Đề tài Chất lượng dân số Việt Nam

Đề tài: Chất lượng dân số VN A/ PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Trong nhiều năm gần đây, cũng như các nước đang phát triển khác ở Châu Á và Châu Phi, chúng ta đang phải đối mặt với hiện tượng tăng dân số quá nhanh cùng với những tác động của nó mang lại, đã biến nước ta trở thành một trong số những nước đông dân vào loại cao trên thế giới. Sự tăng nhanh của dân số như vậy đã làm cản trở lớn tới tốc độ phát triển kinh tế xã hội, hạn chế việc nâng cao chất lượng cuộc sống; đồng thời nó làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội như thiếu việc làm, tệ nạn mại dâm, ma tuý, tội phạm thanh thiếu niên gia tăng. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng cũng có chiều hướng giảm trong những năm gần đây (trung bình gần 0,1%/năm), điều đó cũng đã có những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là đến việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mặc dù vậy, với tốc độ tăng dân số như hiện nay, dân số nước ta sẽ nhanh chóng đạt đến con số 100 triệu người vào đầu thế kỷ tới. Đây là kết quả của một thời kỳ dài với mức sinh của dân cư cao. Khoảng thời gian để nước ta tăng lên gấp đôi có xu hướng ngày một ngắn lại: từ 17 triệu người (năm 1931) lên 34 triệu người (năm 1965) phải mất 35 năm, nhưng để tăng dân số từ 30 triệu người (năm 1960) lên 60 triệu người (năm 1985) chỉ mất có 25 năm. Với tốc độ tăng như vậy, hàng năm nước ta có thêm từ 1,5 đến 1,6 triệu công dân mới, đòi hỏi phải được chăm sóc và bảo đảm về mọi mặt từ lương thực, thực phẩm đến các dịch vụ xã hội khác. Trong khi đó, không phải khi nào nền sản xuất xã hội và tài nguyên thiên nhiên cũng như mức tăng trưởng của nền kinh tế đều có thể luôn luôn tạo ra đủ của cải vật chất để đáp ứng được nhu cầu này. Đây là thách thức không phải của riêng nước ta mà là của rất nhiều nước đang phát triển khác. Trong điều kiện đó, chúng ta đã thực hiện nhiều chính sách cụ thể, thiết thực để nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Theo đánh giá của UNDP (năm 1998), Việt Nam vẫn duy trì được sự phát triển con người. Xếp hạng các nước theo chỉ tiêu HDI (chỉ tiêu tổng hợp của tuổi thọ, học vấn và thu nhập bình quân đầu người), thì HDI của Việt Nam cao hơn 26 bậc so với mức xếp hạng về giá trị GDP bình quân đầu người. Điều đó có nghĩa là, tuy mức thu nhập của nước ta còn thấp, nhưng chúng ta đã quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển con người một cách toàn diện. UNDP thừa nhận "Việt Nam đã thành công trong việc chuyển hoá thành quả của sự tăng trưởng kinh tế thành chất lượng cao hơn tương ứng cho cuộc sống của người dân". Mục đích nghiên cứu: Từ nhận định trên đây về dân số Việt Nam trong những năm qua, chúng ta thấy rằng: tình hình dân số ngày một tăng lên với số lượng không ngừng đã và đang là thách thức không chỉ đối với Đảng, Nhà nước mà còn đối với toàn xã hội. Một xã hội có phát triển hay không cũng còn phụ thuộc nhiều yếu tố tác động đến nó nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là làm sao có thể kiểm soát được tình hình gia tăng dân số để từ đó nêu ra những biện pháp hành động thích hợp để nâng cao chất lượng dân số. Vì vậy, chúng ta vẫn luôn ý thức được rằng việc nâng cao chất lượng dân số luôn được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, là một trong những chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, vừa mang tính cấp bách, vừa có tính lâu dài thuộc lĩnh vực dân số nhằm góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế –xã hội 2001-2010 và các chiến lược khác. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: Chất lượng dân số Việt Nam sẽ giúp cho chúng ta hiểu thêm được thực trạng dân số Việt Nam trong những năm gần đây và có những biện pháp giải quyết thiết thực nhất nhằm nâng cao chất lượng dân số góp phần quan trọng nhất trong việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và phát triển về mọi mặt. Ngoài ra với với việc nghiên cứu như vậy sẽ giúp cho em được tiếp cận môn học một cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Qua đó cũng sẽ giúp cho em có được những kiến thức bổ ích và đặc biệt là hiểu được bản chất của môn học. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Vì thời gian và điều kiện có hạn nên trong quá trình làm đề án em chỉ đi sâu một số vấn đề về cuộc sống con người và những tác động cũng như những biện pháp để nâng cao được đời sống của người dân, có thể chưa nêu ra và phân tích được hết những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng dân số Việt Nam nhưng phần nào cũng đã đề cập được đến những khía cạnh về việc làm thế nào để nâng cao được cuộc sống của người dân hơn nữa, đảm bảo được chất lượng cuộc sống. Phương pháp nghiên cứu: Để thu thập số liệu chính xác và thực tế cho bài viết của mình em đã tham khảo những tài liệu mới nhất có liên quan, đồng thời tham khảo những ý kiến của những người trong ngành để hoàn thành tốt đề án của mình. Đặc biệt với sự hướng dẫn của thầy giáo Đặng Ngọc Sự đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong qúa trình hình thành và xây dựng đề án cũng như đã chỉnh sửa cho em rất nhiều để em có thể hoàn thành công việc một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Em xin chân thành cảm ơn thầy. Kết cấu bài viết: Nội dung chính của bài viết chia thành các phần chính sau: Lời mở đầu Phần I: Chất lượng dân số Việt Nam Phần II: Nâng cao chất lượng dân số Kết luận

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9134 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chất lượng dân số Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và chủng tộc hạ đẳng là hoàn toàn không có khả năng hoặc chỉ có khả năng không đáng kể. Vì vậy, học thuyết này kết luận phải giữ gìn sự thuần chủng và tăng quy mô của chủng tộc thượng đẳng, nếu chủng tộc hạ đẳng sinh đẻ nhiều, chủng tộc thượng đẳng sinh đẻ ít sẽ làm xấu đi cơ cấu dân số về mặt chất lượng. Nhưng qua kết quả của các nghiên cứu các nhà khoa học đã khẳng định là không tìm thấy bất kì sự khác nhau nào trong bộ não của các chủng tộc. Khả năng và tri thức của mỗi con người có được là nhờ quá trình chăm sóc, giáo dục và hoạt động cụ thể. Ăng-ghen cho rằng, chất lượng dân số là khả năng của con người thực hiện các hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Quan niệm của các nhà khoa học Nga cho rằng chất lượng dân số là khái niệm trung tâm của hệ thống tri thức về dân số và được phản ánh bởi các chỉ tiêu về trình độ giáo dục, cơ cấu nghề nghiệp, xã hội, tính năng hoạt động xã hội và tình trạng sức khoẻ. Như vậy chất lượng dân số hình thành nhờ quá trình chăm sóc, giáo dục và đào tạo cũng như kinh nghiệm, kĩ năng được đúc rút từ các hoạt động cụ thể. Chất lượng dân số tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất va quan hệ sản xuất. Với ý nghĩa đó, chất lượng dân số xét về bản chất và nội dung của khái niệm này đã phản ánh đúng mức độ được nâng cao theo quá trình phát triển và các quan hệ xã hội. Để xác định bản chất của quan niệm về chất lượng dân số và các chỉ số xác minh chất lượng dân số, từ điển bách khoa Việt Nam đã định nghĩa: “Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với các sự vật khác”. Kết hợp với định nghĩa: “Dân số là tập hợp người sống trong một vùng lãnh thổ nhất định” thì bản chất của chất lượng dân số là vừa thể hiện ở tính hợp lí của quy mô, tính cân đối của cơ cấu theo tuổi, giới tính và khả năng hoạt động có hiệu quả của một tập hợp người sống trong một vùng lãnh thổ và của từng cá nhân mỗi người. Với ý nghĩa đó, chất lượng dân số là các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số. Có rất nhiều đặc trưng phản ánh trạng thái về thể chất trí tuệ và tinh thần nên việc đo lường, đánh giá chất lượng dân số là rất phong phú đa dạng và phức tạp. Có thể gộp các đặc trưng thanh 5 nhóm: +) Thu nhập và phúc lợi +) Sức khoẻ và dinh dưỡng +) Giáo dục và phát triển trí tuệ +) Giải trí văn hoá và tinh thần +) Môi trường sống. 2.Chỉ tiêu phản ánh chất lượng dân số. Theo quan niệm về chất lượng dân số, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng dân số về mặt thể chất, trí tuệ và tinh thần không chỉ phản ánh chất lượng của một con người mà phản ánh chất lượng của toàn bộ con người. Phân tích các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho thấy, các chỉ têu này chịu sự tác động của quá trình dân số (sinh, chết, di dân) và quá trình phát triển (phát triển kinh tế –xã hội và bảo đảm an toàn xã hội). Sự tác động của các nhân tố này đến từng cá nhân con người và đến cả cộng đồng dân số. Các yếu tố biểu thị về mặt thể lực bao gồm: sức khoẻ thể chất; sức khoẻ tâm trí; bệnh tật; mối quan hệ giữa con người với những điều kiện môi trường tự nhiên, xã hội và những hệ qủa của nó. Các yếu tố này được thực thiện theo ngành dọc về sự phát triển kinh tế- xã hội của ngành y tế và các ngành có liên quan. Các yếu tố biểu thị về mặt trí lực bao gồm: trình độ học vấn; trình độ chuyên môn kĩ thuật; cơ cấu ngành nghề; phát triển tài năng; phát huy năng lực sáng tạo và mức hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật. Các yếu tố này được thực hiện theo ngành dọc về sự phát triển kinh tế –xã hội của ngành giáo dục và đào tạo, văn hoá thông tin và các ngành có liên quan. Các yếu tố biểu hiện về mặt năng lực xã hội của dân số bao gồm: tính hợp lí về quy mô, phân bố và tốc độ phát triển; tính hợp lí về cơ cấu chia theo tuổi, giới tính, việc làm, trình độ học vấn, chuyên môn kĩ thuật, thành phần xã hội và các yếu tố bảo đảm sự thích ứng của dân số trước biến động bên ngoài. Các yếu tố này được thực hiện vừa theo ngành dọc vừa theo chiều ngang về sự phát triển kinh tế xã hội của các khu vực, vùng địa lí và đơn vị hành chính. Với các chỉ tiêu phản ánh về mặt thể lực, trí lực và năng lực xã hội nêu trên đã bảo đảm yêu cầu mở rộng cơ hội lựa chọn và tăng cường năng lực lựa chọn của con người trong các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Song chỉ khi năng lực biểu hiện qua kĩ năng, kiến thức được sử dụng hoặc được sử dụng một cách có hiệu quả thì chất lượng dân số mới thực sự được nâng cao và nó được phản ánh thông qua hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Sự thích ứng đó của một tập hợp dân số không thể chỉ đánh giá bằng kĩ năng, kiến thức hay thông qua một cá nhân mà thường được phản ánh thông qua các chỉ số tổng hợp theo lĩnh vực. Trên thực tế, các chỉ tiêu tổng hợp thường được sử dụng để phản ánh chất lượng dân số là: +) Chỉ số phát triển con người (HDI) phản ánh chất lượng dân số một cách tổng quát +) Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) phản ánh chất lượng con người về mặt hình thể +) Chỉ số phát triển giới (GDI) phản ánh mức độ phát triển giữa nam và nữ +) Chỉ số nghèo khổ của con người (HPI) phản ánh tuổi thọ, kiến thức, mức sống tử tế và sự tham gia hoạt động xã hội. Đáng chú ý ở đây là chỉ số phát triển con người “Chỉ số phát triển con người (HDI) là số liệu tổng hợp để đánh giá mức độ phát triển con người, được xác định qua tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập bình quân đầu người” (Khoản 11 điều 3 PLDS) Để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, báo cáo phát triển con người năm 1990 và các báo cáo tiếp theo của chương trình phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra một loạt chỉ số. Chỉ số tổng hợp nhất được đưa ra từ năm 1990 và được hiệu chỉnh lại năm 1999 là chỉ số phát triển con người (Human Developmennt Index-HDI). HDI là giá trị trung bình của 3 chỉ tiêu: khả năng sống lâu, đo lường bằng tuổi thọ tính từ khi sinh ra; trình độ giáo dục, tính tổng hợp theo tỉ lệ biết chữ của người lớn và các tỉ lệ đi học tiểu học, trung học và đại học; mức sống, đo bằng giá trị GDP tính bình quân đầu người thực tế theo sức mua tương đương(PPP). HDI là một thước đo tương đối tổng hợp, vượt ra khỏi khía cạnh kinh tế thuần tuý về sự phát triển, bổ sung cho thước đo GDP. Với HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển trở nên toàn diện hơn và phản ánh chân thực hơn tính mục tiêu của nó. Tuy nhiên, HDI là một chỉ số còn tương đối đơn giản, không bao quát hết tính phong phú, nhiều mặt của sự phát triển con người. Nó chỉ phản ánh gián tiếp do đó chưa đầy đủ và còn bỏ qua một số khía cạnh có liên quan đến chất lượng cuộc sống của con người như chính trị, văn hoá, môi trường hay mức độ tham gia của người dân hoặc không làm nổi bật được những thách thức cần được ưu tiên giải quyết của một quốc gia trong tiến trình phát triển. Cho đến nay, HDI vẫn là một chỉ số tốt nhất dùng để đánh giá sự phát triển con người của một quốc gia. Để xem xét một cách toàn diện thì cần sử dụng nhiều thước đo bổ sung khác nhằm chỉ rõ sự khác biệt về trình độ phát triển con người giữa các vùng, các nhóm xã hội, cần xây dựng HDI chi tiết cho từng địa phương và từng nhóm đối tượng dân cư. Mỗi chỉ số chỉ phản ánh một khía cạnh, một yếu tố cơ bản của sự phát triển con người như chỉ số phát triển giới tính (GDI), chỉ số đo quyền lực theo giới tính (GEM), chỉ số nghèo khổ tổng hợp(HPI), và các chỉ tiêu đánh giá từng lĩnh vực hay khía cạnh cụ thể của đời sống xã hội như : y tế, giáo dục, dinh dưỡng, nước sạch, dân số, môi trường, văn hoá, tội phạm…Một chỉ tiêu riêng rẽ thường ít có ý nghĩa nên cần phối hợp các chỉ tiêu để cùng với chỉ số HDI phản ánh sự phát triển con người. 3.Thực trạng và những thành tựu đạt được. a.Tình hình thực hiện nâng chỉ số phát triển con người “Nhà nước thực hiện chính sách nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người của Việt Nam lên mức tiên tiến của thế giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” ( Khoản 2 điều 20 PLDS) Trong những năm cuối của thập kỉ 90, chỉ số phát triển con người của nước ta đã được nâng lên đáng kể, từ 0,582 năm 1985, đạt 0,603 năm 1990, đạt 0,646 năm 1995, đạt 0.664 và xếp 110/174 năm1997, đạt 0,671 và xếp 108/174 năm 1998, đạt 0,688 và xếp 109/175 năm 2001. Theo “Báo cáo phát triển con người năm 2003” của Chương trình phát triển Liên Hiệp quốc (UNDP) thì Việt Nam đã đạt được tiến bộ rõ rệt trong phát triển con người, với chỉ số phát triển con người tăng liên tục.Chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp trên nhiều nước trong khu vực như ấn Độ, Pakistan, Myanmar, Bangladesh. Tuy nhiên chỉ số này vẫn ở mức trung bình thấp so với khu vực và trên thế giới. Theo Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2000, chỉ có 12 tỉnh có trình độ phát triển cao (HDI từ 0,7 trở lên) có tới 41 tỉnh có trình độ phát triển trung bình (HDI từ 0,6 đến dưới 0,7) và 8 tỉnh còn lại có trình độ phát triển thấp (HDI dưới 0,6). Tuổi thọ bình quân của nước ta khá cao so với mức thu nhập của nền kinh tế và tiếp tục tăng từ 66 tuổi năm 1989 lên 68 tuổi năm 1999 và 71 tuổi năm 2002. Tuổi thọ bình quân của nam thường thấp hơn nữ 4 tuổi, trong khi mức chênh lệch tuổi thọ giữa nam và nữ ở Nhật Bản là 6 tuổi, ở các nước Châu Âu tới 8 tuổi. Liên Hiệp quốc đánh giá, Việt Nam là một trong số 10 nước có tuổi thọ tăng nhanh nhất trong thời kì 1950-2000. Tuy nhiên, tuổi thọ bình quân khoẻ mạnh của nước ta lại thấp đi rất nhiều chỉ là 58,2 tuổi và xếp thứ 116 so với 174 nước trên thế giới. Các tố chất về thể lực của người Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chiều cao, cân nặng và sức bền. Tỉ lệ thanh niên từ 18-22 tuổi đạt tiêu chuẩn 165cm trở lên(đối với nam) là 31,9% và 155cm(đối với nữ) là 31,9%; 1,5% dân số bị thiểu năng về thể lực và trí lực; tần suất dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra sống là 3%. Tỉ lệ trẻ sơ sinh nặng dưới 2500g chiếm 8% năm1998. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm, song theo phân loại của tổ chức Y tê thế giới(WHO) tỉ lệ này vẫn còn ở mức cao, chiếm 36.7% năm 1999; 33.8% năm 2000; 30,1% năm 2002 và 28% năm 2003.Chỉ có 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh có tỉ lệ suy dinh dưỡng ở mức trung bình(10%-19%) có 24 tỉnh có tỉ lệ dinh dưỡng ở loại cao (20%-30%) và có tới 35 tỉnh còn lại có tỉ lệ suy dinh dưỡng ở loại rất cao(trên 30%). Trong khi việc phòng chống suy dinh dưỡng chưa xong thì đã xuất hiện tình trạng bệnh tật do thừa dinh dưỡng gây ra. Tính đến thời điểm 1/4/1999 cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường, trong đó 5,3 triệu người hoàn toàn không biết chữ. Tỉ lệ số người đã qua đào tạo nghề nghiệp và chuyên môn kĩ thuật chiếm 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó 2,3% là công nhân kĩ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp, 2,8% có trình độ trung học chuyên nghiệp, 0,7% cao đẳng, 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Cơ cấu đào tạo bất hợp lí, quan hệ tỉ lệ đào tạo giữa 3 loại trình độ chuyên môn kĩ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế là: đại học và trên đại học 1; trung học chuyên nghiệp 4; công nhân kĩ thuật 10 (1-4-10), thì ở nước ta tại thời điểm 1/4/1999 là 1- 1,13- 0,92. Để tránh nguy cơ tụt hậu, cùng với việc giải quyết vấn đề quy mô dân số đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và thực thi một chiến lược dài hạn nhằm thực hiện đồng bộ, từng bước, có trọng điểm việc điều hoà quan hệ giữa số lượng và chất lượng dân số, giữa phát triển dân số và nguồn lực để nâng cao chất lượng dân số Việt Nam cả về thể lực và trí lực. b.Chất lượng nguồn nhân lực. Trước Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) có 95% dân số không biết chữ. Sau Cách mạng, Đảng và nhà nước ta tập trung mọi nguồn lực để phát triển giáo dục nâng cao dân trí, hiện nay 90% dân số biết chữ, phần đông lực lượng lao động được giáo dục phổ thông. Tuy nhiên chúng ta đang đứng trước những thử thách mới, trình độ tay nghề, kỹ thuật của lao động Việt Nam còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước, so với trình độ phát triển của các nước tiên tiến. Hiện nay Việt Nam thuộc nhóm các nước có cơ cấu dân số trẻ. Đây là một thế mạnh trong việc bổ sung nguồn nhân lực mới cho phát triển. Song sự phát triển có bền vững hay không còn tuỳ thuộc vào chất lượng lao động. Lực lượng lao động trẻ này phải khoẻ mạnh về thể chất, được giáo dục và đào tạo cơ bản, có hệ thống ngay từ khi cắp sách tới trường cho tới khi thành người lao động có học vấn cao, kĩ năng chuyên môn phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội. Nếu nhìn vào hệ thống trường sở, cơ sở vật chất cho giáo dục, đội ngũ cán bộ khoa học , cán bộ giảng dạy và nghiên cứu thì chúng ta đã đạt bước tiến lớn trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Chưa bao giờ nước ta có một hệ thống trường sở với những phương tiện giáo dục và đào tạo lớn và hiện đại như ngày nay. Nhưng nếu nhìn vào nhu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội đối với chất lượng nguồn nhân lực thì hệ thống giáo dục đào tạo thể hiện những hạn chế và còn nhiều điều bất cập. Tỉ lệ trẻ em bỏ học còn nhiều, kiến thức và kĩ năng chuyên môn của người lao động thấp hơn các nước tiên tiến khác. c.Chất lượng cuộc sống. Khi nói đến chất lượng cuộc sống không chỉ nhấn mạnh đến đời sống vật chất, tinh thần, thể lực, trí tuệ mà còn nói đến môi trường, khả năng và điều kiện xã hội cho các thành viên xã hội có những cơ hội phát triển đạt được những vị thế xã hội mới. Mức sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, hệ thống y tế dược xây dựng đến tận làng bản, hệ thống chăm sóc sức khoẻ được xây dựng và kiện toàn, loại trừ một số căn bệnh xã hội ra khỏi đời sống xã hội, tuổi thọ trung bình được nâng cao. Hệ thống giáo dục được xây dựng và phát triển, hầu hết các xã đã có trường tiểu học và phổ thông cơ sở, huyện có ít nhất một trường phổ thông trung học. Về chất lượng dân số, một vấn đề được xã hội rất quan tâm là trong những năm gần đây dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự phân hoá xã hội, phân hoá giàu nghèo có chiều hướng gia tăng.Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống hàng ngày. Những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống con người như ăn, ở, mặc, các nhu cầu về giáo dục, chăm sóc sức khoẻ…không được đảm bảo. Biểu hiện của tình trạng này là suy dinh dưỡng, thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt hàng ngày, không có khả năng đầu tư cho con ăn học. Hiện nay nhóm nghèo đói giảm xuống cả về số lượng tuyệt đối và cả về tỉ trọng trong toàn bộ dân cư. Nghèo còn được xem xét như là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng xã hội tại một địa phương và trong thời điểm nhất định. Xét theo ý nghĩa đó hiện nay, khoảng 50% dân số thuộc diện nghèo, trong đó có hơn 1.700 xã trọng điểm cần có sực trợ giúp tích cực của xã hội. II/ Nâng cao chất lượng dân số 1.Mục đích nâng cao chất lượng dân số. Trong nhiều thế kỉ, loài người luôn bị ám ảnh bởi mục tiêu thoát khỏi đói nghèo, ngày càng có được một cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn cho tất cả mọi người. Do đó, việc tập trung mở rộng năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dần dần trở thành mục tiêu trọng yếu của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, con người với tư cách là mục tiêu đích thực của sự phát triển đã nhiều khi bị xem nhẹ. Cách tiếp cận có tính hệ thống, mang tính nhân văn coi con người là trung tâm, là mục đích tối thượng của sự phát triển và coi phát triển là sự mở rộng phạm vi lựa chọn của con người để đạt đến một cuộc sống trường thọ, khoẻ mạnh, có ý nghĩa và xứng đáng với con người. Quan điểm này bao hàm hai khía cạnh chính là mở rộng các cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người nhằm hưởng thụ một cuộc sống hạnh phúc, bền vững. Mở rộng cơ hội lựa chọn bao gồm: tăng thu nhập, được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục tốt hơn, có chỗ ở tốt hơn, việc làm có ý nghĩa hơn, tham gia đầy đủ tích cực hơn vào các hoạt động xã hội cộng đồng. Phát triển vì con người phải nhấn mạnh tới việc mở rộng không gian lựa chọn cho con người để mỗi người có thể đạt được cuộc sống có ý nghĩa nhất. Việc mở rộng các quyền lựa chọn của các cá nhân trong mọi lĩnh vực là điều kiện thiết yếu và quan trọng nhất của quá trình phát triển. Tăng cường năng lực lựa chọn là điều kiện cần thiết để biến các cơ hội sẵn có thành hiện thực. Tăng cường năng lực con người trước hết là trau dồi kĩ năng, kiến thức, kinh nghiệm của họ. Tuy nhiên kĩ năng, kiến thức có thể bị mai một, xói mòn nếu chúng không được sử dụng hoặc được sử dụng một cách không hiệu quả. Vì thế, tăng cường năng lực bền vững hàm ý cả việc sử dụng năng lực một cách có hiệu quả Trong cuộc sống, con người cần đến nhiều loại năng lực: năng lực tham gia, năng lực tổ chức thực hiện các công việc và năng lực hưởng thụ các kết quả trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Tuy nhiên, có những năng lực cơ bản mà thiếu chúng các năng lực khác khó có khả năng phát triển. Để phát triển được con người cần có thể lực, trí lực ở mức tối thiểu, cần thiết. Các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cơ bản, giáo dục cơ sở ở cả phạm vi gia đình và xã hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành các năng lực này. Quá trình phát triển kinh tế- xã hội của nước ta trong nhiều thập kỉ qua, đặc biệt là quá trình đổi mới, đó là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực của mỗi người dân trong các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá đa dạng nhằm đạt được một cuộc sống ấm no, đầy đủ hơn, mạnh khoẻ, tự do và giàu trí thức hơn để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, PLDS quy định: “ Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”. Quy định này vừa kế thừa chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển đất nước trong nhiều thập kỉ qua, vừa nhấn mạnh đặc điểm nổi bật của chất lượng dân số nước ta thấp nhằm giải quyết những thách thức gay gắt mà Việt Nam phải đối mặt trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế. Quy định này cũng khẳng định quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển thì việc nâng cao chất lượng dân số là mục đích cơ bản của sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Mục tiêu của chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 147/2000/QĐ-TTg là: “Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Phấn đấu chỉ số phát triển con người(HDI) ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010”. Với quy định của PLDS, đây là lần đầu tiên vấn đề chất lượng dân số được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lí cao, giải quyết đầy đủ và đồng bộ, cân đối các lĩnh vực của công tác dân số và cũng chính là đòi hỏi, thách thức của công tác DS – KHHGĐ mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản- kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tôt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lí với quản lí dân số và phát triển nguồn nhân lực”. 2.Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. 2.1.Trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số. PLDS quy định về trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số của Nhà nước, cơ quan quản lí nhà nước và các cơ quan, tổ chức cá nhân như sau: “1.Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số thông qua các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. 2.Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện công tác bảo vệ sức khoẻ và rèn luyện thân thể, nâng cao trình độ giáo dục và phát triển trí tuệ, phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội, giữ gìn giá trị văn hoá, tinh thần và bảo vệ môi trường sinh thái. 3.Cơ quan quản lí nhà nước về dân số có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan xây dựng và triển khai thực hiện mô hình nâng cao chất lượng dân số với phát triển gia đình bền vững, mô hình tác động nâng cao chất lượng dân số cộng đồng; cung cấp thông tin, tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ gia đình, cá nhân thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. 4.Cơ quan, tổ chức, cá nhân được cung cấp thông tin, hướng dẫn, giúp đỡ và tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. (Điều 22 PLDS) Theo quan niệm này, trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số thuộc về bốn chủ thể là Nhà nước, cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể và mọi công dân. Nhà nước thông qua chính sách và các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội lấy mục tiêu tối cao của sự phát triển là vì con người, phát triển con người nhằm nâng cao điều kiện sống của con người và phát triển các năng lực của họ trên tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm dành lợi ích của sự phát triển cho tất cả mọi người nhằm bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, học tập, chăm sóc sức khoẻ, phổ cập giáo dục, tạo điều kiện cho mọi trẻ em được đến trường, hình thành mạng lưới y tế cơ sở một cách rộng khắp, triển khai công tác phòng bệnh, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người già, người dân tộc thiểu số và những người có hoàn cảnh khó khăn. Nâng cao chất lượng con người là nhu cầu, mục đích và trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình, khuyến khích nhân dân tham gia tích cực và sáng tạo vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Nói cách khác con người được đặt đúng nghĩa trên thực tế ở vị trí trung tâm của sự phát triển trên cơ sở được Nhà nước, cơ quan, tổ chức mở rộng sự lựa chọn, tạo sự bình đẳng đối với mọi thành viên trong xã hội. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Trong tiến trình mở cửa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần quan tâm đến vị thành niên- nhóm xã hội đặc biệt nhằm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành. Đặc trưng quan trọng nhất của nhóm xã hội này là tăng trưởng nhanh về mặt thể chất với việc hoàn thiện bộ máy sinh sản và trưởng thành về mặt xã hội với việc hình thành những đặc tính cơ bản về nhân cách. Đây là nhóm xã hội đang trong quá trình phát triển đặc biệt, dễ thay đổi, chịu tác động nhiều chiều ở cả gia đình, nhà trường và xã hội. Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho vị thành niên rõ ràng là một trong những nhiệm vụ xã hội cấp bách của nước ta hiện nay để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống cho thế hệ tương lai. Xã hội, gia đình và cộng đồng phải quan tâm bảo vệ, giáo dục, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho họ, đồng thời giúp họ có thể tự mình đưa ra những quyết định đúng về mặt chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, hạn chế những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống tương lai của các em và tương lai của giống nòi. 2.2.Biện pháp nâng cao chất lượng dân số. “1.Bảo đảm quyền cơ bản của con người; quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần; hỗ trợ nâng cao những chỉ số cơ bản về chiều cao, cân nặng, sức bền; tăng tuổi thọ bình quân; nâng cao trình độ học vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người; 2.Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; 3.Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất lượng dân số; 4.Thực hiện chính sách và biện pháp hỗ trợ đối với vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn để nâng cao chất lượng dân số.” (Điều 21 PLDS) Các quy định về những biện pháp nâng cao chất lượng dân số đã định hướng cơ bản, toàn diện từ việc bảo đảm quyền cơ bản của con người, quyền được phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đến việc định hướng trong tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số, đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, giáo dục và y tế. Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số nêu trên được xuất phát từ mục tiêu phát triển con người và các mối quan hệ của con người về mặt sinh học, tự nhiên và xã hội. Biện pháp 1 nhằm bảo đảm yêu cầu mở rộng cơ hội lựa chọn của con người, tạo cho con người thực hiện các quyền cơ bản, quyền phát triển đầy đủ, được tiếp cận y tế, giáo dục, phát triển năng khiếu, hưởng thụ văn hoá nghệ thuật, vui chơi, giải trí. Biện pháp 2 và 3 nhằm tăng cường năng lực lựa chọn của con người và chỉ trên cơ sở mỗi người có kiến thức, kĩ năng và các cơ hội sẵn có thì con người mới có khả năng lựa chon và thực hiện. Trên thực tế vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn thường chưa bảo đảm được các cơ hội cần thiết để con người thực hiện quyền của mình. Đồng thời, nhân dân sinh sống ở các vùng này và những người nghèo, người bị thiệt thòi trong cuộc sống lại thiếu năng lực lựa chọn cơ hội cho mình. Vì vậy, biện pháp 4 đã quy định chính sách và định hướng việc thực hiện các biện pháp ưu tiên đối với những vùng này. Rõ ràng, việc tổ chức thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số có phạm vi rộng thuộc mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế và thực tế các ngành các cấp đang tổ chức thực hiện. Song, để nhân dân quyết định thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng dân số thì cần tổ chức, hướng dẫn thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi việc tổ chức phải được diễn ra tại cộng đồng theo chiều ngang và bảo đảm cho mọi người dân, mọi gia đình có đủ kĩ năng trong việc thực hiện để trở thành năng lực thực tế. a.Biện pháp về sức khoẻ sinh sản. +)Kiểm tra sức khoẻ trước đăng kí kết hôn. “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho nam, nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi đăng kí kết hôn, xét nghiệm gen đối với người có nguy cơ bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học; tư vấn về gen di truyền; giúp đỡ về vật chất và tinh thần đối với người bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học, nhiễm HIV/ AIDS”. (Khoản 1 điều 23 PLDS) “1.Khuyến khích nam, nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi đăng kí kết hôn bao gồm những nội dung liên quan đến bệnh di truyền; bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV/ AIDS. 2.Cơ sở thực hiện kiểm tra sức khoẻ thông báo kết quả kiểm tra và tư vấn về ảnh hưởng của bệnh tật đối với sức khoẻ của cả hai bên nam, nữ; bảo đảm bí mật của kết quả kiểm tra sức khoẻ theo quy định của pháp luật”. (Điều 25 NĐ 104) +)Kiểm tra sức khoẻ di truyền. “1.Những người có tiền sử gia đình có người mắc bệnh tâm thần, bệnh di truyền, người có nguy cơ khuyết tật về gen; người bị nhiễm chất độc hoá học; người thường xuyên tiếp xúc với hoá chất độc hại và các bệnh lây nhiễm cần được vận động đi kiểm tra sức khoẻ trước khi có ý định sinh con. 2.Cơ quan dân số, Gia đình và Trẻ em cấp xã, phường có trách nhiệm tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện cho những người có nguy cơ cao về bệnh di truyền đi kiểm tra bệnh di truyền. 3.Cơ sở thực hiện kiểm tra sức khoẻ và bệnh di truyền có trách nhiệm thông báo kết quả kiểm tra, tư vấn cho người được kiểm tra hoặc người trong gia đình của người được kiểm tra về ảnh hưởng của bệnh tật đối với việc sinh con, nuôi con và bảo đảm bí mật kết quả kiểm tra theo quy định của pháp luật.” (Điều 26 NĐ104) Hiện nay tình trạng trẻ em bị dị tật bẩm sinh là không nhỏ. Mặt khác cộng với sự thiếu hiểu biết về kiến thức sinh sản, nhiều gia đình đã sinh con bị dị tật vẫn hi vọng đứa con thứ hai, thứ ba… của họ sẽ không bị hậu quả như vậy đã dẫn đến nhiều gia đình có tới ba, bốn người con bị dị tật gây đau khổ, khó khăn cho gia đình và xã hội. Dị tật bẩm sinh rất khó điều trị, tỉ lệ tử vong cao và thường kéo dài suốt cuộc đời của người dị tật. Tình trạng sống của người dị tật bẩm sinh rất thương tâm, các thành viên của gia đình cũng rất khổ sở, vất vả và cũng là gánh nặng của xã hội. Tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở nước ta vào khoảng 1,5- 3%. Mục tiêu là giảm tỉ lệ số người bị dị tật bẩm sinh nhưng không làm ảnh hưởng đến quyền sinh sản của họ, vì vậy PLDS quy định khuyến khích và tạo điều kiện cho nam nữ kiểm tra sức khoẻ trước khi đăng kí kết hôn, xét nghiệm gen đối với người có nguy cơ khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học và hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ công nghệ hỗ trợ sinh sản nhằm giảm tỉ lệ dân số thiểu năng trí tuệ, dị tật, vô sinh; phòng chống bệnh lây nhiễm qua đường sinh sản, HIV/ AIDS. +)Hỗ trợ sinh sản. “Nhà nước đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ công nghệ hỗ trợ sinh sản nhằm giúp đỡ người vô sinh, người triệt sản và những người có nhu cầu theo quy định của pháp luật.” (Khoản 2 điều 23 PLDS) Theo một số đề tài nghiên cứu, tỉ lệ vô sinh ở nước ta khoảng 1,8- 3,1%, trong đó vô sinh nam là 40,8%, vô sinh nữ là 37,4%, vô sinh cả hai là 10,3% và không rõ nguyên nhân là 11,5%. Bên cạnh đó là tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân đang gia tăng vì do thiếu kiến thức về sinh sản, tình dục đã làm cho lớp trẻ dễ bị rơi vào tình trạng có thai ngoài ý muốn và thường phá thai và phá thai không an toàn lại trở thành nguyên nhân của vô sinh. Cặp vợ chồng vô sinh là cặp vợ chồng sống gần nhau liên tục, không áp dụng biện pháp tránh thai mà không có con sau 1 năm. Nhân tố ảnh hưởng đến vô sinh nam là sóng điện từ, thuốc trừ sâu, hoá chất, viêm thận mãn, quai bị, nghiện rượu, nghiện thuốc lá làm ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tinh trùng. Phương pháp điều trị vô sinh trước hết là sự đề phòng bằng cách đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đối với nam giới phòng tránh các nhân tố gây ra, căn cứ nguyên nhân để điều trị. Để hạn chế tình trạng trên, bằng khoa học y học (thế giới hiện nay đã đạt được những thành tựu to lớn về công nghệ sinh học), Việt Nam ta cũng đang từng bước xúc tiến và triển khai nghiên cứu, ứng dụng khoa học về sàng lọc, rửa, lưu trữ tinh trùng, bơm tinh trùng vào buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm, sử dụng phương pháp lấy tinh trùng từ mào tinh, ống sinh tinh và cácb biện pháp nhận tinh trùng và noãn phục vụ cho điều trị vô sinh. Như vậy, chính sách KHHGĐ không chỉ xét theo một phía trong việc tự nguyện quyết định thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình, mà còn là nhiệm vụ quan trọng là đem lại hạnh phúc cho các cặp vợ chồng vô sinh được chữa trị để sinh con. Nhà nước đã ban hành chính sách hỗ trợ các cặp vợ chồng vô sinh được sinh con theo phương pháp khoa học, đồng thời hỗ trợ ngân sách để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo cán bộ y tế để thực hiện các dịch vụ kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. +) Điều kiện, thủ tục hỗ trợ sinh sản. Nguyên tắc áp dụng kĩ thuật sinh sản bao gồm: các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; việc thực hiện các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng quy trình kĩ thuật do Bộ Y tế ban hành; việc thực hiện các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, cho noãn, nhận noãn, cho tinh trùng, nhận tinh trùng, cho phôi, nhận phôi phải được tiến hành trên nguyên tắc tự nguyện và bí mật. Nghị định số 12/2003/NĐ- CP, ngày 12/2/2003 của chính phủ quy định người cho tinh trùng phải từ đủ 20 tuổi đến 55 tuổi; người cho noãn phải từ đủ 18 tuổi đến 35 tuổi; người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải từ đủ 20 tuổi dến 45 tuổi; cả người cho và người nhận phải có đủ sức khoẻ, không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ AIDS, bệnh tâm thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác; tự nguyện cho và không tìm hiểu về tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận, người cho. Tinh trùng của người cho chỉ được sử dụng cho một người, noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người và phôi của người cho chỉ có thể được sử dụng cho một người là điều kiện, yêu cầu và nguyên tắc trong việc thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ sống độc thân có nhu cầu phải có hồ sơ đề nghị thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản gửi về các cơ sở y tế được công nhận thực hiện các kĩ thuật này, gồm có: đơn đề nghị được thực hiện hỗ trợ sinh sản, hồ sơ khám xác định vô sinh của cặp vợ chồng đứng tên trong đơn đề nghị được thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong trường hợp không thể thực hiện được bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì cơ sở y tế phải trả lời đương sự băng văn bản, đồng thời nêu rõ lí do không thực hiện được. Kinh phí để thực hiện các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo sự thoả thuận giữa cặp vợ chồng vô sinh với cơ sở y tế trên nguyên tắc bảo đảm đủ chi phí cho việc thực hiện các kĩ thuật trên theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Trường hợp người thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản đặc biệt khó khăn thì có thể được xem xét miễn giảm kinh phí thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Việc miễn giảm kinh phí thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được trích từ tiền thu một phần viện phí và từ các nguồn tài trợ nhân đạo khác (nếu có). Trẻ ra đời do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân và họ được xác định là cha mẹ do thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. +)Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. PLDS quy định về xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững như sau: “Nhà nước có chính sách và biện pháp nhằm loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, bảo đảm phụ nữ và nam giới có quyền lợi, nghĩa vụ như nhau trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”. (Khoản 1 điều 24 PLDS) Đồng thời PLDS quy định về trách nhiệm của các thành viên trong gia đình trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững: “Các thành viên trong gia đình có trách nhiệm hỗ trợ nhau trong việc thực hiện các biện pháp chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho từng thành viên” (Khoản 4 điều 24 PLDS). Một trong những biểu hiện của mục tiêu xây dựng gia đình là các thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản để duy trì đời sống phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình. Đồng thời các thành viên gia đình được hưởng sự chăm sóc giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, học tập, lao động, công tác và phát triển toàn diện khả năng của mỗi thành viên gia đình. +)Khuyến khích duy trì gia đình nhiều thế hệ. “Nhà nước có chính sách khuyến khích duy trì gia đình nhiều thế hệ; mở rộng các dịch vụ xã hội phù hợp với các hình thái gia đình, bảo đảm cho mọi thành viên trong gia đình được hưởng các quyền lợi và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ”. (Khoản 2 điều 24 PLDS) Gia đình nhiều thế hệ bao gồm ông bà, bố mẹ, con cháu là truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, các thế hệ trong gia đình đã chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Hiện tại và tương lai, gia đình nhiều thế hệ vừa thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình vừa thể hiện đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam. Kinh nghiệm các nước trên thế giới đã chỉ ra rằng, nền kinh tế thị trường đã dẫn tới xu hướng của gia đình hạt nhân và những người già trở nên sống độc lập hoặc sống tập trung nơi dưỡng lão. Đối với nước ta nếu xu hướng này diễn ra thì sẽ không thuận lợi, bởi vì đa số người già nước ta chưa có bảo hiểm xã hội, điều kiện sống, sinh hoạt còn rất khó khăn và chủ yếu vẫn dựa vào con; bởi vì nước ta chưa đủ nhà trẻ, lớp mẫu giáo cho trẻ em để vui chơi, học tập cả ngày; bởi vì truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta trong việc thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ nhau. Vì vậy nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để duy trì gia đình nhiều thế hệ, để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau về mọi mặt, tạo điều kiện cho gia đình và các thành viên trong gia đình thực hiện tốt chức năng và xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. +)Tuyên truyền, hướng dẫn nâng cao đời sống gia đình. “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ gia đình nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và xây dựng cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”. (Khoản 3 điều 24 PLDS). NĐ104 quy định chi tiết việc tuyên truyền, hướng dẫn gia đình thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số như sau: “1. Tuyên truyền, hướng dẫn, vận động, giúp đỡ cá nhân, các thành viên gia đình về kiến thức, biện pháp và phương pháp nâng cao chất lượng dân số. Đối với những biện pháp mới, phải tuyên truyền, hỗ trợ vật chất, tinh thần, tổ chức thử nghiệm để cá nhân, các thành gia đình hưởng ứng và tham gia thực hiện. 2. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong các hoạt động lồng ghép chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình với các chương trình nâng cao phúc lợi gia đình, hỗ trợ cá nhân, các thành viên gia đình tham gia dự án cải thiện đời sống và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Xây dựng và hoàn thiện mô hình lồng ghép hoạt động dân số với phát triển gia đình bền vững.” (Điều 27 NĐ104) +)Nâng cao chất lượng dân số cộng đồng. PLDS quy định trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số cộng đồng: “Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện các biện pháp phát triển kinh tế, các dịch vụ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội nhằm nâng cao chất lượng dân số của cộng đồng trong phạm vi địa phương.” (Điều 25 PLDS) NĐ104 quy định chi tiết về nâng cao chất lượng dân số của cộng đồng như sau: “Xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch, chương trình, dự án về sức khỏe, dinh dưỡng, nước sạch, vệ sinh môi trường, trật tự xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, tăng thu nhập và các vấn đề khác, góp phần nâng cao chất lượng dân số của cộng đồng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì.” (Điều 28 NĐ104) Chất lượng dân số của cộng đồng được phản ánh về sức khoẻ, dinh dưỡng, nước sạch, vệ sinh, môi trường, giáo dục trật tự xã hội, gia đình văn hoá, tỉ lệ sinh và thu nhập của cộng đồng mà cộng đồng đó có khả năng thích ứng với sự phát triển và môi trường xã hội. Việc tổ chức thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số cộng đồng được thông qua sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng phải được tổ chức thực hiện tại địa bàn của mỗi cộng đồng, tổ chức để nhân dân áp dụng các phương pháp khoa học trong phát triển kinh tế xã hội, các dịch vụ xã hội cơ bản; tạo phong trào thi đua xây dựng nếp sống mới; thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện. b. Chăm sóc sức khoẻ nhân dân. +) Tăng cường khả năng và cơ hội tiếp cận với dịch vụ y tế Mạng lưới y tế được tổ chức rộng khắp từ trung ương đến địa phương, cơ sở xã, phường, thôn bản. Cho phép phát triển các cơ sở y tế ngoài nhà nướcđể bảo đảm người dân khi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ đều có thể đến được với các cơ sở y tế. Một hệ thống y tế được thiết lập bao gồm cả phòng bệnh, điều dưỡng, phục hồi, chức năng, sản xuất và cung ứng dược phẩm, dụng cụ y tế. Số lượng cán bộ y tế được tăng cường, hệ thống cơ sở y tế công cộng phải đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế ở tất cả các tuyến. +) Bảo đảm công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ Có chính sách hỗ trợ khả năng chi trả của người dân để bảo đảm sự tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế, triển khai các chương trình y tế công cộng và thiết lập chính sách kinh tế như hỗ trợ hoặc trợ cấp không thu tiền thuốc phòng chống dịch, thuốc chữa các bệnh xã hội, các vắcxin phục vụ tiêm chủng mở rộng, hỗ trợ phí vận chuyển muối iốt, thuốc tới vùng núi, vùng sâu, vùng xa và có chính sách cấp thuốc miễn phí cho đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Cần đẩy mạnh chăm sóc sức khoẻ thiết yếu với các chương trình phòng bệnh, giáo dục truyền thông… +) Cung cấp, bảo đảm chất lượng và số lượng dịch vụ. Các chương trình y tế cộng đồng được triển khai như chương trình tiêm chủng mở rộng, cung cấp thuốc thiết yếu, các chương trình sức khoẻ sinh sản, phòng chống sốt rét, bướu cổ, phong, lao, mù, loà…và các chuyên ngành dịch vụ như khám chữa bệnh, phòng bệnh, phục hồi chức năng. Nhiệm vụ của các tuyến y tế được phân định phù hợp với yêu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, trong đó tuyến huyện, xã, thôn bản có nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tuyến tỉnh là tuyến chăm sóc căn bản và tuyến trung ương là tuyến chuyên khoa sâu. Bên cạnh đó Nhà nước nên đầu tư và kêu gọi trợ giúp quốc tế để nâng cao chất lượng chăm sóc y tế, cải thiện tình trạng xuống cấp và lạc hậu về trang bị cho các cơ sở y tế. Đồng thời Bộ y tế cần chú trọng chấn chỉnh tinh thần, thái độ phục vụ và quy chế chuyên môn tại các cơ sở y tế. +) Luật pháp hoá, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy phạm pháp luật Việc bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khoẻ cần được thể chế hoá thành các văn bản luật và dưới luật. Điều này sẽ góp phần tăng cường pháp chế y tế, thực hiện luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Công tác thanh tra xét khiếu tố, thanh tra chuyên ngành đối với các khu vực công và hệ thống tư nhân đã góp phần chấn chỉnh các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, bảo đảm quyền lợi người dân. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách chăm sóc sức khoẻ của nhân dân sẽ góp phần thiết thực trong việc đẩy lùi, hạn chế các hiện tượng tiêu cực, hướng vào phục vụ nhân dân, nâng cao chất lượng dân số ngày một tốt hơn. Các chính sách để chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số nhằm vào 3 mục tiêu: Thứ nhất, giải quyết những nguyên nhân căn bản gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, chất lượng dân số, bằng cách làm giảm mức độ của các yếu tố nguy cơ gây hại cho sức khoẻ và ngăn chặn chúng xuất hiện trong tương lai như cải thiện môi trường sống, điều kiện lao động, giảm nạn thất nghiệp, chống hút thuốc lá và chống dùng các chất gây nghiện, ngăn chặn các tệ nạn xã hội… Thứ hai, giảm thiểu các tổn thất về sức khoẻ do các yếu tố nguy cơ gây ra qua việc giúp đỡ nhân dân chủ động phòng ngừa bệnh tật. Thứ ba, bảo đảm mức độ và chất lượng chăm sóc y tế, đáp ứng nhu cầu đang tăng lên cũng như sự phức tạp của bệnh tật. Như vậy, các chính sách và biện pháp chủ yếu để thực hiện quyền bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số là sự cam kết chính trị với những nỗ lực và giải pháp đa ngành, sự tăng cường đầu tư (từ các nguồn tài chính đa dạng) hợp lí, tổ chức và hoạt động của hệ thống y tế, bảo hiểm y tế; điều kiện kinh tế của xã hội, mức thu nhập, nhận thức của người dân về quyền và nghĩa vụ, cùng với sự tham gia chủ động và tự nguyện của người dân trong chăm sóc sức khoẻ. c.Nâng cao chất lượng dân trí và năng lực xã hội. +)Quy mô, cơ cấu dân số và phân bố dân cư. Tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân số nhằm giảm nhanh tỉ lệ sinh, hướng tới mục tiêu xây dựng quy mô dân số hợp lí, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước để có khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội. Khuyến khích các cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai để giảm tỉ suất sinh và tỉ lệ phát triển dân số. Giảm tỉ lệ trẻ em phụ thuộc, đặc biệt là trẻ em suy dinh dưỡng sẽ tiết kiệm được chi phí dành cho đầu tư để phát triển kinh tế, đồng thời có điều kiện nuôi dưỡng, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho tương lai bao gồm cả về trí tuệ và thể lực. Với cơ cấu dân số trẻ, lực lượng lao động lớn, bên cạnh cố gắng giải quyết thêm việc làm tại chỗ, vấn đề xuất khẩu lao động cũng rất cần được quan tâm. +) Vấn đề nguồn nhân lực và việc làm. Sự phát triển kinh tế xã hội phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Để có thể chiếm lĩnh được thị trường trong nước cũng như quốc tế, để có thể thu hút các nguồn đầu tư, phát huy tiềm năng, phát triển công nghệ, tăng cường nội lực quốc gia không thể không quan tâm tới chất lượng dân số nói chung, chất lượng đội ngũ lao động nói riêng. Chất lượng nguồn nhân lực do công tác giáo dục và chăm sóc sức khoẻ quyết định. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì phải nâng cao chất lượng công tác giáo dục, nâng cao sức khoẻ của nhân dân để tạo ra một lực lượng lao động khoẻ mạnh về thể chất, được giáo dục và đào tạo cơ bản, có hệ thống ngay từ khi cắp sách tới trường cho đến khi thành người lao động có học vấn cao, kĩ năng chuyên môn phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội. Sức ép lớn nhất, trực tiếp nhất của gia tăng dân số là vấn đề việc làm. Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn, phát triển các đô thị nhỏ, thúc đẩy giao lưu kinh tế- văn hoá giữa nông thôn và đô thị. Từ đó, tạo điều kiện để những người dân sống trên địa bàn nông thôn có thể tham gia lao động, sản xuất trong các ngành nghề phi nông nghiệp, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần ngay trên chính quê hương họ theo tinh thần “ly nông bất ly hương”. Đồng thời phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động. Trong điều kiện nguồn nhân lực dồi dào, chưa được đào tạo, chưa có trình độ mà nguồn vốn có hạn, cần có sự lựa chọn các ngành nghề không cần vốn đầu tư lớn, chỉ đòi hỏi trình độ chuyên môn thấp, công nghệ đơn giản, sử dụng lao động thủ công là chủ yếu. Bên cạnh đó cần thúc đẩy các nỗ lực tự tạo việc làm của người dân và thu hút thêm lao động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chủ yếu thông qua các biện pháp khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình. Cùng với điều đó, cần xây dựng, ban hành các chính sách đồng bộ tạo ra môi trường pháp lí thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. +) Nâng cao ý thức về văn hóa, phát triển và bảo vệ môi trường. Vai trò của văn hóa, của giáo dục nâng cao dân trí, phát triển công tác truyền thông đại chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thực hiện chiến lược dân số ở nước ta nhằm nâng cao chất lượng dân số. Sự phát triển văn hoá nhằm thoả mãn những nhu cầu trí tuệ, tinh thần, tình cảm, tâm linh, thẩm mĩ của mỗi con người, kể cả nhu cầu giao tiếp xã hội, làm cho sự hiểu biết những kiến thức, thông tin của những cá nhân và cộng đồng ngày càng rộng rãi và được nâng cao. Việc thoả mãn các nhu cầu văn hoá cho mọi người sẽ ngày càng tăng và được thuận lợi trong điều kiện có sự tăng trưởng kinh tế và chiến lược dân số hợp lí. Chúng ta hiểu rằng, giá trị dân số của một nước không phải ở số lượng nhiều mà chủ yếu chất lượng của dân số đó, xét về chất lượng sống của con người và chất lượng của nguồn nhân lực. Hoạt động của con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân cả về mặt vật chất và tinh thần. Khi trình độ dân trí được nâng cao, rõ ràng họ thấy gia đình cần có ít con để nuôi dưỡng chúng được tốt và bản thân cha mẹ có thời gian học tập, nghỉ ngơi và hưởng thụ văn hoá. Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bên cạnh vấn đề rất quan trọng là đào tạo đội ngũ trí thức, chuyên gia khoa học và nghệ thuật, việc mở rộng mạng lưới thông tin, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng đồng thời quan tâm đến việc tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức cần thiết cho các tầng lớp nhân dân là những khâu then chốt, cấp bách, có hiệu quả. Cùng với những nỗ lực trên việc bảo vệ môi trường bền vững cũng là một vấn đề cấp bách, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng dân số. Chất lượng cuộc sống của chúng ta sẽ bị suy giảm nghiêm trọng khi tài nguyên bị cạn kiệt và môi trường bị suy thoái. Khi đó quy mô dân số sẽ bị ảnh hưởng, chất lượng môi trường tự nhiên cũng trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống về mọi mặt như : sức khoẻ, việc làm, nhà ở, giáo dục… \ C/ KẾT LUẬN Dân số vừa là mục tiêu vừa là động lực cho phát triển, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội như vấn đề giáo dục, y tế, giao thông, môi trường, văn hoá…Để đạt được các mục tiêu ở mọi ngành nghề, lĩnh vực thì trước tiên cần phải quan tâm tới con người và làm sao phải nâng cao chất lượng cuộc sống nói riêng cũng như chất lượng dân số nói chung. Trong việc xác lập và triển khai các chính sách, việc nâng cao chất lượng dân số luôn được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. Việc nâng cao chất lượng dân số sẽ giúp cho xã hội được ổn định, nền kinh tế phát triển, mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mọi áp bức bất công của xã hội từng bước bị loại trừ ; môi trường thiên nhiên được bảo vệ và giữ gìn tốt nhất; xã hội tiến bộ, công bằng, văn minh. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được hoàn thiện hơn. Con người có cơ hội nhiều hơn trong việc phát huy tài năng, năng lực sáng tạo; loại bỏ được đói nghèo. Việt Nam là nước đang phát triển, với những mâu thuẫn đang tăng lên giữa nhu cầu ngày càng cao với các khó khăn về kinh tế, xã hội nhưng Việt Nam đã sớm có những nghị quyết và cam kết mạnh mẽ để bảo đảm chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao chất lượng dân số. Đây cũng là điều mà nhiều nước trên thế giới đang tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng dân số để có cơ hội đưa đất nước mình đi lên, phát triển về mọi mặt. ----------------------------------------- MỤC LỤC Trang A/ Phần mở đầu 1 B/ Nội dung chính 4 I/Chất lượng dân số 4 1.Quan niệm về chất lượng dân số 4 2.Chỉ tiêu phản ánh chất lượng dân số 5 3.Thực trạng và những thành tựu đạt được 8 4 3g t¹o; lo¹i bo ®­îc ®ãi nghÌo cã cuéc sèng Êm no, tù do a/ Tình hình thực hiện nâng chỉ số phát triển con người 8 b/ Chất lượng nguồn nhân lực 10 c/ Chất lượng cuộc sống 11 II/ Nâng cao chất lượng dân số 12 1.Mục đích 12 2.Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số 14 2.1. Trách nhiệm nâng cao chất lượng dân số 14 2.2. Các biện pháp 16 a/ Biện pháp về sức khoẻ sinh sản 17 b/ Chăm sóc sức khoẻ nhân dân 24 c/ Nâng cao chất lượng dân trí và năng lực xã hội 26 C/ Kết luận DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Những nội dung chủ yếu của pháp lệnh dân số Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em- NXB Lao Động Xã Hội- 2003 2.Dân số và phát triển PGS –TS .Vũ Hiền & TS . Vũ Đình Hoè- NXB Chính trị Quốc gia- 2003 3.Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010 Uỷ ban quốc gia dân số- Kế hoạch hoá gia đình- Hà Nội- 2000 4. Pháp lệnh dân số và Nghị Định 104/2003/NĐ-CP của thủ tướng chính phủ Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChất lượng dân số Việt Nam.doc