MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đối với một dân tộc ngay từ thuở hồng hoang dựng nước và giữ nước đã luôn phải đương đầu với các cuộc chinh phạt của ngoại bang thì việc văn học đặc biệt lưu tâm tới đề tài chiến tranh cũng là điều dễ hiểu. Hiện thực đấu tranh chống ngoại xâm đã trở thành đối tượng khám phá và phản ánh của văn học như một tất yếu. Và 30 năm không ngừng tiếng bom, tiếng súng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ vừa qua của cả dân tộc đã trở thành mảng hiện thực phong phú, có sức hấp dẫn không ít người cầm bút. Họ viết về chiến tranh ngay khi cuộc chiến còn đang diễn ra, họ viết về chiến tranh cả khi tiếng súng đã lắng lại và vòng nguyệt quế đã được đặt trên đầu người chiến thắng. Có thể nói, trong sự phát triển 50 năm của văn học hiện đại Việt Nam, mảng văn học về đề tài chiến tranh với nhiều thể loại: thơ ca, truyện ngắn, truyện vừa, kịch, kí, tiểu thuyết chiếm vị trí rất quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết dường như đã phát huy được lợi thế về dung lượng khi tiếp cận mảng hiện thực trải dàn trên một không gian rộng lớn kéo dài từ Bắc tới Nam, từ cao nguyên tới đồng bằng, gắn với khoảng thời gian 30 năm không hề ngắn ngủi. Trước 1975 phải kể đến Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Hòn đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chânngười lính (Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai) Sau 1975 các tiểu thuyết viết về chiến tranh vẫn tiếp tục ra mắt công chúng: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nắng đồng bằng, Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu) Ở những tiểu thuyết này, chiến tranh dù được đề cập đến trực tiếp hay gián tiếp thì vẫn hướng tới mục đích tái hiện một thời kì lịch sử đầy sóng gió của dân tộc trong một cái nhìn mới từ cuộc sống hiện tại sau ngày giải phóng. Người viết luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết viết về chiến tranh trước hết bởi đề tài chiến tranh là một đề tài lớn, đầy sức hấp dẫn của văn học nước nhà và tiểu thuyết là một thể loại đạt khá nhiều thành công khi khai thác mảng đề tài này.
Chọn đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết xuất phát từ một thực tế rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã có nhiều phương diện đổi mới so với tiểu thuyết trước 1975 mà trong đó sự thay đổi về cảm hứng sáng tác là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trước 1975, chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca, bởi vậy tiểu thuyết thời kì này mang hơi thở của những bản hùng ca hào sảng, tự tin, đầy khí thế. Điều này cũng dễ hiểu khi văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Vả chăng cái xôn xao, náo nức hào hùng đó cũng là là tâm lí chung của cả cộng đồng "những buổi vui sao cả nước lên đường" (Chính Hữu). Sau 1975, khi văn chương đã trút bỏ vai trò chính trị, trở lại với bản chất nghệ thuật đích thực của mình và nhà văn có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực thì hứng thú viết về chiến tranh có sự vận động, biến đổi. Ở mức độ đậm nhạt khác nhau, trên nét lớn có thể thấy có một cảm hứng chung xuất hiện trong hầu hết các tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kì này: cảm hứng bi kịch. Trước đây, chúng ta nói nhiều đến chiến thắng, niềm vui, thì bây giờ, trong các trang viết sau ngày giải phóng, những mất mát đau thương vốn dĩ rất thường tình của chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó. Sự vận động của cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975 đã đem lại cho tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kì này nói chung một diện mạo mới. Đây cũng là lí do quan trọng thu hút người viết luận văn đến với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau1975".
Khảo sát tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy phần lớn các sáng tác có sự gặp gỡ chung là hứng thú viết về nỗi buồn, về sự mất mát, éo le. Chiến tranh không còn được nhìn bằng cái nhìn ngợi ca lãng mạn mà thay vào đó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực bắt đầu được bày lên trang viết của các cây bút sau 1975. Tuy nhiên, sự biến đổi cảm hứng sáng tác từ một đề tài lớn như vậy lại chưa được một công trình qui mô nào nghiên cứu. Hầu hết các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở cấp độ bài báo, tham luận hoặc ý kiến, nhận định Ở đây, các phương diện biểu hiện của cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết về chiến tranh sau chiến tranh chưa được đề cập đến đầy đủ trong tính hệ thống. Giới hạn của một bài viết nhỏ buộc người viết chỉ có thể khảo sát sự biểu hiện đó ở một vài phương diện nhất định, ví dụ: hướng tiếp cận hiện thực, số phận con người, nghệ thuật xây dựng tình huống kịch Với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết luận văn mong muốn có thể đem đến cho bạn đọc một cái nhìn có tính hệ thống về mảng văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh với các đặc điểm cơ bản và những biến đổi nội tại đặc trưng của nó.
Từ các lí do chọn đề tài trên đây, người viết hi vọng qua luận văn "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975" có thể giúp người đọc xác lập một số đặc điểm cơ bản của văn học viết về chiến tranh sau 1975 trong sự đối sánh với văn học giai đoạn trước đó; đưa ra những kiến giải giúp người đọc phần nào hiểu rõ quy luật vận động nội tại của văn chương nói chung và văn học về chiến tranh nói riêng; từ đó khẳng định các giá trị nhân bản bền vững vốn là kết tinh của mảng văn học viết về chiến tranh trong những năm tháng hoà bình này.
115 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4882 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về quá khứ như muốn kiếm tìm nguồn sức mạnh để nâng đỡ mình trong cuộc sống hiện tại. Đối với Kiên (Thân phận của tình yêu) thì “không phải cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại chính những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay. Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại (….) không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của những hồi tưởng” [25.420]. Đó cũng là suy nghĩ chung của những người may mắn hơn các đồng đội đã ngã xuống, có thể bỏ lại sau lưng cánh rừng đại ngàn khét lẹt mùi bom đạn đầy chết chóc để trở lại cuộc sống hoà bình.
Tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã chứng tỏ sự sáng tạo vươn lên của các nhà văn với mong muốn kiếm tìm cái mới, tạo ra những phá cách độc đáo trên nhiều bình diện mà một trong số đó là cách tổ chức các mô hình không gian, thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Với việc dựng lên nhiều mảng không gian xen kẽ nhau, tái hiện đan cài nhiều khoảng thời gian khác nhau, tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 đã mở rộng được phạm vi phản ánh hiện thực, khai phá sâu hơn thế giời tâm linh đầy bí ẩn cũng như theo sát và tái hiện được chân dung con người với tư cách cá nhân, có số phận riêng tư trong dòng chảy trầm luân dâu bể của cuộc đời. Chính nhờ mô hình không gian, thời gian này nhà văn đã thể hiện được chân thực, sâu sắc những bi kịch cá nhân riêng tư của con người cũng như nỗi buồn chiến tranh thời kỳ hậu chiến lặng lẽ nhưng lại có dư âm tê tái riêng.
II. Nghệ thuật xây dựng tình huống:
Không phải chỉ riêng tiểu thuyết mà ngay cả với kịch, truyện ngắn, truyện vừa và nhiều thể loại sáng tác văn xuôi khác, tình huống truyện có một vị trí hết sức quan trọng. Đó là yếu tố nâng đỡ cốt truyện, góp phần tạo nên bộ khung vững chắc cho toàn bộ tác phẩm. Vừa mang tính nội dung, vừa mang tính hình thức, tình huống tự thân nó đã biểu hiện nội dung tác phẩm song đồng thời cũng được nhà văn xây dựng và sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật để thể hiện sâu sắc hơn nội dung tư tưởng muốn gửi gắm. Tiểu thuyết sau 1975 với mong muốn thể hiện một cái nhìn mới thành thực về chiến tranh, khám phá sâu hơn mảng đề tài này từ góc độ nỗi buồn đã dựng lên một hệ thống các tình huống bất thường, ngẫu nhiên, nghịch lý, mang tính thử thách con người. Từ hệ thống các tình huống đa dạng này, bi kịch và nỗi buồn chiến tranh được thể hiện sắc nét trong những diễn biến lắt léo, bất ngờ được tổ chức bởi bàn tay nghệ thuật của nhà văn.
Chiến tranh vốn là hiện thực bất thường nên luôn chứa đựng bên trong những điều bất thường vốn hiếm khi xảy ra trong cuộc sống hoà bình. Để diễn tả tính chất bất thường đó của hiện thực, các cây bút tiểu thuyết sau 1975 đã xây dựng nên các tình huống bất thường- ở đó, con người thường không thể lường trước được kết cục số phận dành cho mình. Là môi trường của đạn bom, chết chóc, lam chướng mùi tử khí, chiến tranh không phải là mảnh đất thích hợp để ươm mầm sống, nuôi dưỡng những khát vọng, ước mơ nhỏ bé, vốn rất giản dị, đời thường của con người. Bởi vậy, sự xuất hiện của những khát vọng tình cảm trần thế đó trong môi trường sặc mùi chết chóc này lại trở thành một điều trái lẽ, hoạ hoằn lắm mới có được. Hoạ hoằn, hiếm hoi tới độ chúng gần như một điềm gở, báo hiệu những bi kịch mất mát mà ngay sau đó con người phải gánh chịu. Thu (Nước mắt đỏ) dâng tặng toàn bộ cuộc đời con gái trong trắng của mình cho người yêu thì ngay sau đó đã có những linh tính không hay về số phận của người yêu. Tuấn (ăn mày dĩ vãng) lần đầu tiên được nếm trải hạnh phúc trần thế của loài người, cảm giác ngây ngất, choáng ngợp, run rẩy còn chưa tan thì đã lặng câm, uất hận trước thi thể vấy máu của người bạn tình. ở “Thân phận của tình yêu”, Bảo Ninh đã dựng lên một tình huống bi đát, cảm động, thương tâm trên chặng đường tìm kiếm hạnh phúc của nhân vật. Đó là tình huống các đội viên tiểu đội chinh sát của Kiên lao vào mối tình say đắm lạ lùng, cuồng si bí ẩn, đầy tội lỗi vào có một không hai với ba cô gái trong trại tăng gia của huyện đội 67. Bất kể những đêm mưa nặng nề xối dội, hay những đêm vội vã từng cơn mưa rào rào, bất kể ướt át, lầy lội khốn khổ, tiếng gọi của bạn tình vẫn có một sức hút ma quái thúc giục họ tìm vào cái lán nhỏ trong lòng núi tối tăm đắm dưới mùa mưa như thác đổ. Và nhiều giờ sau khi các gã trai lần về, thở hổn hển, be bét bùn thì “ngoài mùi thơm của hồng ma còn thoang thoảng, là lạ một làn hương ngây ngây, dìu dịu, không có thật và không đàn ông, không lính tráng một chút nào, vương vấn mơ hồ, u ẩn trên tóc, trên áo, trong gió” [25.399]. Nhưng cái khát vọng nguyên thuỷ của loài người ấy lại là điều trái lẽ, bất thường trong thời buổi chiến tranh ngược đời này nên nó không có đủ dưỡng khí để sống, để bay bổng. Cuộc tình tập thể cuồng si kết thúc bằng cái chết của ba cô gái và Thịnh con- như một sự trả giá cho giấc mơ tình yêu, hạnh phúc vốn quá xa xỉ trong môi trường sống bạo liệt của chiến tranh. Mối tình đẹp đẽ của Hai hùng- Ba Sương (Ăn mày dĩ vãng) cũng không nằm ngoài quy luật trả giá nghiệt ngã, phi lí đó. Chu Lai đã tạo nên hàng loạt các tình huống thử thách mối tình của hai nhân vật này, và tình huống cao trào, đỉnh điểm- nút thắt mở quan trọng của toàn bộ tiểu thuyết, quyết định mọi nông nỗi cuộc đời của nhân vật chính, là tình huống Hai Hùng- Ba Sương nằm chung hầm sau đêm đột ấp bị bại lộ. Trong không gian chật chội, mờ tối đó, điều gì phải đến đã đến với hai cơ thể tràn trề sinh lực, đầy sức sống và tình yêu. Và chính giữa lúc họ đang cuộn lấy nhau để mơ những giấc mơ vĩnh cửu thì thần chết đã ngồi chồm hỗm trên nóc hầm. Cuộc li tán định mệnh ngay sau giây phút hạnh phúc ngọt ngào đã cắt lìa họ khỏi nhau để suốt thời gian còn lại của cuộc đời, Hai Hùng phải “ăn mày dĩ vãng” đi tìm sự thật về người đàn bà đã lấy đi toàn bộ những đam mê, say đắm của cuộc đời mình.
Cảm nhận rõ “Thời buổi chiến tranh là thời buổi ngược đời, cho nên những chuyện được coi như là lớn lao, những mối nguy to tát đều là sự thường nhật, còn những gì nhỏ nhoi, cỏn con như niềm vui, nỗi buồn hàng ngày của kiếp người thì lại rất trái lẽ và họa hoằn lắm, hãn hữu lắm mới có nổi. Hãn hữu tới độ chúng trở nên gần như điềm gở” [25.400], các nhà văn sau 1975 đã dựng lên kiểu tình huống bất thường mà ở đó luôn luôn mở ra những bi kịch, những nỗi buồn chiến tranh đau đớn, thảm khốc. Xây dựng tình huống truyện từ môi trường chiến tranh nghịch lí, các nhà tiểu thuyết đã miêu tả sự xuất hiện của tình yêu, hạnh phúc và những khát vọng giản dị đời thường khác của con người như là những điều bất thường, trái lẽ. Những tình huống bất thường ấy đã nói lên một thực tế bi đát: chiến tranh không cho phép con người được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và muốn sống với những khát vọng tự nhiên giản dị người ta lại thường phải trả cái giá rất đắt.
Bên cạnh kiểu tình huống bất thường, có tính chất tiên liệu, dự báo cho sự xuất hiện của bi kịch, ở tiểu thuyết sau chiến tranh còn có sự góp mặt của rất nhiều tình huống ngẫu nhiên. ở kiểu tình huống này dường như nhà văn không cần nhiều dụng công sắp xếp, bố trí, dàn cảnh. Sự việc xảy ra hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên, nằm ngoài tầm kiểm soát và nhân vật thường là không ý thức được diễn biến của tình thế. Nếu như ở kiểu tình huống bất thường nhà văn thường bám vào một sự việc, một yếu tố bất thường để xây dựng tình huống, dẫn dắt đến bi kịch, thì ở tình huống ngẫu nhiên, tình huống được phát triển chủ yếu dựa trên sự vô tâm, vô tình, không chủ ý của nhân vật. Vì vậy tình huống này vừa đem đến yếu tố bất ngờ song đồng thời cũng thừa nhận tính chất tự nhiên của sự việc. “Ăn mày dĩ vãng” của Chu Lai có sự lồng ghép của nhiều kiểu tình huống ngẫu nhiên như thế. Trái tạc đạn đã rút chốt bỏ quên trong túi áo đã lấy đi sinh mạng của Khiển ngay khi anh và đồng đội vừa thắng trận trở về. Số phận của Bảo được định đoạt ngay trong buổi chiều yên bình hiếm hoi của rừng già, lúc mà bữa cơm chiều ấm cúng được nhen lên từ bếp lửa hang. Phát đạn B41 do sự táy máy, bất cẩn của Tuấn trong khoảnh khắc đã khép lại cuộc đời trai trẻ của đồng đội giữa tuổi 19 vốn nhiều ước vọng, khát khao. ở đây tính chất ngẫu nhiên nằm ngay trong hành động vô tình, không chủ ý của con người, giữa một bối cảnh hoàn toàn không chứa đựng hiểm hoạ hay mối nguy cơ đe doạ nào. ở nhiều tiểu thuyết khác, tình huống ngẫu nhiên được tác giả xây dựng lại xuất phát từ tính ngẫu nhiên của hoàn cảnh. Cái chết của Năm Thuý (Nắng đồng bằng- Chu Lai) diễn ra khi Linh và cô đã thoát khỏi vòng vây. Cô gái nghiêng người xuống dòng sông tát nước thì từ đâu đó một viên đạn lạc đã găm vào ngực trái, nơi trái tim con gái lần đầu biết đến những rung động yêu thương. Cái chết của thằng Ngụy (Thân phận của tình yêu) giữa hố bom ngập nước lũ rừng tuồng như cũng là một trò đùa quái ác của thiên nhiên- dù Phán có nỗ lực bao nhiêu chăng nữa. Từ tình huống ngẫu nhiên này thường xuất hiện khi nhà văn miêu tả số phận nhân vật trong những thời khắc quyết định nhất. Nhấn mạnh tính ngẫu nhiên của tình huống, các cây bút tiểu thuyết thời kỳ này muốn ngầm gửi đi một thông điệp: cái bóng bạo tàn của chiến tranh sẵn sàng đổ xuống cuộc đời con người trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm. Và trong môi trường chiến tranh đó, con người luôn tiềm tàng khả năng gánh chịu thương đau, mất mát như một định mệnh đã an bài.
ở tình huống bất thường và tình huống ngẫu nhiên nhà văn hướng tới việc thể hiện nỗi buồn đau, bi kịch sau từng biến cố, tình tiết và vì thế, chỉ khi tình huống đã đi đến hồi kết thúc thì người đọc mới nhận ra những thương đau mà nó mang lại. Kiểu tình huống nghịch lí có một sự khác biệt nhỏ- yếu tố bi kịch được bộc lộ trực diện, bi kịch nằm ngay trong bản thân tình huống và tạo được dư âm kéo dài ngay cả khi tình huống đã được tháo gỡ. Trong kiểu dạng tình huống này, nhà văn chủ tâm tạo nên những trạng huống đối lập, những nghịch cảnh đối cực, dồn ép để chúng va chạm nhau- qua đó làm nổi bật lên tính chất nghịch lí và bi kịch của tình huống. Phổ biến nhất trong văn học viết về chiến tranh sau 1975 là tình huống gặp gỡ được xây dựng theo mô hình này. Lực gặp lại Thai (Cỏ lau), người lính tật nguyền với vết thương khủng khiếp trên mặt trở về quê gặp lại vợ con (Tiếng vạc sành- Phạm Trung Khâu), Thảo gặp lại người yêu cũ (Người sót lại của rừng cười)…những cuộc hội ngộ sau nhiều năm xa cách của các cặp vợ chồng, các đôi trai gái yêu nhau éo le thay lại không có chỗ cho niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào. Chiến tranh đã chặt lìa cuộc đời của hai người sang hai ngả khác nhau, không thể nào hàn gắn lại vẹn nguyên như trước. Người trở về hoặc bất lực trước số phận đã an bài, hoặc đau đớn trước sự đổi thay của người ở lại, hoặc không đủ dũng cảm để vượt qua những di hại của chiến tranh để lại trên thân thể mình để đón nhận hạnh phúc. Chiến tranh đã định đoạt bất hạnh, tước đoạt hạnh phúc của con người một cách tàn bạo, nghiệt ngã, đẩy con người vào tình thế buộc phải chấp nhận nghịch cảnh trớ trêu, nhận lấy phần thua thiệt về mình như một giải pháp không thể nào tránh thoát. Tính nghịch lí của tình huống gặp gỡ này còn có thể nhận thấy rất rõ trong những cuộc gặp gỡ sau nhiều năm xa cách giữa các đồng đội cũ. Út Thêm gặp lại Sáu Nguyện (Ba lần và một lần) không phải trong vị thế một người lính gặp lại chỉ huy của mình mà trong vị thế một quan toà đứng trước phạm nhân. Sáu Nguyện giáp mặt với Năm Thành trong môi trường sống hoà bình nhiều đổi thay cũng gắn với sự hoán đổi ngôi vị: người hùng đại diện cho chính nghĩa, biểu tượng của lòng can trường, dũng cảm năm xưa trở thành kẻ làm thuê bé nhỏ, còn kẻ đào ngũ hèn nhát lại xuất hiện trong vị thế của một giám đốc thành đạt, giàu có, được trọng vọng, kính nể. ở “Vòng tròn bội bạc”, tình huống Linh gặp lại Hoè cũng là một tình huống mang đậm màu sắc bi kịch. Những con người chung chiến tuyến diệt thù năm xưa, trong cơn dâu bể của cuộc sống hôm nay đã dạt về hai hướng cực không bao giờ đồng hành cùng nhau- một người đại diện cho công lí, cất lên tiếng nói bảo vệ cho sự thật và lẽ công bằng, một người lại là hiện thân của cái xấu, của thói vị kỉ cá nhân, thao túng quyền lực cần phải tiêu diệt. Tính chất đối đầu của những cuộc gặp gỡ này đã được các nhà văn sau 1975 khai thác để làm nổi bật nỗi buồn thời kì hậu chiến vốn là nhân tố cơ bản tạo nên cảm hứng bi kịch cho văn học sau 1975.
ở nhiều tình huống khác, tính chất nghịch lí không được xây dựng từ sự va chạm, đối đầu giữa các nhân vật trong các thái cực đối lập mà được tạo nên từ chính nỗi trớ trêu, phi lí mà nhân vật phải nếm trải. Tình huống Thu (Nước mắt đỏ), Quy (Chim én bay) chết trong cô đơn với khao khát làm vợ, làm mẹ không bao giờ có thể trở thành sự thực- là một tình huống mang đậm tính chất nghịch lí như vậy. Lí ra họ phải có một cuộc sống hạnh phúc song cuối cùng lại phải sống cuộc đời không chồng, không con, không gia đình. Tước đoạt quyền sống của con người bằng cái chết- nhà văn muốn giải thoát cho nhân vật khỏi sự bế tắc song đồng thời cũng lại đẩy bi kịch của con người lên đến đỉnh điểm. Tính nghịch lí trong tình huống Quảng, Tạo voi, Oanh hi sinh (Thân phận của tình yêu) mang dư vị cay đắng: khi lòng nhân trỗi dậy thì con người lại phảI trả một cái giá rất đắt cho phần nhân tính vốn rất đẹp đẽ, thiêng liêng của mình. Cái chết của Can còn bi đát hơn khi nằm lại trên hẻm Tò Vò- nơi quê hương Lục Bình còn vời vợi cách trở, tên tuổi, hình hài một con người đã từng vào sinh ra tử, vốn hoàn toàn không phải là đồ tồi đã bị chìm nghỉm đi. Số phận dành cho Sáu Nguyện (Ba lần và một lần) có nỗi cay cực riêng- người hùng ngang tàng một thủa lại chết trong vị thế của một tù nhân tội lỗi, chết trong tình thế đơn độc, không kịp biết rằng cuộc đời cũng có chút ưu ái với mình khi giọt máu duy nhất đã được sinh ra và nuôi dạy thành người.
Miêu tả một mảng hiện thực đầy biến động, tiểu thuyết sau 1975 có một sự tiếp nối tiểu thuyết chiến tranh trước 1975 khi dựng lên những tình huống có tính chất thử thách con người. ở kiểu tình huống này, bao giờ các tác giả cũng hướng tới việc bộc lộ đến tận cùng bản chất con người- cao cả hay thấp hèn, trung thực hay giả dối, vị tha hay độc ác…Với văn học trước 1975, khi nhân vật được đặt trong tình huống thử thách thì đều có khả năng chiến thắng hoàn cảnh, vượt qua khó khăn để toả sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đây là kiểu tình huống được xây dựng qua sự dàn dựng, phối hợp của các yếu tố bên ngoài. Chính những khó khăn trở ngại của môi trường bên ngoài trở thành nhân tố thử thách lòng dũng cảm, đức hi sinh, sự gan dạ mưu trí của nhân vật. Tiểu thuyết sau 1975 với xu hướng viết về cuộc chiến tranh bằng cảm hứng bi kịch đã tạo nên những tình huống thử thách mà ở đó con người không thể vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Nghĩa là con người không còn được nhìn nhận trong tư thế một vĩ nhân có khả năng thay đổi tình thế mà được nhìn nhận trong vị thế một con người bé nhỏ với những năng lực có hạn của mình không phải bao giờ cũng làm nên điều kì diệu phi thường. Trong các tiểu thuyết viết về chiến tranh từ âm vang của chiến tranh, kiểu tình huống này được các nhà văn dụng công xây dựng để qua đó mở ra những bi kịch đau buồn của con người thời kì hậu chiến. Thử thách đặt ra với con người lúc này không phải là cuộc sống núi rừng gian nan thiếu thốn hay sự vô tình của bom đạn khôn lường luôn đặt sinh mệnh con người chênh vênh trên làn ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết. Những thử thách đặt ra lúc này là cuộc sống thời bình nhiều cám dỗ, nơi mà tiền tài, địa vị, quyền lực luôn có một ma lực kì bí cuốn hút con người. Nhiều nhân vật của tiểu thuyết sau 1975 được đào luyện trong môi trường chiến tranh trở thành những hình mẫu lí tưởng nhưng lại sớm đánh mất mình trong môi trường sống mới không ồn ào tiếng đạn bom nhưng luôn tiềm tàng bên trong những cạm bẫy ngầm. Ba Sương vốn là một nữ du kích gan dạ, dũng cảm, chân thật và giàu lòng nhân hậu bị hư danh hấp dẫn đã quay lưng chối bỏ quá khứ, bắt tay hợp tác, che chở cho kẻ thù bên kia chiến tuyến một thời. Hoè (Vòng tròn bội bạc) đã từng sát cánh bên đồng đội đánh những tranh sinh tử- nhưng trong cuộc sống thời bình lại trở thành kẻ chuyên quyền, độc đoán, đe doạ cả những đồng đội cũ. Với Năm Thành (Ba lần và một lần), môi trường sống mới sau ngày giải phóng càng lộ rõ hơn bản chất vị kỉ cá nhân vốn đã có mầm mống từ trong chiến tranh.
Như trên đã trình bày, các tình huống thử thách được xây dựng trong văn học chiến tranh trước 1975 đều hướng tới khẳng định vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Với việc đặt nhân vật vào một hoàn cảnh cụ thể trong mối tương quan, tác động với môi trường xung quanh, lấy những khó khăn của ngoại cảnh để thử thách con người tình huống thử thách của văn học thời kì này chỉ mang tính bên ngoài. Đến văn học chiến tranh sau 1975, bên cạnh việc xây dựng các tình huống bên ngoài nhà văn còn đặc biệt chú ý tới các tình huống bên trong. ở kiểu tình huống này tính chất quyết liệt, dữ dội được phô diễn trong mạch ngầm tâm lí của nhân vật. Lấy đời sống nội tâm của con người làm hạt nhân cơ bản để xây dựng tình huống, nhà văn quan tâm đến những trạng thái tâm lí giằng xé, mâu thuẫn diễn ra trong tâm hồn nhân vật. Trong cuộc đấu tranh với chính mình đó, con người thường bộc lộ nhu cầu sám hối thành thực, đau đớn hoặc thú nhận sự bất lực của bản thân trong hành trình vươn lên gìn giữ những tín điều tốt đẹp cao cả. Quy (Chim én bay) gặp lại vợ con giám Tuân, Hai Đích đã luôn phải sống trong sự dằn vặt khi đặt mình vào vị thế người nhà bệnh nhân. Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) luôn đặt mình vào tình huống tưởng tượng: phải đối mặt với vong linh những người xấu số đã ngã xuống bởi bàn tay của chính mình- dù là ở tuyến này hay tuyến bên kia. Quá khứ không chịu buông tha con người. Tất cả những kỉ niệm đau buồn của những năm tháng ấy vẫn cứ như thước phim quay chậm chỉ chờ cơ hội là ào đến trong tâm trí con người. Nhớ lại quá khứ bằng hồi ức, tưởng tượng- những tình huống bên ngoài đã bị biến thành tình huống bên trong. Và vì được tái hiện bằng hồi ức mang tính chủ quan của con người nên tình huống xảy ra luôn đi kèm với những trạng thái tình cảm, những suy nghĩ riêng tư vốn được kiểm nghiệm bằng độ lùi thời gian cần thiết. Những trạng thái tình cảm và suy nghĩ riêng tư đó thường lại là nỗi đau đớn dằn vặt, niềm thương tiếc khôn nguôi. Điều này có thể nhận thấy rõ qua Thu (Nước mắt đỏ), Quy (Chim én bay), Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), Kiên (Thân phận của tình yêu). Đặt nhân vật vào tình huống bên trong, các nhà tiểu thuyết sau 1975 không chỉ thể hiện được tính chất nghiệt ngã, nỗi đau chiên tranh dai dẳng đè nặng lên số phận con người mà còn mở ra chiều sâu tâm hồn phong phú của nhân vật văn học thời kì này.
Là một thể loại tự sự có dung lượng ngôn từ lớn, đối với tiểu thuyết- tình huống truyện có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức, dẫn dắt cốt truyện và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hướng tới việc bộc lộ cái nhìn buồn đau, bi kịch, về những góc khuất của hiện thực chiến tranh mà văn học giai đoạn trước chưa có diều kiện nói đến, tình huống trong tiểu thuyết sau 1975 đã được các nhà văn xây dựng trong tính đa dạng, nhiều vẻ, thực tế đã phát huy được hết hiệu quả nghệ thuật của nó. Thông qua những tình huống bất thường, ngẫu nhiên, nghịch lí, những tình huống thử thách bên trong và bên ngoài- chiến tranh đã bị phơi bày ra bản chất gớm guốc của mình vốn luôn là nỗi kinh hoàng của con người.
III. Độc thoại nội tâm
Trong văn học chiến tranh trước năm 1975, nhân vật văn học đóng vai trò như là đường dây sâu chuỗi các biến cố, sự kiện lịch sử, và vì thế nhà văn chỉ quan tâm nhiều đến việc diễn tả cái thế giới bên ngoài đầy biến động của hiện thực mà chưa chú trọng tìm hiểu thế giới bên trong của con người. ở những tác phẩm này sự kiện lấn át con người, con người trở thành phương tiện để chuyển tải sự kiện lịch sử. Sau năm 1975, nhu cầu đổi mới nội tại của văn học gặp được những điều kiện thuận lợi nở bùng thành một giai đoạn phát triển với nhiều thay đổi mãnh liệt. Hàng loạt các tiểu thuyết chiến tranh ra đời trong thời kì này- đặc biệt là trong thập kỉ 80 và 90 đã thể hiện dấu ấn của cảm hứng thế sự trong cách lựa chọn cốt truyện, sự kiện và nhân vật. Biến cố lịch sử đã trở thành đường viền của số phận cá nhân hoặc là cái cớ để nhà văn khảo sát hành trình tự ý thức, diễn biến tâm lí của con người. Qua các tác phẩm văn xuôi chiến tranh nói chung và tiểu thuyết nói riêng có thể nhận thấy “hiện thực chiến tranh với đầy đủ tính chất ác liệt của nó đã được hiện lên qua số phận và thế giới nội tâm của con người”[63]. Đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, nhà văn đã sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm, khám phá nửa phần bí ẩn còn lại không thể diễn tả thành lời của con người nhưng là nửa phần phong phú, phức tạp, chứa đựng nhiều bất ngờ hơn cả, qua đó lột tả được bộ mặt phi nhân, khủng khiếp của chiến tranh. Nói cách khác, thủ pháp độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 không chỉ được sử dụng như là một thủ pháp xây dựng nhân vật mà còn là một biện pháp nghệ thuật thể hiện cảm hứng bi kịch trong sáng tác của nhà văn.
Theo Môtưlêva: “Độc thoại nội tâm là ngôn từ trực tiếp không diễn tả nên lời của các nhân vật hoặc là ngôn từ trực tiếp của tác giả nhân danh mình mà nói nhưng như vậy là sử dụng giọng điệu và từ ngữ của nhân vật hoặc cũng có thể đối thoại bên trong, ở đó, giọng của các nhân vật bị xẻ thành hai giọng đối nghịch”[56]. Là tiếng nói bên trong, ngôn ngữ bên trong thầm kín của nhân vật, độc thoại nội tâm “không đòi hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của người tiếp nhận và được thể hiện thoải mái trong cả hình thức nói lẫn viết”[70].
Trước năm 1975, với nhu cầu hướng ra bên ngoài tìm tiếng nói “đồng ý đồng chí đồng tình” của con người, các nhà văn thường sử dụng ngôn ngữ đối thoại với tần số lớn. Sau năm 1975, khi con người bắt đầu trút bỏ bộ cánh xã hội của thời đại người người có chung một khuôn mặt, trở về với bản ngã cá nhân, cá thể và bắt đầu có những khoảng riêng tư thầm kín thì ngôn ngữ độc thoại có sự gia tăng trong các sáng tác văn học. Bằng ngôn ngữ độc thoại nhà văn có thể đi sâu vào thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp, luôn chứa đựng nhiều chuyển biến bất ngờ, khám phá đến tận cùng những bất ổn, xáo trộn của cõi tiềm thức thẳm sâu của con người. Tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 đã phát hiện ra nhiều bi kịch đau đớn của những con người bị chiến tranh vùi dập, đày đoạ bằng chính ngôn ngữ bên trong này. Có thể nhận thấy một tần số lớn độc thoại nội tâm xuất hiện trong “Chim én bay”, “Nước mắt đỏ”, “Thân phận của tình yêu”, “Ăn mày dĩ vãng”… ở “Chim én bay”, “Ăn mày dĩ vãng” tỉ lệ ngôn ngữ độc thoại so với ngôn ngữ đối thoại là 1/1 và ở “Thân phận của tình yêu”, tỉ lệ này là 3/1. Qua ngôn ngữ độc thoại, nhà văn đã dựng lại được quá trình tâm lí phức tạp gắn với sự thức tỉnh đau đớn của nhân vật, hé mở nỗi ưu tư, niềm xa xót luôn bị che dấu đi sau lớp vỏ bề ngoài bình lặng của con người. ở những sáng tác trước và ngay sau ngày giải phóng, một số cây bút cũng có nỗ lực trong việc miêu tả quá trình tâm lí của nhân vật thông qua thủ pháp độc thoại nội tâm. Tuy nhiên trong các tác phẩm này quá trình tâm lí của nhân vật thường được diễn ra theo đường thẳng: nhân vật nhận thức được hoàn cảnh, tình thế, hướng tới cái đẹp, cái cao cả để tự hoàn thiện mình. Sau năm 1975, các nhà văn khi miêu tả quá trình tâm lí của nhân vật thường gắn với nỗi buồn, niềm đau riêng tư. Quá trình tâm lí của nhân vật không diễn ra theo đường thẳng mà thường là có nhiều ngã rẽ, khúc quanh bất ngờ. Con đường phát triển tâm lí đó có thể nhận thấy ở Quy (Chim én bay). Bản chất là một cô gái hiền lành, nhút nhát, chứng kiến cái chết của người khác- dù là bạn hay thù cũng đều “thấy cộn cạo, buồn nôn”, nhưng chiến tranh cũng rèn cho Quy một tâm lí chai sạn dẫu rằng “mỗi lần diệt một tên ác ôn trở về, chị đều đờ đẫn, cảm thấy day dứt”[5.121]. Nhân danh chính nghĩa để diệt thù nhưng chính những năm tháng sau ngày giải phóng Quy lại day dứt khôn nguôi về hành động vốn hoàn toàn chính đáng của mình. Gặp lại vợ con Hai Đích, giám Tuân- đối mặt với ý nghĩ trả thù của con cái chúng, Quy hoang mang sợ hãi, bắt đầu có những suy nghĩ đánh giá lại những hành động của mình từ vị thế của người thân gia đình nạn nhân. Và chị hiểu, khát vọng trả thù đó không phải là không có lí do chính đáng. Nguyễn Trí Huân đã xây dựng hình tượng nhân vật Quy với một tâm hồn bất ổn và phát triển tâm lí không giản đơn. ở con người này luôn luôn tồn tại một thế giới bên trong không phẳng lặng, luôn luôn nghiền ngẫm, suy nghĩ, nhận thức lại về chính bản thân.
Tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” (Bảo Ninh) được kết cấu dựa trên dòng hồi tưởng của nhân vật và kết cấu này dường như đã chi phối đến sự lựa chọn ngôn ngữ của nhà văn. ở đây, ngôn ngữ đối thoại xuất hiện không nhiều, chủ yếu là sự xuất hiện của ngôn ngữ độc thoại. Nhân vật của Bảo Ninh với khát vọng viết về “cuộc chiến tranh của riêng anh” đã tự phơi bày thế giới bên trong phức tạp của mình từ vị thế của người kể chuyện xưng “tôi”. Cũng có lúc nhân vật được đẩy sang ngôi thứ ba nhưng ngay cả khi ấy, nhà văn cũng đã nhập thân vào nhân vật để cất lên tiếng nói giãi bày, bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của nhà văn. Toàn bộ tiểu thuyết có thể xem như là thế giới bên trong, hé mở những điều thầm kín, riêng tư nhất của một con người đã kinh qua mọi khổ đau, mất mát của chiến tranh. Và dù kết cấu của tiểu thuyết có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, chúng ta vẫn có thể nhận thấy ở nhân vật chính một quá trình tâm lí phức tạp trên trục thời trước chiến tranh, trong chiến tranh và sau chiến tranh. Bước vào chiến tranh với một niềm say mê “đến đứng ngồi không yên”, Kiên dần dần nhận ra bộ mặt gớm guốc của nó. Tâm thức anh rền rĩ: “Chao ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại,là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”[25.399]. Bước ra khỏi chiến tranh, Kiên ấp ủ một mơ ước giản dị là được đi học, cưới người con gái anh yêu và sống một cuộc đời yên ổn như mọi người bình thường. Nhưng trong môi trường sống thời hậu chiến xô bồ, anh mới cảm nhận được một điều cay đắng: “cuộc đời thị dân xám xịt, chán ngắt sao mà cạn đến thế niềm vui. Lạc thú nhớp nhơ, tả tơi và nghèo nàn chẳng khác gì bát cơm manh áo”[25.556]. ý thức về thân phận trong Kiên lúc này thấm đẫm nỗi đau về sự mất mát khi anh nhận thức được “trở về sau chiến tranh, cho đến tận bây giờ tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm thâu này qua đêm thâu khác”[25.419] và “càng ngày Kiên càng có cảm giác rằng không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”[25.467]. Như một sự thấm nhuần nặng trĩu, giờ đây Kiên hiểu rằng “con đường đời thực sự dành cho anh, con đường hướng anh tới tương lai tốt đạp, con đường ấy nó đã lùi lại ở đâu đó phía sâu xa trong khoảng tối mịt mù trên những cánh đồng thời gian mà đất nước đã vượt qua”[25.648]. Sau cuộc chiến tranh ấy thì chẳng còn gì nữa cả trong cuộc đời anh ngoài những mộng mị hão huyền, những ám ảnh triền miên của quá khứ thương đau và Kiên như vỡ ra một điều “thì ra cuộc đời tôi kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lui về dĩ vãng (…) và không phải cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay”[25.420]. Những đoạn độc thoại nội tâm trong tác phẩm đã mở ra toàn bộ quá trình tâm lí gắn với sự thức tỉnh đau đớn của nhân vật. Thế giới tâm hồn bên trong của Kiên là thế giới của sự nghiền ngẫm mà từ đó nhân vật nhận ra được tình thế bế tắc, vô vọng, cùng quẫn của bản thân trong cuộc sống hiện tại. Nhận ra tình thế cô đơn, lạc lõng và bế tắc, nhân vật cũng không tìm được hướng giải thoát cho mình nên càng lún sâu hơn vào bi kịch. Những sự thức tỉnh của nhân vật vì thế càng mang vẻ u uất, thấm đẫm đau thương.
Với “Thân phận của tình yêu”, Bảo Ninh đã chứng tỏ sự đắc dụng của thủ pháp độc thoại nội tâm và dòng ý thức khi khám phá thế giới tâm hồn bên trong của nhân vật Kiên. Sự chồng lớp không gian, thời gian cùng với sự gia tăng của ngôn ngữ độc thoại và thời gian quá khứ trong tác phẩm này đã đưa nhân vật lạc vào một thế giới hai chiều đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Trong cái thế giới đó, Kiên bị cuốn vào dòng xoáy của những hồi ức triền miên mà không cách gì trì kéo để thoát ra được. Mọi suy nghĩ trong anh cuối cùng cũng đều dồn đẩy đến những hồi tưởng về biết bao những kỉ niệm rền rĩ thương đau của quá khứ. Mỗi khi trí óc nhảy nhót thì cũng là lúc Kiên nhận ra “có lẽ lại là một chuyện xưa cũ mèm sắp trỗi dậy, nặng trịch”. Mỗi buổi tối, ngồi trước trang bản thảo bao giờ Kiên cũng chuẩn bị cho mình một tâm trạng thích hợp, cố tách bạch mọi cảm xúc, mọi vấn đề nhưng chẳng được bao lâu thì “đang viết ở dòng này chuyện này sang dòng sau ngòi bút nhập hồn vào chuyện khác mà anh không hay”[25.646], các nhân vật của anh không ngừng mâu thuẫn. Và hoàn toàn không cưỡng nỗi, kí ức về chiến tranh lại hiện về “và cứ thế, nửa điên rồ, Kiên lai vào chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình, một cách đơn độc (…), một cách cay đắng đầy rẫy va vấp và lầm lạc”[25.425].
Khi sử dụng độc thoại nội tâm để dựng lại quá trình tâm lí, diễn biến tâm lí của nhân vật, các nhà tiểu thuyết sau 1975 cũng đồng thời lưu tâm đến những giằng xé, bất ổn bên trong. Qua những giằng xé, bất ổn nội tâm bên trong đó, những bi kịch cá nhân riêng tư của con người lại được đề cập tới trong chiều sâu cụ thể, chân thực hơn. ở tiểu thuyết “Nước mắt đỏ”, Trần Huy Quang qua độc thoại nội tâm đã thể hiện những giằng xé nội tâm ở nhân vật Thu khá quyết liệt. Đó là sự giằng xé giữa khát vọng làm mẹ, làm vợ, khát vọng yêu đương tự nhiên của người phụ nữ với nhân cách, phẩm giá, lòng tự trọng của một con người. Bản năng tự nhiên hối thúc Thu phá bỏ tất cả mọi e ngại, gìn giữ để được thoả mãn tất cả mọi đam mê, khát cháy đã bị dồn nén hàng năm ròng; nhưng lí trí trong cô thì lại cất lên tiếng nói trì giữ. Qua sự giằng xé quyết liệt giữa phần lí trí và phần tình cảm ở nhân vật Thu có thể nhận thấy nỗi đau thời kì hậu chiến luôn mang vẻ cay đắng, xót xa không dễ gì hoá giải. Chiến tranh đã đi qua nhưng những di chứng nó để lại thì thật nặng nề. Nỗi đau không thể có được tình yêu, không thể được làm mẹ, làm vợ của Thu (Nước mắt đỏ), Quy (Chim én bay), Thảo (Người sót lại của rừng cười)…được thể hiện âm thầm, lặng lẽ bằng ngôn ngữ độc thoại đã nói hết được nỗi cô đơn, niềm chua xót không thể sẻ chia mà chiến tranh đã gây ra cho con người.
Không khai thác giằng xé, đấu tranh nội tâm như Trần Huy Quang, nhiều tác giả khi miêu tả những bất ổn trong tâm hồn nhân vật lại xoáy sâu vào sự dằn vặt, sám hối trước những hành động việc làm gây tổn thương đến người khác trong quá khứ như một lời tạ lỗi muộn màng. Trong vai trò là “người mở đường tinh anh và tài hoa”, hàng loạt các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã có sự xuất hiện của kiểu nhân vật sám hối này (Bức tranh, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…). Tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 không nằm ngoài dòng chảy chung của văn học giai đoạn này. “Thân phận của tình yêu” (Bảo Ninh) chứa đựng nỗi đau đớn, xót xa ám ảnh tâm hồn nhân vật chính của tiểu thuyết một cách dai dẳng bởi vô số những hành động, quyết định trong quá khứ không rõ đã vô tình, gián tiếp hay trực tiếp gây ra cái chết cho đồng đội. Sự im lặng đồng loã của Kiên trước mối tình phi lí và tội lỗi giữa các đội viên trinh sát với 3 cô gái trẻ, cái chết của Tâm, Hoà, Oanh…tất cả hợp thành miền kí ức đau thương không ngừng rền rĩ trong tâm thức Kiên. Cho đến mãi tận sau này khi chạnh nhớ lại trận chống càn năm xưa, út Thêm vẫn không thôi xót xa: “Chao ôi! Giá mình gắng thêm một chút nữa, một chút thôi thì bao nhiêu mạng người đã ngã xuống kia sẽ mát lòng mát ruột biết bao”[12.67]. Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng) cũng không thể rút chân ra khỏi miệng hố chiến tranh một cách thanh thản. ở nhân vật này, khi bộc lộ nhu cầu sám hối, Chu Lai đã sử dụng những đoạn đối thoại nội tâm. Nhà văn đưa nhân vật đi giữa thế giới hữu hình và vô hình của người sống và người chết, đối mặt với hàng loạt những câu hỏi đau đớn, tức tưởi vọng lên từ những âm hồn nhợt nhạt, lạnh lẽo trong lòng đất: “Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng đi đâu đấy? Có nhận ra chúng tôi không? Có nhớ chúng tôi không, có ân hận vì đã để chúng tôi chết chìm chết đống trong khi mình vẫn còn sống không?”[11.168]. Tiếng Viên thổn thức: “Giá như đêm ấy anh đừng lệnh đi thì em đâu có chết ?”. Tiếng Bảo trách cứ: “Sao lại chôn vội thế thủ trưởng ơi! Lúc ấy giá anh cứ cho rút bỏ cái chuôi đạn ác nghiệt khỏi bụng tôi, tất nhiên ruột gan sẽ theo ra cả đống nhưng biết đâu tôi có thể sống? Sao chôn tôi vội thế?”[11.169]. Cuộc đối thoại tưởng tượng trong tâm thức Hai Hùng đã nói lên tính chất bạo tàn của chiến tranh không chỉ đổ ập xuống thân phận người xấu số mà còn đeo bám dai dẳng số phận người may mắn sống sót. Tiếng nói của những âm hồn vọng lên từ thế giới lạnh lẽo cô đơn trong lòng đất là tiếng nói tức tưởi của những con người bị chiến tranh tước đoạt quyền sống một cách oan uổng. Người đã chết phải sống cuộc sống của những âm hồn cô đơn, lạnh lẽo, người còn sống cũng không thanh thản gì hơn khi nỗi ám ảnh, day dứt về quá khứ cứ trĩu nặng tâm hồn. Qua ngôn ngữ độc thoại, bi kịch dai dẳng thời kì hậu chiến đó được tái hiện rõ nét, bất chấp sự trôi chảy của thời gian đã đẩy lùi cuộc chiến vào quá vãng.
Xuất hiện với một tần số lớn trong các tác phẩm viết về chiến tranh sau chiến tranh, độc thoại nội tâm đã khai phá sâu hơn những bi kịch chiến tranh để lại trong mỗi con người. Qua ngôn ngữ độc thoại, nhà văn đã phát hiện ra những sóng ngầm luôn tiềm tàng bên trong con người mà ít nhiều đều là hậu quả của chiến tranh. Bi kịch chiến tranh trong các sáng tác sau ngày giải phóng vì thế còn là bi kịch nội tâm dai dẳng không dễ nguôi ngoai khi nỗi buồn, niềm đau dường như đã hoá thạch trong lòng người.
*
* *
Với các thủ pháp tạo dựng không gian, thời gian nghệ thuật, xây dựng tình huống và sử dụng độc thoại nội tâm, các nhà văn viết về chiến tranh sau 1975 đã mở ra nhiều hướng tiếp cận và thể hiện sâu sắc hơn cảm hứng bi kịch khi viết về đề tài chiến tranh. Tính chất bi kịch đó không chỉ được khai thác trên bề nổi bên ngoài thông qua những biến cố, tình tiết, gắn với những môi trường, hoàn cảnh cụ thể mà còn được khám phá trong những chiều kích bên trong vốn siêu linh, bí ẩn như tâm hồn con người. Phạm vi phản ánh và thể hiện cảm hứng bi kịch của văn học sau 1975 được mở rộng mà từ đó bộ mặt chiến tranh với đầy đủ bản chất phi nhân tàn bạo mà nó gây ra cho con người không chỉ trong mà cả ngay sau khi cuộc chiến đã khép lại được hiện lên sắc nét. Qua sự bố trí không gian, thời gian nghệ thuật, xây dựng tình huống và sử dụng ngôn ngữ độc thoại, một thế giới đầy bất thường đã được mở ra trong các tiểu thuyết chiến tranh thời kì này. Đó là thế giới của những ám ảnh đau khổ triền miên dai dẳng, những bi kịch éo le, phi lí, những nỗi buồn lặng lẽ, u ẩn mà cùng với thời gian ngày càng trở nên thê thiết, bi thương hơn. Trong cái thế giới ấy vây bủa một màu xám xịt sự cùng quẫn, bế tắc, vô vọng được biểu hiện ở nhiều dạng thức và dưới những mức độ khác nhau mà con người không thể nào thoát ra bên ngoài, thanh thản hướng về một cuộc sống mới hạnh phúc và hoàn toàn bình yên. Với việc dựng lên một thế giới bất thường như vậy, các cây bút tiểu thuyết sau 1975 dường như muốn đem đến cho người đọc ấn tượng về nỗi buồn chiến tranh phủ trùm lên toàn bộ thế giới nghệ thuật của tác phẩm để từ đó cảm nhận rõ hơn những khủng khiếp, kinh hoàng mà chiến tranh gây ra cũng như sẻ chia với những mất mát thương đau của con người.
C. Phần kết luận
1. Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã khép lại sau 30 năm khói lửa nhưng “chiến tranh – dù nó đã đi xa, dù hiện tại và tương lai có thể còn nhiều biến động phức tạp mới, vẫn không thể lãng quên, vẫn sẽ là một đề tài lớn và hấp dẫn”[42]. Mảng văn học chiến tranh sau 1975 với sự phát triển phong phú cả về nội dung và nghệ thuật ở nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ ca…) đã chứng tỏ sức sống và sự thu hút của đề tài này đối với người cầm bút. Hoà cùng với không khí của văn học sau 1975, tiểu thuyết chiến tranh đã có những vận mình thay đổi, tạo nên nét riêng khác biệt so với mảng văn học viết về chiến tranh trước đó. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn đã đề cập sâu đến một phương diện cơ bản trong những đổi mới đó – sự thay đổi trong cảm hứng sáng tác. Đó là hứng thú viết về chiến tranh bằng cảm hứng bi kịch với dư âm của nỗi buồn sâu lắng, khắc khoải của nhiều nhà văn sau 1975 nói chung và các nhà tiểu thuyết nói riêng. Toàn bộ ba chương của luận văn (Chương I: Cảm hứng bi kịch trong cái nhìn về hiện thực. Chương II: Mối quan hoài về số phận con người. Chương III: Một số biện pháp nghệ thuật thể hiện cảm hứng bi kịch) với các mục cụ thể đều được triển khai để làm nổi bật các đặc điểm cùng các phương diện biểu hiện của cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975.
2. Khảo sát các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975- đặc biệt là tiểu thuyết thời kì đổi mới, có thể nhận thấy dấu ấn của cảm hứng bi kịch thể hiện ngay trong cách tiếp cận và miêu tả hiện thực của nhà văn. Chiến tranh không còn được phản ánh qua lăng kính cộng đồng như văn học trước đây mà bằng sự trải nghiệm cá nhân, cá thể của một thế hệ nhà văn đã từng cầm đứng ở vị trí của người lính nên có sự thấm thía rất riêng. Được nhìn nhận trung thực hơn ở những mất mát, hi sinh, ở nỗi đau cùng sự tha hoá, tâm lí hoang mang dao động, không ngần ngại đề cập đến những góc khuất của hiện thực, tiểu thuyết giai đoạn này đã phác hoạ được bộ mặt chiến tranh với đầy đủ vẻ gai góc bản chất của nó.
Trong các sáng tác về chiến tranh sau 1975, chiến tranh đã được miêu tả như là một hiện thực bất thường với những quy luật nghiệt ngã của riêng mình. Đó là môi trường không chỉ đày ải con người trong sự thiếu thốn vật chất mà còn đày đoạ họ trong nỗi thống khổ cùng cực về tinh thần. Môi trường đó không cho phép con người được sống một cuộc sống bình thường với nỗi buồn, niềm vui của kiếp người khi tất cả mọi nỗi niềm hạnh phúc hân hoan bỗng trở thành điều trái lẽ hiếm hoi hoạ hoằn. Và nhiều khi muốn nếm trải chút dư vị ngọt ngào giản dị đó, con người lại phải trả những cái giá rất đắt.
Từ tính chất bất thường đó của hiện thực, nhà văn đồng thời nhận ra chiến tranh là môi trường huỷ diệt, phi nhân tính tàn bạo nhất. Trong môi trường đó, con người là những nạn nhân khốn khổ bị chiến tranh tước đoạt quyền sống một cách oan uổng. Nhân tính, tình người dường như không có cơ hội để tồn tại khi tất cả những con người vốn là đại diện cho lòng nhân, tình người thường lại phải trả giá bằng chính sinh mệnh của mình cho sự trỗi dậy của lòng nhân và tình người đó.
3. Cùng với sự bổ khuyết thêm phần thiếu hụt của văn học trước 1975 trong hướng khám phá hiện thực, tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 tỏ ra đặc biệt quan tâm đến số phận con người. Thông qua những số phận con người vốn ít nhiều chịu tác động của chiến tranh mà nỗi buồn được thể hiện sắc nét, chân thực hơn. ở hướng khám phá này nhà văn nhận thấy con người là những nạn nhân khốn khổ nhất, bị chiến tranh nghiền nát, bị làm cho tuyệt diệt. Thân phận con sâu cái kiến bé nhỏ ấy còn theo con người cả vào trong cuộc sống thời bình khi họ không thể sống cuộc đời bình thản bởi những ám ảnh quá khứ vẫn trĩu nặng tâm hồn.
Sau chiến tranh, trở về với đời thường, hành trình nhập cuộc với đời, kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc của con người thật vất vả, nhọc nhằn. Người anh hùng năm xưa trong cuộc sống hôm nay chỉ là những binh nhì bé nhỏ với cảm giác cô đơn, lạc lõng, nỗi bất hạnh luôn đè nặng lên số phận. Bi kịch thời kì hậu chiến trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 mang một nỗi xót xa, cay đắng đó đã góp phần tạo nên dư âm của nỗi buồn chiến tranh dai dẳng trong văn học thời kì này.
Với một cái nhìn công bằng hơn về chiến tranh, mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh cũng được nhà văn nhìn nhận trong cái nhìn biện chứng, ở đó , không phải bao giờ con người cũng đủ sức mạnh vượt lên trên hoàn cảnh để toả sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhìn nhận con người như một cá nhân bé nhỏ, không nằm ngoài guồng quay tác động của hoàn cảnh, những trang viết về bi kịch tha hoá của con người của nhà văn tạo đã nên dấu ấn rõ nét của cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975.
4. Bên cạnh việc khảo sát cảm hứng bi kịch được thể hiện qua hướng tiếp cận hiện thực và số phận con người, khi khảo sát cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, luận văn cũng đã đề cập tới các phương diện biểu hiện của cảm hứng bi kịch. Có thể nhận thấy không gian, thời gian nghệ thuật, tình huống nghệ thuật, ngôn ngữ độc thoại… đã được các cây bút tiểu thuyết sau1975 sử dụng như là những biện pháp nghệ thuật đắc dụng, làm nổi bật cảm hứng bi kịch khi viết về đề tài chiến tranh. Sự chồng lớp không gian, thời gian, sự gia tăng tỉ lệ của thời gian quá khứ so với thời gian hiện tại, của ngôn ngữ độc thoại so với ngôn ngữ đối thoại … đã mở ra những chiều kích khám phá mới mà ở đó nhà văn có điều kiện hơn trong việc đi sâu khám phá và thể hiện cảm hứng bi kịch trong chiều sâu.
Cùng với việc chỉ ra những phương diện biểu hiện cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh, người viết luận văn cũng khẳng định tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 không chỉ có âm hưởng bi kịch. ở nhiều tác phẩm, bên cạnh cảm hứng bi kịch vẫn có sự xuất hiện của cảm hứng ngợi ca tuy không còn vị thế chủ đạo như văn học giai đoạn trước. Và cùng với dư âm của chất tráng, chất hùng đó, việc hướng về con người, cất lên tiếng nói bênh vực quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc, tình yêu, được hưởng cuộc sống yên bình vốn rất chính đáng của con người của tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 đã thể hiện những giá trị nhân văn cao cả như là những giá trị kết tinh của văn học thời kì này. Khai thác cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, người viết luận văn ngoài việc làm sáng rõ hơn một đặc điểm của tiểu thuyết chiến tranh còn muốn khẳng định vị trí cũng như những đóng góp của mảng văn học này trong quá trình vận động, đổi mới của văn học nước nhà.
Do đối tượng khảo sát giới hạn trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975, đặc biệt là tiểu thuyết thời kì đổi mới, luận văn chưa thể khảo sát cảm hứng bi kịch được thể hiện trong toàn bộ các sáng tác viết về chiến tranh sau ngày giải phóng. Tuy nhiên, với những kết quả nghiên cứu được trình bày trên đây, người viết hi vọng qua luận văn này có thể đóng góp , bổ sung thêm một ý kiến vào số lượng các công trình nghiên cứu còn ít ỏi về cảm hứng bi kịch và phần nào giúp đỡ người đọc trong hành trình tiếp cận, tìm hiểu mảng văn học hiện đại Việt Nam vốn rất phong phú, hấp dẫn và đặc biệt còn rất mới mẻ này.
Thư mục tham khảo
I. Tác phẩm văn học.
Trung Trung Đỉnh: Tiễn biệt những ngày buồn (Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội, 2003)
Nguyễn Minh Châu: Miền cháy. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội 1997
Nguyễn Minh Châu: Dấu chân người lính. Nxb Thanh niên. Hà Nội, 1984.
Nguyễn Minh Châu: Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Nxb Văn học. Hà Nội, 1999.
Nguyễn Trí Huân: Chim én bay. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1985.
Nguyễn Trí Huân: Năm 1975 họ đã sống như thế. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1979.
Dương Hướng: Bến không chồng. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội, 2000.
Nguyễn Khải: Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn Khải. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội, 1999.
Ma Văn Kháng: Mùa lá rụng trong vườn. Nxb Phụ nữ. Hà Nội, 1987.
Chu Lai: Đêm tháng hai. Nxb Hà Nội, 1982.
Chu Lai: Ăn mày dĩ vãng. Nxb Văn học. Hà Nội, 2003.
Chu Lai: Ba lần và một lần. Nxb Văn học. Hà Nội, 2003.
Chu Lai: Nắng đồng bằng. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1979.
Chu Lai: Phố- Nxb Văn học. Hà Nội, 1999.
Chu Lai: Vòng tròn bội bạc. Nxb Văn học. Hà Nội, 2003.
Chu Lai: Phố nhà binh. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1992.
Cao Tiến Lê: Trung tướng giữa đời thường. Nxb Thanh niên. Hà Nội, 1996.
Lê Lựu: Chuyện làng Cuội. Nxb Văn học.Hà Nội, 2004.
Lê Lựu: Thời xa vắng. Nxb Văn học. Hà Nội, 2004.
Thái Bá Lợi: Hai người trở lại trung đoàn. Báo Văn nghệ, 1979.
Hữu Mai: Cao điểm cuối cùng. Nxb Văn học. Hà Nội, 1984.
Hữu Mai: Vùng trời.Tập I. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1970.
Hữu Mai: Vùng trời. Tập II. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 197
Hữu Mai: Vùng trời. Tập III. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1980.
Bảo Ninh: Thân phận của tình yêu (Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới- Nxb Hội nhà văn. Hà Nội, 2003).
Nguyên Ngọc: Đất nước đứng lên. Nxb Văn học. Hà Nội, 1969.
Nguyễn Trọng Oánh: Đất trắng. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1979.
Nguyễn Đình Thi: Xung kích. Nxb Văn học. Hà Nội, 1969.
Nguyễn Thi: Nguyễn Thi- Nguyễn Trọng Tấn toàn tập. Nxb Văn học. Hà Nội, 1996.
Nhiều tác giả: Bến trần gian. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1995.
Phan Tứ: Mẫn và tôi.Nxb Thanh niên. Hà Nội, 1972.
Phan Tứ: Gia đình má Bảy. Nxb Văn học. Hà Nội, 1984.
Trần Huy Quang: Nước mắt đỏ. Nxb Lao động. Hà nội, 1989.
II. Tài liệu tham khảo:
Lại Nguyên Ân: 150 thuật ngữ văn học. Nxb ĐHQG. Hà Nội, 1999.
Lại Nguyên Ân: Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua. Tạp chí Văn học số 1/1986.
Bakhtin: Lý luận và thi pháp tiểu thuyết. Bộ văn hoá thông tin và trường viết văn Nguyễn Du. Hà Nội, 1992.
Nguyễn Thị Bình: Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975. Tạp chí Văn học số 3/2001.
Nguyễn Thị Bình: Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975. Luận án Tiến sĩ. Hà Nội, 1996.
Nguyễn Minh Châu: Các nhà văn Quân đội và đề tài chiến tranh. Báo Nhân Dân ngày 8/2/1979.
Nguyễn Minh Châu: Trang giấy trước đèn. Nxb KHXH. Hà Nội, 1994.
Hồng Diệu: Chiến tranh và người lính qua một số truyện ngắn. Tạp chí Tác phẩm mới số 16/1994.
Đinh Xuân Dũng: Văn học Việt Nam viết về chiến tranh- hai giai đoạn của sự phát triển. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 7/1995.
Đinh Xuân Dũng: Đổi mới văn xuôi chiến tranh. Báo văn nghệ số 51/1990.
Đặng Anh Đào: Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Nxb ĐHQG. Hà Nội, 2002.
Trần Bạch Đằng: Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 7/1991.
Phan Cự Đệ: Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/2001.
Phan Cự Đệ: Mấy vấn đề lí luận của văn xuôi hôm nay. Tạp chí Văn học số 5/1986.
Hà Minh Đức: Những chặng đường phát triển của văn xuôi cách mạng. Báo Văn nghệ số 33/1990.
Nguyễn Hương Giang: Người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/2001.
Thanh Giang: Tản mạn về đề tài chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 8/1993.
Nam Hà: Sự thật chiến tranh và những tác phẩm viết về chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 7/1992.
Nam Hà: Lại nói về chiến tranh và viết về chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/2002.
Nguyễn Hoà: Lối rẽ nhỏ trên dặm dài chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/2021.
Nguyễn Hoà: Về tiểu thuyết “Cuộc đời dài lắm”của nhà văn Chu Lai. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/2002.
Ngô Hoàng: Hội thảo về hiện thực chiến tranh và người lính trong văn xuôi gần đây. Báo Văn nghệ số 47/1990.
Nguyễn Thị Hồng: Vai trò của độc thoại nội tâm trong tác phẩm “Chiến tranh và hoà bình”. Luận văn Thạc sĩ. Hà Nội, 1999.
Hoàng Ngọc Hiến: Những nghịch lí chiến tranh. Báo văn nghệ cố 15/1991.
Nguyễn Thanh Hùng: Chiến tranh đi qua tình người ở lại. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 12/1994.
Trần Bảo Hưng: Đôi nét về tình hình văn học mấy năm gần đây. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/1993.
Đỗ Văn Khang: Nghĩ gì khi đọc “Thân phận của tình yêu”. Báo Văn nghệ số 43/1991.
Chu Lai: Vài suy nghĩ về phản ánh sự thật trong chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/1987.
Tôn Phương Lan: Người lính trong văn xuôi viết về chiến tranh của những nhà văn cầm súng.Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/1995.
Tôn Phương Lan: Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được giải. Tạp chí Văn học số 12/1994.
Tôn Phương Lan: Tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975. Tạp chí Văn học số 5/1980.
Tôn Phương Lan: Những tìm tòi không mệt mỏi. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 9/1991.
Nguyễn Văn Long: Văn xuôi sau 1975 viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/1985.
Nguyễn Văn Long: Văn học Việt Nam trong thời đại mới. Nxb Giáo dục. Hà Nội, 2002.
Bảo Ninh: Bài ca người lính sau chiến tranh. Báo Văn nghệ số 28/1991.
Nhiều tác giả: Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám. Nxb ĐHQG. Hà Nội, 1996.
Nhiều tác giả: Từ điển thuật ngữ Văn học. (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi). Nxb ĐHQG. Hà Nội, 1997.
Nhiều tác giả: Lí luận Văn học. (Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Xuân Nam, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình). Nxb Giáo dục. Hà nội, 2003.
Nhiều tác giả: Thảo luận về “Thân phận của tình yêu”. Báo văn nghệ số 37/1991.
Nhiều tác giả: Văn học với đời sống, đời sống văn học. Nxb Văn học. Hà Nội, 2000.
Lê Thành Nghị: Qua những cuốn sách gần đây viết về chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/1991.
Lê Thành Nghị: Tiểu thuyết viết về chiến tranh- mấy ý nghĩ góp bàn.Tạp chí Văn nghệ quân đội số 7/1995.
Pôpêlôp: Dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục. Hà Nội, 1998.
Hồ Phương: Những tìm tòi không mệt mỏi. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 9 /1991.
Hồ Phương: Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay. Tạp chí Văn nghệ đội số 4/2021.
Huỳnh Như Phương: Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hoá của nền văn học. Tạp chí Văn học số 4/1991.
Trần Đình Sử: Lí luận và phê bình văn học. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội, 1996.
Nguyễn Thanh Tú: “Cuộc đời dài lắm”- một tiểu thuyết có sức hấp dẫn. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 1/2002.
Đỗ Minh Tuấn: Ngày văn học lên ngôi. Nxb Văn học. Hà Nội, 1996.
Bùi Việt Thắng: Một cách tái hiện chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội. Số10/1994.
Bùi Việt Thắng: Một đề tài không cạn kiệt. Tạp chí văn nghệ quân đội số 2/1993.
Lý Hoài Thu: Tập chuyện “Phố nhà binh”. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 7/1993.
Lê Quang Trang: Vài nét về thân phận người phụ nữ đi qua chiến tranh. Tạp chí Văn nghệ quân đội số 3/1991.
Xuân Trường: Một vài cảm nhận sau khi đọc “Ăn mày dĩ vãng”. Báo Văn nghệ số 26/1993.