Tháng 11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức 
Thương mại thế giới (WTO), có rất nhiều cơ hội và thách thức đặt ra đối với 
nền kinh tế cũng như với riêng ngành dệt may. Trong đó, phải đặc biệt kể tới 
sức ép cạnh tranh từ “người láng giềng khổng lồ” - Trung Quốc, nước sản 
xuất, xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Xét về mọi m ặt, Trung Quốc đang
chiếm thế thượng phong so với chúng ta. Song, các doanh nghiệp dệt may 
Việt Nam phải hiểu một điều là cạnh tranh chính là động lực để tồn tại và
phát triển. Chính sức ép cạnh tranh của Trung Quốc sẽ là đòn bẩy thúc đẩ y 
ngành dệt may Việt Nam . Vấn đề là ngành dệt mayViệt Nam có biết tận dụng 
những ưu thế của đất nước mình để đưa ra giải pháp khắc phục những thách 
thức đang đặt ra hay không. Và doanh nghiệp cũng không đứng ngoài vòng 
xoáy đó. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình chiến lược 
trong bối cảnh mới, đồng thời liên kết lại để tăng sức cạnh tranh, đầu tư mạnh 
mẽ vào các giải pháp gia tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ trong 
đó đặc biệt chú trọng đến khâu thiết kế thời trang và xây dựng thương hiệu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
90 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2730 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. Cơ hội và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lần lượt tăng trưởng là 6,5% và 6%, mặt hàng tơ 
giảm 25%. Trong thành phần hàng dệt, xuất khẩu mặt hàng gia dụng tăng 
10,2%. 
 Số lượng hàng may mặc (bao gồm cả hàng dệt thoi lẫn dệt kim) trong 4 
tháng đầu năm 2007 đạt 9,11 tỷ chiếc (bộ), tăng 8,4%; tốc độ tiếp tục giảm so 
với thời gian trước. Đơn giá xuất khẩu bình quân là 2,76 USD/chiếc (bộ), tăng 
11%, tương đương với cuối quý I năm 2007. Trong đó, đơn giá mặt hàng dệt 
thoi tăng 6,8%, mặt hàng dệt kim tăng 15,2%; trong khi đó đơn giá xuất khẩu 
sang Mỹ giảm 2,2%. Đơn giá hàng sợi xuất ra thị trường quốc tế giảm 8%, 
đơn giá xuất khẩu vải nguyên liệu về cơ bản giữ được mức tăng nhẹ. 
2.2.4 - Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng đều tăng. 
 Từ tháng 1 - 4/2007, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt của Trung Quốc 
đạt 5,17 tỷ USD, tăng 5,2%. Kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc đạt 550 
triệu USD, tăng 5,7%. Tốc độ nhập khẩu hàng dệt, may về cơ bản thống nhất 
với nhau. Trong hàng may mặc, nhập khẩu hàng dệt kim tăng 6,2%, hàng dệt 
thoi tăng 4,5%. Trong đó nhập khẩu hàng len tăng nhanh nhất, với mức tăng 
gần 34,4%. Hàng lông thú tăng 60,3%. Đơn giá hàng may mặc nhập khẩu 
(bao gồm cả hàng dệt kim lẫn dệt thoi) có mức tăng chung là 28,1%. Nhập 
khẩu 0,6 triệu tấn sợi với trị giá 1,47 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu tăng lên 
với mức tăng nhẹ là 0,3%. Vải nguyên liệu nhập khẩu đạt 2,73 tỷ, tăng 6,7%. 
2.3 - Tình hình điều chỉnh chính sách thuế xuất khẩu 
 Trong tháng 6/2007, Bộ Tài Chính, Tổng cục thuế, Bộ Thương mại, 
Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã công bố “Thông tư giảm tỷ lệ hoàn thuế 
xuất khẩu đối với một bộ phận hàng hoá”. Theo thông tư này, quy định từ 
1/7/2007 tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu hàng may mặc giảm xuống còn 11%. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 63
 Mục đích của việc điều chỉnh chính sách hoàn thuế xuất khẩu lần này 
nhằm: khống chế thêm một bước tăng trưởng quá nhanh trong xuất khẩu hàng 
hoá, giải quyết mâu thuẫn nổi trội phát sinh do xuất siêu quá lớn mang lại, 
làm tốt cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, khống chế xuất khẩu các mặt hàng “tiêu 
hao năng lượng nhiều, gây ô nhiễm cao, mang tính tài nguyên”, thúc đẩy thay 
đổi phương thức tăng trưởng ngoại thương và cân bằng xuất nhập khẩu, giảm 
thiểu cọ sát thương mại, thúc đẩy chuyển biến phương thức tăng trưởng kinh 
tế và duy trì phát triển kinh tế xã hội. 
III – Tƣơng quan về khả năng cạnh tranh giữa hàng dệt may 
Việt Nam và Trung Quốc 
 Trung Quốc là đầu tầu kinh tế của châu Á, là nước có công vực dậy nền 
kinh tế khu vực. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt 
mức tăng trưởng tương đối cao, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,1%, nhập khẩu 
tăng 40% và tiếp nhận 50% hàng xuất khẩu của châu Á. Tuy nhiên, sự tăng 
trưởng quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc cũng đặt ra những thách thức 
không nhỏ cho những nền kinh tế mới nổi trong khu vực ví dụ như Việt Nam. 
Rất nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ lớn 
trước sực ép cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc. 
Hàng hoá Trung Quốc có thể chia thành hai loại. Một loại hàng hoá có 
hàm lượng lao động cao, đơn giản như dệt may, da giày và một loại là hàng 
hoá có hàm lượng công nghệ cao vừa có lao động giản đơn vừa có lao động 
lành nghề như điện tử dân dụng. Hiện nay, Trung Quốc có sức cạnh tranh rất 
lớn ở cả hai loại hàng này, trong khi đó Việt Nam chỉ có ở loại thứ nhất còn 
loại thứ hai thì Việt Nam chưa thể cạnh tranh với Trung Quốc. Việt Nam đang 
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của Trung Quốc ngay trên một số thị trường 
quan trọng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và cả ASEAN. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 64
Dệt may hiện là một trong số những sản phẩm cạnh tranh chính giữa 
Việt Nam và Trung Quốc do ngành dệt may của Viêt Nam đang phát triển với 
tốc độ cao có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu trong số những mặt hàng chủ lực 
của Việt Nam, trong khi Trung Quốc lại là nhà sản xuất, xuất khẩu hàng dệt 
may lớn nhất thé giới, chiếm khoảng 50% thị phần dệt may toàn cầu. Có thể 
nói, ngay sau khi gia nhập WTO Trung Quốc đã nhanh chóng tạo nên những 
cơn sóng thần trên thị trường dệt may thế giới. 
1 – Những điểm tƣơng đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc 
Thực tế thì cả Việt Nam và Trung Quốc đều có những điều kiện thuận 
lợi để phát triển ngành dệt may. 
- Thứ nhất, dệt may là ngành sản xuất truyền thống lâu đời ở cả hai 
nước. Cách đây cả ngàn năm, con đường tơ lụa đã lưu dấu một bước 
phát triển kinh ngạc của Trung Quốc. Năm 1949, Trung Quốc có gần 
180.000 xưởng dệt tư nhân với xấp xỉ 800.000 công nhân và 8.000 
chuyên gia kỹ thuật. Dệt may nhanh chóng đã trở thành một trong 
những ngành ưu tiên phát triển của Chính phủ Trung Quốc. Trong khi 
đó, ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam cũng đã được đầu tư phát 
triển ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20. Với sự giúp đỡ của các nước 
anh em và bạn bè quốc tế, chúng ta đã cải tạo và xây dựng được hàng 
loạt nhà máy dệt may có công suất lớn như: Dệt 8 - 3, Dệt Vĩnh Phú, 
Dệt kim Đông Xuân, Dệt Nam Định, May 10, May Thăng Long. Hiện 
nay, Chính phủ hai nước đều rất chú trọng phát triển ngành này, nhiều 
chính sách hỗ trợ ngành dệt may đã được thực hiện. 
- Thứ hai, cả Trung Quốc và Việt Nam đều được xếp vào danh sách 
những nước có dân số đông nhất trên thế giới với khoảng 1,8 tỷ dân của 
Trung Quốc và hơn 85 triệu dân của Việt Nam cung cấp một lượng lớn 
lao động cho ngành dệt may của mỗi nước. Đây là một lợi thế trong 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 65
ngành dệt may mà không phải nước nào cũng có được. Đồng thời, dân 
số đông chính là một thị trường tiêu thụ nội địa lớn cho ngành may 
mặc. Hiện nay, 2/3 sản lượng hàng dệt may của Trung Quốc chủ yếu là 
để phục vụ thị trường trong nước. Còn ở Việt Nam, Nhà nước và Chính 
phủ đã xác định các doanh nghiệp trong nước phải dùng thị trường nội 
địa làm căn bản, thị trường xuất khẩu là động lực phát triển của ngành 
dệt may. Năm 2006, tổng tiêu thụ nội địa ước đạt 1,8 tỷ USD, trong khi 
xuất khẩu dệt may đạt gần 6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ 
nội địa đạt khoảng 15%/năm. Hiện tại mối quan tâm của nhiều doanh 
nghiệp dệt may là làm thế nào để chiếm lĩnh thị trường dệt may nội địa 
trước cuộc “đổ bộ” của nhiều nhãn hiệu thời trang danh tiếng của nước 
ngoài vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là hàng thời trang của Trung 
Quốc. 
- Thứ ba, Việt Nam và Trung Quốc đều đã trở thành thành viên chính 
thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này sẽ tạo ra nhiều 
cơ hội phát triển cho nền kinh tế của cả hai nước. Những rào cản trong 
ngành dệt may được xoá bỏ sẽ tạo điều kiện cho các sản phẩm của hai 
nước thâm nhập vào các thị trường nước ngoài dễ dàng hơn. 
- Thứ tư, Việt Nam và Trung Quốc có ý thức hệ giống nhau, cùng chung 
chủ trương xây dựng CNXH theo hoàn cảnh mỗi nước. Theo điều tra 
của Liên hợp quốc, đây là hai quốc gia ổn định, an toàn nhất trên thế 
giới, do đó ngày càng có nhiều nhà đầu tư tìm tới đây kinh doanh buôn 
bán. 
2 – Những điểm khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá trình 
phát triển ngành dệt may 
 Mặc dù có rất khá nhiều điểm chung nhưng giữa hai nước vẫn tồn tại 
nhiều điểm khác biệt tác động không nhỏ tới ngành dệt may của hai nước. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 66
Theo nhận định của các chuyên gia thì hiện tại hàng dệt may của Trung Quốc 
vẫn có lợi thế hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn hàng dệt may của Việt 
Nam. 
2.1 - Về chất lượng sản phẩm và kiểu cách mẫu mốt. 
Theo đánh giá của Uỷ Ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), Trung 
Quốc được lựa chọn là nguồn cung ứng số một của hầu hết các nhà nhập khẩu 
dệt may Hoa Kỳ vì nước này có khả năng sản xuất hầu như tất cả các loại sản 
phẩm dệt may ở mọi cấp độ chất lượng với giá cạnh tranh. Các sản phẩm dệt 
may mang thương hiệu Trung Quốc đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu 
mã, với nhiều cấp độ chất lượng, ở các mức giá khác nhau đã có mặt ở khắp 
mọi nơi trên thế giới. Người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn các mặt hàng phù 
hợp với sở thích và khả năng thanh toán của khách hàng. Đa dạng hoá sản 
phẩm đã mang lại lợi nhuận rất lớn cho Trung Quốc. Song Trung Quốc cũng 
phải tính tới trường hợp để giảm thiểu rủi ro do phải mua hàng từ một nước 
duy nhất, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ cũng có kế hoạch mở rộng quan hệ 
thương mại với những nước có giá thấp khác, đặc biệt là Ấn Độ. Còn về phần 
Việt Nam, như chúng ta đã biết, hàng dệt may của nước ta từ trước tới nay 
vẫn được biết tới là mặt hàng có chất lượng cao. Tuy nhiên, hàng dệt may 
của Việt Nam vẫn chỉ tập trung ở một số chủng loại nhất định như quần, áo 
jacket, áo thun, áo sơmi...với mẫu mã nghèo nàn, mà vẫn chưa sản xuất được 
những sản phẩm hàng cao cấp đòi hỏi kỹ thuật cao như veston. Những sản 
phẩm được coi là sản phẩm cao cấp của Việt Nam thực chất chỉ tập trung vào 
chất lượng hoặc cao lắm là thương hiệu nhằm phục vụ cho một phân khúc tiêu 
dùng riêng biệt cụ thể nào đó. Trong khi đó, một sản phẩm được coi là hàng 
cao cấp đúng nghĩa phải đảm bảo 3 yếu tố: sản xuất, thương hiệu, phân phối. 
Nếu tình trạng này kéo dài lâu thì hàng dệt may Việt Nam sẽ nhanh chóng 
chịu thát bại trước sự cạnh tranh ngày càng tăng của Trung Quốc. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 67
2.2 - Về nguyên phụ liệu. 
 Theo đánh giá của các chuyên gia, sản phẩm dệt may của Việt Nam 
chưa cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc một phần là vì Việt Nam 
chưa có hoặc chưa phát triển ngành nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, 70% 
nguyên phụ liệu của Việt Nam là nhập khẩu từ nước ngoài. Nếu ai đó sang 
Trung Quốc và đến các trung tâm hoặc chợ nguyên phụ liệu sẽ thấy rằng 
ngành sản xuất nguyên phụ liệu của Trung Quốc cực kỳ phát triển không dễ 
gì quốc gia nào có thể có được. Trong khi đó ở Việt Nam hiện giờ mới đang 
đi vào xây dựng một trung tâm nguyên phụ liệu dệt may đầu tiên tại Bình 
Dương. Chính việc không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu đã gây ảnh 
hưởng không nhỏ tới năng lực sản xuất của ngành dệt may. Phần lớn các 
doanh nghiệp dệt may của Việt Nam là làm gia công cho nước ngoài, lợi 
nhuận thu được thấp, không có khả năng phát huy sáng tạo trong việc thiết kế 
mẫu mã kiểu dáng. Thử lấy một ví dụ về nguyên liệu tơ tằm của Việt Nam. 
Theo số liệu thống kê của Tổng công ty Dâu tằm Việt Nam, diện tích dâu tằm 
của Việt Nam vào khoảng 25.000 ha, đứng hàng thứ hai thế giới chỉ sau 
Trung Quốc. Về lý thuyết, với diện tích trồng dâu như vậy, Việt Nam có thể 
trở thành một trung tâm sản xuất kén, tơ nguyên liệu có hạng. Thế nhưng, 
hiện chúng ta vẫn phải nhập tơ sống từ Trung Quốc để se tơ và dệt lụa với số 
lượng trên 200 tấn/năm. Đây lại là một nghịch lý nữa trong vấn đề nguyên 
liệu trong ngành dệt bởi nghề trồng dâu, nuôi tằm từ xưa tới nay vẫn được coi 
là một ngành truyền thống của dân tộc ta. 
2.3 - Về giá các sản phẩm dệt may. 
 Theo Bộ Công Thương, hầu hết các chủng loại hàng dệt may của Việt 
Nam xuất khẩu đều có giá cao hơn 5-7%, thậm chí là 10% so với hàng cùng 
loại của Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh. Cụ thể, đối với cat 338/339 (áo 
sơmi dệt kim cotton) đơn giá trung bình thực hiện tại Việt Nam là 5,79 - 8,2 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 68
USD/m
2
, trong khi đó ở Trung Quốc là 4,68 - 5,84 USD/m2. Nguyên nhân 
chính là do Việt Nam chưa chủ động được nguyên phụ liệu, đa số phải nhập 
từ nước ngoài nên đã đẩy giá thành phẩm lên cao hơn. Trong khi đó, Trung 
Quốc lại được coi là quốc gia sản xuất rẻ nhất thế giới. Không chỉ riêng mặt 
hàng may mặc mà ở tất cả các mặt hàng từ những hàng có hàm lượng kỹ thuật 
thấp cho tới những mặt hàng công nghệ cao, Trung Quốc đều có thể sản xuất 
được với chi phí thấp hơn nhiều so với những đối thủ của mình. Ở cả những 
nước nghèo, đang phát triển hay những trung tâm mua sắm của thế giới như 
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Italy... hàng may mặc của Trung Quốc đã 
chiếm lĩnh phần lớn thị trường. Nếu bạn muốn những bộ quần áo giá rẻ, có 
rất nhiều sản phẩm với mẫu mã phong phú đa dạng có xuất xứ từ Trung Quốc 
để cho bạn lựa chọn. Còn nếu bạn muốn những mặt hàng chất lượng cao, mẫu 
mã đẹp thuộc loại “hàng hiệu”, bạn có thể tìm thấy những sản phẩm do Trung 
Quốc sản xuất tại những trung tâm thương mại lớn, hiện đại của New York, 
London, Tokyo, Paris, Milan... Mục tiêu mà Trung Quốc đặt ra là đảm bảo tất 
cả mọi người kể cả người có thu nhập cao hay có thu nhập thấp đều có thể tìm 
được sản phẩm mình mong muốn 
2.4 - Về giá lao động. 
 Từ trước tới nay Việt Nam vẫn được coi là có lợi thế về nguồn nhân 
công giá rẻ. Giá lao động tại Việt Nam vào loại thấp nhất trong khu vực (3 
USD/ giờ), nhờ đó làm cho chi phí sản xuất hàng may mặc của Việt Nam 
cũng thấp hơn nhiều nước khác. Tuy nhiên, theo nhận định của Chủ tịch Hội 
tư bản công nghiệp trẻ Hoa Kỳ, trong vòng 30 - 50 năm tới nguồn nhân công 
giá rẻ sẽ không còn là yếu tố mang tính quyết định đối với nhà đầu tư. 
Như vậy, có thể nói, các sản phẩm dệt may của Việt Nam đang thua 
kém Trung Quốc về nhiều mặt.Và đặc biệt tình hình sẽ càng xấu đi khi Hoa 
Kỳ bãi bỏ hàng rào hạn chế nhập khẩu (còn gọi là biện pháp tự vệ) đối với 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 69
hàng dệt may Trung Quốc vào năm 2008. Khi đó, Trung Quốc sẽ được tự do 
xuất khẩu trở lại và ngành dệt may của Việt Nam sẽ phải chịu một sức ép 
mạnh hơn bao giờ hết. 
 Có thể nói, trong vòng một vài năm tới Trung Quốc vẫn sẽ là nước sản 
xuất, xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới, là đối thủ cạnh tranh lớn của nhiều 
quốc gia trên cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Nếu không có những chiến 
lược giải pháp cụ thể để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may nước 
mình thì các quốc gia trong đó có Việt Nam sẽ rất dễ bị hàng Trung Quốc loại 
khỏi những thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và bị lấn át tại ngay 
chính thị trường nội địa. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 70
CHƢƠNG III 
Cơ hội và thách thức. 
Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của 
hàng dệt may Việt Nam. 
I – Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam kể từ 
khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức 
Thƣơng mại thế giới (WTO). 
1 – Cơ hội 
- Tháng 11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ 
chức thương mại thế giới (WTO), khi đó Việt Nam sẽ nhận được những 
ưu đãi dành riêng cho nhưng nước thành viên của WTO và ngành dệt 
may của Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu do được 
bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với các nước thành viên theo quy định 
của Hiệp định dệt may ATC. 
- Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút dòng đầu tư trực tiếp và 
gián tiếp từ nước ngoài, đặc biệt là vào ngành dệt may để phát triển 
nguồn nguyên liệu bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm… 
nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hoá; thu hút được dòng đầu tư nước ngoài 
vào lĩnh vực hạ tầng như đường xá, giao thông, hạ tầng viễn thông, 
ngân hàng… tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành 
dệt may phát triển hơn nữa. Nhờ đó mà nguồn nhân lực cũng sẽ được 
cải thiện. Các doanh nghiệp dệt may có điều kiện tiếp cận và đào tạo 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 71
mạnh hơn lực lượng chuyên gia về công nghệ, thị trường, tài chính từ 
nước ngoài. 
- Thị trường nội địa sẽ có 100 triệu dân vào năm 2015 sẽ làm cho sức 
mua hàng dệt may tăng trưởng cao (khoảng 15% mỗi năm). Đây là cơ 
hội lớn dành cho Việt Nam khi thực hiện Chiến lược phát triển ngành 
dệt may đó là chú trọng thị trường nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu. 
- Theo Uỷ ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC), các 
sản phẩm dệt may của Trung Quốc đang mất dần khả năng cạnh tranh 
trên thị trường. Đây chính là cơ hội để ngành dệt may Việt Nam phát 
triển. Nguyên nhân là do các vụ kiện chống bán phá giá của các đối tác 
thương mại tiến hành đối với hàng dệt may Trung Quốc. Hiện tại, Hoa 
Kỳ đã áp dụng trở lại các hạn ngạch đối với một số chủng loại hàng của 
Trung Quốc làm tỷ trọng tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước 
này kém hơn. Năm 2005, khi hạn ngạch được bãi bỏ với Trung Quốc, 
hàng dệt may của nước này vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh chóng, 
tăng 56,8% so với năm trước. Ngay lập tức sau đó, Hoa Kỳ đã áp đặt 
biện pháp tự vệ làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc 
rơi vào tình cảnh khốn đốn, gây nên thiệt hại không nhỏ, do hàng đã 
sản xuất mà không xuất khẩu được, dẫn tới hàng trăm ngàn nhân công 
thất nghiệp. Đây có thể là một bài học lớn đối với dệt may Việt Nam 
sau khi gia nhập WTO. Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu chính nhưng 
phải biết đa dạng hoá thị trường, nếu chỉ tập trung vào thị trường Hoa 
Kỳ thì khả năng Việt Nam bị Hoa Kỳ áp dụng biện pháp tự vệ là rất lớn 
vì hiện tại Việt Nam cũng đang nằm trong “tầm ngắm” của các biện 
pháp giám sát của Chính phủ Hoa Kỳ. Ngoài ra, Trung Quốc đang thực 
thi chính sách giảm tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với một bộ phận hàng 
hoá trong đó có hàng may mặc. Theo đó, mức bồi hoàn thuế xuất khẩu 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 72
của mặt hàng may mặc giảm xuống còn 11% sẽ làm giảm bớt xuất khẩu 
của các doanh nghiệp dệt may nội địa. 
2 – Thách thức 
- Cái được lớn nhất của ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO là 
thị trường xuất khẩu, những ngược lại các doanh nghiệp sẽ phải chia sẻ 
thị trường nội địa cho các đối thủ nước ngoài. Các chính sách hỗ trợ 
của Chính phủ dành cho ngành sẽ không còn và quan trọng hơn là hàng 
rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng mất hết. 
Cho tới trước khi Việt Nam gia nhập WTO thì hàng dệt may nhập khẩu 
từ các nước ngoài ASEAN vào Việt Nam đang phải chịu thuế suất rất 
cao, đến 50% với sản phẩm may mặc, 40% với hàng dệt và sản phẩm 
sợi là 20%. Những hiện nay, thuế suất nhập khẩu các sản phẩm trên 
không còn duy trì ở mức cao như trước nữa, mà tối đa chỉ còn 15%, là 
mức chung của các thành viên WTO. Có thể thấy, các doanh nghiệp dệt 
và may đang và sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn ở thị trường nội địa. 
- Có một thực tế không mấy lạc quan là hiện nay ở Việt Nam, các cửa 
hàng nhỏ lẻ chiếm trên 70%, còn các cửa hàng trưng bày của các công 
ty dệt may lại có quy mô rất nhỏ. Về thị trường xuất khẩu, Việt Nam 
chỉ xuất khẩu thông qua kênh phân phối của nước ngoài nên còn nhiều 
bị động. Sau khi vào WTO, hàng dệt may nước ngoài sẽ ồ ạt nhập khẩu 
vào Việt Nam với thuế suất giảm (xuống còn 15%), cộng với sự đổ bộ 
của hàng loạt các công ty bán lẻ nước ngoài làm cho cạnh tranh trên thị 
trường dệt may sẽ càng khốc liệt hơn và hệ thống phân phối truyền 
thống có nguy cơ bị đè bẹp. Và khi đó sức ép về giá đối với sản phẩm 
dệt may Việt Nam là rất lớn. Nếu không tính toán tốt chi phí sản xuất 
đầu vào sẽ dẫn tới giá sản phẩm bị nâng cao khi đó chúng ta không thể 
cạnh tranh và việc bị loại khỏi cuộc chơi là không thể tránh khỏi. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 73
- Ngành dệt của Việt Nam hiện tại là ngành yếu cả về vốn, công nghệ, 
tiếp thị lẫn khả năng cạnh tranh và đứng ở vị trí rất thấp so với thế giới. 
Sau hội nhập, thuế suất nhập khẩu chỉ còn tối đa là 15%, công thêm 
mẫu mã phong phú, sản phẩm dệt nước ngoài vào Việt Nam sẽ đủ ưu 
thế đánh bại ngành dệt trong nước. Nguy cơ phá sản của nhiều doanh 
nghiệp dệt Việt Nam có thể nhìn thấy trong tương lai gần nến không cải 
thiện ngay từ bây giờ. 
- Và một thách thức không hề nhỏ đó là phải cạnh tranh với Trung Quốc, 
Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh... là những cường quốc sản xuất thương 
mại dệt may, đang tăng cường đầu tư phát triển và có tham vọng tăng 
gấp đôi xuất khẩu của mình năm 2010. Hiện tại, Trung Quốc đang phải 
chịu các biện pháp hạn chế nhập khẩu của EU và Hoa Kỳ song xuất 
khẩu của nước này vào các thị trường chính vẫn ở mức cao, Trung 
Quốc vẫn chi phối phần lớn thị phần dệt may thế giới. Điều này đã đưa 
ra lời cảnh bào với tất cả các quốc gia sản xuất và xuất khẩu dệt may là 
tình hình sẽ càng bi đát hơn vào năm 2008, khi Trung Quốc được tự do 
xuất khẩu trở lại, ngành dệt may Việt Nam sẽ phải chịu một sức ép 
mạnh hơn bao giờ hết. 
- Hiện nay, hầu hết các rào cản thương mại, kỹ thuật quốc tế trong dệt 
may đã được xoá bỏ nhưng Việt Nam vẫn phải tính đến trường hợp các 
nước nhập khẩu sẽ đưa ra những biện pháp để bảo vệ cho ngành sản 
xuất trong nước trước sự thâm nhập của hàng nhập khẩu mà trước mắt 
là Cơ chế giám sát chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ, thị trường 
chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam. 
II - Định hƣớng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến 
năm 2010 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 74
1 - Mục tiêu chiến lƣợc 
 Hiện ngành dệt may được xem là ngành công nghiệp lợi thế của Việt 
Nam. Theo quy hoạch điều chỉnh ngành dệt may đến năm 2015, tầm nhìn 
2020 mới được Bộ Công nghiệp xây dựng, Đảng và Nhà nước đang tập trung 
phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng 
điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng 
trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội 
nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. 
 Nhà nước và Chính phủ đặt ra nhiệm vụ cho ngành dệt may trong giai 
đoạn 2007 - 2010 phải đảm bảo tăng trưởng sản xuất công nghiệp là 16 - 
18%, tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt 20%. 
2 - Chiến lƣợc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 
 Dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Dệt may đã và đang 
góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, tạo công ăn việc 
làm cho người dân. Do đó, phải ưu tiên phát triển theo hướng đẩy nhanh công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và 
hiệu quả. 
 Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngành may mặc 
Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh vô cùng gay gắt mà đặc biệt 
từ quốc gia láng giềng là Trung Quốc, nước sản xuất và xuất khẩu dệt may 
lớn nhất thế giới. Việt Nam phải đưa ngành dệt may của mình phát triển, hội 
nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở hợp tác với các quốc gia khác. Tăng 
cường các mối liên kết, hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế 
giới nhằm ổn định khách hàng, thị trường, từng bước tham gia các chuỗi liên 
lết của họ. 
 Đại hội Hiệp hội dệt may lần thứ ba tổ chức tại Hà Nội vào ngày 25 và 
26/5 đã đề ra Chiến lược phát triển ngành dệt may trong giai đoạn tới đó là 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 75
lấy thị trường trong nước làm nền tảng và coi xuất khẩu làm động lực để phát 
triển. Để có thể làm được điều đó, có rất nhiều việc mà ngành dệt may phải 
thực hiện. Đó là: 
- Trước tiên, trên cơ sở lấy kinh tế Nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò 
chủ đạo, ngành dệt may phải phát triển theo hướng đa dạng hoá sở hữu, 
phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá qui mô và loại hình 
doanh nghiệp. Đẩy mạnh cổ phẩn hoá các doanh nghiệp dệt may thuộc 
sở hữu của Nhà nước. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư 
phát triển ngành dệt may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao 
động. 
- Tiếp đó, phải phát triển theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá 
trong ngành dệt may, đa dạng hoá các sản phẩm. Đầu tư vào công nghệ 
mới, hiện đại nhằm tạo bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm, đầu tư 
vào công nghệ sạch, công nghệ tiết kiệm năng lượng. Phát triển những 
mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản 
phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín, nhãn mác 
hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. 
- Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm. 
- Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng vì đây là điều 
kiện then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành dệt may Việt Nam 
- Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may phải xây dựng Việt Nam trở thành 
trung tâm thời trang của khu vực trong mối liên kết đa ngành Thương 
mại - Văn hoá - Du lịch - Sản xuất thời trang. 
- Và một yêu cầu đặc biệt quan trọng đặt ra với ngành dệt may Việt Nam 
là phải phát triển dệt may gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch xây 
dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in, nhuộm và may hoàn tất ở xa các 
trung tâm đô thị lớn. 
Bảng 10: 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 76
Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lƣợc phát triển dệt may giai đoạn 
2007 - 2010 và định hƣớng giai đoạn 2011 - 1020 
Chỉ tiêu ĐVT 
Thực hiện 
2006 
Mục tiêu toàn ngành 
2010 2015 2020 
1. Doanh thu Tỷ USD 7,63 13-15 18-21 27-30 
- Xuất khẩu Tỷ USD 5,83 10-12 14-16 20-22 
2. Sử dụng lao 
động 
Triệu người 2,0 2,5 3,5 4,5 
3. Sản phẩm chính 
- Bông xơ 1000 tấn 10 20 40 60 
- Sợi tổng hợp 1000 tấn 260 400 600 
- Sợi 1000 tấn 260 350 500 650 
- Vải Triệu m2 680 1.000 1.500 2.000 
- Sản phẩm may Triệu SP 1.800 2.500 3.000 4.000 
Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) 
II - Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may 
Việt Nam. 
1 - Về phía Nhà nƣớc và Chính phủ 
 Một cam kết quan trọng của Việt Nam khi gia nhập WTO đó là phải 
hoàn thiện hệ thống luật pháp. Có thể nói, chính hệ thống luật pháp, các quy 
định pháp luật không ổn định khiến cho các nhà đầu tư do dự khi quyết định 
đến Việt Nam. Trong khi Hoa Kỳ, cường quốc kinh tế lớn nhất trên thế giới 
vẫn duy trì những hệ thống luật pháp như ngay từ khi mới thành lập, nếu có 
thay đổi cũng không đáng kể, thì hệ thống luật pháp của Việt Nam đã thay đổi 
không ít lần. Nhiều bộ luật mới đã được sửa đổi, ban hành mới như: Luật 
Thương mại, Luật Đầu tư. Luật Cạnh Tranh...gây khó khăn trong việc cập 
nhật và áp dụng các bộ luật đó vào thực tế. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 77
 Ngoài ra, Nhà nước và Chính phủ cần phải giảm thiểu những thủ tục 
rườm rà về mặt hành chính. Nhiều nơi đã thi hành chính sách “một cửa” tạo 
nhiều thuận lợi cho cả nhà kinh doanh Việt Nam lẫn nhà đầu tư nước ngoài 
hạn chế những rắc rối về mặt giấy tờ thủ tục. Đồng thời, tiến tới điều hoà luật 
về quyền mậu dịch, nhờ đó những thủ tục đăng ký đối với các nhà kinh doanh 
trong nước và nước ngoài sẽ như nhau. 
 Ngay sau khi gia nhập WTO thì có một số vấn đề về chính sách đặt ra 
với ngành dệt may. Từ 11/1/2007, hàng rào bảo hộ hàng sản xuất trong nước 
đã giảm đến mức tối đa theo cam kết WTO, thuế nhập khẩu hàng may mặc 
giảm từ 50% xuống 20%, vải từ 40% xuống còn 21%. Điều này sẽ gây khó 
khăn lớn với ngành dệt may nội địa vì phải cạnh tranh quyết liệt với hàng dệt 
may nhập khẩu. Không những thế, 70% nguyên phụ liệu của dệt may là nhập 
khẩu từ nước ngoài, do đó chính sách tỷ giá của Chính phủ cũng ảnh hưởng 
lớn tới các nhà sản xuất Việt Nam. 
 Trở thành thành viên của WTO thì cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp và 
gián tiếp từ nước ngoài là rất lớn. Nhà nước đang rất khuyến khích các nhà 
đầu tư đầu tư vào ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt để tạo nguyên phụ liệu 
cho ngành may. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn nên Nhà nước phải đưa 
ra những chính sách khuyến khích lớn đối với các những người đầu tư vào 
lĩnh vực này, đặc biệt là vào những dự án sản xuất các sản phẩm mà hiện tại 
Việt Nam vẫn chưa sản xuất được hoặc có giá trị thấp. Nhà nước có định 
hướng xây dựng phát triển các cụm công nghiệp dệt may theo từng vùng. Mỗi 
cụm công nghiệp xây dựng trong các khu công nghiệp quy hoạch tập trung sẽ 
mang lại thuận lợi là tiết kiệm vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng 
cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng đầu tư phân 
tán hiệu quả thấp. 
 Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là yêu cầu đặt ra không chỉ 
đối với ngành dệt may nói riêng mà là với tất cả các ngành kinh tế. Cổ phần 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 78
hoá không có nghĩa là Nhà nước sẽ để doanh nghiệp tự “bơi” mà vẫn hỗ trợ 
gián tiếp thông qua việc đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, cung cấp các thông 
tin miễn phí cho doanh nghiệp. Thực tế, cổ phần hoá sẽ giúp các doanh 
nghiệp phát triển, tăng khả năng cạnh tranh, không để thua ngay trên sân nhà. 
Nếu trước kia, kiểu huy động vốn là vay thương mại hoặc từ Chính phủ thì 
giờ đây và trong tương lai, phải là hình thức gọi vốn đầu tư nước ngoài và cổ 
đông chiến lược. Trong giai đoạn 2006 - 2008, tập đoàn Dệt may Việt Nam 
(Vinatex) sẽ cổ phần hoá tất cả doanh nghiệp thành viên và trở thành tập đoàn 
có vốn đa sở hữu. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn góp phần loại bỏ 
những đơn vị làm ăn kém hiệu quả và nâng cao hiệu quả quản lý doanh 
nghiệp giúp doanh nghiệp dệt may có thêm sự chủ động, năng động trong sản 
xuất kinh doanh, đủ sức cạnh tranh sau hội nhập. Theo dự đoán của các 
chuyên gia, số doanh nghiệp dệt may ra đời hậu WTO (trong vòng một thập 
kỷ tới) có thể đến 10.000, trong đó sẽ có rất nhiều doanh nghiệp đầu tư nước 
ngoài. 
 Chính phủ cũng phải có những hỗ trợ doanh nghiệp dệt may trong việc 
thâm nhập thị trường nước ngoài và giúp doanh nghiệp phát triển các vùng 
nguyên liệu cho ngành. Các quan chức của Chính phủ trong các chuyến công 
du ra nước ngoài thường đưa các nhà kinh doanh đi theo để nghiên cứu thị 
trường. Đây là một cơ hội vô cùng thuận lợi vì sẽ rất dễ dàng tìm hiểu về 
ngành sản xuất của nước tới thăm. 
 Hiện tại, nguyên phụ liệu là một vấn đề nhức nhối đặt ra với các doanh 
nghiệp dệt may Việt Nam khi phần lớn nguyên phụ liệu để sản xuất hàng dệt 
may của nước ta là nhập khẩu. Nhà nước đã lên kế hoạch xây dựng các trung 
tâm nguyên phụ liệu trong cả nước. Cuối tháng 5/2007, trung tâm nguyên phụ 
liệu dệt may và da giày đầu tiên tại Việt Nam đã được chính thức khởi công 
xây dựng tại Cụm công nghiệp Trung Thành, xã Tân Bình, huyện Dĩ An, 
Bình Dương với tổng số vốn đầu tư là 12 triệu USD trên diện tích rộng 16 ha. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 79
Trung tâm này ra đời bước đầu sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu về nguyên phụ 
liệu của các doanh nghiệp dệt may trong nước. 
2 - Về phía Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) 
 Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) ra đời nhằm mục đích thông qua 
các hoạt động của mình tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả 
hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành dệt may và của từng doanh 
nghiệp thành viên. Hiệp hội sẽ là đầu mối trao đổi thông tin trong và ngoài 
nước về những vấn đề kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực dệt may nhằm 
sử dụng hợp lý, tiết kiệm vốn và nâng cao khả năng cạnh tranh của từng thành 
viên Hiệp hội cũng như của toàn ngành để nhanh chóng hội nhập với khu vực 
và thế giới. Hiệp hội sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp về khoa học công nghệ, môi 
trường và về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý; bảo vệ 
và điều hoà lợi ích của từng thành viên và của ngành dệt may Việt Nam trong 
các vụ tranh chấp với đối tác nước ngoài. 
 Hiện tại, Hiệp hội đã đưa ra mục tiêu đối với ngành dệt may Việt Nam 
là phải đạt 10 - 12 tỷ USD xuất khẩu vào năm 2010. Do đó, đòi hỏi Hiệp hội 
phải đảm bảo sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp thành viên để đưa 
toàn ngành dệt may phát triển mạnh hơn nữa. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn 
về nhân lực cũng như tài chính, VITAS vẫn tích cực phấn đấu, nâng cao vai 
trò, trách nhiệm của mình hỗ trợ tích cực các hội viên, thực sự là cầu nối giữa 
Cộng đồng doanh nghiệp dệt may với các Cơ quan quản lý Nhà nước, sẵn 
sàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của hội viên. Hiệp hội phải luôn 
luôn bám sát những thắc mắc, trăn trở, nguyện vọng, đề xuất của các doanh 
nghiệp, kịp thời phản ánh lên các cơ quan quản lý Nhà nước để tháo gỡ, đồng 
thời Hiệp hội tích cực tham gia vào việc xây dựng chính sách, chiến lược phát 
triển ngành cùng Bộ Công Thương, xây dựng cơ chế quản lý xuất nhập khẩu 
hàng dệt may với các tiêu chí rõ ràng, minh bạch, bình đẳng, giảm bớt các thủ 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 80
tục phiền hà cho doanh nghiệp. Điển hình là việc áp thuế nhập khẩu xơ sợi 
tổng hợp là 5% của Bộ Tài Chính sau nhiều lần làm việc và trình bày, mức 
thuế đã giảm xuống còn 3%. 
 Hiệp hội nên tổ chức nhiều chương trình xúc tiến thương mại, các 
chương trình khảo sát thị trường, tham gia các hội chợ triển lãm trong và 
ngoài nước để xây dựng và quảng bá hình ảnh, thương hiệu của ngành, của 
doanh nghiệp và của sản phẩm dệt may Việt Nam, phối hợp với Tập đoàn dệt 
may Việt Nam (Vinatex) tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, kêu gọi đầu 
tư. Do thực hiện cam kết không trợ cấp cho các hoạt động xuất khẩu nên việc 
thực hiện các chương trình khảo sát, tham gia hội chợ còn gặp nhiều khó 
khăn. Trong năm 2006, Hiệp hội đã triển khai 8 chương trình xúc tiến thương 
mại quốc gia với tổng kinh phí hỗ trợ của Nhà nước là 925.420 USD. Theo dự 
kiến, trên 130 doanh nghiệp và 15 chi hội dệt may trong toàn quốc sẽ tham 
gia các chương trình khảo sát, xúc tiến thành lập văn phòng đại diện kết hợp 
với trung tâm giới thiệu sản phẩm dệt may tại CHLB Đức, tham gia Hội chợ 
Magic Show tại Las Vegas (Hoa Kỳ), kết hợp với khảo sát thị trường, hội chợ 
thời trang CPD tổ chức tại Duseldossf (CHLB Đức), khảo sát thị trường Tây 
Ban Nha, tham dự triển lãm tại Hong Kong, Đài Loan. 
 Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh các cụm công nghiệp dệt may 
như: nhà máy dệt nhuộm Yên Mỹ, khu liên hợp dệt nhuộm Hoà Khánh, khu 
công nghiệp Phố Nối, Khu công nghiệp Nhơn Trạch, Khu công nghiệp Bình 
An, theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và 
phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới 
tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc lên 50% vào năm 2010, giảm 
tỷ lệ gia công. 
 Cũng như các ngành kinh tế khác, ngành dệt may Việt Nam ngày càng 
hội nhập sâu và đầy đủ với các nền kinh tế khu vực và thế giới, chịu sự chi 
phối bởi các luật lệ chung, cho nên công tác đối ngoại là hết sức cần thiết, bởi 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 81
vậy, Hiệp hội phải tích cực tham gia vào các tổ chức dệt may quốc tế như: 
Liên đoàn Dệt may ASEAN, Hội các nước xuất khẩu dệt may châu Á - Thái 
Bình Dương, Liên đoàn may mặc châu Á; tham gia các hội nghị hội thảo quốc 
tế về dệt may, tham gia vào các dự án do nước ngoài tài trợ như Dự án 
VIE61/94 về xây dựng Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam...; tích 
cực tham gia cuộc vận động phản đối chương trình giám sát và tự khởi xướng 
điều tra chống bán phá giá hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. 
 Đào tạo nguồn nhân lực là nhiệm vụ và yêu cầu cấp bách hiện nay để 
nâng cao trình độ và năng lực cạnh tranh của ngành dệt may trong thương mại 
quốc tế. Hiệp hội đã cử nhiều cán bộ của các doanh nghiệp hội viên sang học 
tập về kỹ thuật, quản lý... tại Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan, bổ sung kiến thức 
cho các nhà thiết kế thời trang... nhưng hiện tại do kinh phí còn hạn chế nên 
còn nhiều kế hoạch đào tạo của Hiệp hội không thực hiện được. 
3 - Về phía doanh nghiệp 
 Đối với doanh nghiệp dệt may thì nhiệm vụ cơ bản hàng đầu là nâng 
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Sau khi gia nhập 
WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài, và phải chấp 
nhận cạnh tranh với họ bằng chất lượng và giá cả sản phẩm. Chất lượng sản 
phẩm luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với khách hàng khi lựa chọn sản 
phẩm. Nhiều khi do hạn chế về khả năng thanh toán thì khách hàng sẽ lựa 
chọn sản phẩm rẻ nhưng thực chất trong thâm tâm họ vẫn mong muốn có 
được sản phẩm chất lượng tốt. Chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao vị thế 
của sản phẩm, giữ được khách hàng lâu hơn bất cứ yếu tố nào khác. Mặt khác, 
hiện tại Việt Nam không thể cạnh tranh được với các mặt hàng cấp thấp của 
Trung Quốc hay Ấn Độ. Do đó, tập trung vào chất lượng sản phẩm là xu 
hướng chính của ngành dệt may Việt Nam. Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã 
kêu gọi các thành viên tập trung vào việc gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 82
để nâng cao năng lực cạnh tranh từ đó có thể đối mặt với việc những nhãn 
hiệu lớn của nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Thực chất, dòng 
hàng cao cấp có chất lượng cao hiện chưa mang lại hiệu quả cao ở Việt Nam 
do mức thu nhập của người tiêu dùng còn hạn chế. Song điều đó không có 
nghĩa là các doanh nghiệp cứ ngồi chờ cho đến khi nhu cầu lớn và hàng may 
mặc nước ngoài tràn lan trong thị trường nội địa thì mới bắt đầu lo. Tại thị 
trường nội địa chúng ta cũng đã có những nhãn hiệu cao cấp như: Viettien, 
Vie Laross, Vee Sendy, T-up của công ty may Việt Tiến, Sanding, Besosi của 
công ty May Sài gòn 2 hoặc các sản phẩm đắt tiền của công ty May 10. 
 Tạo nhãn hàng cao cấp, chất lượng cao cũng là cách tạo nên giá trị 
thương hiệu - một yếu tố làm nên sức cạnh tranh của sản phẩm, giúp doanh 
nghiệp giữ vững thị phần trong nước. Theo đánh giá của các chuyên gia, 
ngành may Việt Nam trước kia chưa có những thương hiệu đủ mạnh để có thể 
làm chủ sân nhà. Nhưng giờ đây, sức mạnh của thương hiệu là cứu cánh cho 
các doanh nghiệp may Việt Nam trước sức ép cạnh tranh sau hội nhập. Để có 
thể tạo nên thương hiệu cho sản phẩm, các doanh nghiệp phải đưa sản phẩm 
tới với khách hàng, nói cho họ những lợi ích mà sản phẩm đem lại cho khách 
hàng. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng thì 
khách hàng sẽ sử dụng sản phẩm và có khi còn giới thiệu nó tới những người 
khác. Có thể nói, chính việc chấp nhận sản phẩm để sử dụng là cách tạo nên 
thương hiệu cho sản phẩm. Song muốn xây dựng thương hiệu riêng không 
phải là dễ, vì vậy rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam sẵn sàng 
liên kết để phát triển, chứ không còn làm lẻ tẻ, đơn độc như trước. Hiện nay, 
tại thị trường trong nước và nước ngoài, hầu như mọi người đều biết tới 
thương hiệu như An Phước, May 10, Việt Tiến, May Nhà Bè, May 28, Dệt 
Phong Phú, Dệt Thành Công... đây là những công ty chủ yếu cung cấp dòng 
sản phẩm áo sơmi sang trọng cho khách hàng. Tuy nhiên, việc tạo dựng 
thương hiệu đã khó nhưng việc giữ vững thương hiệu đó trong tâm trí của 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 83
khách hàng lại càng khó khăn hơn. Các doanh nghiệp phải đầu tư tiền bạc 
công sức vào việc duy trì thương hiệu cho những sản phẩm đã có mặt trên thị 
trường, đồng thời phải tìm tòi nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để đưa ra các 
dòng sản phẩm mới, chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn để củng cố thương 
hiệu của doanh nghiệp vững chắc hơn. Mẫu mã kiểu dáng thực sự là vấn đề 
không hề đơn giản. Cái này không chỉ cứ bỏ tiền ra là có được mà nó phụ 
thuộc vào tính sáng tạo của con người. Về điều này thì người Việt Nam không 
hề thiếu. Người dân Việt Nam vốn được biết tới là những người có đầu óc 
thông minh, đã tạo ra rất nhiều dấu ấn trong nhiều lĩnh vực. Thế nhưng nếu đi 
so sánh với những mặt hàng của Trung Quốc về mẫu mã kiểu dáng sản phẩm 
thì chắc chắn phần thua sẽ thuộc về chúng ta. Hàng hoá của Trung Quốc mà 
đặc biệt là sản phẩm may mặc có mẫu mã vô cùng đa dạng và phong phú, phù 
hợp với những sở thích thay đổi liên tục của người tiêu dùng. Trong khi đó, 
thời trang Việt Nam mới chỉ dừng lại ở thời trang biểu diễn, ấn tượng, mang 
đậm màu sắc thương hiệu, còn thời trang ứng dụng mới chính là thời trang 
chuyên nghiệp, được sự đón nhận của người tiêu dùng thì hoàn toàn chưa có 
tiếng nói tại thị trường trong nước. Không những thế, đội ngũ thiết kế vải còn 
là khá xa lạ trong ngành thời trang may mặc Việt Nam. Chính việc thiếu đội 
ngũ này đã dẫn đến chất liệu vải nghèo nàn, chỉ xoay quanh chất liệu gấm., 
thổ cẩm, lụa, nhung... Nhiệm vụ của các doanh nghiệp lúc này là thành lập 
Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao 
cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị thời trang, tổ trưởng - 
chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu; 
thường xuyên tổ chức các cuộc thi thiết kế để tìm kiếm những nhân tài còn 
chưa nổ rộ. Bên cạnh đó, cũng cần hợp tác với các hãng thời trang nổi tiếng 
để đầu tư vào khâu thiết kế, chuyển nhượng quyền thương hiệu, tạo ra những 
sản phẩm mang tính khác biệt, vượt trội, đẳng cấp cao hơn. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 84
 Giá cả cũng đang là một vấn đề nan giải. Như chúng ta đã biết, giá cả 
sản phẩm may mặc của Việt Nam vẫn cao hơn so với sản phẩm cùng loại của 
nhiều nước khác. Nguyên nhân chính là do chúng ta chưa chủ động được 
nguồn nguyên phụ liệu. Việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài phải 
chịu chênh lệch tỷ giá và thuế nhập khẩu đã đẩy mức giá hàng may mặc lên 
cao, Ngoài ra, giá các dịch vụ công cộng ở Việt Nam cũng cao hơn so với 
nhiều nước như: giá điện (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với 
các nước trong khu vực), nước, Internet... Để giảm giá thành sản phẩm, các 
doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm 
chi phí sản xuất cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong 
sản xuất, chia sẻ giữa các doanh nghiệp các chi phí tiếp thị, chi phí thông tin 
thị trường. Triệt để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh 
nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex). Và một nhiệm vụ quan 
trọng là phải phối hợp với Nhà nước và Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) 
để đầu tư phát triển các vùng nguyên phụ liệu dệt may, đáp ứng nhu cầu của 
đông đảo các doanh nghiệp sản xuất dệt may trong cả nước. 
 Theo ông Lê Quốc Ân, chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, sản phẩm 
dệt may sẽ tăng được giá trị khi kèm theo nó sự sáng tạo và dịch vụ hoàn hảo. 
Ông kêu gọi các doanh nghiệp Việt Nam phải tự biến mình thành nhà sản 
xuất, thiết kế chứ không nên là người gia công, và giá cả đối với sản phẩm dệt 
may không phải là yếu tố quyết định. Do đó, các doanh nghiệp phải chú trọng 
vào việc phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường nội địa và mở 
rộng thị trường xuất khẩu. Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) có thể là 
đầu mối tập hợp các doanh nghiệp dệt may trong cả nước để hình thành hệ 
thống cửa hàng - siêu thị kinh doanh thời trang dệt may ở cả các thành phố 
lớn lẫn các tỉnh thành khác trong cả nước. Hiện nay, thị trường xuất khẩu 
chính của Việt Nam là Hoa Kỳ (60%). Song xuất khẩu sang thị trường này 
cũng đang gặp nhiều khó khăn. Vừa được dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch khi gia 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 85
nhập WTO thì Việt Nam lại có nguy có phải chịu biện pháp chống bán phá 
giá của Hoa Kỳ. Nếu điều này xảy ra thì hàng dệt may vào Mỹ sẽ phải chịu 
thuế chống bán phá giá, đồng thời các đối tác sẽ hạn chế đặt hàng từ Việt 
Nam do đa số các nhà kinh doanh rất ngại động chạm tới pháp luật mà đây lại 
là vấn đề liên quan đến quốc gia, liên quan đến cả ngành dệt may nội địa. Vì 
vậy, nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải điều tra, tìm hiểu những thị 
trường mới, những bạn hàng ngoài Hoa Kỳ để giảm bớt lượng hàng nhập 
khẩu vào nước này nhưng vẫn đẩy mạnh giá trị xuất khẩu của mình. Một 
phương pháp mới và hiệu quả mà chưa có nhiều doanh nghiệp dệt may sử 
dụng là sử dụng thương mại điện tử B2B và B2C. Với phương pháp này, các 
doanh nghiệp có thể tìm được những đối tác nhanh chóng ở cách chúng ta 
thậm chí là tới nửa vòng trái đất. Hiện thương mại điện tử cũng đang được 
nhiều quốc gia sử dụng trong buôn bán quốc tế và đã mang lại khá nhiều lợi 
ích. 
 Những giải pháp trên đây có thể chưa giải quyết được hết những khó 
khăn đang đặt ra với ngành dệt may Việt Nam, nhưng cũng đã góp phần đẩy 
mạnh sự phát triển của ngành này. Hiện tại, các doanh nghiệp dệt may Việt 
Nam đang tập trung nâng cao vị thế của mình bằng những sản phẩm cao cấp, 
với những chiến lược đầu tư lâu dài nhằm xây dựng thương hiệu, lập kênh 
phân phối và tìm đối tác trực tiếp từ nước ngoài… 
KẾT LUẬN 
 Dệt may là ngành công ngiệp quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. 
Trong nhiều năm qua, ngành dệt may đã có những bước tăng trưởng nhanh 
chóng, đóng góp đáng kể vào nền kinh tế đất nước. Từ năm 2000 đến nay, 
ngành dệt may Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng bình quân trên 20/năm, thu 
hút gần 2 triệu lao động, đóng góp 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả 
nước. Tính tới tháng 9/2007, dệt may đã “vượt mặt” dầu khí trở thành ngành 
có kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong cả nước. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 86
 Tháng 11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức 
Thương mại thế giới (WTO), có rất nhiều cơ hội và thách thức đặt ra đối với 
nền kinh tế cũng như với riêng ngành dệt may. Trong đó, phải đặc biệt kể tới 
sức ép cạnh tranh từ “người láng giềng khổng lồ” - Trung Quốc, nước sản 
xuất, xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Xét về mọi mặt, Trung Quốc đang 
chiếm thế thượng phong so với chúng ta. Song, các doanh nghiệp dệt may 
Việt Nam phải hiểu một điều là cạnh tranh chính là động lực để tồn tại và 
phát triển. Chính sức ép cạnh tranh của Trung Quốc sẽ là đòn bẩy thúc đẩy 
ngành dệt may Việt Nam. Vấn đề là ngành dệt mayViệt Nam có biết tận dụng 
những ưu thế của đất nước mình để đưa ra giải pháp khắc phục những thách 
thức đang đặt ra hay không. Và doanh nghiệp cũng không đứng ngoài vòng 
xoáy đó. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình chiến lược 
trong bối cảnh mới, đồng thời liên kết lại để tăng sức cạnh tranh, đầu tư mạnh 
mẽ vào các giải pháp gia tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ trong 
đó đặc biệt chú trọng đến khâu thiết kế thời trang và xây dựng thương hiệu. 
 Trên đây là những nhận xét của em về ngành dệt may Việt Nam và khả 
năng cạnh tranh với Trung Quốc. Do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn 
hạn chế nên bài viết còn sơ sài nhiều thiếu sót mong các thầy cô giáo chỉ bảo 
thêm. 
 Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Từ Thuý Anh đã 
tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. 
Em xin chân thành cảm ơn 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. GS. PTS. Tô Xuân Dần, PTS . Vũ Chí Lộc, Giáo trình “Quan 
hệ kinh tế quốc tế, 1999. 
2. GS. TS. Bùi Xuân Lưu, Giáo trình “Kinh tế ngoại thương”, 
2002. 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 87
3. Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ II (2002 - 2006) và phương 
hướng hoạt động nhiệm kỳ III (2007 - 2010) của Ban chấp hành 
Hiệp hội dệt may Việt Nam. 2007. 
4. Bộ Thương mại, Xuất khẩu sang EU. Những điều cần biết. 
5. Bộ Công nghiệp, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công 
nghiệp dệt may Việt Nam đến 2010 
6. Bộ Thương mại, Bản tin Thông tin Thương mại, só ra ngày 
16/01/2006 và 13/08/2007. 
7. Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, Tổng hợp 
tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu hàng dệt may của Trung 
Quốc. 
8. Bản tin xuất nhập khẩu, số 6 ra ngày 27/11/2006. 
9. Báo Kinh tế Việt Nam 
10. Thuỷ Hoài, “Tự cứu chính mình”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 - 31 tháng 
7)2006, trang 37. 
11. Tàng Long, “Bước đi của người khổng lồ”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 - 
31 tháng 7)2006, trang 40. 
12. Nguyên Nga, “Doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ trước thềm 
hội nhập: được nhiều hơn mất”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 - 31 tháng 
7)2006, trang 39. 
13. Hồng Nhung, “Bỏ ưu đại dệt may, sức ép cạnh tranh sẽ mạnh 
hơn”, Tạp chí Thương mại số 26/2006, trang 27. 
14. Th.S Phạm Hữu Thìn, Vụ Chính sách TTTN - BTM, “Chính 
sách thu hút đầu tư nước ngoài trong phân phối hàng hoá nội 
địa của Trung Quốc – Trước và sau khi gia nhập WTO”, Tạp 
chí Thương mại số 30/2006, trang 15. 
15. Th.S. Nguyễn Thị Tú, Học viện Tài Chính, “Nhân tố cấu thành 
sức cạnh tranh của hàng dệt may trên thị trường Hoa Kỳ”, Tạp 
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. 
Cơ hội và thách thức. 
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 88
chí Thương mại số 28/2007, trang 6 và Tạp chí thương mại số 
29/2007, trang 
16. Trần Trong Tú, “Tương lai ngành dệt may”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 
- 31 tháng 7)2006, trang 35. 
17. Các Website: 
- www.mot.gov.org 
- www.mofa.gov.vn 
- www.moi.gov.vn 
- www.mpi.gov.vn 
- www.mof.gov.vn 
- www.vasep.com.vn 
- www.nld.com.vn 
- www.vnexpress.vn 
- www.techmartvietnam.com.vn 
- www.vietnamnet.vn 
- www.vinatex.com 
- www.may10.com.vn 
- www.viettien.com.vn 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
3649_7887.pdf