh lệch lãi suất chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay. Tháng 11/1999, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được quy định ở mức thấp hơn 0.05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn. Tháng 7/2000, NHNN đ ưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. d. Giai đoạn từ giữa năm 2000 đến nay (giai đoạn tiền tự do hoá lãi suất) : Tháng 8/2000, NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo luật Ngân Hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Các ngân hàng không đựơc tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản +0.3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với vốn trung. Dài hạn. Tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xoá bỏ, từ đó cho phép người vay ngoại tệ Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 13 | P a g e December 24, 2009 trong nước có thể thương lượng lãi suất với Ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Quyết định số 546/2002 QĐ-NHNN về thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng là một bước ngoặc lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất. Hiện nay NHNN đang thông qua việc thực hiện xoá bỏ hoàn toàn công bố lãi suất cơ bản hàng tháng như hiện nay, tức là chính thức thực hiện tự do hoá lãi suất. 3. Chính sách tỷ giá ở Việt Nam : Trong điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tác dụng điều tiết của tỷ giá hối đoái bị hạn chế rất nhiều và hầu như không phát huy tác dụng Trong một thời gian dài ở nước ta tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng giá trị của đồng tiền nội tệ. Có thể nói tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam lúc bấy giờ chỉ là hệ số quy đổi để các công ty thương mại quốc doanh lập kế hoạch và tính toán nội bộ. Tất cả điều đó làm cho nền kinh tế trong một thời gian dài bị khủng hoảng trầm trọng. Xuất hiện nhiều tỷ giá khác nhau: tỷ giá chính thức do nhà nước quy định cao và các tỷ giá trên thị trường tự do theo quan hệ cung cầu. Trong xu thế cải cách từ một nền kinh tế kế hoạch đóng cửa sang một nền kinh tế thị trường mở, thể chế kinh tế mới ngày càng được xác lập và phát triển. NHNN Việt Nam đã chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của Nhà Nước, là một sự lựa chọn đúng đắn của Nhà Nước trong điều kiện quá trình hội nhập Việt Nam với Thế giới. Việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết sẽ có các điều lợi sau: Một là, nó phản ánh kịp thời mọi quan hệ cung cầu trên thị trường, tránh được tình trạng xác định tỷ giá quá cố định, xa rời thực tế của nền kinh tế. Hai là, sự can thiệp kịp thời của nhà nước đến tỷ giá sẽ tránh được những biến động không mong muốn có ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế-xã hội. Ba là, giúp cho các doanh nghiệp thương mại có cơ sở để quyết định chính sách kinh doanh của mình, bởi vì họ có thể dự đoán được một cách tương đối các giá cả, chứ không phải luôn vật lộn với những biến động thất thường của một chế độ tỷ giá linh hoạt hoàn toàn. NHNN đã thực hiện việc công bố tỷ giá trên cơ sở tỷ giá bình quân chung trên thị trường liên ngân hàng và kèm theo biên độ dao động cho phép. Các biên độ tỷ giá này ngày càng được nới rộng ra : Ngày 1-7-2002, biên độ này được nới từ +/-0,1% lên +/- 0,25%; ngày 31-12-2006, tăng từ +/-0,25% lên +/-0,5% và ngày 7-3-2008, tăng từ +/- 0,75% lên +/-1% và 24-3-2009 biên độ tỷ giá là +/-5%. III. Khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam 1. Vấn đề đô la hóa : Đô la hóa (dollarization) được nhìn nhận là một hiện tượng trong đó ngoại tệ được sử dụng rộng rãi để thay thế một hay nhiều chức năng của đồng nội tệ. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 14 | P a g e December 24, 2009 Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15% Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa chủ yếu là do sự yếu kém của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi (hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định,…). Sự bất tiện khi sử dụng đồng nội tệ (về mệnh giá, về hệ thống thanh toán, về khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ…) cũng là một nguyên nhân làm suy giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, tạo tâm lý ưa thích ngoại tệ. 2. Nâng cao khả năng chuyển đổi của VND, khắc phục tình trạng đô la hóa Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, việc nâng cao tính chuyển đổi của VND có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và quá trình hội nhập Quốc tế. Đồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh tế trong nước với Quốc Tế, thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, tạo vị thế Quốc Gia trên thị trường Quốc Tế. Trong quá trình hội nhập, Chính Phủ cũng đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực để tăng tính chuyển đổi của VND. Điển hình là Quyết Định số 98/2007/QĐ-TTg ngày 04/07/2007 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt “Đề Án nâng cao tính chuyển đổi của VND , khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế”.Theo đó đến năm 2010, mục tiêu đề ra là : “…xây dựng cơ chế để Việt Nam tham gia thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về quản lý ngoại hối, thu hẹp tiến tới xoá bỏ việc niêm yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép, xoá bỏ chế độ thanh toán ngoại tệ trong nước, thu hút số ngoại tệ trôi nổi vào hệ thống Ngân Hàng, ...Bên cạnh đó, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng VND tham gia góp vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, giảm và tiến tới xoá bỏ các quy định về cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…” IV. Tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn : 1. Tự do hóa tài khoản vãng lai Các giao dịch vãng lai bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương mại và ngân hàng ngắn hạn; các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng... Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội đất nước mà các giao dịch vãng lai này từng bước được nới lỏng. Điều này được thể hiện qua các quy định của Nhà Nước. Theo Nghị Định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính Phủ về quản lý Ngoại Hối thì người cư trú là các Doanh Nghiệp, chi nhánh công ty nước ngoài, nhà thầu nước ngoài , tồ chức tín dụng ở Việt nam,… được mua ngoại tệ bằng VND để thanh toán cho các giao dịch vãng lai hay các giao dịch được phép khác. Ngoài ra, một số đối tượng Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 15 | P a g e December 24, 2009 thuộc người không cư trú như cơ quan Ngoại Giao, cơ quan đại diện nước ngoài có nguồn thu hợp pháp bằng VND có thể mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép ở Việt Nam. Ngày 18/10/2005, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 131/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối. Trong đó, dỡ bỏ những rào cản cuối cùng đối với các hoạt động thanh toán và chuyển tiền liên quan đến giao dịch vãng lai. Tiếp đó, ngày 28/12/2006, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định số 160/2006/NĐ-CP, trong đó có nêu “Trên lãnh thổ VN, tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai của người cư trú và người không cư trú được tự do thực hiện”.Có thể nói, các văn bản này tạo ra một cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai, từng bước tự do hoá các giao dịch vốn. 2. Tự do hóa tài khoản vốn Kết cấu tài khoản vốn :  Nguồn vốn FDI  Nguồn vốn FI (FII)  Vay nợ Tự do hoá tức là tự do hoá các nguồn vốn kể trên, tháo dỡ những ràng buộc  Đối với người không cư trú đầu tư vào thị trường tài chính trong nước.  Đối với người cư trú đầu tư ra thị trường quốc tế Lợi ích từ tự do hoá tài khoản vốn  Hiệu quả trong phân phối nguồn lực : Khi hàng rào tài khoản vốn về dòng chảy tư bản bị loại bỏ thì dòng di chuyển vốn xuyên quốc gia sẽ đẩy mạnh (từ quốc gia thừa vốn với tỷ suất sinh lời thấp sang quốc gia thiếu vốn với tỷ suất sinh lời cao)  Chi phí vốn thấp có ảnh hưởng tích cực đến đầu tư và sản lượng (Fischer, 1998; Stulz, 1999; Mishkin,2001) Sự hình thành và phát triển luật đầu tư nước ngoài trong quá trình tự do hoá các tài khoản vốn :  Văn bản pháp quy đầu tiên quy định về đầu tư nước ngoài đó là Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt nam + Hình thức đầu tư : Hình thức Hợp tác sản xuất chia sản phẩm, Hình thức xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp; Hình thức xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu + Thời hạn đầu tư: từ 10-15 năm trừ những trường hợp đ ặc biệt + Thuế lợi tức : 30%, 40%,50% Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 16 | P a g e December 24, 2009 + Thủ tục đầu tư : chưa quy định quy trình thẩm định và các hồ sơ, tuy nhiên quy định đầu mối nhận hồ sơ v à cấp phép là bộ Ngoại Thương (Bộ Thương mại)  Sau đó được nâng cấp lên thành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987, tiếp đó qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào năm 1990 và năm 1992; và đến năm 1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam mới, sau đó đã lại được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư 2005 mới áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài (đang áp dụng hiện nay). So với các đạo luật khác thì gần như trong cùng thời gian ngắn. Đây là đạo luật mà có nhiều thay đổi nhất, đã luôn luôn được hoàn thiện, tạo dựng một khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài, trên cơ sở quán triệt quan điểm mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. a) Đối với FDI :  Đối với FDI vào : - FDI do người không cư trú chuyển vào, VN hầu như không có cản trở nào trừ quy định phần vốn góp không quá 49% đối với một số ngành dịch vụ - FDI do người cư trú chuyển ra, VN không có văn bản nào giới hạn thời gian, số tiền chuyển ra liên quan đến FDI vào  Đối với FDI ra : VN chính thức cho phép các DN đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ năm 1999. - Các DN phải chuyển lợi nhuận về nước - Mở rộng các nguồn ngoại tệ mà DNVN được phép sử dụng để chuyển ra nước ngoài góp vốn và thực hiện dự án đầu tư Và hiệu ứng từ gia nhập WTO đã đẩy làn sóng FDI vào Việt Nam lên cao, thế nhưng Việt Nam còn có tiềm năng lớn để thu hút FDI ở mức độ cao hơn nhiều. Điều này đã được minh chứng trong khảo sát triển vọng đầu tư thế giới của UNCTAD 2007-2009, trong đó Việt Nam được xếp thứ 6 trong số nền kinh tế hấp dẫn nhất để đưa FDI vào Tiềm năng này có thể trở thành hiện thực nếu Việt Nam tiếp tục có những khuôn khổ và chính sách thích hợp trong thu hút FDI. Có nhiều biểu hiện cho thấy rằng Việt Nam hiện đang đi theo hướng đó với việc nghiêm túc thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Điều này được thể hiện qua việc Vốn FDI đã tập trung vào lĩnh vực cần thiết : • Năm 2007, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, thu hút nguồn vốn FDI đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, gần bằng tổng mức FDI trong 20 năm qua, kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 đến nay. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 17 | P a g e December 24, 2009 • Nổi bật trong thu hút nguồn vốn FDI năm 2007 là các dự án đầu tư đã tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như các dự án công nghệ cao, khu đô thị mới, hiện đại... Điều này phù hợp với định hướng thu hút FDI của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010. Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO tiếp tục có tác động lớn làm cho dòng vốn FDI tăng cao trong năm 2007 và sẽ tiếp tục tăng trưởng. Bên cạnh sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng dự án đầu tư nước ngoài cũng như về vốn đăng ký mới, các dự án đầu tư mới trong thời gian tới sẽ hướng dần đến những ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. Hiện Chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị các điều kiện thuận lợi nhất cho việc thu hút ở mức cao nhất và sử dụng có hiệu quả nhất dòng vốn FDI đang tăng mạnh tại Việt Nam, trong đó có việc thực hiện có hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết song phương và đa phương trong quá trình hội nhập quốc tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách thủ tục hành chính, hệ thống tài chính, ngân hàng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khắc phục các yếu kém về kết cấu hạ tầng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ." Ngày 7-4-2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP, về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian tới. Nghị quyết nêu rõ, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang và sẽ làm cho vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) toàn cầu bị thu hẹp và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong thời gian tới. Để tiếp tục thu hút và quản lý vốn ĐTNN, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai một số nhóm giải pháp cấp bách sau đây: Thứ nhất, về nhóm giải pháp liên quan tới chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân... b) Đầu tư gián tiếp (FII) • VN chưa cho phép người cư trú ĐTGT ra nước ngoài • Người không cư trú được thực hiện ĐTGT vào TTCK VN (mua CP, TP được nắm giữ ở VN và ở nước ngoài). VN không giới hạn dòng vốn gián tiếp vào cũng như ra . Thị trường đầu tư gián tiếp (FII) của VN đang rất hấp dẫn và theo đánh giá của các nhà đầu tư, độ hấp dẫn của thị trường tài chính VN đã vươn lên đứng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ Những tháng năm đầu của TTCKVN, số quỹ nước ngoài hoạt động tại VN chỉ đếm trên đầu ngón tay, với tổng số vốn ít ỏi không đến 100 triệu USD, vốn huy động cho mỗi quỹ không quá 10 triệu USD, nhưng cho đến ngày hôm nay, dòng vốn FII đã giải ngân trong việc đầu tư cổ phiếu lên tới khoảng 5 tỷ USD (con số 5 tỷ USD do VAFI ước tính sơ bộ). Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 18 | P a g e December 24, 2009 Dòng vốn FII dần dần gia tăng như quý 1/2008 thừa USD tại hệ thống ngân hàng thương mại và dẫn tới thiếu tiền đồng, gây áp lực làm VND lên giá. Đây cũng là cơ hội để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua USD tăng dự trữ ngoại tệ Nhà ĐTNN tham gia vào tiến trình đầu tư chứng khoán đã làm thay đổi cách định giá cổ phiếu của nhà đầu tư trong nước, phong đòi hỏi sự minh bạch tối đa trong việc đầu tư vào TTCK Nếu thực tế không có nhiều vốn FII trong các năm 2006, 2007, 2008 thì có lẽ hệ thống ngân hàng VN không thể có qui mô như ngày hôm nay. Hệ thống ngân hàng đã có điều kiện huy động được hàng chục tỷ đô la , số vốn huy động được chủ yếu là NĐTTN, tuy nhiên nhân tố FII là nhân tố kích thích. Dòng vốn FII cũng làm thay đổi cơ bản thị trường trái phiếu VN, nhân tố FII đã làm cho NĐTTN tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và đã trưởng thành hơn trước rất nhiều Mặt hạn chế : FII và nguy cơ khủng hoảng tài chính "Từ thực trạng vốn FII vào rất lớn từ quý IV-2006 đến quý I-2007 đã đặt ra vấn đề rõ ràng chúng ta không kiểm soát được và đặt ra thách thức điều hành vĩ mô như rủi ro lạm phát, đồng VN tăng giá bất lợi cho định hướng xuất khẩu..." Từ đầu năm 2009 đến 17/11/2009, lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã rút ra khoảng 500 triệu USD. Và cả năm dự kiến cũng “nằm ở khoảng này”. Trong năm 2008, con số này là 578 triệu USD. đó cũng là một yếu tố tác động đến thị trường ngoại hối với những diễn biến phức tạp từ đầu năm đến nay. bên cạnh sự sụt giảm của FDI, xuất khẩu và du lịch. Đây là diễn biến ngược với những thuận lợi trong năm 2007. Cụ thể, trong năm 2007, nguồn vốn FII chảy vào lên tới 6,3 tỷ USD Khi dòng vốn FII vào ồ ạt với quy mô lớn sẽ gây mất cân bằng về mặt vĩ mô, hoặc nhà đầu tư có thể rút vốn quy mô lớn và đột ngột gây ra sự khủng hoảng và sụp đổ của thị trường tài chính trong nước. c) Vay, trả nợ nước ngoài • Người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng, cá nhân được vay theo nguyên tắc tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ theo quy định của NHNN • Chính phủ vay nợ và cho vay nợ nước ngoài: chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quốc gia • Cơ cấu tiền vay nợ: (1) USD; (2) Yên Nhật; (3) Euro Tình hình giải ngân ODA ở nước ta thời gian qua thể hiện ở bảng số liệu dưới đây: Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 19 | P a g e December 24, 2009 ODA cam kết và giải ngân thời kỳ 1993-2009 0 1 2 3 4 5 6 19 93 19 95 19 97 19 99 20 01 20 03 20 05 20 07 Năm Tỷ US D ODA Cam kết ODA Giải ngân Hình 1 cho thấy dòng vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng không phải luôn luôn tăng. Vốn cam kết năm 1997 và 1998 giảm sút là do tác động của khủng hoảng tiền tệ châu Á. Trong thời kỳ 1993-2008, Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng trong thu hút và sử dụng ODA. Tổng cộng 42,2 tỷ USD đã được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam, chiếm khoảng 2% tổng ODA toàn cầu. Trong số vốn cam kết đó, 22,6 tỷ USD đã được ký kết. Tình hình sử dụng vốn ODA của các lĩnh vực năm 2008 11.5 8 5.8 9 16.3 23.4 26 Giao thông vận tải Phát triển hệ thống nguồn điện, mạng lưới chuyển tải và phân phối Phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp thoát nước và bảo vệ môi trường y tế xã hội giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 20 | P a g e December 24, 2009 Thứ nhất, trước khi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn, cần mở cửa dần thị trường tài chính với bước đi thích hợp. Thứ hai, phải tiến hành cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính, trong đó đặc biệt chú ý đến tỷ giá, lãi suất, quản lý ngoại hối. Thứ ba, thực hiện khởi đầu tự do hóa giao dịch vốn bằng việc tự do hóa FDI, bởi bản thân dòng vốn này ít bị tác động hơn so với dòng vốn FII khi có biến động tài chính. Thứ tư, làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính - ngân hàng trước khi thực hiện tự do hóa giao dịch vốn quốc tế. Trường hợp đặc biệt, có thể đóng cửa các định chế tài chính yếu kém... Thứ năm, tự do hóa giao dịch vốn phải gắn liền với việc tăng cường kỷ luật tài chính; đồng thời tạo lập hạ tầng cơ sở cho thị trường tài chính. Thứ sáu, nên thực hiện các giao dịch vốn dài hạn trước khi tự do hóa các giao dịch vốn ngắn hạn Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 21 | P a g e December 24, 2009 CHƯƠNG 3 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ I. Những tồn tại của quá trình tự do hoá ở Việt nam 1. chính sách tài khoá Thâm hụt NSNN ở Việt Nam hiện nay đã ở mức báo động. Thâm hụt ngân sách cao, kéo dài sẽ đe doạ ổn định kinh tế vĩ mô và khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ dẩn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân hay gia tăng thêm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ở Việt nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007 chưa làm suy giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt tài khoản vãng lai từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007 Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ.Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và các nhà đầu tư .Tóm lại, thâm hụt ngân sách sẽ đe doạ sự ổn định kinh tế vĩ mô, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. 2. Hệ thống ngân hàng Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những thay đổi về chính sách giúp cho hệ thống ngân hàng VN tiến gần hơn đến điều kiện đủ cho thành công của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng VN còn nhiều yếu kém trên các mặt • Quản lý yếu kém: Vấn đề điều hành, quản lý hoạt động ngân hàng từ NHNN đến các NHTM chiếm vị trí quan trọng trong việc quyết định hoạt động hiệu quả và tính lành mạnh của hệ thống, nhất là đối với NHTM trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường và chấp nhận cơ chế kinh doanh bình đẳng. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mức ở các NHTM, trong một số ngân hàng, bộ phận kiểm soát nội bộ tồn tại mang tính hình thức, không Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 22 | P a g e December 24, 2009 phát hiện được những sai sót của bộ phận điều hành hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà hệ thống ngân hàng VN cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, nhất là trong vấn đề quản lý lãi suất của hoạt động tín dụng. • Tính cạnh tranh thấp: Hiện nay, NHTMQD vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng mà khách hàng của khu vực này chủ yếu vẫn là các DNNN, điều này khiến cho việc cải cách hoạt động của các NHTMQD sang kinh doanh trên cơ sở thương mại thực sự và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng gặp khó khăn. Sự bảo trợ công khai hay ngấm ngầm của Nhà nước đối với các DNNN trong việc vay vốn ngân hàng vẫn còn tồn tại đồng nghĩa với việc phát huy tác dụng của các qui luật kinh tế thị trường trong lĩnh vực này bị cản trở, dẫn đến tính cạnh tranh trong khu vực NHTMQD còn thấp. 3. Vấn đề lãi suất Việc áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng và là bước tiến quan trọng của quá trình tự do hóa tài chính ở VN. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi tích cực thì việc thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề bất cập trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ thống ngân hàng VN như việc NHNN công bố lãi suất cơ bản nhằm định hướng lãi suất thị trường trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, các NHTM cổ phần tiềm lực về tài chính còn yếu kém phải đối mặt khi tiến hành tự do hóa lãi suất. 4. Điều hành tỷ giá hối đoái Xung quanh vấn đề tỷ giá ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng: Giá trị đồng Việt Nam đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ , như vậy, trước hết nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều hành chính sách tiền tệ. 5. Khả năng chuyển đổi của VNĐ So với các giai đoạn trước, tính chuyển đổi trong nước của VND đã tăng rất nhiều do vị thế của VND liên tục được nâng lên. Kết quả là niềm tin vào VND của người dân cũng như của các nhà đầu tư nước ngoài đã được củng cố, quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường bớt căng thẳng. Tuy nhiên, tính chuyển đổi của VND vẫn bị đánh giá là thấp, Nhiều doanh nghiệp vẫn niêm yết giá bằng USD, thanh toán bằng USD theo tỷ giá và đặc biệt tâm lý găm giữ ngoại tệ vẩn còn. Theo số liệu chưa đầy đủ, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ chỉ chiếm 3.6%, nhưng đồng tiền thanh toán chủ yếu lại dùng USD. Tình trạng một số doanh nghiệp và bộ phận dân cư găm giữ USD từng khiến biến động tỷ giá giữa USD và VND trong nhiều thời điểm khá phức tạp, gây bất lợi cho các DN hoạt động xuất khẩu nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 23 | P a g e December 24, 2009 6. Tự do hoá các giao dịch vốn Xu hướng tự do hoá các giao dịch vốn , giống như tự do hoá thương mại đang trở thành xu hướng tất yếu của kinh tế toán cầu và mang lại rất nhiều lợi ích cho các quốc gia. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, tự do hoá các giao dịch vốn cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức Hiện nay Việt nam đang tiếp nhận dòng vốn nước ngoài chủ yếu qua 3 kênh :FDI (đầu tư trực tiếp), FII (đầu tư gián tiếp), và nguồn vốn ODA; trong đó FDI chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2006, Việt nam ghi nhận sự bùng nổ mạnh mẽ của dòng vốn FII do sự trỗi dậy của thị trường chứng khoán ; Tại hội nghị đầu tư Jaccar 2009 vừa qua, theo TS Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ Tịch Uỷ Ban Giám Sát tài chính Quốc Gia thì sự ồ ạt của dòng vốn nước ngoài cũng mang đến nhiều bất ốn cho nền kinh tế vĩ mô, nhất là việc rút vốn đột ngột cao thì dễ xảy ra khủng hoảng tiền tệ và khủng hoàng tài chính. Sự phát triển của dòng vốn FDI trong những năm qua là nguồn lực lớn cho tăng trưỏng kinh tế và trở thành một trong những đường dẫn để dòng vốn FII chảy vào. Tuy nhiên , tự do hoá các giao dịch vốn, nếu không kiểm soát và hướng chúng theo chiều hướng tích cực sẽ để lại không ít phiền toái. II. Giải pháp cho vấn đề tự do hoá hiện nay 1. Đối với chính sách tài khóa Liên kết giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, CS tiền tệ với CS tài khóa, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích thực hành tiết kiệm và tiêu dùng, tập trung vốn cho đầu tư phát triển. Quản lý chặt chẽ hoạt động thu chi ngân sách theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo đúng cam kết quốc tế, giảm thiểu biện pháp bảo hộ qua hàng rào thuế quan và phi thuế quan để tạo sức ép cạnh tranh. Điều hành mức bội chi Ngân sách bằng khoảng 5% GDP. CS thuế phải minh bạch, từng bước đơn giản hóa hệ thống thuế quan, thủ tục cấp phép nhập khẩu, mở rộng hơn nữa các đối tượng được phép tham gia xuất nhập khẩu, quản lý chặt chẽ, đảm bảo thu đúng, thu đủ, giảm tỉ lệ thuế suất nhưng thêm những danh mục thuế mới như: thuế bên chứng khoán, thuế bất động sản… Đồng thời, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các Luật thuế nhằm củng cố nguồn thu ngân sách trong khi nguồn thu thuế bị giảm mạnh trong quá trình thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ. 2. Cải cách hệ thống ngân hàng và điều hành chính sách tiền tệ Nâng cao năng lực điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá theo nguyên tắc thị trường nhằm hạn chế rủi ro thị trường đối với khu vực tài chính trong quá trình tự do hóa. Xem xét, tính tóan chính xác tổng phương tiện thanh tóan để có lượng cung tiền hợp lý. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 24 | P a g e December 24, 2009 Xác định rõ mục tiêu của CSTT, trong đó mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát, tạo sự chủ động của NHNN trong việc áp dụng các biện pháp chính sách, kịp thời ứng phó trước những biến động kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là các luồng vốn quốc tế, theo dõi chặt chẽ diễn biến cán cân thanh toán và tỉ giá để có những điều chỉnh thích hợp .. Áp dụng vào thực tế các công cụ CS tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu, dự trữ bắt buộc…vận hành linh hoạt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đẩy nhanh tiến độ cải cách ngân hàng nhằm nâng cao tiềm lực tài chính, làm cơ sở để đổi mới công nghệ và trình độ chuyên môn quản lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam; tiến hành cổ phần hóa các NHNN một cách có hiệu quả. Hệ thống tài chính NH phải thật sự lành mạnh trước khi thực hiện tự do hóa giao dịch vốn quốc tế. Bảo đảm an toàn vốn tối thiểu và nâng cao năng lực quản trị rủi ro, (2) bảo đảm các hoạt động của NHTM được giám sát hữu hiệu bởi cơ quan giám sát của NHNN và (3) có hệ thống thông tin đầy đủ, công khai và minh bạch. Kiểm soát các khoản vay ngắn hạn của các NHTM trong nước và nước ngoài. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa cá nhân với Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà máy chế biến, Tập đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của cả Pháp nhân và thể nhân . Tiến tới thanh tóan không dùng tiền mặt, liên kết giữa các NH với nhau, liên kết giữa các NH và các nhà cung cấp dịch vụ như bưu chính, viễn thông, điện lực… 3. Nâng cao khả năng chuyển đổi của VNĐ Cần có những chính sách cụ thể nâng cao sức mạnh của VND, không chỉ bằng biện pháp hành chính, mà phải bằng những biện pháp kinh tế. Hiện không chỉ các đô thị lớn như Hà Nội, TPHCM mà ngay cả những địa bàn xa trung tâm, việc niêm yết và thanh toán hàng hóa , dịch vụ bằng USD vẩn còn nhiều, như giá khách sạn, nhà nghỉ, hàng hóa cho khách nước ngoài… Cơ quan chức năng cần đáp ứng được nhu cầu dùng ngoại tệ trong xuất nhập khẩu, du học, chữa bệnh, du lịch,…của dân cư theo cung cầu thị trường. Tích cực triển khai các biện pháp nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, trước hết là chấn chình hoạt động mua bán ngoại tệ và hạn chế hoạt động của thị trường “chợ đen”.Nhất là các trường hợp mua, bán USD với tỷ giá ngoài biện độ cho phép hay găm giữ ngoại tệ, đưa tin đồn thất thiệt để mua bán kiếm lời, gây biến động phức tạp tỷ giá. 4. Đối với tự do hóa tài khoản vốn Trước khi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn, cần mở cửa dần thị trường tài chính với bước đi thích hợp. Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 25 | P a g e December 24, 2009 Thực hiện khởi đầu tự do hóa giao dịch vốn bằng việc tự do hóa FDI, bởi bản thân dòng vốn này ít bị tác động hơn so với dòng vốn FII khi có biến động tài chính. Làm lành mạnh hóa hệ thống tài chính - ngân hàng trước khi thực hiện tự do hóa giao dịch vốn quốc tế. Trường hợp đặc biệt, có thể đóng cửa các định chế tài chính yếu kém... Tự do hóa giao dịch vốn phải gắn liền với việc tăng cường kỷ luật tài chính; đồng thời tạo lập hạ tầng cơ sở cho thị trường tài chính. Nên thực hiện các giao dịch vốn dài hạn trước khi tự do hóa các giao dịch vốn ngắn hạn . LỜI KẾT Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tự do hóa tài chính từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đang là xu thế tất yếu bắt buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia mình đi vào quỹ đạo chung của kinh tế thế giới. Do đó, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển kịp với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì một trong những vấn đề quan trọng là từng bước cải cách hệ thống tài chính, hoàn thiện hệ thống tài chính, hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí quản lý thận trọng và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là yêu cầu bức thiết đối với các cơ quan chức năng của Việt Nam. Tham gia tích cực và hiệu quả các chương trình hợp tác khu vực và quốc tế đối với lĩnh vực tự do hoá thị trường tài chính sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình hội nhập nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Vì một số hạn chế về mặt thời gian cũng như trong nhận thức, nên đề tài không thể tránh khỏi những sai sót, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý từ quý Thầy Cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn! Chuyên đề 6: Tự do hóa tài chính – Nhóm 4 26 | P a g e December 24, 2009 DANH SÁCH NHÓM 4 LỚP ĐÊM 8 THUYẾT TRÌNH MÔN TCTT STT Họ và tên Ngày sinh Ký tên 1 Lưu Chí Công 07/05/1985 2 Lê Văn Hưng 23/08/1985 3 Phan Thành Hưng 19/04/1982 4 Nguyễn Trương Quốc Khánh 04/04/1984 5 Hoàng Võ Anh Khoa 01/02/1984 6 Nguyễn Thị Linh 10/02/1985 7 Lê Thị Thùy Linh 18/12/1985 8 Võ Ngọc Minh 29/04/1985 9 Hồ Thị Mười 8/1/1979 10 Nguyễn Sơn Nam 27/03/1984 11 Trương Huệ Nam 05/01/1980 12 Bùi Thị Thu Nga 20/02/1975 13 Lương Thị Hương Nghĩa 21/01/1984 14 Trương Thị Anh Nguyệt 19/07/1981 15 Nguyễn Thị Thanh Nhàn 08/12/1984 16 Tô Thị Hoàng Oanh 30/06/1984 17 Trần Thị Hoa Phi 15/04/1985

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCải cách tài chính Việt Nam theo hướng tư do hóa trong thời hội nhập.pdf
Luận văn liên quan