LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Để nắm bắt được những cơ hội cũng như chủ động đối phó với các thách thức trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã và đang tiến hành cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Để có thêm kiến thức về vấn đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu về cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân cũng như giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam.
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3547 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân, giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên co và có dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát sinh cầu ngoại tệ. Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Cán cân thu nhập:
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú hay ngược lại. các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động ở nước ngoài.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và không cư trú.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều :
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người không cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú các khoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình cảm giữa người cư trú và người không cư trú.
Chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là cán cân vô hình (invisible) Như vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn :
Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình +cán cân vô hình
Tóm lại, các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh cung ngoại tệ nên dược ghi vào bên có và các khoản thu nhập trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân thanh toán. Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh.
2.2.2. Cán cân vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính.
Tài khoản vốn và lãi suất:
Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r’, tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất.
Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi.
Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện.
Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái:
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện.
2.2.3. Cán cân cơ bản
Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập, mà đặc trưng của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú với người không cư trú. Chính vì vậy tình trạng của cán cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài đến sự ổn định của nền kinh tế mà đặc biệt là lên tỉ giá hối đoái của nền kinh tế.
Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính chất ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ giá hối đoái. Chính vì vậy cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính sách kinh tế quan tâm.
Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn
Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại
2.2.4. Cán cân tổng thể (overall balance)
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai sót bằng không ) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Trong thực tế do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu nhập số liệu và lập CCTTQT do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và sai sót. Do đó cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn và hạng mục sai sót trong thống kê. Ta có :
Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót
2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức(official finacing balance)
Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục :
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR)
- Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L)
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân thanh toán (≠)
OFB = ΔR + L + ≠
Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm thì ghi có (+), do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải thích như sau :
Chúng ta hình dung, quốc gia Việt Nam được chia thành hai bộ phận gồm NHTW và phần còn lại không bao gồm NHTW (gọi là nền kinh tế - NKT). Tiêu chí để phân thành NHTW và NKT là: NHTW có chức năng can thiệp lên cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì không có chức năng can thiệp. Theo quy tắc CCTTQT được lập trên cơ sở của nền kinh tế, do đó, các hoạt động can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế, được xem là quan hệ giữa người cư trú với người không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại tệ ra, làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh tế, do đó ta phải ghi có(+) . Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó ta phả ghi nợ (-)
2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót
OB + OFB = 0
→OB = - OFB
→CA+K+OM= - OFB
→OM =-(CA+K+OFB)
Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định (luôn thể hiện là một số cụ thể trên CCTTQT ), do đó đẳng thức trên được áp dụng số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập CCTTQT trong thực tế.
3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT
CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có nghĩa là, về tổng thể thì CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư, thâm hụt CCTTQT là nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm các cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân.
Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTTQT được xác định theo hai phương pháp:
Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận.
Phương pháp tích lũy.
3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại
TB=X-M
Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về hàng hóa
Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú
- Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ
Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết:
Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ
Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ
Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền kinh tế, bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, Thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của cán cân vãng lai. Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đố việc thu thập các số liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn, tức là có một độ lệch về thời gian nhất định.
Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng.
Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng sẽ tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua các hình thức thuế quan, quotas, v.v… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu của công chúng.
3.2. Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định:
CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+ êR
- Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ.
- Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ.
- Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi ( quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị thế quốc gia là chủ nợ ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con nợ).
CA = 0, trong dài hạn
Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:
( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0
Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức: êR= 0
- Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra
+ TH1: Kl 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm giá nội tệ
+ TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
CA = 0 trong ngắn hạn
Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là Kl=0, Ks + êR = 0 có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1: êR > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
+ TH2: êR 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá.
Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô vì tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể. Để tác động đến tình trạng của cán cân vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải pháp về chính sách thương mại quốc tế và tác động vào tâm lý tiêu dùng.
3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB)
BB = CA + Kl
Khi CA 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán. Chính vì thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì; vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và thế giới.
- Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy, nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu. Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai & đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ bản trở lên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hện những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư.
*) Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền kinh tế tuỳ theo cách tiếp cận.
*) Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện công nghiệp và hiện đại hoá, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là dấu hiệu tích cực.
*) Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho vấn đề này.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán cân cơ bản như sau:
- Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt.
- Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán cân vãng lai trở lên xấu đi trong tương lai.
3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.
OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks
OB = - OFB
Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì: (i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối; (ii) Nếu thâm hụt nó cho biết số tiền một quốc gia phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối.
Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Sở dĩ vậy là do, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng , vì Ngân hàng trung ương không can thiệp mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi.
Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền đó thì tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại , do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá mà cán cân tổng thể sẽ luôn có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng.
Tuy nhiên, cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó cho biết áp lực dãn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, Ngân hàng trung ương phải tiến hành bán dự trữ
*) Tình trạng của cán cân tổng thể là rất quan trọng và tác động trực tiếp đến nền kinh tế và sự vận hành các chính sách vĩ mô, đặc biệt khi cán cân tổng thể ở tình trạng thâm hụt
*) Các giải pháp cân bằng đối với cán cân tổng thể khi ở tình trạng thặng dư không những không khó mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn
*) Ngược lại, các biện pháp cân bằng khi ở tình trạng thâm hụt không những khó khăn hơn mà tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại những hậu quả trong dài hạn
*) Cân bằng cán cân tổng thể cần lựa chọn và thực hiện các giải pháp một cách hết sức thận trọng.
II. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Thực tế CCTTQT của Việt Nam
1.1. Cán cân thương mại (TB)
Tổng lưu chuyển hàng hoá XNK của Việt Nam giai đoạn từ 2000 – 2008
Triệu USD
Tổng số
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
30,119.2
14,482.7
15,636.5
-1,153.8
31,247.1
15,029.2
16,217.9
-1,188.7
36,451.7
16,706.2
19,745.6
-3,039.5
45,405.1
20,149.3
25,255.8
-5,106.5
58,453.8
26,485.0
31,968.8
-5,483.8
69,208.2
32,447.1
36,761.1
-4,314.0
84,717.3
39,826.2
44,891.1
-5,064.9
111,326.1
48,561.4
62,764.7
-14,203.3
143,398.9
62,685.1
80,713.8
-18,028.7
Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại 8T/2009
Nhận xét chung:
Cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam luôn có xu hướng thâm hụt (nhập khẩu cao hơn xuất khẩu), con số thâm hụt ngày một tăng lên. Nếu như vào năm 2000, thâm hụt cán cân thương mại chỉ ở mức 1,153.8 triệu USD thì đến năm 2008 con số này đã lên tới 18,028.7 triệu USD (tăng gấp 15 lần so với năm 2000. Nhìn vào xu hướng đó có thể thấy thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam ngày càng gia tăng.
Trong 8 tháng đầu năm 2009, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực và thị trường xuất khẩu chủ yếu được duy trì. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 79,13 tỷ USD, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, xuất khẩu là 37,06 tỷ USD, giảm 14,6% và nhập khẩu là 42,08 tỷ USD, giảm 28,7%. Kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực như hàng dệt may, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện… tăng trưởng đều vào các tháng trong quý III/2009. Bên cạnh đó, giá xuất khẩu bình quân của nhiều mặt hàng chủ lực đã tăng dần lên so với những tháng đầu năm. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân trong Quý III/2009 đạt 4,6 tỷ USD/tháng cao hơn so với mức bình quân 4,5 tỷ USD/tháng trong Quý II nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức bình quân 5,98 tỷ USD/tháng của cùng kỳ năm 2008. Tính chung 9 tháng, nhập siêu là hơn 6 tỷ USD chiếm gần 16% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu:
* Quy mô và tốc độ.
Tháng 8/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là 4,52 tỷ USD, giảm 5,9% so với tháng 7/2009.Trong đó, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 2,10 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước; nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực này 8 tháng lên 14,61 tỷ USD và chiếm 39% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
* Một số mặt hàng xuất khẩu chính.
- Hàng dệt may: Trong 8 tháng năm 2009, Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam với trị giá đạt 3,25 tỷ USD và chiếm tới 55,2% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Đứng thứ hai là thị trường EU với kim ngạch đạt 1,1 tỷ USD, tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: 605 triệu USD, Đài Loan: 141 triệu USD, Hàn Quốc: 123 triệu USD, Canađa: 121 triệu USD,…
- Giày dép các loại: Tính đến hết tháng 8, xuất khẩu nhóm hàng giày dép của nước ta đạt 2,72 tỷ USD, giảm 12,8% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, thị trường EU là 1,33 tỷ USD, giảm 21% và chiếm 49% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ trị giá xuất khẩu đạt 697 triệu USD, Mêxicô: 91 triệu USD, Nhật Bản: 83 triệu USD, Trung Quốc: 62 triệu USD,…
- Hàng thuỷ sản: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các đối tác lớn trong 8 tháng qua như sau: thị trường EU với kim ngạch gần 704 triệu USD, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2008; Nhật Bản: 464 triệu USD, giảm 13,7%; Hoa Kỳ: 448 triệu USD, tăng 4,0%; Hàn Quốc: 189 triệu USD, giảm 10,9%;…
- Dầu thô: Tính đến hết tháng 8, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam là 9,75 triệu tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù lượng xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2008, nhưng do giá bình quân giảm mạnh tới 51,9% (tương đương với giảm 456 USD/tấn), nên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 8 tháng chỉ đạt 4,13 tỷ USD, giảm 48,2%.
Các thị trường chính nhập khẩu dầu thô của nước ta chủ yếu là Ôxtrâylia: 2,5 triệu tấn, Singapore: 1,74 triệu tấn, Malaysia: 1,36 triệu tấn, Nhật Bản: 685 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 672 nghìn tấn, Hàn Quốc: 656 nghìn tấn ,…
- Gạo: Tháng 8, lượng gạo xuất khẩu là 417 nghìn tấn, nâng lượng xuất khẩu mặt hàng này trong 8 tháng lên 4,63 triệu tấn, tăng 41,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 8, kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước đạt 2,11 tỷ USD, giảm 3,0% so với cùng kỳ năm 2008.
Biểu đồ: Giá bình quân và lượng xuât khẩu gạo 8 tháng năm 2009
Tính đến hết tháng 8/2009, lượng gạo của Việt Nam xuất sang hầu hết các châu lục đều tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2008 (trừ Châu Mỹ). Trong đó, lượng gạo xuất khẩu sang Châu Á đạt 2,66 triệu tấn, tăng 22,4% và chiếm 57% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước; sang châu Phi: 1,13 triệu tấn, tăng 124%; sang châu Mỹ: 387 nghìn tấn, giảm 12%; sang Châu Đại Dương: 267 nghìn tấn, tăng mạnh 317%; sang châu Âu: 182 nghìn tấn, tăng 83,2% so với cùng kỳ năm 2008.
- Cao su: Tháng 8/2009, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước là 410 nghìn tấn, kim ngạch là 603 triệu USD, giảm 42,4% so với cùng kỳ năm 2008.
Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong 8 tháng qua với 285 nghìn tấn, chiếm 69,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 18,1 nghìn tấn, Malaixia: 16,9 nghìn tấn, Đài Loan: 13,5 nghìn tấn, Đức: 11 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 8,7 nghìn tấn,…
- Cà phê: Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 8 tháng qua là Bỉ: 118,7 nghìn tấn, Đức: 92,4 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 86,3 nghìn tấn, Italia: 78,7 nghìn tấn, …
- Gỗ & sản phẩm gỗ: tháng 8/2009, xuất khẩu mặt hàng này đạt 208 triệu USD, giảm nhẹ 0,3% so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam 8 tháng/2009 lên 1,55 tỷ USD, giảm 15,3% so với cùng kỳ năm 2008.
Hết tháng 8, Hoa Kỳ tiếp tục trở thành thị trường nhập khẩu nhóm hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 664 triệu USD, tiếp theo là thị trường EU: 344 triệu USD, Nhật Bản: 231 triệu USD, Trung Quốc: 96 triệu USD,…
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: Dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 8 tháng qua vẫn là thị trường Hoa Kỳ với 278 triệu USD, tiếp theo là Nhật Bản: 230 triệu USD, Thái Lan: 181 triệu USD, Trung Quốc: 150 triệu USD, Singapore: 108 triệu USD, Hà Lan: 107 triệu USD,…
Nhập khẩu.
* Quy mô và tốc độ.
Tháng 8/2009, trị giá nhập khẩu hàng hoá cả nước là 5,85 tỷ USD, giảm 7,5% so với tháng trước. Trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI là 2,19 tỷ USD, giảm 7,0% (tương đương giảm 166 triệu USD).
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ có 8 trong số 43 nhóm hàng nhập khẩu có mức tăng trưởng dương trong tháng 8. Trong đó, nhập khẩu các mặt hàng chủ lực đều giảm mạnh (trừ sắt thép các loại tăng 10,4%). Cụ thể: xăng dầu giảm 18,8%, máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng giảm 8,2%; chất dẻo giảm 11,3%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 7,2%,…
* Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu.
- Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: tổng kim ngạch nhập khẩu 8 tháng năm 2009 là 7,33 tỷ USD, giảm 17,4% so với cùng kỳ 2008.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,4 tỷ USD, giảm 6,7%; Nhật Bản: 1,47 tỷ USD, giảm 19,3%; Hàn Quốc: 521 triệu USD; giảm 21,7%; Hoa Kỳ: 462 triệu USD, tăng 12,6%;... so với cùng kỳ năm 2008.
- Sắt thép các loại: Hết 8 tháng/2009, lượng sắt thép nhập khẩu của cả nước là 6,16 triệu tấn, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước với trị giá đạt được là 3,21 tỷ USD.
Biểu đồ: Lượng, đơn giá bình quân nhập khẩu phôi thép và sắt thép các loại từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2009
- Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 205 triệu USD, giảm 16,2% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 8 tháng/2009 lên 1,27 tỷ USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2008.
Hết 8 tháng/2009, thức ăn gia súc & nguyên liệu được nhập khẩu từ Achentina là: 394 triệu USD, tăng 233%; Ấn Độ : 307 triệu USD, giảm 51,6%; Hoa Kỳ: 110 triệu USD, giảm 5,4%; Trung Quốc: 109 triệu USD, tăng 35,2%;… so với 8 tháng 2008.
- Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày: trong tháng nhập khẩu là 573 triệu USD, giảm 11,6% so với tháng 7/2009 (tương đương giảm 75 triệu USD về số tuyệt đối). Trong đó trị giá nhập khẩu vải là 327 triệu USD, giảm 13,6%, nguyên phụ liệu dệt may: 131 triệu USD, giảm 15,2%, xơ sợi dệt giảm 2,5% và lượng bông nhập khẩu giảm 4,2%.
Hết tháng 8/2009, nhóm hàng này đạt kim ngạch là 4,64 tỷ USD, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường chính cung cấp nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da giày cho Việt Nam trong 8 tháng qua là: Trung Quốc: 1,3 tỷ USD, Đài Loan: 946 triệu USD, Hàn Quốc: 905 triệu USD, Nhật Bản: 302 triệu USD, Hồng Kông: 270 triệu USD,…
- Xăng dầu:
Biểu đồ: Giá bình quân nhập khẩu xăng dầu háng 1 đến tháng 8/2009
Hết tháng 8/2009, cả nước nhập khẩu 8,75 triệu tấn xăng dầu các loại, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân nhóm hàng này giảm mạnh so với cùng kỳ 2008 nên kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt hơn 4 tỷ USD, giảm tới 55,7%.
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ Singapore với hơn 3,4 triệu tấn, tiếp theo là Đài Loan: 1,69 triệu tấn, Trung Quốc: 1,59 triệu tấn, Hàn Quốc: 836 nghìn tấn, Nga: 416 nghìn tấn, Thái Lan: 350 nghìn tấn...
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng 8/2009 là 338 triệu USD, nâng tổng trị giá nhập khẩu 8 tháng/2009 lên 2,29 tỷ USD, giảm 4,7% so với cùng kỳ 2008.
Tính đến hết tháng 8 năm 2009, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về cung cấp nhóm hàng này cho nước ta với 842 triệu USD, tăng 2,0% so với 8 tháng/2008. Tiếp theo là Nhật Bản: 494 triệu USD, giảm 5,7%; Đài Loan: 183 triệu USD, giảm 3,4%; Malaysia: 178 triệu USD, giảm 0,7%; ...
- Chất dẻo nguyên liệu: trong tháng 8/2009 nước ta nhập khẩu 201 nghìn tấn, giảm 11,3% so với tháng 7/2009 và đạt trị giá là 269 triệu USD. Hết tháng 8/2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước là 1,44 triệu tấn, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 1,73 tỷ USD.
Hết 8 tháng năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc : 268 nghìn tấn, tăng 46,7% so với cùng kỳ 2008; Đài Loan: 213 nghìn tấn, giảm 2,4%; Thái Lan: 192 nghìn tấn, tăng 6,7%, A rập Xê út: 163 nghìn tấn, tăng 79,3%; Singapore: gần 102 nghìn tấn, tăng 3,8%; …
- Phân bón:. Hết 8 tháng/2009, cả nước nhập khẩu 2,85 triệu tấn phân bón các loại, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Lượng phân Urê nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua là 897 nghìn tấn, phân SA là 741 nghìn tấn, phân DAP gần 705 nghìn tấn, phân Kali là 250 nghìn tấn, phân NPK là 194,5 nghìn tấn.
Mặt hàng phân bón các loại được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 1,13 triệu tấn. Tiếp theo là Nga: 291 nghìn tấn, Ucraina: 202 nghìn tấn, Hàn Quốc: 198 nghìn tấn; Philippin: 193 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 129 nghìn tấn, Đài Loan: 83,8 nghìn tấn,…
- Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: Sau khi đạt mức tăng đột biến trong tháng 7, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc bắt đầu giảm với lượng nhập khẩu trong tháng 8 là 7,27 nghìn chiếc, trị giá 107 triệu USD. Trong đó, số lượng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống nhập khẩu là 4,3 nghìn chiếc, giảm 15% so với tháng 7 với trị giá là 45 triệu USD.
Hết tháng 8, lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu là 39,6 nghìn chiếc giảm 10,8% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, lượng xe dưới 9 chỗ ngồi là 19,9 nghìn chiếc, chiếm trên 50% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước.
Biểu đồ : Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2009
Trị giá nhập khẩu linh kiện & phụ tùng ô tô trong tháng 8 đạt 158 triệu USD, giảm 11,4% so với tháng 7, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này 8 tháng /2009 lên 935 triệu USD.
1.2. Cán cân dịch vụ (SE)
Xuất nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2009 ( đơn vị: triệu USD)
6 tháng đầu năm
6 tháng đầu năm
6 tháng đầu năm 2009
2008
2009 (thực hiện)
(so với cùng kì năm 2008)
Xuất khẩu
3682
2737
74.3
Dịch vụ hàng không
562
359
62.4
Dịch vụ vận tải biển
575
359
62.4
Dịch vụ bưu chính viễn thông
45
37
82.2
Dịch vụ du lịch
2190
1550
70.8
Dịch vụ tài chính
120
105
87.5
Dịch vụ bảo hiểm
35
31
88.6
Dịch vụ Chính phủ
25
20
80
Dịch vụ khác
130
105
80.8
Nhập khẩu
4414
3256
73.8
Dịch vụ hàng không
710
570
80.3
Dịch vụ vận hàng hải
150
135
90
Dịch vụ bưu chính viễn thông
28
29
115.7
Dịch vụ du lịch
110
93
84.5
Dịch vụ bảo hiểm
80
65
81.3
Dịch vụ Chính phủ
24
20
83.3
Dịch vụ khác
560
420
75
Ước tính cước phí I, F hàng
2312
1544
66.8
Từ bảng thống kê trên ta thấy, thu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2009 giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2008. Suy thoái kinh tế đã tác động lớn đến thu nhập của người không cư trú, bên cạnh đó, dịch cúm H1N1, dịch sốt xuất huyết đã tác động không nhỏ tới ngành du lịch. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong 6 tháng năm 2009 giảm 16% so với cùng kỳ năm 2008; các khoản thu từ dịch vụ hàng không và vận tải biển đều giảm và chỉ bằng hơn 60% so với cùng kỳ năm 2008.
1.3. Cán cân vốn
Trái ngược với trạng thái luôn thâm hụt của cán cân tài khoản vãng lai, cán cân vốn của Việt Nam luôn ở trong trạng thái thặng dư từ năm 2001 đến nay. Như vậy, Tổng mức thặng dư của cán cân vốn trong 8 năm qua ước đạt khoảng 51,875 tỷ USD, bù đắp được trên 71% tổng mức thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Như vậy, mức thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể cộng dồn của cả giai đoạn 2001- 2008 chỉ vào khoảng 20,62 tỷ USD, bằng khoảng 29% tổng mức thâm hụt cán cân thanh toán tài khoản vãng lai và bằng khoảng 5% GDP
Cán cân thanh toán, cán cân vốn của Việt Nam: 2004-2007 (tỷ USD)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2007 (% GDP)
Tài khoản vãng lai
-1.6
0.2
0.2
-6.4
-9.0
Số dư hàng hóa dịch vụ
-3.2
-2.0
-2.8
-9.0
-12.6
Số dư thu nhập đầu tư
-0.9
-1.2
-1.4
-1.6
-2.3
Chuyển nhượng ròng
2.5
3.4
4.4
4.2
5.9
Tài khoản vốn
2.5
1.9
4.1
15.2
21.4
FDI thuần
1.9
2.0
2.4
4.0
5.6
Các dòng tài chính khác
0.7
-0.1
1.7
11.2
15.8
Cán cân thanh toán - Tài khoản vốn
Từ năm 2001 đến nay, Cán cân vốn được cải thiện mạnh mẽ do vốn nước ngoài tiếp tục chảy vào khi Việt Nam mở cửa hoạt động thương mại đầu tư, bao gồm ODA và FDI, đầu tư gián tiếp. Dự báo trong năm 2009, tỷ trọng các nguồn vốn này có thể lên tới 40% tổng đầu tư toàn xã hội so với 30% năm 2006 và khoảng 20% giai đoạn 2001-2005. Điều này tạo thuận lợi cho Việt Nam ổn định cán cân thanh toán về trung hạn.
Cán cân vốn
Nguồn FDI
Đầu tư trực tiếp vào VN (FDI):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng do môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện hơn, lợi thế về chi phí đầu tư như chi phí lao động, giá điện đang cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Trong giai đoạn 2001-2005, cam kết đầu tư FDI bình quân tại Việt Nam đạt trên 3 tỷ USD/năm, đặc biệt năm 2005 đạt 5,7 tỷ USD và năm 2006 đạt trên 6 tỷ USD. Giải ngân nguồn vốn FDI cũng đạt bình quân trên 3 tỷ USD/năm.
Năm 2008 là năm thành công của Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trước những khó khăn của nền kinh tế thế giới và khu vực, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của cả nước, đạt khoảng 65 tỉ USD – mức cao nhất từ trước tới nay, tăng gấp hơn 5 lần so với năm 1996, gấp 2,73 lần tổng số vốn FDI đăng ký của cả năm 2007 – năm đỉnh điểm của làn sóng FDI đầu tiên vào Việt Nam. Tuy nhiên trong 8 tháng đầu năm 2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký chỉ còn 5,62 tỷ USD, tuy chỉ bằng 10,8% so cùng kỳ năm 2008 nhưng cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay.
Đầu tư gián tiếp vào VN (FII).
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn vốn FII vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng 30-40%).
Trong vài năm gần đây, đầu tư FII vào Việt Nam cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức, năm 2007 là 6,18 tỷ USD, năm 2008 tình hình toàn thế giới gặp khó khăn nhưng FII khoản 8 tỷ USD, dự báo năm 2009 khoảng 8 tỷ USD.
Vay nợ nước ngoài (ODA)
Chi tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Cam kết
2.4
2.5
2.8
3.4
3.4
3.7
4.5
5.4
Thực hiện
1.6
1.5
1.5
1.4
1.6
1.8
1.8
2.2
Qua bảng trên ta nhận thấy tốc độ tăng trưởng khả năng thu hút vốn ODA của nước ta tăng với tốc độ khá nhanh và ổn định trong suốt giai đoạn từ 2001- 2008. Tuy khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực hiện vốn cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và chưa đạt được hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm trong thời gian 3 năm trở lại đây. Tốc độ giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng nợ không cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các nguồn đầu tư quốc tế khá
Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương cung cấp ODA cho hầu hết các lĩnh vực ưu tiên phát triển của Việt Nam. Những nhà tài trợ đã dành cho Việt Nam nhiều vốn ODA (như Nhật Bản, EU...).
2. So sánh cán cân thương mại của Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn từ 2000 – 2008:
TRUNG QUỐC
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Exports of goods and services (% of GDP)
23
23
25
30
34
37
40
43
35
Imports of goods and services (% of GDP)
21
20
23
27
31
32
32
33
28
GDP (current bil US$)
1198.48
1324.80
1453.83
1640.96
1931.64
2235.91
2657.88
3382.27
4326.19
Exports of goods and services(current bil US$)
275.65
304.71
363.46
492.29
656.76
827.29
1063.15
1454.38
1514.17
Imports of goods and services(current bil US$)
251.68
264.96
334.38
443.06
598.81
715.49
850.52
1116.15
1211.33
Từ đây ta có thể thấy sự khác biệt lớn khi cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt còn cán cân thương mại của Trung Quốc thặng dư với số lượng lớn hơn về mọi mặt.
Xét cán cân thương mại của Trung Quốc:
Sự phát triển nhanh về xuất khẩu tiếp tục là nhân tố chính hỗ trợ sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế TQ. Xuất khẩu hang hóa và dịch vụ đóng góp 39.7% GDP. Mặt hang xuất khẩu chính là máy móc trang thiết bị, quần áo… Trung Quốc nhập khẩu chính là sắt thép, dầu,thiết bị y tế… Đối tác chính là Châu Âu, Mỹ, Nhật, Hongkong và Hàn Quốc.
Dưới đây là thông số cán cân thương mại TQ những năm gần đây
Year
Jan
Feb
Mar
Apr
May
Jun
Jul
Aug
Sep
Oct
Nov
Dec
Total
2009
39.1
4.8
18.6
13.1
13.4
8.3
10.6
15.7
12.9
24.0
160.6
2008
19.5
8.6
13.4
16.7
20.2
21.0
25.3
28.7
29.4
35.2
40.1
39.0
297.0
2007
15.9
23.8
6.9
16.9
22.5
26.9
24.4
25.0
23.8
27.1
26.3
22.7
261.9
2006
9.6
2.4
11.2
10.5
13.0
14.5
14.6
18.8
15.3
23.8
22.9
21.0
177.6
TQ tăng nhập khẩu và xuất khẩu hang năm. Giá trị xuất nhập khẩu năm
TQ tăng nhập khẩu và xuất khẩu hang năm. Giá trị xuất nhập khẩu năm 2000 đã vươn tới USD 2.174 trillion. Dưới đây là xu hướng nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa của TQ từ 1980 đến 2007
Từ đó, ta thấy trong năm 2007, TQ đã có thặng dư cán cân thương mại lớn là 260 USD trillion, tăng gấp 11 lần kể từ năm 2000
Tóm lại có thể kết luận rằng, Trung quốc cán cân thương mại của Trung Quốc thặng dư lớn và tăng qua các năm còn cán cân thương mại của Việt Nam thì lại thâm hụt và mức độ thâm hụt ngày càng lớn.
2. Nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt CCTTQT của Việt Nam
2.1. Thâm hụt thương mại cao trong thời gian dài
Thâm hụt thương mại thường diễn ra ở nhiều nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế hấp thụ vốn đầu tư tốt, đầu tư hiệu quả thì thâm hụt thương mại cao là tiền đề của sự tăng trưởng trong giai đoạn phát triển tiếp theo và ngược lại. Với Việt Nam, thâm hụt thương mại liên tục tăng ở mức cao giai đoạn 2004 - 2008 và có xu hướng tiếp tục tăng. (biểu đồ theo dữ liệu của M. Hiền);
Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
● Thứ nhất, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng gia tăng sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
● Thứ hai, nhu cầu nhập khẩu cao nhờ được tài trợ bởi luồng vốn nước ngoài như nguồn vốn đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và các khoản vay nước ngoài.
● Thứ ba, giá cả hàng hoá quốc tế tăng cao, đặc biệt là giá các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất đã khiến kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh;
● Thứ tư, nhập khẩu tăng mạnh và cao hơn nhiều so với xuất khẩu chứng tỏ khi thực hiện các cam kết đa phương trong WTO, giảm nhiều dòng thuế đã làm cho hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, trong khi đó muốn tăng trưởng xuất khẩu lại cần có thời gian.
● Thứ năm, lạm phát trong nước cao hơn lạm phát của các đối tác thương mại, trong khi tỷ giá danh nghĩa giữa VND và USD và tỷ trọng thương mại của Việt Nam với các nước tương đối ổn định khiến VND lên giá thực, tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu.
2.2. Đầu tư tăng cao
Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ở VN là do nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế. Nếu thâm hụt là do nhu cầu đầu tư tăng cao thì thâm hụt không phải là một vấn đề nghiêm trọng, vì khi đầu tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất, thì trong tương lai năng suất sẽ cao hơn và sẽ sản xuất nhiều hơn, và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Tuy nhiên, nếu nhu cầu đầu tư tăng cao là vào khu vực bất động sản, thì lại đáng lo ngại, vì khu vực này thường không làm tăng năng suất (như đầu tư vào máy móc, thiết bị), cũng như tạo ra các sản phẩm có thể được dùng để trả nợ (thông qua xuất khẩu).
Những lý do dẫn tới đầu tư tăng cao:
● Chính sách tiền tệ: Một trong những nguyên nhân có liên quan đến đầu tư tăng cao là chính sách tiền tệ nơi lỏng của Việt Nam trong thời gian qua. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nơi lỏng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước, do trong ngắn hạn điều này làm giảm lãi suất.
Ngoài tác động trên, chính sách tiền tệ còn có tác động thông qua tỷ giá. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì sẽ tạo nên áp lực giảm giá đồng tiền nội tệ so với đồng tiền của nước khác. Nếu tỷ giá hối đoái được tự do thay đổi, thì khi đó, nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn và xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn. Tuy nhiên, khi tỷ giá không được tự do thay đổi (tỷ giá cố định), thì đồng tiền nội tệ về bản chất là đã lên giá. Việc duy trì một đồng tiền nội tệ đã lên giá như vậy sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong suốt một thời gian dài Việt Nam đã duy trì tỉ giá cố định gắn vào đồng USD. Khi lạm phát thấp đây làm một chính sách hợp lý để làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2006, và đặc biệt là năm 2007, lượng vốn đầu tư (cả gián tiếp và trực tiếp) chảy vào Việt nam tăng đột biến, làm cho đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác. Để duy trì tính cạnh tranh về giá của hàng XK, Ngân hàng Nhà nước đã tung một lượng tiền lớn ra để mua USD (làm tăng dự trữ ngoại hối), dẫn tới một lượng cung tiền rất lớn trong hệ thống thanh toán của Việt Nam. Tác động của lạm phát có tác dụng làm đồng tiền mất giá, nhưng việc duy trì tỷ giá cố định về cơ bản là việc duy trì một đồng tiền định giá quá cao đã làm cho hàng VN mất tính cạnh tranh (trở nên đắt hơn) và hàng NK trở nên rẻ hơn. Đây cũng chính là một nguyên nhân của tình trạng nhập siêu và thâm hụt các cân thanh toán quốc tế. Phải thấy rằng tỷ giá cứng là một nguyên nhân dẫn đến thâm hụt thương mại.
● Tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán: Trong năm 2006 và 2007 đã chứng kiến hàng loạt các công ty thực hiện cổ phần hóa, lên sàn, phát hành thêm cổ phiếu. Năm 2007 còn được nhìn nhận là năm của IPO. Bản chất của các hoạt động này, kể cả việc thực hiện cổ phẩn hóa (không chỉ của các công ty nhà nước) là các hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp để đầu tư. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua kênh của thị trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của VN đã tăng lên rất nhiều. Hệ quả tất yếu của việc tăng đầu tư là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư tăng vọt của các doanh nghiệp Việt Nam, một lượng lớn vốn đầu tư gián tiếp đã chảy vào Việt Nam.
Vốn nước ngoài vào làm thu nhập dân cư trong nước tăng lên trong khi các khoản đầu tư khác của Nhà nước vào khu vực sản xuất, hay đầu tư công của Chính phủ tuy lớn nhưng chưa cho ra sản phẩm và thu nhập ngay. Chính vì vậy, cầu tiêu dùng được đẩy lên rất lớn.
Quí I vừa qua, một số nhà xuất khẩu có ngoại tệ không bán được cho ngân hàng nên tìm cách nhập hàng về bán trong nước lấy tiền đồng, vừa bán được ngoại tệ vừa có lợi nhuận nhờ nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có giấy phép xuất nhập khẩu nên làm việc đó đơn giản. Điều đó khiến nhà nhập khẩu chuyên nghiệp khan hiếm ngoại tệ, phải vay trên thị trường ngân hàng. Và gần đây, thanh khoản ngoại tệ của ngân hàng bắt đầu khó khăn.
Một yếu tố khác, hầu hết hàng xuất khẩu Việt Nam có hàm lượng nhập khẩu lớn. Nhiều nguyên liệu gần đây trở nên đắt đỏ, giá trị nhập khẩu cũng tăng lên rất nhanh. Với việc kiên quyết chống lạm phát thì một ngày nào đó giá đầu ra sẽ không thể bù đắp chi phí đầu vào nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn ít sẽ gặp khó khăn lớn, thậm chí có thể làm đình đốn một số cơ sở sản xuất trong nước.
Nếu xét theo một chuẩn khác thì trước khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, một loạt các nước Đông Nam Á có chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lành mạnh, song chỉ có hai điểm không lành mạnh là bong bóng bất động sản và thâm hụt thương mại lên tới 12-13% GDP. Một số nhà kinh tế đã dự báo đó sẽ là ngòi nổ khủng hoảng, nhưng không mấy ai tin, và thực tế đã đúng vậy. Việt Nam hiện cũng vậy, ngoài những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chung như thâm hụt ngân sách, lạm phát, ICOR cao thì chúng ta cũng gặp bong bóng bất động sản.
3. Giải pháp
3.1. Các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế trên thế giới
Các nước thường sử dụng các biện pháp sau đây để cải thiện cán cân thanh toán quốc tế khi bi thâm hụt:
- Vay nợ nước ngoài: Đây là biện pháp truyền thống và phổ biến. Biện pháp này thông qua các nghiệp vụ qua lại với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài để vay ngoại tệ cần thiết nhằm bổ sung thêm lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường. Ngày nay việc vay nợ không còn giới hạn bởi quan hệ giữa ngân hàng nước này với nước kia, mà nó đã được mở rộng ra nhiều ngân hàng khác, đặc biệt là với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trên cơ sở các hiệp định đã được ký giữa các bên.
- Thu hút tư bản ngắn hạn từ nước ngoài: Ngân hàng Trung ương của các nước thường áp dụng những chính sách tiền tệ, tín dụng cần thiết thích hợp để thu hút được nhiều tư bản ngắn hạn từ các thị trường nước ngoài di chuyển đến nước mình, làm tăng thêm phần thu nhập ngoại tệ của cán cân thanh toán, thu hẹp khoảng cách về sự thiếu hụt giữa thu và chi trong cán cân thanh toán đó. Trong số những chính sách tiền tệ tín dụng được sử dụng để thu hút tư bản vào, thì chính sách chiết khấu được sử dụng phổ biến hơn.
Để thu hút được một lượng tư bản từ thị trường nước ngoài vào nước mình thì Ngân hàng Trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu, dẫn đến lãi suất tín dụng trên thị trường tăng lên làm kích thích tư bản nước ngoài dịch chuyển vào.
Thế nhưng biện pháp này chỉ góp phần tạo ra sự cân bằng cho cán cân thanh toán trong trường hợp bội chi không lớn lắm và cũng chỉ giải quyết nhu cầu tạm thời.
Cần lưu ý rằng, biện pháp nâng lãi suất chiết khấu chỉ có hiệu quả khi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội...của quốc gia đó tương đối ổn định, tức là ít rủi ro trong đầu tư tín dụng.
- Phá giá tiền tệ: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, một số nước tư bản đã sử dụng chính sách phá giá tiền tệ như là một công cụ hữu hiệu, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và bình ổn tổng giá hối đoái.
Phá giá tiền tệ là sự công bố của Nhà nước về sự giảm giá đồng tiền của nước mình so với vàng hay so với một hoặc nhiều đồng tiền nước khác. Phá giá tiền tệ để tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu từ đó cải thiện điều kiện cán cân thanh toán.
Nhưng chúng ta cũng cần nhận thấy rằng, phá giá tiền tệ chỉ là một trong những yếu tố có tính chất tiền đề cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Còn kết quả hoạt động xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh... trên thị trường quốc tế.
Như vậy, có nhiều biện pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, song việc lựa chọn phương pháp nào thì phải xuất phát từ kết quả phận tích những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng thiếu hụt của cán cân, phải xem xét tình hình cụ thể, toàn diện của quốc gia đó cũng như tình hình quốc tế có liên quan để lựa chọn và sử dụng biện pháp thích hợp và hữu hiệu.
3.2. Các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán quốc tế tại Việt Nam
Để cải thiện cán cân vãng lai, gia tăng thặng dư cán cân vốn và tài chính, ổn định cán cân thanh toán quốc tế, Chính phủ và các Bộ ngành liên quan (NHNN, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT) tiếp tục triển khai một số giải pháp sau:
- Tiếp tục tập trung hỗ trợ xuất khẩu thông qua các biện pháp như: tiếp tục tăng cường xúc tiến thị trường, hỗ trợ về vốn và công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, đặc biệt đối với nhập khẩu hàng tiêu dùng để hạn chế nhập siêu trong những tháng cuối năm.
- Đẩy mạnh tiến độ giải ngân các dự án ODA, đặc biệt sớm hoàn thành các thủ tục pháp lý và rút vốn các khoản vay theo chương trình của các Chính phủ và tổ chức quốc tế. Chính phủ sớm tập trung nguồn ngoại thu ngoại tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng, hạn chế sử dụng dự trữ ngoại hối Nhà nước cho các mục đích can thiệp thị trường ngoại tệ, tăng cường mua ngoại tệ để bổ sung cho quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước;
- Tiến hành quản lý, giám sát chặt chẽ thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và các luồng vốn đầu tư vào các thị trường này, đặc biệt là luồng vốn đầu tư của nước ngoài để có biện pháp phòng ngừa hình thành “bong bóng” tài sản trên các thị trường này;
- Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, giải ngân các dự án FDI, đặc biệt là các dự án lớn; tích cực tổ chức xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Tích cực rà soát, sửa đổi các quy định hiện hành về theo dõi, thống kê chính xác, đầy đủ các luồng vốn vào, ra khỏi Việt Nam, đảm bảo các luồng vốn này được thống kê phù hợp với phương pháp luận quốc tế và thông kê cán cân thanh toán và thực tiễn của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Có thể nói việc nghiên cứu cán cân thanh toán có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi học viên, nó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về thực trạng cán cân xuất nhập khẩu, cán cân vốn… của nước nhà và từ đó có thể đưa ra các giải pháp để khắc phục tình trạng này trong tương lai. Vì thời gian nghiên cứu không dài và sự hiểu biết của nhóm còn hết sức khiêm tốn nên chắc chắn bài làm không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm 4, lớp 17N chúng em xin cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giá và rất mong cô sự chỉ bảo cho chúng em đề hoàn thiện đề tài này, nâng cao tầm hiểu biết của chúng em.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
China statistical Yearbook 2000, 2003, Công báo thống kê Tổng cục thống kê Trung Quốc từ 2004 đến 2008 tại website: www.stats.gov.cn
China Statistical Yearbook 2000, 2003, Thống kê xuất nhập khẩu của Hải quan Trung Quốc
Giáo trình Thanh toán Quốc tế trường Đại học ngoại thương.
Trang web của Quỹ tiền tệ quốc tế.
Trang Web của Tổng cục Thống kê….
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân, giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam.doc