Tháng 11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), có rất nhiều cơ hội và thách thức đặt ra đối với
nền kinh tế cũng như với riêng ngành dệt may. Trong đó, phải đặc biệt kể tới
sức ép cạnh tranh từ “người láng giềng khổng lồ” - Trung Quốc, nước sản
xuất, xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Xét về mọi m ặt, Trung Quốc đang
chiếm thế thượng phong so với chúng ta. Song, các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam phải hiểu một điều là cạnh tranh chính là động lực để tồn tại và
phát triển. Chính sức ép cạnh tranh của Trung Quốc sẽ là đòn bẩy thúc đẩ y
ngành dệt may Việt Nam . Vấn đề là ngành dệt mayViệt Nam có biết tận dụng
những ưu thế của đất nước mình để đưa ra giải pháp khắc phục những thách
thức đang đặt ra hay không. Và doanh nghiệp cũng không đứng ngoài vòng
xoáy đó. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình chiến lược
trong bối cảnh mới, đồng thời liên kết lại để tăng sức cạnh tranh, đầu tư mạnh
mẽ vào các giải pháp gia tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ trong
đó đặc biệt chú trọng đến khâu thiết kế thời trang và xây dựng thương hiệu.
90 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2515 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc. Cơ hội và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lần lượt tăng trưởng là 6,5% và 6%, mặt hàng tơ
giảm 25%. Trong thành phần hàng dệt, xuất khẩu mặt hàng gia dụng tăng
10,2%.
Số lượng hàng may mặc (bao gồm cả hàng dệt thoi lẫn dệt kim) trong 4
tháng đầu năm 2007 đạt 9,11 tỷ chiếc (bộ), tăng 8,4%; tốc độ tiếp tục giảm so
với thời gian trước. Đơn giá xuất khẩu bình quân là 2,76 USD/chiếc (bộ), tăng
11%, tương đương với cuối quý I năm 2007. Trong đó, đơn giá mặt hàng dệt
thoi tăng 6,8%, mặt hàng dệt kim tăng 15,2%; trong khi đó đơn giá xuất khẩu
sang Mỹ giảm 2,2%. Đơn giá hàng sợi xuất ra thị trường quốc tế giảm 8%,
đơn giá xuất khẩu vải nguyên liệu về cơ bản giữ được mức tăng nhẹ.
2.2.4 - Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng đều tăng.
Từ tháng 1 - 4/2007, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt của Trung Quốc
đạt 5,17 tỷ USD, tăng 5,2%. Kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc đạt 550
triệu USD, tăng 5,7%. Tốc độ nhập khẩu hàng dệt, may về cơ bản thống nhất
với nhau. Trong hàng may mặc, nhập khẩu hàng dệt kim tăng 6,2%, hàng dệt
thoi tăng 4,5%. Trong đó nhập khẩu hàng len tăng nhanh nhất, với mức tăng
gần 34,4%. Hàng lông thú tăng 60,3%. Đơn giá hàng may mặc nhập khẩu
(bao gồm cả hàng dệt kim lẫn dệt thoi) có mức tăng chung là 28,1%. Nhập
khẩu 0,6 triệu tấn sợi với trị giá 1,47 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu tăng lên
với mức tăng nhẹ là 0,3%. Vải nguyên liệu nhập khẩu đạt 2,73 tỷ, tăng 6,7%.
2.3 - Tình hình điều chỉnh chính sách thuế xuất khẩu
Trong tháng 6/2007, Bộ Tài Chính, Tổng cục thuế, Bộ Thương mại,
Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã công bố “Thông tư giảm tỷ lệ hoàn thuế
xuất khẩu đối với một bộ phận hàng hoá”. Theo thông tư này, quy định từ
1/7/2007 tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu hàng may mặc giảm xuống còn 11%.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 63
Mục đích của việc điều chỉnh chính sách hoàn thuế xuất khẩu lần này
nhằm: khống chế thêm một bước tăng trưởng quá nhanh trong xuất khẩu hàng
hoá, giải quyết mâu thuẫn nổi trội phát sinh do xuất siêu quá lớn mang lại,
làm tốt cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, khống chế xuất khẩu các mặt hàng “tiêu
hao năng lượng nhiều, gây ô nhiễm cao, mang tính tài nguyên”, thúc đẩy thay
đổi phương thức tăng trưởng ngoại thương và cân bằng xuất nhập khẩu, giảm
thiểu cọ sát thương mại, thúc đẩy chuyển biến phương thức tăng trưởng kinh
tế và duy trì phát triển kinh tế xã hội.
III – Tƣơng quan về khả năng cạnh tranh giữa hàng dệt may
Việt Nam và Trung Quốc
Trung Quốc là đầu tầu kinh tế của châu Á, là nước có công vực dậy nền
kinh tế khu vực. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt
mức tăng trưởng tương đối cao, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,1%, nhập khẩu
tăng 40% và tiếp nhận 50% hàng xuất khẩu của châu Á. Tuy nhiên, sự tăng
trưởng quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc cũng đặt ra những thách thức
không nhỏ cho những nền kinh tế mới nổi trong khu vực ví dụ như Việt Nam.
Rất nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ lớn
trước sực ép cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc.
Hàng hoá Trung Quốc có thể chia thành hai loại. Một loại hàng hoá có
hàm lượng lao động cao, đơn giản như dệt may, da giày và một loại là hàng
hoá có hàm lượng công nghệ cao vừa có lao động giản đơn vừa có lao động
lành nghề như điện tử dân dụng. Hiện nay, Trung Quốc có sức cạnh tranh rất
lớn ở cả hai loại hàng này, trong khi đó Việt Nam chỉ có ở loại thứ nhất còn
loại thứ hai thì Việt Nam chưa thể cạnh tranh với Trung Quốc. Việt Nam đang
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của Trung Quốc ngay trên một số thị trường
quan trọng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và cả ASEAN.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 64
Dệt may hiện là một trong số những sản phẩm cạnh tranh chính giữa
Việt Nam và Trung Quốc do ngành dệt may của Viêt Nam đang phát triển với
tốc độ cao có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu trong số những mặt hàng chủ lực
của Việt Nam, trong khi Trung Quốc lại là nhà sản xuất, xuất khẩu hàng dệt
may lớn nhất thé giới, chiếm khoảng 50% thị phần dệt may toàn cầu. Có thể
nói, ngay sau khi gia nhập WTO Trung Quốc đã nhanh chóng tạo nên những
cơn sóng thần trên thị trường dệt may thế giới.
1 – Những điểm tƣơng đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc
Thực tế thì cả Việt Nam và Trung Quốc đều có những điều kiện thuận
lợi để phát triển ngành dệt may.
- Thứ nhất, dệt may là ngành sản xuất truyền thống lâu đời ở cả hai
nước. Cách đây cả ngàn năm, con đường tơ lụa đã lưu dấu một bước
phát triển kinh ngạc của Trung Quốc. Năm 1949, Trung Quốc có gần
180.000 xưởng dệt tư nhân với xấp xỉ 800.000 công nhân và 8.000
chuyên gia kỹ thuật. Dệt may nhanh chóng đã trở thành một trong
những ngành ưu tiên phát triển của Chính phủ Trung Quốc. Trong khi
đó, ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam cũng đã được đầu tư phát
triển ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20. Với sự giúp đỡ của các nước
anh em và bạn bè quốc tế, chúng ta đã cải tạo và xây dựng được hàng
loạt nhà máy dệt may có công suất lớn như: Dệt 8 - 3, Dệt Vĩnh Phú,
Dệt kim Đông Xuân, Dệt Nam Định, May 10, May Thăng Long. Hiện
nay, Chính phủ hai nước đều rất chú trọng phát triển ngành này, nhiều
chính sách hỗ trợ ngành dệt may đã được thực hiện.
- Thứ hai, cả Trung Quốc và Việt Nam đều được xếp vào danh sách
những nước có dân số đông nhất trên thế giới với khoảng 1,8 tỷ dân của
Trung Quốc và hơn 85 triệu dân của Việt Nam cung cấp một lượng lớn
lao động cho ngành dệt may của mỗi nước. Đây là một lợi thế trong
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 65
ngành dệt may mà không phải nước nào cũng có được. Đồng thời, dân
số đông chính là một thị trường tiêu thụ nội địa lớn cho ngành may
mặc. Hiện nay, 2/3 sản lượng hàng dệt may của Trung Quốc chủ yếu là
để phục vụ thị trường trong nước. Còn ở Việt Nam, Nhà nước và Chính
phủ đã xác định các doanh nghiệp trong nước phải dùng thị trường nội
địa làm căn bản, thị trường xuất khẩu là động lực phát triển của ngành
dệt may. Năm 2006, tổng tiêu thụ nội địa ước đạt 1,8 tỷ USD, trong khi
xuất khẩu dệt may đạt gần 6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trong tiêu thụ
nội địa đạt khoảng 15%/năm. Hiện tại mối quan tâm của nhiều doanh
nghiệp dệt may là làm thế nào để chiếm lĩnh thị trường dệt may nội địa
trước cuộc “đổ bộ” của nhiều nhãn hiệu thời trang danh tiếng của nước
ngoài vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là hàng thời trang của Trung
Quốc.
- Thứ ba, Việt Nam và Trung Quốc đều đã trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này sẽ tạo ra nhiều
cơ hội phát triển cho nền kinh tế của cả hai nước. Những rào cản trong
ngành dệt may được xoá bỏ sẽ tạo điều kiện cho các sản phẩm của hai
nước thâm nhập vào các thị trường nước ngoài dễ dàng hơn.
- Thứ tư, Việt Nam và Trung Quốc có ý thức hệ giống nhau, cùng chung
chủ trương xây dựng CNXH theo hoàn cảnh mỗi nước. Theo điều tra
của Liên hợp quốc, đây là hai quốc gia ổn định, an toàn nhất trên thế
giới, do đó ngày càng có nhiều nhà đầu tư tìm tới đây kinh doanh buôn
bán.
2 – Những điểm khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá trình
phát triển ngành dệt may
Mặc dù có rất khá nhiều điểm chung nhưng giữa hai nước vẫn tồn tại
nhiều điểm khác biệt tác động không nhỏ tới ngành dệt may của hai nước.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 66
Theo nhận định của các chuyên gia thì hiện tại hàng dệt may của Trung Quốc
vẫn có lợi thế hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn hàng dệt may của Việt
Nam.
2.1 - Về chất lượng sản phẩm và kiểu cách mẫu mốt.
Theo đánh giá của Uỷ Ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), Trung
Quốc được lựa chọn là nguồn cung ứng số một của hầu hết các nhà nhập khẩu
dệt may Hoa Kỳ vì nước này có khả năng sản xuất hầu như tất cả các loại sản
phẩm dệt may ở mọi cấp độ chất lượng với giá cạnh tranh. Các sản phẩm dệt
may mang thương hiệu Trung Quốc đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu
mã, với nhiều cấp độ chất lượng, ở các mức giá khác nhau đã có mặt ở khắp
mọi nơi trên thế giới. Người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn các mặt hàng phù
hợp với sở thích và khả năng thanh toán của khách hàng. Đa dạng hoá sản
phẩm đã mang lại lợi nhuận rất lớn cho Trung Quốc. Song Trung Quốc cũng
phải tính tới trường hợp để giảm thiểu rủi ro do phải mua hàng từ một nước
duy nhất, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ cũng có kế hoạch mở rộng quan hệ
thương mại với những nước có giá thấp khác, đặc biệt là Ấn Độ. Còn về phần
Việt Nam, như chúng ta đã biết, hàng dệt may của nước ta từ trước tới nay
vẫn được biết tới là mặt hàng có chất lượng cao. Tuy nhiên, hàng dệt may
của Việt Nam vẫn chỉ tập trung ở một số chủng loại nhất định như quần, áo
jacket, áo thun, áo sơmi...với mẫu mã nghèo nàn, mà vẫn chưa sản xuất được
những sản phẩm hàng cao cấp đòi hỏi kỹ thuật cao như veston. Những sản
phẩm được coi là sản phẩm cao cấp của Việt Nam thực chất chỉ tập trung vào
chất lượng hoặc cao lắm là thương hiệu nhằm phục vụ cho một phân khúc tiêu
dùng riêng biệt cụ thể nào đó. Trong khi đó, một sản phẩm được coi là hàng
cao cấp đúng nghĩa phải đảm bảo 3 yếu tố: sản xuất, thương hiệu, phân phối.
Nếu tình trạng này kéo dài lâu thì hàng dệt may Việt Nam sẽ nhanh chóng
chịu thát bại trước sự cạnh tranh ngày càng tăng của Trung Quốc.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 67
2.2 - Về nguyên phụ liệu.
Theo đánh giá của các chuyên gia, sản phẩm dệt may của Việt Nam
chưa cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc một phần là vì Việt Nam
chưa có hoặc chưa phát triển ngành nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, 70%
nguyên phụ liệu của Việt Nam là nhập khẩu từ nước ngoài. Nếu ai đó sang
Trung Quốc và đến các trung tâm hoặc chợ nguyên phụ liệu sẽ thấy rằng
ngành sản xuất nguyên phụ liệu của Trung Quốc cực kỳ phát triển không dễ
gì quốc gia nào có thể có được. Trong khi đó ở Việt Nam hiện giờ mới đang
đi vào xây dựng một trung tâm nguyên phụ liệu dệt may đầu tiên tại Bình
Dương. Chính việc không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu đã gây ảnh
hưởng không nhỏ tới năng lực sản xuất của ngành dệt may. Phần lớn các
doanh nghiệp dệt may của Việt Nam là làm gia công cho nước ngoài, lợi
nhuận thu được thấp, không có khả năng phát huy sáng tạo trong việc thiết kế
mẫu mã kiểu dáng. Thử lấy một ví dụ về nguyên liệu tơ tằm của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Tổng công ty Dâu tằm Việt Nam, diện tích dâu tằm
của Việt Nam vào khoảng 25.000 ha, đứng hàng thứ hai thế giới chỉ sau
Trung Quốc. Về lý thuyết, với diện tích trồng dâu như vậy, Việt Nam có thể
trở thành một trung tâm sản xuất kén, tơ nguyên liệu có hạng. Thế nhưng,
hiện chúng ta vẫn phải nhập tơ sống từ Trung Quốc để se tơ và dệt lụa với số
lượng trên 200 tấn/năm. Đây lại là một nghịch lý nữa trong vấn đề nguyên
liệu trong ngành dệt bởi nghề trồng dâu, nuôi tằm từ xưa tới nay vẫn được coi
là một ngành truyền thống của dân tộc ta.
2.3 - Về giá các sản phẩm dệt may.
Theo Bộ Công Thương, hầu hết các chủng loại hàng dệt may của Việt
Nam xuất khẩu đều có giá cao hơn 5-7%, thậm chí là 10% so với hàng cùng
loại của Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh. Cụ thể, đối với cat 338/339 (áo
sơmi dệt kim cotton) đơn giá trung bình thực hiện tại Việt Nam là 5,79 - 8,2
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 68
USD/m
2
, trong khi đó ở Trung Quốc là 4,68 - 5,84 USD/m2. Nguyên nhân
chính là do Việt Nam chưa chủ động được nguyên phụ liệu, đa số phải nhập
từ nước ngoài nên đã đẩy giá thành phẩm lên cao hơn. Trong khi đó, Trung
Quốc lại được coi là quốc gia sản xuất rẻ nhất thế giới. Không chỉ riêng mặt
hàng may mặc mà ở tất cả các mặt hàng từ những hàng có hàm lượng kỹ thuật
thấp cho tới những mặt hàng công nghệ cao, Trung Quốc đều có thể sản xuất
được với chi phí thấp hơn nhiều so với những đối thủ của mình. Ở cả những
nước nghèo, đang phát triển hay những trung tâm mua sắm của thế giới như
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Italy... hàng may mặc của Trung Quốc đã
chiếm lĩnh phần lớn thị trường. Nếu bạn muốn những bộ quần áo giá rẻ, có
rất nhiều sản phẩm với mẫu mã phong phú đa dạng có xuất xứ từ Trung Quốc
để cho bạn lựa chọn. Còn nếu bạn muốn những mặt hàng chất lượng cao, mẫu
mã đẹp thuộc loại “hàng hiệu”, bạn có thể tìm thấy những sản phẩm do Trung
Quốc sản xuất tại những trung tâm thương mại lớn, hiện đại của New York,
London, Tokyo, Paris, Milan... Mục tiêu mà Trung Quốc đặt ra là đảm bảo tất
cả mọi người kể cả người có thu nhập cao hay có thu nhập thấp đều có thể tìm
được sản phẩm mình mong muốn
2.4 - Về giá lao động.
Từ trước tới nay Việt Nam vẫn được coi là có lợi thế về nguồn nhân
công giá rẻ. Giá lao động tại Việt Nam vào loại thấp nhất trong khu vực (3
USD/ giờ), nhờ đó làm cho chi phí sản xuất hàng may mặc của Việt Nam
cũng thấp hơn nhiều nước khác. Tuy nhiên, theo nhận định của Chủ tịch Hội
tư bản công nghiệp trẻ Hoa Kỳ, trong vòng 30 - 50 năm tới nguồn nhân công
giá rẻ sẽ không còn là yếu tố mang tính quyết định đối với nhà đầu tư.
Như vậy, có thể nói, các sản phẩm dệt may của Việt Nam đang thua
kém Trung Quốc về nhiều mặt.Và đặc biệt tình hình sẽ càng xấu đi khi Hoa
Kỳ bãi bỏ hàng rào hạn chế nhập khẩu (còn gọi là biện pháp tự vệ) đối với
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 69
hàng dệt may Trung Quốc vào năm 2008. Khi đó, Trung Quốc sẽ được tự do
xuất khẩu trở lại và ngành dệt may của Việt Nam sẽ phải chịu một sức ép
mạnh hơn bao giờ hết.
Có thể nói, trong vòng một vài năm tới Trung Quốc vẫn sẽ là nước sản
xuất, xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới, là đối thủ cạnh tranh lớn của nhiều
quốc gia trên cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Nếu không có những chiến
lược giải pháp cụ thể để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may nước
mình thì các quốc gia trong đó có Việt Nam sẽ rất dễ bị hàng Trung Quốc loại
khỏi những thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và bị lấn át tại ngay
chính thị trường nội địa.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 70
CHƢƠNG III
Cơ hội và thách thức.
Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam.
I – Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam kể từ
khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thƣơng mại thế giới (WTO).
1 – Cơ hội
- Tháng 11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), khi đó Việt Nam sẽ nhận được những
ưu đãi dành riêng cho nhưng nước thành viên của WTO và ngành dệt
may của Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu do được
bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với các nước thành viên theo quy định
của Hiệp định dệt may ATC.
- Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút dòng đầu tư trực tiếp và
gián tiếp từ nước ngoài, đặc biệt là vào ngành dệt may để phát triển
nguồn nguyên liệu bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm…
nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hoá; thu hút được dòng đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực hạ tầng như đường xá, giao thông, hạ tầng viễn thông,
ngân hàng… tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành
dệt may phát triển hơn nữa. Nhờ đó mà nguồn nhân lực cũng sẽ được
cải thiện. Các doanh nghiệp dệt may có điều kiện tiếp cận và đào tạo
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 71
mạnh hơn lực lượng chuyên gia về công nghệ, thị trường, tài chính từ
nước ngoài.
- Thị trường nội địa sẽ có 100 triệu dân vào năm 2015 sẽ làm cho sức
mua hàng dệt may tăng trưởng cao (khoảng 15% mỗi năm). Đây là cơ
hội lớn dành cho Việt Nam khi thực hiện Chiến lược phát triển ngành
dệt may đó là chú trọng thị trường nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Theo Uỷ ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC), các
sản phẩm dệt may của Trung Quốc đang mất dần khả năng cạnh tranh
trên thị trường. Đây chính là cơ hội để ngành dệt may Việt Nam phát
triển. Nguyên nhân là do các vụ kiện chống bán phá giá của các đối tác
thương mại tiến hành đối với hàng dệt may Trung Quốc. Hiện tại, Hoa
Kỳ đã áp dụng trở lại các hạn ngạch đối với một số chủng loại hàng của
Trung Quốc làm tỷ trọng tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước
này kém hơn. Năm 2005, khi hạn ngạch được bãi bỏ với Trung Quốc,
hàng dệt may của nước này vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh chóng,
tăng 56,8% so với năm trước. Ngay lập tức sau đó, Hoa Kỳ đã áp đặt
biện pháp tự vệ làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc
rơi vào tình cảnh khốn đốn, gây nên thiệt hại không nhỏ, do hàng đã
sản xuất mà không xuất khẩu được, dẫn tới hàng trăm ngàn nhân công
thất nghiệp. Đây có thể là một bài học lớn đối với dệt may Việt Nam
sau khi gia nhập WTO. Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu chính nhưng
phải biết đa dạng hoá thị trường, nếu chỉ tập trung vào thị trường Hoa
Kỳ thì khả năng Việt Nam bị Hoa Kỳ áp dụng biện pháp tự vệ là rất lớn
vì hiện tại Việt Nam cũng đang nằm trong “tầm ngắm” của các biện
pháp giám sát của Chính phủ Hoa Kỳ. Ngoài ra, Trung Quốc đang thực
thi chính sách giảm tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với một bộ phận hàng
hoá trong đó có hàng may mặc. Theo đó, mức bồi hoàn thuế xuất khẩu
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 72
của mặt hàng may mặc giảm xuống còn 11% sẽ làm giảm bớt xuất khẩu
của các doanh nghiệp dệt may nội địa.
2 – Thách thức
- Cái được lớn nhất của ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO là
thị trường xuất khẩu, những ngược lại các doanh nghiệp sẽ phải chia sẻ
thị trường nội địa cho các đối thủ nước ngoài. Các chính sách hỗ trợ
của Chính phủ dành cho ngành sẽ không còn và quan trọng hơn là hàng
rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng mất hết.
Cho tới trước khi Việt Nam gia nhập WTO thì hàng dệt may nhập khẩu
từ các nước ngoài ASEAN vào Việt Nam đang phải chịu thuế suất rất
cao, đến 50% với sản phẩm may mặc, 40% với hàng dệt và sản phẩm
sợi là 20%. Những hiện nay, thuế suất nhập khẩu các sản phẩm trên
không còn duy trì ở mức cao như trước nữa, mà tối đa chỉ còn 15%, là
mức chung của các thành viên WTO. Có thể thấy, các doanh nghiệp dệt
và may đang và sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn ở thị trường nội địa.
- Có một thực tế không mấy lạc quan là hiện nay ở Việt Nam, các cửa
hàng nhỏ lẻ chiếm trên 70%, còn các cửa hàng trưng bày của các công
ty dệt may lại có quy mô rất nhỏ. Về thị trường xuất khẩu, Việt Nam
chỉ xuất khẩu thông qua kênh phân phối của nước ngoài nên còn nhiều
bị động. Sau khi vào WTO, hàng dệt may nước ngoài sẽ ồ ạt nhập khẩu
vào Việt Nam với thuế suất giảm (xuống còn 15%), cộng với sự đổ bộ
của hàng loạt các công ty bán lẻ nước ngoài làm cho cạnh tranh trên thị
trường dệt may sẽ càng khốc liệt hơn và hệ thống phân phối truyền
thống có nguy cơ bị đè bẹp. Và khi đó sức ép về giá đối với sản phẩm
dệt may Việt Nam là rất lớn. Nếu không tính toán tốt chi phí sản xuất
đầu vào sẽ dẫn tới giá sản phẩm bị nâng cao khi đó chúng ta không thể
cạnh tranh và việc bị loại khỏi cuộc chơi là không thể tránh khỏi.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 73
- Ngành dệt của Việt Nam hiện tại là ngành yếu cả về vốn, công nghệ,
tiếp thị lẫn khả năng cạnh tranh và đứng ở vị trí rất thấp so với thế giới.
Sau hội nhập, thuế suất nhập khẩu chỉ còn tối đa là 15%, công thêm
mẫu mã phong phú, sản phẩm dệt nước ngoài vào Việt Nam sẽ đủ ưu
thế đánh bại ngành dệt trong nước. Nguy cơ phá sản của nhiều doanh
nghiệp dệt Việt Nam có thể nhìn thấy trong tương lai gần nến không cải
thiện ngay từ bây giờ.
- Và một thách thức không hề nhỏ đó là phải cạnh tranh với Trung Quốc,
Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh... là những cường quốc sản xuất thương
mại dệt may, đang tăng cường đầu tư phát triển và có tham vọng tăng
gấp đôi xuất khẩu của mình năm 2010. Hiện tại, Trung Quốc đang phải
chịu các biện pháp hạn chế nhập khẩu của EU và Hoa Kỳ song xuất
khẩu của nước này vào các thị trường chính vẫn ở mức cao, Trung
Quốc vẫn chi phối phần lớn thị phần dệt may thế giới. Điều này đã đưa
ra lời cảnh bào với tất cả các quốc gia sản xuất và xuất khẩu dệt may là
tình hình sẽ càng bi đát hơn vào năm 2008, khi Trung Quốc được tự do
xuất khẩu trở lại, ngành dệt may Việt Nam sẽ phải chịu một sức ép
mạnh hơn bao giờ hết.
- Hiện nay, hầu hết các rào cản thương mại, kỹ thuật quốc tế trong dệt
may đã được xoá bỏ nhưng Việt Nam vẫn phải tính đến trường hợp các
nước nhập khẩu sẽ đưa ra những biện pháp để bảo vệ cho ngành sản
xuất trong nước trước sự thâm nhập của hàng nhập khẩu mà trước mắt
là Cơ chế giám sát chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ, thị trường
chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.
II - Định hƣớng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến
năm 2010
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 74
1 - Mục tiêu chiến lƣợc
Hiện ngành dệt may được xem là ngành công nghiệp lợi thế của Việt
Nam. Theo quy hoạch điều chỉnh ngành dệt may đến năm 2015, tầm nhìn
2020 mới được Bộ Công nghiệp xây dựng, Đảng và Nhà nước đang tập trung
phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng
điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng
trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội
nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
Nhà nước và Chính phủ đặt ra nhiệm vụ cho ngành dệt may trong giai
đoạn 2007 - 2010 phải đảm bảo tăng trưởng sản xuất công nghiệp là 16 -
18%, tăng trưởng xuất khẩu hàng năm đạt 20%.
2 - Chiến lƣợc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010
Dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Dệt may đã và đang
góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, tạo công ăn việc
làm cho người dân. Do đó, phải ưu tiên phát triển theo hướng đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và
hiệu quả.
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngành may mặc
Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh vô cùng gay gắt mà đặc biệt
từ quốc gia láng giềng là Trung Quốc, nước sản xuất và xuất khẩu dệt may
lớn nhất thế giới. Việt Nam phải đưa ngành dệt may của mình phát triển, hội
nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở hợp tác với các quốc gia khác. Tăng
cường các mối liên kết, hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế
giới nhằm ổn định khách hàng, thị trường, từng bước tham gia các chuỗi liên
lết của họ.
Đại hội Hiệp hội dệt may lần thứ ba tổ chức tại Hà Nội vào ngày 25 và
26/5 đã đề ra Chiến lược phát triển ngành dệt may trong giai đoạn tới đó là
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 75
lấy thị trường trong nước làm nền tảng và coi xuất khẩu làm động lực để phát
triển. Để có thể làm được điều đó, có rất nhiều việc mà ngành dệt may phải
thực hiện. Đó là:
- Trước tiên, trên cơ sở lấy kinh tế Nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò
chủ đạo, ngành dệt may phải phát triển theo hướng đa dạng hoá sở hữu,
phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá qui mô và loại hình
doanh nghiệp. Đẩy mạnh cổ phẩn hoá các doanh nghiệp dệt may thuộc
sở hữu của Nhà nước. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư
phát triển ngành dệt may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao
động.
- Tiếp đó, phải phát triển theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá
trong ngành dệt may, đa dạng hoá các sản phẩm. Đầu tư vào công nghệ
mới, hiện đại nhằm tạo bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm, đầu tư
vào công nghệ sạch, công nghệ tiết kiệm năng lượng. Phát triển những
mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản
phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín, nhãn mác
hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm.
- Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng vì đây là điều
kiện then chốt cho sự phát triển bền vững của ngành dệt may Việt Nam
- Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may phải xây dựng Việt Nam trở thành
trung tâm thời trang của khu vực trong mối liên kết đa ngành Thương
mại - Văn hoá - Du lịch - Sản xuất thời trang.
- Và một yêu cầu đặc biệt quan trọng đặt ra với ngành dệt may Việt Nam
là phải phát triển dệt may gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch xây
dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in, nhuộm và may hoàn tất ở xa các
trung tâm đô thị lớn.
Bảng 10:
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 76
Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lƣợc phát triển dệt may giai đoạn
2007 - 2010 và định hƣớng giai đoạn 2011 - 1020
Chỉ tiêu ĐVT
Thực hiện
2006
Mục tiêu toàn ngành
2010 2015 2020
1. Doanh thu Tỷ USD 7,63 13-15 18-21 27-30
- Xuất khẩu Tỷ USD 5,83 10-12 14-16 20-22
2. Sử dụng lao
động
Triệu người 2,0 2,5 3,5 4,5
3. Sản phẩm chính
- Bông xơ 1000 tấn 10 20 40 60
- Sợi tổng hợp 1000 tấn 260 400 600
- Sợi 1000 tấn 260 350 500 650
- Vải Triệu m2 680 1.000 1.500 2.000
- Sản phẩm may Triệu SP 1.800 2.500 3.000 4.000
Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
II - Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may
Việt Nam.
1 - Về phía Nhà nƣớc và Chính phủ
Một cam kết quan trọng của Việt Nam khi gia nhập WTO đó là phải
hoàn thiện hệ thống luật pháp. Có thể nói, chính hệ thống luật pháp, các quy
định pháp luật không ổn định khiến cho các nhà đầu tư do dự khi quyết định
đến Việt Nam. Trong khi Hoa Kỳ, cường quốc kinh tế lớn nhất trên thế giới
vẫn duy trì những hệ thống luật pháp như ngay từ khi mới thành lập, nếu có
thay đổi cũng không đáng kể, thì hệ thống luật pháp của Việt Nam đã thay đổi
không ít lần. Nhiều bộ luật mới đã được sửa đổi, ban hành mới như: Luật
Thương mại, Luật Đầu tư. Luật Cạnh Tranh...gây khó khăn trong việc cập
nhật và áp dụng các bộ luật đó vào thực tế.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 77
Ngoài ra, Nhà nước và Chính phủ cần phải giảm thiểu những thủ tục
rườm rà về mặt hành chính. Nhiều nơi đã thi hành chính sách “một cửa” tạo
nhiều thuận lợi cho cả nhà kinh doanh Việt Nam lẫn nhà đầu tư nước ngoài
hạn chế những rắc rối về mặt giấy tờ thủ tục. Đồng thời, tiến tới điều hoà luật
về quyền mậu dịch, nhờ đó những thủ tục đăng ký đối với các nhà kinh doanh
trong nước và nước ngoài sẽ như nhau.
Ngay sau khi gia nhập WTO thì có một số vấn đề về chính sách đặt ra
với ngành dệt may. Từ 11/1/2007, hàng rào bảo hộ hàng sản xuất trong nước
đã giảm đến mức tối đa theo cam kết WTO, thuế nhập khẩu hàng may mặc
giảm từ 50% xuống 20%, vải từ 40% xuống còn 21%. Điều này sẽ gây khó
khăn lớn với ngành dệt may nội địa vì phải cạnh tranh quyết liệt với hàng dệt
may nhập khẩu. Không những thế, 70% nguyên phụ liệu của dệt may là nhập
khẩu từ nước ngoài, do đó chính sách tỷ giá của Chính phủ cũng ảnh hưởng
lớn tới các nhà sản xuất Việt Nam.
Trở thành thành viên của WTO thì cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp và
gián tiếp từ nước ngoài là rất lớn. Nhà nước đang rất khuyến khích các nhà
đầu tư đầu tư vào ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt để tạo nguyên phụ liệu
cho ngành may. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn nên Nhà nước phải đưa
ra những chính sách khuyến khích lớn đối với các những người đầu tư vào
lĩnh vực này, đặc biệt là vào những dự án sản xuất các sản phẩm mà hiện tại
Việt Nam vẫn chưa sản xuất được hoặc có giá trị thấp. Nhà nước có định
hướng xây dựng phát triển các cụm công nghiệp dệt may theo từng vùng. Mỗi
cụm công nghiệp xây dựng trong các khu công nghiệp quy hoạch tập trung sẽ
mang lại thuận lợi là tiết kiệm vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng
cường hợp tác giữa các doanh nghiệp, khắc phục được tình trạng đầu tư phân
tán hiệu quả thấp.
Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là yêu cầu đặt ra không chỉ
đối với ngành dệt may nói riêng mà là với tất cả các ngành kinh tế. Cổ phần
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 78
hoá không có nghĩa là Nhà nước sẽ để doanh nghiệp tự “bơi” mà vẫn hỗ trợ
gián tiếp thông qua việc đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng, cung cấp các thông
tin miễn phí cho doanh nghiệp. Thực tế, cổ phần hoá sẽ giúp các doanh
nghiệp phát triển, tăng khả năng cạnh tranh, không để thua ngay trên sân nhà.
Nếu trước kia, kiểu huy động vốn là vay thương mại hoặc từ Chính phủ thì
giờ đây và trong tương lai, phải là hình thức gọi vốn đầu tư nước ngoài và cổ
đông chiến lược. Trong giai đoạn 2006 - 2008, tập đoàn Dệt may Việt Nam
(Vinatex) sẽ cổ phần hoá tất cả doanh nghiệp thành viên và trở thành tập đoàn
có vốn đa sở hữu. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn góp phần loại bỏ
những đơn vị làm ăn kém hiệu quả và nâng cao hiệu quả quản lý doanh
nghiệp giúp doanh nghiệp dệt may có thêm sự chủ động, năng động trong sản
xuất kinh doanh, đủ sức cạnh tranh sau hội nhập. Theo dự đoán của các
chuyên gia, số doanh nghiệp dệt may ra đời hậu WTO (trong vòng một thập
kỷ tới) có thể đến 10.000, trong đó sẽ có rất nhiều doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài.
Chính phủ cũng phải có những hỗ trợ doanh nghiệp dệt may trong việc
thâm nhập thị trường nước ngoài và giúp doanh nghiệp phát triển các vùng
nguyên liệu cho ngành. Các quan chức của Chính phủ trong các chuyến công
du ra nước ngoài thường đưa các nhà kinh doanh đi theo để nghiên cứu thị
trường. Đây là một cơ hội vô cùng thuận lợi vì sẽ rất dễ dàng tìm hiểu về
ngành sản xuất của nước tới thăm.
Hiện tại, nguyên phụ liệu là một vấn đề nhức nhối đặt ra với các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam khi phần lớn nguyên phụ liệu để sản xuất hàng dệt
may của nước ta là nhập khẩu. Nhà nước đã lên kế hoạch xây dựng các trung
tâm nguyên phụ liệu trong cả nước. Cuối tháng 5/2007, trung tâm nguyên phụ
liệu dệt may và da giày đầu tiên tại Việt Nam đã được chính thức khởi công
xây dựng tại Cụm công nghiệp Trung Thành, xã Tân Bình, huyện Dĩ An,
Bình Dương với tổng số vốn đầu tư là 12 triệu USD trên diện tích rộng 16 ha.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 79
Trung tâm này ra đời bước đầu sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu về nguyên phụ
liệu của các doanh nghiệp dệt may trong nước.
2 - Về phía Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) ra đời nhằm mục đích thông qua
các hoạt động của mình tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành dệt may và của từng doanh
nghiệp thành viên. Hiệp hội sẽ là đầu mối trao đổi thông tin trong và ngoài
nước về những vấn đề kinh doanh, thương mại trong lĩnh vực dệt may nhằm
sử dụng hợp lý, tiết kiệm vốn và nâng cao khả năng cạnh tranh của từng thành
viên Hiệp hội cũng như của toàn ngành để nhanh chóng hội nhập với khu vực
và thế giới. Hiệp hội sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp về khoa học công nghệ, môi
trường và về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý; bảo vệ
và điều hoà lợi ích của từng thành viên và của ngành dệt may Việt Nam trong
các vụ tranh chấp với đối tác nước ngoài.
Hiện tại, Hiệp hội đã đưa ra mục tiêu đối với ngành dệt may Việt Nam
là phải đạt 10 - 12 tỷ USD xuất khẩu vào năm 2010. Do đó, đòi hỏi Hiệp hội
phải đảm bảo sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp thành viên để đưa
toàn ngành dệt may phát triển mạnh hơn nữa. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn
về nhân lực cũng như tài chính, VITAS vẫn tích cực phấn đấu, nâng cao vai
trò, trách nhiệm của mình hỗ trợ tích cực các hội viên, thực sự là cầu nối giữa
Cộng đồng doanh nghiệp dệt may với các Cơ quan quản lý Nhà nước, sẵn
sàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của hội viên. Hiệp hội phải luôn
luôn bám sát những thắc mắc, trăn trở, nguyện vọng, đề xuất của các doanh
nghiệp, kịp thời phản ánh lên các cơ quan quản lý Nhà nước để tháo gỡ, đồng
thời Hiệp hội tích cực tham gia vào việc xây dựng chính sách, chiến lược phát
triển ngành cùng Bộ Công Thương, xây dựng cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
hàng dệt may với các tiêu chí rõ ràng, minh bạch, bình đẳng, giảm bớt các thủ
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 80
tục phiền hà cho doanh nghiệp. Điển hình là việc áp thuế nhập khẩu xơ sợi
tổng hợp là 5% của Bộ Tài Chính sau nhiều lần làm việc và trình bày, mức
thuế đã giảm xuống còn 3%.
Hiệp hội nên tổ chức nhiều chương trình xúc tiến thương mại, các
chương trình khảo sát thị trường, tham gia các hội chợ triển lãm trong và
ngoài nước để xây dựng và quảng bá hình ảnh, thương hiệu của ngành, của
doanh nghiệp và của sản phẩm dệt may Việt Nam, phối hợp với Tập đoàn dệt
may Việt Nam (Vinatex) tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, kêu gọi đầu
tư. Do thực hiện cam kết không trợ cấp cho các hoạt động xuất khẩu nên việc
thực hiện các chương trình khảo sát, tham gia hội chợ còn gặp nhiều khó
khăn. Trong năm 2006, Hiệp hội đã triển khai 8 chương trình xúc tiến thương
mại quốc gia với tổng kinh phí hỗ trợ của Nhà nước là 925.420 USD. Theo dự
kiến, trên 130 doanh nghiệp và 15 chi hội dệt may trong toàn quốc sẽ tham
gia các chương trình khảo sát, xúc tiến thành lập văn phòng đại diện kết hợp
với trung tâm giới thiệu sản phẩm dệt may tại CHLB Đức, tham gia Hội chợ
Magic Show tại Las Vegas (Hoa Kỳ), kết hợp với khảo sát thị trường, hội chợ
thời trang CPD tổ chức tại Duseldossf (CHLB Đức), khảo sát thị trường Tây
Ban Nha, tham dự triển lãm tại Hong Kong, Đài Loan.
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh các cụm công nghiệp dệt may
như: nhà máy dệt nhuộm Yên Mỹ, khu liên hợp dệt nhuộm Hoà Khánh, khu
công nghiệp Phố Nối, Khu công nghiệp Nhơn Trạch, Khu công nghiệp Bình
An, theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và
phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới
tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc lên 50% vào năm 2010, giảm
tỷ lệ gia công.
Cũng như các ngành kinh tế khác, ngành dệt may Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu và đầy đủ với các nền kinh tế khu vực và thế giới, chịu sự chi
phối bởi các luật lệ chung, cho nên công tác đối ngoại là hết sức cần thiết, bởi
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 81
vậy, Hiệp hội phải tích cực tham gia vào các tổ chức dệt may quốc tế như:
Liên đoàn Dệt may ASEAN, Hội các nước xuất khẩu dệt may châu Á - Thái
Bình Dương, Liên đoàn may mặc châu Á; tham gia các hội nghị hội thảo quốc
tế về dệt may, tham gia vào các dự án do nước ngoài tài trợ như Dự án
VIE61/94 về xây dựng Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam...; tích
cực tham gia cuộc vận động phản đối chương trình giám sát và tự khởi xướng
điều tra chống bán phá giá hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam.
Đào tạo nguồn nhân lực là nhiệm vụ và yêu cầu cấp bách hiện nay để
nâng cao trình độ và năng lực cạnh tranh của ngành dệt may trong thương mại
quốc tế. Hiệp hội đã cử nhiều cán bộ của các doanh nghiệp hội viên sang học
tập về kỹ thuật, quản lý... tại Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan, bổ sung kiến thức
cho các nhà thiết kế thời trang... nhưng hiện tại do kinh phí còn hạn chế nên
còn nhiều kế hoạch đào tạo của Hiệp hội không thực hiện được.
3 - Về phía doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp dệt may thì nhiệm vụ cơ bản hàng đầu là nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Sau khi gia nhập
WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài, và phải chấp
nhận cạnh tranh với họ bằng chất lượng và giá cả sản phẩm. Chất lượng sản
phẩm luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với khách hàng khi lựa chọn sản
phẩm. Nhiều khi do hạn chế về khả năng thanh toán thì khách hàng sẽ lựa
chọn sản phẩm rẻ nhưng thực chất trong thâm tâm họ vẫn mong muốn có
được sản phẩm chất lượng tốt. Chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao vị thế
của sản phẩm, giữ được khách hàng lâu hơn bất cứ yếu tố nào khác. Mặt khác,
hiện tại Việt Nam không thể cạnh tranh được với các mặt hàng cấp thấp của
Trung Quốc hay Ấn Độ. Do đó, tập trung vào chất lượng sản phẩm là xu
hướng chính của ngành dệt may Việt Nam. Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã
kêu gọi các thành viên tập trung vào việc gia tăng giá trị sản phẩm xuất khẩu
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 82
để nâng cao năng lực cạnh tranh từ đó có thể đối mặt với việc những nhãn
hiệu lớn của nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Thực chất, dòng
hàng cao cấp có chất lượng cao hiện chưa mang lại hiệu quả cao ở Việt Nam
do mức thu nhập của người tiêu dùng còn hạn chế. Song điều đó không có
nghĩa là các doanh nghiệp cứ ngồi chờ cho đến khi nhu cầu lớn và hàng may
mặc nước ngoài tràn lan trong thị trường nội địa thì mới bắt đầu lo. Tại thị
trường nội địa chúng ta cũng đã có những nhãn hiệu cao cấp như: Viettien,
Vie Laross, Vee Sendy, T-up của công ty may Việt Tiến, Sanding, Besosi của
công ty May Sài gòn 2 hoặc các sản phẩm đắt tiền của công ty May 10.
Tạo nhãn hàng cao cấp, chất lượng cao cũng là cách tạo nên giá trị
thương hiệu - một yếu tố làm nên sức cạnh tranh của sản phẩm, giúp doanh
nghiệp giữ vững thị phần trong nước. Theo đánh giá của các chuyên gia,
ngành may Việt Nam trước kia chưa có những thương hiệu đủ mạnh để có thể
làm chủ sân nhà. Nhưng giờ đây, sức mạnh của thương hiệu là cứu cánh cho
các doanh nghiệp may Việt Nam trước sức ép cạnh tranh sau hội nhập. Để có
thể tạo nên thương hiệu cho sản phẩm, các doanh nghiệp phải đưa sản phẩm
tới với khách hàng, nói cho họ những lợi ích mà sản phẩm đem lại cho khách
hàng. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng thì
khách hàng sẽ sử dụng sản phẩm và có khi còn giới thiệu nó tới những người
khác. Có thể nói, chính việc chấp nhận sản phẩm để sử dụng là cách tạo nên
thương hiệu cho sản phẩm. Song muốn xây dựng thương hiệu riêng không
phải là dễ, vì vậy rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam sẵn sàng
liên kết để phát triển, chứ không còn làm lẻ tẻ, đơn độc như trước. Hiện nay,
tại thị trường trong nước và nước ngoài, hầu như mọi người đều biết tới
thương hiệu như An Phước, May 10, Việt Tiến, May Nhà Bè, May 28, Dệt
Phong Phú, Dệt Thành Công... đây là những công ty chủ yếu cung cấp dòng
sản phẩm áo sơmi sang trọng cho khách hàng. Tuy nhiên, việc tạo dựng
thương hiệu đã khó nhưng việc giữ vững thương hiệu đó trong tâm trí của
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 83
khách hàng lại càng khó khăn hơn. Các doanh nghiệp phải đầu tư tiền bạc
công sức vào việc duy trì thương hiệu cho những sản phẩm đã có mặt trên thị
trường, đồng thời phải tìm tòi nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để đưa ra các
dòng sản phẩm mới, chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn để củng cố thương
hiệu của doanh nghiệp vững chắc hơn. Mẫu mã kiểu dáng thực sự là vấn đề
không hề đơn giản. Cái này không chỉ cứ bỏ tiền ra là có được mà nó phụ
thuộc vào tính sáng tạo của con người. Về điều này thì người Việt Nam không
hề thiếu. Người dân Việt Nam vốn được biết tới là những người có đầu óc
thông minh, đã tạo ra rất nhiều dấu ấn trong nhiều lĩnh vực. Thế nhưng nếu đi
so sánh với những mặt hàng của Trung Quốc về mẫu mã kiểu dáng sản phẩm
thì chắc chắn phần thua sẽ thuộc về chúng ta. Hàng hoá của Trung Quốc mà
đặc biệt là sản phẩm may mặc có mẫu mã vô cùng đa dạng và phong phú, phù
hợp với những sở thích thay đổi liên tục của người tiêu dùng. Trong khi đó,
thời trang Việt Nam mới chỉ dừng lại ở thời trang biểu diễn, ấn tượng, mang
đậm màu sắc thương hiệu, còn thời trang ứng dụng mới chính là thời trang
chuyên nghiệp, được sự đón nhận của người tiêu dùng thì hoàn toàn chưa có
tiếng nói tại thị trường trong nước. Không những thế, đội ngũ thiết kế vải còn
là khá xa lạ trong ngành thời trang may mặc Việt Nam. Chính việc thiếu đội
ngũ này đã dẫn đến chất liệu vải nghèo nàn, chỉ xoay quanh chất liệu gấm.,
thổ cẩm, lụa, nhung... Nhiệm vụ của các doanh nghiệp lúc này là thành lập
Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao
cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị thời trang, tổ trưởng -
chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu;
thường xuyên tổ chức các cuộc thi thiết kế để tìm kiếm những nhân tài còn
chưa nổ rộ. Bên cạnh đó, cũng cần hợp tác với các hãng thời trang nổi tiếng
để đầu tư vào khâu thiết kế, chuyển nhượng quyền thương hiệu, tạo ra những
sản phẩm mang tính khác biệt, vượt trội, đẳng cấp cao hơn.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 84
Giá cả cũng đang là một vấn đề nan giải. Như chúng ta đã biết, giá cả
sản phẩm may mặc của Việt Nam vẫn cao hơn so với sản phẩm cùng loại của
nhiều nước khác. Nguyên nhân chính là do chúng ta chưa chủ động được
nguồn nguyên phụ liệu. Việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài phải
chịu chênh lệch tỷ giá và thuế nhập khẩu đã đẩy mức giá hàng may mặc lên
cao, Ngoài ra, giá các dịch vụ công cộng ở Việt Nam cũng cao hơn so với
nhiều nước như: giá điện (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với
các nước trong khu vực), nước, Internet... Để giảm giá thành sản phẩm, các
doanh nghiệp phải đưa ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong
sản xuất, chia sẻ giữa các doanh nghiệp các chi phí tiếp thị, chi phí thông tin
thị trường. Triệt để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh
nghiệp thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex). Và một nhiệm vụ quan
trọng là phải phối hợp với Nhà nước và Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
để đầu tư phát triển các vùng nguyên phụ liệu dệt may, đáp ứng nhu cầu của
đông đảo các doanh nghiệp sản xuất dệt may trong cả nước.
Theo ông Lê Quốc Ân, chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, sản phẩm
dệt may sẽ tăng được giá trị khi kèm theo nó sự sáng tạo và dịch vụ hoàn hảo.
Ông kêu gọi các doanh nghiệp Việt Nam phải tự biến mình thành nhà sản
xuất, thiết kế chứ không nên là người gia công, và giá cả đối với sản phẩm dệt
may không phải là yếu tố quyết định. Do đó, các doanh nghiệp phải chú trọng
vào việc phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường nội địa và mở
rộng thị trường xuất khẩu. Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) có thể là
đầu mối tập hợp các doanh nghiệp dệt may trong cả nước để hình thành hệ
thống cửa hàng - siêu thị kinh doanh thời trang dệt may ở cả các thành phố
lớn lẫn các tỉnh thành khác trong cả nước. Hiện nay, thị trường xuất khẩu
chính của Việt Nam là Hoa Kỳ (60%). Song xuất khẩu sang thị trường này
cũng đang gặp nhiều khó khăn. Vừa được dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch khi gia
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 85
nhập WTO thì Việt Nam lại có nguy có phải chịu biện pháp chống bán phá
giá của Hoa Kỳ. Nếu điều này xảy ra thì hàng dệt may vào Mỹ sẽ phải chịu
thuế chống bán phá giá, đồng thời các đối tác sẽ hạn chế đặt hàng từ Việt
Nam do đa số các nhà kinh doanh rất ngại động chạm tới pháp luật mà đây lại
là vấn đề liên quan đến quốc gia, liên quan đến cả ngành dệt may nội địa. Vì
vậy, nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải điều tra, tìm hiểu những thị
trường mới, những bạn hàng ngoài Hoa Kỳ để giảm bớt lượng hàng nhập
khẩu vào nước này nhưng vẫn đẩy mạnh giá trị xuất khẩu của mình. Một
phương pháp mới và hiệu quả mà chưa có nhiều doanh nghiệp dệt may sử
dụng là sử dụng thương mại điện tử B2B và B2C. Với phương pháp này, các
doanh nghiệp có thể tìm được những đối tác nhanh chóng ở cách chúng ta
thậm chí là tới nửa vòng trái đất. Hiện thương mại điện tử cũng đang được
nhiều quốc gia sử dụng trong buôn bán quốc tế và đã mang lại khá nhiều lợi
ích.
Những giải pháp trên đây có thể chưa giải quyết được hết những khó
khăn đang đặt ra với ngành dệt may Việt Nam, nhưng cũng đã góp phần đẩy
mạnh sự phát triển của ngành này. Hiện tại, các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam đang tập trung nâng cao vị thế của mình bằng những sản phẩm cao cấp,
với những chiến lược đầu tư lâu dài nhằm xây dựng thương hiệu, lập kênh
phân phối và tìm đối tác trực tiếp từ nước ngoài…
KẾT LUẬN
Dệt may là ngành công ngiệp quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, ngành dệt may đã có những bước tăng trưởng nhanh
chóng, đóng góp đáng kể vào nền kinh tế đất nước. Từ năm 2000 đến nay,
ngành dệt may Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng bình quân trên 20/năm, thu
hút gần 2 triệu lao động, đóng góp 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Tính tới tháng 9/2007, dệt may đã “vượt mặt” dầu khí trở thành ngành
có kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong cả nước.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 86
Tháng 11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), có rất nhiều cơ hội và thách thức đặt ra đối với
nền kinh tế cũng như với riêng ngành dệt may. Trong đó, phải đặc biệt kể tới
sức ép cạnh tranh từ “người láng giềng khổng lồ” - Trung Quốc, nước sản
xuất, xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Xét về mọi mặt, Trung Quốc đang
chiếm thế thượng phong so với chúng ta. Song, các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam phải hiểu một điều là cạnh tranh chính là động lực để tồn tại và
phát triển. Chính sức ép cạnh tranh của Trung Quốc sẽ là đòn bẩy thúc đẩy
ngành dệt may Việt Nam. Vấn đề là ngành dệt mayViệt Nam có biết tận dụng
những ưu thế của đất nước mình để đưa ra giải pháp khắc phục những thách
thức đang đặt ra hay không. Và doanh nghiệp cũng không đứng ngoài vòng
xoáy đó. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình chiến lược
trong bối cảnh mới, đồng thời liên kết lại để tăng sức cạnh tranh, đầu tư mạnh
mẽ vào các giải pháp gia tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ trong
đó đặc biệt chú trọng đến khâu thiết kế thời trang và xây dựng thương hiệu.
Trên đây là những nhận xét của em về ngành dệt may Việt Nam và khả
năng cạnh tranh với Trung Quốc. Do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn
hạn chế nên bài viết còn sơ sài nhiều thiếu sót mong các thầy cô giáo chỉ bảo
thêm.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Từ Thuý Anh đã
tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin chân thành cảm ơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. PTS. Tô Xuân Dần, PTS . Vũ Chí Lộc, Giáo trình “Quan
hệ kinh tế quốc tế, 1999.
2. GS. TS. Bùi Xuân Lưu, Giáo trình “Kinh tế ngoại thương”,
2002.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 87
3. Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ II (2002 - 2006) và phương
hướng hoạt động nhiệm kỳ III (2007 - 2010) của Ban chấp hành
Hiệp hội dệt may Việt Nam. 2007.
4. Bộ Thương mại, Xuất khẩu sang EU. Những điều cần biết.
5. Bộ Công nghiệp, Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công
nghiệp dệt may Việt Nam đến 2010
6. Bộ Thương mại, Bản tin Thông tin Thương mại, só ra ngày
16/01/2006 và 13/08/2007.
7. Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, Tổng hợp
tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu hàng dệt may của Trung
Quốc.
8. Bản tin xuất nhập khẩu, số 6 ra ngày 27/11/2006.
9. Báo Kinh tế Việt Nam
10. Thuỷ Hoài, “Tự cứu chính mình”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 - 31 tháng
7)2006, trang 37.
11. Tàng Long, “Bước đi của người khổng lồ”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 -
31 tháng 7)2006, trang 40.
12. Nguyên Nga, “Doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ trước thềm
hội nhập: được nhiều hơn mất”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15 - 31 tháng
7)2006, trang 39.
13. Hồng Nhung, “Bỏ ưu đại dệt may, sức ép cạnh tranh sẽ mạnh
hơn”, Tạp chí Thương mại số 26/2006, trang 27.
14. Th.S Phạm Hữu Thìn, Vụ Chính sách TTTN - BTM, “Chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài trong phân phối hàng hoá nội
địa của Trung Quốc – Trước và sau khi gia nhập WTO”, Tạp
chí Thương mại số 30/2006, trang 15.
15. Th.S. Nguyễn Thị Tú, Học viện Tài Chính, “Nhân tố cấu thành
sức cạnh tranh của hàng dệt may trên thị trường Hoa Kỳ”, Tạp
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G 88
chí Thương mại số 28/2007, trang 6 và Tạp chí thương mại số
29/2007, trang
16. Trần Trong Tú, “Tương lai ngành dệt may”, Nhịp cầu, kỳ 2 (15
- 31 tháng 7)2006, trang 35.
17. Các Website:
- www.mot.gov.org
- www.mofa.gov.vn
- www.moi.gov.vn
- www.mpi.gov.vn
- www.mof.gov.vn
- www.vasep.com.vn
- www.nld.com.vn
- www.vnexpress.vn
- www.techmartvietnam.com.vn
- www.vietnamnet.vn
- www.vinatex.com
- www.may10.com.vn
- www.viettien.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3649_7887.pdf