Đề tài: Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn dài 108 trang:
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND; tìm hiểu thực trạng của hoạt động này ở VKS cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây; trên cơ sở đó đánh giá chất lượng của các công tác này, những kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, yếu kém tồn tại và làm rõ nguyên nhân của chúng đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
5
1.1.
Những khái niệm có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
5
1.2.
Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
31
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
43
2.1.
Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội và những ảnh hưởng đối với việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn
43
2.2.
Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thành phố Hà Nội
48
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIẾM SÁT ĐIỀU TRA THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
67
3.1.
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
67
3.2.
Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
72
3.3.
Một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
95
KẾT LUẬN
101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102
114 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11927 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyên tắc hoạt động cơ bản của nó là tập trung thống nhất thì vai trò của người lãnh đạo lại càng có ý nghĩa quan trọng. "Viện trưởng Viện kiểm sát chịu trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự", "Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình" (Điều 36 BLTTHS). Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND quy định "Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao" [13]. Như vậy, có thể thấy rõ trong hoạt động của VKS, công tác quản lý, chỉ đạo và điều hành có vị trí vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát, trách nhiệm của các lãnh đạo VKS rất nặng nề. Vì vậy, trong vấn đề nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra bao hàm cả yêu cầu tất yếu về tăng cường năng lực lãnh đạo trong đó bao gồm sự chỉ đạo điều hành của lãnh đạo và các phòng nghiệp vụ của VKS cấp trên nhưng chủ yếu, thường xuyên và trực tiếp vẫn là của chính các lãnh đạo đơn vị VKS cấp huyện. Điều này có ý nghĩa trước hết là đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành và cũng là đảm bảo việc phân cấp quản lý của VKS, phát huy tính sáng tạo và chủ động của từng đơn vị VKS cấp huyện trong công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung.
Sở dĩ trong công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS cấp huyện, phải đảm bảo nguyên tắc lãnh đạo thống nhất, tập trung vì theo quy định của pháp luật, Viện trưởng VKS là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm chung về toàn bộ các công tác của đơn vị. Trên cơ sở quản lý chung, Viện trưởng sẽ nắm bắt được toàn bộ các đầu việc và các vấn đề trong đơn vị để chỉ đạo và điều hành. Để làm tốt nhiệm vụ của mình, các lãnh đạo VKS phải là những người hơn ai hết nhận thức thấu đáo về chức năng nhiệm vụ của ngành, các tư tưởng chỉ đạo, các yêu cầu của Đảng và Nhà nước đối với công tác kiểm sát; có phẩm chất đạo đức, có vốn sống, biết nhìn xa trông rộng, gần gũi và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ, Kiểm sát viên, sâu sát với công việc, biết nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan và công minh để phân loại và bồi dưỡng hoặc chọn ra được các cán bộ, Kiểm sát viên tốt; biết bố trí sắp xếp nhân lực một cách khoa học, như vậy mới tận dụng được nguồn lực một cách tối đa. Không chỉ chăm lo công tác quản lý, điều hành mà các lãnh đạo VKS trước hết phải là những Kiểm sát viên tốt, có kiến thức pháp lý, có tay nghề vững vàng, biết quản lý và trực tiếp điều hành tốt các công việc trong phạm vi trách nhiệm của mình, chỉ đạo kịp thời và chính xác công tác giải quyết án nhưng cũng không chỉ đơn thuần quản lý và chỉ đạo mà phải thường xuyên trực tiếp thực hiện các thao tác nghiệp vụ như định kỳ kiểm tra nhà tạm giữ, chủ trì và cho ý kiến quyết định tại các cuộc họp phân loại với các cơ quan tư pháp khác cùng cấp, tham gia khám nghiệm hiện trường, bám án nhất là các vụ án phức tạp để chỉ đạo kịp thời và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, trực tiếp và thường xuyên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án cụ thể…, "cọ xát" với thực tiễn đa dạng và phong phú để không những không bị mai một mà nghiệp vụ ngày càng tinh thông…
Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả của công tác chỉ đạo và điều hành của lãnh đạo VKS lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng công tác tham mưu của các Kiểm sát viên - những chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án. Vì vậy, cần đồng thời vừa đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất lại vừa đảm bảo phát huy được tính chủ động và sáng tạo của các Kiểm sát viên. Muốn vậy, trong quy chế nghiệp vụ của mỗi đơn vị cần phải có sự phân định cụ thể quyền và trách nhiệm cho các cán bộ, Kiểm sát viên để nhằm vừa tạo điều kiện cho họ phát huy năng lực, sở trường và sự độc lập, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong công việc, vừa tránh tư tưởng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, ỷ lại vào cấp trên vì viện lý do thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất một cách máy móc, vừa đảm bảo được tối đa nguyên tắc tập trung thống nhất. Đó cũng chính là quan điểm chỉ đạo và là những yêu cầu, nhiệm vụ mà các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đặt ra. "Tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng của Kiểm sát viên… để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố tụng" [9, tr. 24]. Có một vấn đề quan trọng không thể không đề cập đến trong công tác của các lãnh đạo VKS là phải sâu sát, có sự theo dõi thường xuyên, có hệ thống, đánh giá một cách thỏa đáng và công minh đối với mỗi cá nhân cụ thể nhất là thông qua công việc bởi qua đó con người bộc lộ một cách rõ nét nhất khả năng, tính cách và phẩm chất của mình; trên cơ sở đó cần phải có sự thưởng phạt nghiêm minh. Có như vậy mới phát huy được các nhân tố tích cực, dần dần loại bỏ các yếu tố tiêu cực [9, tr. 21].
Xét về cả mặt lý luận và thực tiễn, một trong các yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của các VKS cấp huyện là chất lượng của công tác chỉ đạo của VKS cấp trên với các VKS cấp dưới song trên thực tế, công tác này chưa được làm thường xuyên và hiệu quả chưa cao, mới chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn các vụ việc riêng lẻ hoặc do các đơn vị cấp huyện thỉnh thị, hoặc VKS cấp trên nắm bắt được qua các báo cáo của các đơn vị VKS cấp dưới. Vậy, để VKS cấp trên nắm bắt được một cách đầy đủ các vấn đề vướng mắc và có sự chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời nhất là về mặt nghiệp vụ thì yêu cầu đặt ra là một mặt các VKS cấp huyện phải làm tốt công tác báo cáo thống kê định kỳ và báo cáo các vụ việc xảy ra có vướng mắc trên tinh thần trung thực, cầu thị, mặt khác, các VKS cấp trên cần tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra đối với cấp dưới kể cả định kỳ và bất thường bởi thông qua đó sẽ phát hiện được các vấn đề thiếu sót thậm chí sai phạm để chỉ đạo, hướng dẫn, chấn chỉnh kịp thời. Các vụ việc, các vấn đề cần phải rút kinh nghiệm mà VKS cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới cần được phổ biến để rút kinh nghiệm chung; phải làm tốt công tác tập huấn nghiệp vụ cho các VKS cấp dưới về các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ; phải tăng cường sơ kết và tổng kết công tác chuyên môn và cần nghiên cứu đê có các đề tài khoa học sát thực, huy động sự tham gia đóng góp ý kiến của các VKS cấp cơ sở để tổng kết thực tiễn, tìm ra các vấn đề vướng mắc, trên cơ sở đó hướng dẫn hoặc kiến nghị với liên ngành Trung ương có hướng dẫn cụ thể.
Một trong các lý do để nhất thiết phải đổi mới và nâng cao vai trò của công tác chỉ đạo, điều hành trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là bởi thực tiễn hoạt động giải quyết án hình sự cho thấy hiệu quả của việc chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hiệu quả của mối quan hệ phối hợp giữa các VKS cấp huyện với các cơ quan chức năng ở cấp huyện. Thực tiễn cho thấy nhiều khi những vướng mắc có ảnh hưởng không tốt đến sự phối hợp giữa Kiểm sát viên với các Điều tra viên, giữa VKS với các cơ quan khác không phải do xuất phát từ những lỗ hổng của pháp luật mà là từ những vướng mắc trong nhận thức và hành động của các cá nhân được giao tiến hành tố tụng, trong việc thể hiện bản lĩnh nghiệp vụ và uy tín của lãnh đạo VKS cấp huyện. Kiến thức nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất trong sáng, lập trường kiên định cộng với phương pháp làm việc vừa linh hoạt, mềm mỏng vừa kiên quyết, dám quyết, dám chịu trách nhiệm của các lãnh đạo VKS vừa là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là niềm tin cho các Kiểm sát viên, các Điều tra viên khi thực thi công vụ cũng vừa chính là thể hiện uy tín và vai trò của VKS trong TTHS.
3.2.5. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện
Mặc dù là cơ quan có vị trí, chức năng đặc biệt trong hệ thống các cơ quan tư pháp song việc thực thi chức năng nhiệm vụ của VKS chỉ có thể thực hiện được khi đặt nó trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Trong giai đoạn điều tra, đó là mối quan hệ giữa VKS và Cơ quan điều tra trong giải quyết các vụ án hình sự. Đây là mối quan hệ độc lập dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về sự ràng buộc, sự chế ước giữa hai bên trong các hoạt động chức năng suốt quá trình điều tra, cùng hướng tới mục đính chung là bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước và xã hội. Các mối quan hệ đó có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình giải quyết các vụ án hình sự trong đó nhận thức, thái độ và sự tuân thủ pháp luật, chất lượng của công tác thực hiện chức năng của Cơ quan điều tra và các Điều tra viên - những người trực tiếp tiến hành hoạt động tố tụng có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS [7, tr. 112]. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện thì phải đồng thời quan tâm đến chất lượng của công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, của các Điều tra viên. Thực tiễn cho thấy trong quá trình điều tra không phải lúc nào giữa cơ quan VKS và Cơ quan điều tra cũng đạt được sự thống nhất trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật. Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan như do mặt bằng kiến thức khác nhau dẫn đến việc nhận thức và áp dụng các quy định của pháp luật khác nhau, do pháp luật chưa đồng bộ và thống nhất, còn nhiều khe hở, việc hướng dẫn chưa kịp thời và đầy đủ, do biên chế của Cơ quan điều tra còn mỏng, chất lượng của các Điều tra viên còn hạn chế chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, bên cạnh đó có một nguyên nhân nữa ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng và hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra cần được quán triệt và khắc phục đó là nhận thức sai lệch của chính các Điều tra viên, các Kiểm sát viên về mối quan hệ giữa VKS với Cơ quan điều tra: Mặc dù pháp luật quy định VKS có vai trò quyết định nhưng như vậy không có nghĩa là các Điều tra viên, Cơ quan điều tra chỉ thực hiện các thao tác nghiệp vụ theo yêu cầu của VKS và chỉ khi VKS có yêu cầu, các Kiểm sát viên giám sát các hoạt động tố tụng của các Điều tra viên còn bản thân mình thì có thể tùy ý, tùy tiện khi thi hành công vụ mà trái lại, hơn ai hết chính các Kiểm sát viên trước hết phải tự mình là những tấm gương tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật; trường hợp ngược lại thì phải bị xử lý theo quy định pháp luật. Thống nhất nhận thức như vậy mới tránh được tư tưởng "quyền anh, quyền tôi", tránh lạm dụng hoặc tuyệt đối hóa chức năng nhiệm vụ của VKS, khắc phục quan điểm sai lầm cho rằng hoạt động của Cơ quan điều tra chỉ là thực hiện các yêu cầu của VKS dẫn đến hoặc thiếu chủ động và độc lập hoặc ỷ lại trông chờ hay né tránh, đùn đẩy trách nhiệm khi thi thành công vụ [7, tr. 113].
Do vậy, cần phải có kế hoạch chiến lược để giải quyết và tháo gỡ các vấn đề về bất cập nêu trên ở tầm vĩ mô như tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng của đội ngũ Điều tra viên, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho Cơ quan điều tra cấp huyện, ban hành các văn bản pháp luật quy định rõ ràng và cụ thể các căn cứ cho hành vi của từng chủ thể này trong giai đoạn điều tra, phân định trách nhiệm cụ thể trong từng trường hợp [7, tr. 114].
3.2.6. Tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp huyện với các phòng ban, đơn vị khác trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
Đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ của cả xã hội song trước hết là nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có VKS. VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập theo quy định của pháp luật song để hoạt động đó có hiệu quả thì VKS không thể nào"đơn phương độc mã" mà phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình trong mối quan hệ khăng khít với các cơ quan tiến hành tố tụng khác đặc biệt là Cơ quan điều tra, bên cạnh đó còn có các ban ngành khác của địa phương:
Trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Tòa án, Công an, Thanh tra, Tư pháp, các cơ quan khác của Nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận, các đơn vị vũ trang nhân dân để phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; tuyên truyền giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo bồi dưỡng cán bộ... (Điều 7 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Các mối quan hệ nêu trên là các mối quan hệ phối kết hợp trong công tác nghiệp vụ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, phục vụ tình hình chính trị địa phương, đấu tranh phòng chống tội phạm.Thực tế cho thấy việc phối kết hợp chặt chẽ và có hiệu quả giữa các VKS cấp huyện với các cơ quan chức năng ở địa phương là một phương sách tốt cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả nhất là với các loại tội phạm được xác định là "điểm". Nhiều vụ án nhờ có sự phối hợp liên ngành ngay từ đầu trong đó có việc nắm bắt thông tin vi phạm và tội phạm, phân loại xử lý… nên việc khởi tố và xử lý đảm bảo có căn cứ, đúng thời hạn, các thiếu sót trong quá trình giải quyết các vụ án được phát hiện và khắc phục kịp thời. Vì vậy, các VKS cấp huyện phải xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan chức năng, phải là cơ quan tích cực và chủ động tìm hiểu và có sự tổng kết để tìm ra nguyên nhân, điều kiện, tính chất của tội phạm, kịp thời nắm bắt, báo cáo các vụ có tính chất phức tạp xảy ra trên địa bàn và tham mưu cho cấp ủy, Đảng các biện pháp chủ động phòng chống tội phạm trên địa bàn; cần định kỳ và thường xuyên báo cáo kết quả việc thực hiện công tác chuyên môn đơn vị mình để cấp ủy, Đảng địa phương nắm bắt được tình hình của công tác kiểm sát, quan tâm tạo điều kiện cho công tác kiểm sát, kịp thời có hướng chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn. Bên cạnh đó, VKS phải tranh thủ sự ủng hộ và tạo điều kiện của các ban ngành, đoàn thể ở cấp huyện, thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng xác định và có kế hoạch phối hợp công tác để vừa được tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, vừa đảm bảo phục vụ tình hình chính trị địa phương. Lẽ tất nhiên, mối quan hệ này phải được xây dựng trên cơ sở chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi ngành, dựa trên các nguyên tắc cơ bản và phải đảm bảo tôn trọng các nguyên tắc hoạt động đặc thù của mỗi ngành... và cùng hướng tới một mục tiêu chung là đấu tranh phòng chống tội phạm. Có như vậy, các VKS cấp huyện mới có thể tranh thủ được sự ủng hộ đồng tình, tạo điều kiện của các cấp ủy, Đảng và chính quyền ở địa phương, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả.
3.2.7. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát và tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn luật
3.2.7.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện
Thời gian vừa qua, được sự quan tâm của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta đã có những tiến bộ quan trọng, nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh đã được ban hành, kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng, tạo một khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội... Song, "Hệ thống pháp luật ở nước ta nói chung, pháp luật trong lĩnh vực tư pháp nói riêng vẫn không tránh khỏi những hạn chế, chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều sơ hở" [16, tr. 2], " Chính sách hình sự, chế định pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung" [9, tr. 1]… Đây cũng chính là một trong các nguyên nhân của các hạn chế, thiếu sót hiện đang tồn tại làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS. Vì vậy, để có thể nâng cao được chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nói riêng thì đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ, vừa đảm bảo thể chế hóa đầy đủ đường lối chủ trương của Đảng vừa tạo ra những khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Vấn đề tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là đòi hỏi của thực tiễn, là điều kiện có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS, là chủ trương của Đảng, nhiệm vụ của Nhà nước. Đúng như Đảng ta đã xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo:
Cần phải nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch; thể chế hóa kịp thời và đúng đắn đường lối chủ trương của Đảng..., Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của chiến lược cải cách tư pháp, xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan tư pháp…[17, tr. 3].
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của VKS theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, xác định đúng và đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của VKSND theo hướng đảm bảo thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp và nghiên cứu chuyển thành Viện công tố [17, tr. 3].
Trong pháp luật hình sự thì:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh quốc gia, đấu tranh phòng chống tội phạm theo hướng xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt, hoàn thiện chính sách hình sự, đảm bảo yêu cầu đề cao tính phòng ngừa, hạn chế án tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với các lại tội ít nghiêm trọng. Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, HIV/ AIDS... [17, tr. 4].
3.2.7.2. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích luật và tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật
Có một hệ thống pháp luật tốt là một điều kiện cần song chưa phải là đã đủ. Muốn phát huy được hiệu quả của nó thì bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần phải đảm bảo việc nhận thức và áp dụng pháp luật thống nhất bởi có nhiều điều luật, nhiều văn bản pháp luật quy định thiếu chặt chẽ, cụ thể, không rõ ràng, không dễ hiểu thậm chí còn mâu thuẫn, chồng chéo. Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mỗi chủ thể tiến hành tố tụng nói chung, của VKS nói riêng trong TTHS thì ngay trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải thống nhất thì mới có thể vận dụng thống nhất các quy định của pháp luật. Muốn như vậy thì đối với các quy định của pháp luật còn có những khó khăn, vướng mắc cần phải được sự hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền thế nhưng trong thực tế việc hướng dẫn đó lại thường chưa được kịp thời và ngay cả khi đã có được văn bản hướng dẫn rồi cũng chưa đảm bảo đầy đủ, dễ hiểu cho nên có thể nói là công tác hướng dẫn luật hiện nay còn chưa đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và chất lượng của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, là một trong các nguyên nhân của tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm hiện đang còn tồn tại, đó cũng là một trong số các nguyên nhân của các vụ án phải gia hạn hoặc đình chỉ điều tra... Nguyên nhân của vấn đề này có thể do trình độ nhận thức hạn chế, do kỹ thuật lập pháp chưa cao hoặc do các nhà làm luật không thể dự đoán được khi xây dựng luật mà chỉ thông qua thực tiễn vận dụng pháp luật mới nảy sinh hoặc mới phát hiện các vấn đề đòi hỏi phải có sự giải thích và hướng dẫn. Mặt khác, bởi cuộc sống thì luôn thay đổi, cho nên để phù hợp với thực tiễn luôn biến động đó cần phải vừa tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến và giáo dục, hướng dẫn pháp luật, vừa phải thường xuyên và không ngừng tổng kết thực tiễn, tổ chức rút kinh nghiệm để tìm ra các vướng mắc, kịp thời hướng dẫn, kiến nghị hướng dẫn hoặc sửa đổi để một mặt tháo gỡ khó khăn cho các cơ quan tư pháp vừa tạo được một hệ thống pháp luật tốt. Vì lẽ đó, Đảng ta đã chủ trương "đẩy mạnh xây dựng pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến pháp luật và nghiên cứu khoa học về công tác tư pháp", "đối với các nội dung của các luật, pháp lệnh cần giải thích, hướng dẫn thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích theo quy định của Hiến pháp" [16, tr. 8].
3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc cải cách tư pháp
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo của toàn xã hội, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua mọi thời kỳ và đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước và cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Vai trò của Đảng ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng và hiệu quả cũng như sự thành bại của công cuộc cải cách tư pháp. Mọi chủ trương, đường lối cải cách của Đảng đều được Đảng bộ thành phố Hà Nội nghiên cứu quán triệt kịp thời và đầy đủ trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp và bước đi phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa bàn quận huyện; đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong đó việc duy trì sự kiểm tra đôn đốc thường xuyên đối với công tác tư pháp cũng là yếu tố quan trọng cho sự thành công của công tác này. Thời gian qua, nhờ sự chỉ đạo sâu sát và kịp thời đúng đắn của các cấp ủy Đảng trên toàn thành phố, nhận thức của các cấp ủy, Đảng, của mỗi đảng viên và của mỗi tổ chức Đảng, các đoàn thể và của toàn xã hội về vị trí vai trò của công tác tư pháp nói chung, về vị trí và vai trò và chức năng nhiệm vụ của VKS nói riêng có sự thay đổi lớn và nhờ đó đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận đánh giá, trong chính sách đối với các cơ quan tư pháp, với VKS, tạo những điều kiện thuận lợi để VKS triển khai thực hiện có hiệu quả công tác cải cách của ngành, đạt được những kết quả thành công bước đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác tư pháp, của công tác kiểm sát và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể:
- Các VKS cấp huyện phải biết luôn gắn việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành không tách rời sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ ý kiến chỉ đạo của các cấp ủy, Đảng mà trực tiếp là Thường vụ quận ủy, đảm bảo gắn việc thực hiện công tác chuyên môn với việc phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Có như vậy các VKS cấp huyện mới được sự đồng tình và ủng hộ của cấp ủy, Đảng địa phương, sự tạo điều kiện của các ngành và các cấp chính quyền, đoàn thể.
- Cần phải hoàn thiện hơn nữa các Chỉ thị, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp nói chung, về công tác kiểm sát nói riêng để công cuộc cải cách tư pháp ngày một sâu rộng và hiệu quả. Trước mắt là tập trung quán triệt Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và thực hiện tốt những công việc mà Nghị quyết đặt ra từ nay cho đến năm 2010.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên, mỗi tổ chức chính quyền, đoàn thể về chức năng vị trí vai trò nhiệm vụ của cơ quan tư pháp, của VKS.
- Các cấp ủy, Đảng địa phương cần quan tâm hơn nữa tới công tác tư pháp trong đó có công tác kiểm sát, phải sâu sát và kịp thời nắm bắt, có hướng chỉ đạo công tác kiểm sát về đường lối, quan điểm trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành; cần chỉ đạo các phòng ban có chức năng phối hợp tốt với VKS trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, tạo điều kiện về mọi mặt để giúp VKS tháo gỡ và khắc phục các khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ; cần sâu sát với các tổ chức cấp ủy VKS cấp huyện để nắm bắt tâm tư của quần chúng, đảng viên; quản lý, kiểm tra và đánh giá thường xuyên, chính xác tư cách đạo đức chính trị của đảng viên, chăm lo công tác tổ chức cán bộ, giáo dục, bồi dưỡng, chọn lọc để giới thiệu cho ngành kiểm sát những cán bộ lãnh đạo tốt có trình độ chuyên môn vững vàng, có lập trường kiên định, phẩm chất đạo đức tốt, "vừa hồng vừa chuyên".
3.2.9. Tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát cấp huyện và hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên cấp huyện
Trong các chỉ thị, nghị quyết về cải cách tư pháp, Đảng ta nhìn nhận rất khách quan về một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của công tác tư pháp nói chung và công tác kiểm sát nói riêng "Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là cấp huyện, nhiều nơi trụ sở còn chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu" [9, tr. 1], [16, tr. 2]. Và đồng thời với việc giao trách nhiệm, Đảng cũng chỉ đạo tạo điều kiện rất nhiều cho hoạt động của VKS. Trong số các nhiệm vụ trọng tâm mà các Nghị quyết xác định có nhiệm vụ tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, về chính sách tiền lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ phù hợp cho các cơ quan và cán bộ tư pháp trong đó có VKSND: "Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý với cán bộ tư pháp..." và "Sớm nghiên cứu chế độ bồi dưỡng cho thẩm phán, kiếm sát viên, điều tra viên, thư ký phiên tòa với mức phụ cấp thỏa đáng, phù hợp với chất lượng và khối lượng công việc..." [9, tr. 23], [13, tr. 3], [16, tr. 7]. Gần đây nhất, ngày 28/8/2007, tại phiên họp thứ 15 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết - Trưởng ban chỉ đạo trong lời phát biểu của mình cũng nhấn mạnh quan điểm cần tăng cường kinh phí cho công việc cải cách tư pháp, tập trung giải quyết nhanh cơ sở vật chất, trụ sở cho các Tòa án và VKS nhằm đảm bảo cho công tác xét xử và thể hiện sự uy nghiêm của Tòa án.
Thực hiện tinh thần của các chỉ thị và nghị quyết trên của Đảng, trong thời gian qua các cấp ủy, Đảng và chính quyền đã có sự quan tâm đặc biệt đối với các cơ quan tư pháp nói chung, với ngành kiểm sát và các VKS cấp huyện nói riêng. Nhờ đó cơ sở vật chất và các trang thiết bị làm việc của các cơ quan VKS cấp huyện thành phố Hà Nội đã có sự cải thiện rất rõ rệt. Hầu hết các VKS cấp huyện đã được xây mới hoặc sửa chữa, nâng cấp trụ sở làm việc và mua sắm các thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn. Chính sách đãi ngộ đối với các cán bộ, Kiểm sát viên đã có những bước tiến bộ: Nhà nước chính thức có khoản phụ cấp trách nhiệm cho các cán bộ, Kiểm sát viên trong đó có các cán bộ, Kiểm sát viên VKS cấp huyện, các khoản tiền bồi dưỡng phiên tòa và khám nghiệm hiện trường, công tác phí cũng được nâng hơn theo thời giá… Nhờ đó điều kiện làm việc cũng như đời sống của cán bộ kiểm sát cấp huyện phần nào được cải thiện. Điều đó tạo ra một sự phấn khởi thoải mái nhất định trong các cán bộ, Kiểm sát viên.
Tuy nhiên so với thực tế yêu cầu của công tác kiểm sát trong hoàn cảnh hiện nay thì còn nhiều vấn đề khó khăn đặt ra: Một số VKS quận, huyện tại Hà Nội nhất là các quận mới thành lập và các huyện ở xa trung tâm vẫn chưa có được trụ sở làm việc ổn định phải đi thuê, một số khác trụ sở cũ nát, xuống cấp, không đảm bảo điều kiện làm việc, không thể hiện tính uy nghi cần có của một cơ quan công quyền; những trang thiết bị có sẵn thì đã cũ kỹ và lạc hậu, những cái mới có thì còn ít, chưa đủ để đáp ứng với nhu cầu; do nguồn kinh phí hạn hẹp và lại chưa được sự quan tâm đầu tư đúng mức, đúng mục đích nên các sách báo, tạp chí, tài liệu cần thiết phục vụ cho công việc chuyên môn chưa được mua sắm và lưu trữ đầy đủ và khoa học; các tiện nghi phục vụ cho công tác chuyên môn như vi tính, điện thoại, xe công còn chưa được trang bị đầy đủ… So với yêu cầu nhiệm vụ thì chế độ trách nhiệm của các Kiểm sát viên VKS rất nặng nề trong khi đó đồng lương lại thấp, chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng cho nên đời sống của cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn, nhiều cán bộ, Kiểm sát viên phải chật vật toan lo cho cuộc sống hàng ngày nên không yên tâm và không nhiệt tình dồn tâm sức cho công tác chuyên môn nên ảnh hưởng một phần đáng kể đến chất lượng công tác.
Do vậy, cần phải có hướng đầu tư và hỗ trợ hơn nữa để đảm bảo cơ sở vật chất và các phương tiện làm việc cho các VKS cấp huyện như xây dựng, nâng cấp các trụ sở làm việc cho các VKS cấp huyện; tăng cường đầu tư và trang bị cơ sở vật chất và các phương tiện để phục vụ công việc, tăng nguồn kinh phí cấp để hoạt động, chi phí cho việc mua sắm các sách báo tài liệu để nghiên cứu phục vụ công tác nghiệp vụ; VKSNDTC cần chủ động trang bị cho các VKS cấp dưới nhất là cấp huyện các sách, tài liệu pháp luật phục vụ cho công tác chuyên môn... Cần có chính sách tháo gỡ ở tầm vĩ mô nhằm cải thiện chế độ phụ cấp, đãi ngộ thỏa đáng tương xứng với khối lượng và tính chất công việc đối với cán bộ kiểm sát.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
Để nâng cao hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện, theo tác giả cần phải thực hiện một cách triệt để và đồng bộ các giải pháp nêu trên. Ngoài ra, tác giả có một số kiến nghị cụ thể như sau:
Kiến nghị thứ nhất: Kiện toàn tố chức bộ máy và chú trọng đặc biệt nhân tố con người
Trong công tác kiểm sát cũng như trong bất cứ công việc nào, nhân tố con người có vai trò quyết định. Hồ Chủ tịch đã từng nói: "Dụng nhân như dụng mộc", Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII cũng đã nêu rõ: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng". Do đó công tác lựa chọn, sử dụng cán bộ là khâu vô cùng quan trọng. Để đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay của VKS cấp huyện, chúng tôi kiến nghị VKS thành phố Hà Nội và các VKS cấp huyện trên địa bàn cần phải phấn đấu xây dựng được một đội ngũ nhân lực tốt. Muốn như vậy, cần phải mạnh dạn trong công tác chọn lọc và sử dụng cán bộ, chú trọng đến tiêu chí chất lượng với phương châm "ít mà tinh". Cụ thể:
- Phải làm tốt hơn nữa công tác tổ chức cán bộ trong đó có vấn đề chọn lọc, đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ lãnh đạo. Công tác bổ nhiệm lãnh đạo cần phải có sự đổi mới mang tính bứt phá: Phải tiêu chuẩn hóa các tiêu chí bổ nhiệm lãnh đạo để VKS cấp huyện có được một đội ngũ lãnh đạo tốt có kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ tốt, có phẩm chất đạo đức, có kỹ năng quản lý và điều hành công tác công tố; việc bổ nhiệm phải dựa trên cơ sở kết hợp các yếu tố trong đó yếu tố dân chủ cấp cơ sở không xem nhẹ nhưng cũng rất cần có sự sáng suốt và công tâm, khách quan của những người có trách nhiệm trong việc lựa chọn và bổ nhiệm các cán bộ lãnh đạo, cần tránh xu hướng lựa chọn và đề bạt mang tính cảm tính, chỉ dựa trên cơ sở mối quan hệ, lựa chọn và đề bạt theo "ê kíp" bởi vì phương pháp đó tuy có phần thuận lợi là do đội ngũ lãnh đạo đã hiểu nhau, phù hợp nhau nên dễ làm việc song thực tế cho thấy những người được thủ trưởng tin cậy nhất chưa hẳn đã là người ưu tú nhất, xứng đáng với cương vị được cất nhắc, nhất là nếu vị thủ trưởng đó lại là người không có cái nhìn công minh, không biết vì uy tín và tương lai của ngành.
- Trong công tác quản lý, lãnh đạo và điều hành cần chú trọng đến việc nâng cao năng lực và hiệu quả, không nhất thiết phải rập khuôn máy móc mỗi VKS cấp huyện phải cơ cấu lãnh đạo gồm một Viện trưởng và ba Phó viện trưởng mà số lượng lãnh đạo và biên chế cần được bố trí sắp xếp theo đặc điểm của từng địa bàn.
- Trong công tác cán bộ cần có sự đánh giá và sử dụng cán bộ một cách khoa học và hợp lý; cần phải bố trí các cán bộ có kiến thức, có chuyên môn vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt làm công tác hình sự; phải làm tốt và nghiêm túc công tác phân loại cán bộ, Kiểm sát viên, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ. Trong việc bổ nhiệm Kiểm sát viên phải đặt tiêu chí năng lực nghiệp vụ lên hàng đầu, ưu tiên các cán bộ đã tốt nghiệp đại học Luật hệ chính quy. Tất nhiên khi đánh giá năng lực không tuyệt đối hóa tiêu chuẩn bằng cấp song không thể phủ nhận rằng bằng cấp chính là những cơ sở của nền móng tri thức mà tri thức pháp luật lại là nguồn tạo ra năng lực thực thi nhiệm vụ của các Kiểm sát viên. Cần phải có kế hoạch đào tạo lâu dài, đào tạo có chiều sâu và chú trọng chất lượng, không nên nóng vội, chỉ chạy theo hình thức và số lượng. Công tác đánh giá cán bộ ở mỗi đơn vị hàng năm phải nghiêm túc, công bằng, dựa trên cơ sở chất lượng công việc, tránh hoặc dĩ hòa vi quý nên qua loa đại khái hoặc thiên vị, hoặc bình quân cào bằng bởi đó đều sẽ là các nguyên nhân triệt tiêu mọi động lực phấn đấu. Định kỳ nên có các cuộc thi sát hạch để đánh giá chất lượng các cán bộ, Kiểm sát viên và thông qua kết quả đó mạnh dạn loại bỏ khỏi biên chế các cán bộ, Kiểm sát viên không đáp ứng được yêu cầu công việc. Việc bổ nhiệm Kiểm sát viên cấp huyện cũng cần tuân thủ một quy trình chặt chẽ hơn và có chất lượng hơn, tránh bổ nhiệm tràn lan và chưa đảm bảo chất lượng như hiện nay, tốt nhất là cần tổ chức thi tuyển một cách công khai, minh bạch. Bên cạnh đó, cần mở rộng cơ chế thi tuyển công khai và chặt chẽ, minh bạch để tuyển dụng được những cán bộ thực sự tốt cho ngành. VKSNDTC cần có chính sách khuyến khích tài năng như tạo điều kiện cho những cán bộ, Kiểm sát viên có ý thức học tập nâng cao trình độ để tạo một lực lượng cán bộ khoa học có lý luận, có năng lực phục vụ cho ngành; nên nghiên cứu từng bước gắn kết quả học tập, giá trị văn bằng chứng chỉ với chế độ đãi ngộ đối với các cán bộ, Kiểm sát viên; cần có chính sách thưởng phạt nghiêm minh trên cơ sở kết quả công tác chuyên môn nhằm khích lệ, phát huy các nhân tố tích cực. Ngoài ra, cần chú ý và có chính sách giải quyết tháo gỡ ở tầm vĩ mô về chính sách đãi ngộ và chế độ phụ cấp thỏa đáng cho các cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành, tạo điều kiện để họ yên tâm công tác và chuyên tâm, đầu tư cho công tác chuyên môn.
Kiến nghị thứ hai: Xây dựng các văn bản pháp luật để tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với các cơ quan chức năng trong giải quyết án hình sự
Như phần trên đã phân tích, sự phối hợp trong công tác giữa các cơ quan tư pháp ở địa phương và với các ban ngành địa phương có tầm quan trọng rất lớn đối với hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS nhất là VKS cấp huyện. Cho nên một vấn đề có ý nghĩa quan trọng cần phải lưu tâm giải quyết là xây dựng và củng cố mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự. Đến nay, các quy định của pháp luật về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan này còn mới chỉ dừng ở mức độ chung chung và vẫn chưa được xây dựng thành các văn bản tập trung, cụ thể và đầy đủ cho nên thực tiễn cho thấy hiệu quả thực hiện mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và VKS ở các địa bàn khác nhau rất khác nhau, nhiều khi phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa các Thủ trưởng của các cơ quan đó và giữa các cá nhân khi thực thi công vụ. Do vậy, theo chúng tôi, để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thực hiện chức năng, trong khi chờ đợi các cơ quan chức năng xây dựng được các văn bản pháp luật quy định cụ thể về mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tố tụng và giữa các cơ quan tố tụng với các cơ quan chức năng khác, các VKS cấp huyện cần chủ động tranh thủ sự ủng hộ của các cấp ủy, Đảng địa phương chủ trì xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các ban ngành ở địa phương trong đó quy định cụ thể trách nhiệm của mỗi bên và cơ chế đảm bảo việc thực hiện. Một khi đã thành quy chế phối hợp thì việc thực hiện nghiêm túc các quy định của quy chế đó trở thành bắt buộc và là công cụ giúp ích đắc lực cho công tác kiểm sát.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong giai đoạn hiện nay, công tác thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát đứng trước những thử thách lớn với những khó khăn mới và những yêu cầu mới. Tuy nhiên trong bối cảnh đó hơn bao giờ hết, công tác kiểm sát được sự quan tâm tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở phân tích những vấn đề vướng mắc kể cả trong lĩnh vực lý luận và thực tiễn của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, phân tích các kết quả đạt được, các vấn đề thiếu sót còn tồn tại trong hoạt động đó của VKS cấp huyện đồng thời làm rõ nguyên nhân, luận văn đã đưa ra một số giải pháp cụ thể để tháo gỡ, khắc phục các khó khăn, vướng mắc, tận dụng các điều kiện thuận lợi nhằm nâng cao chất lượng của công tác này để từng bước đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cải cách tư pháp bao gồm: Đổi mới và nâng cao chất lượng của bộ máy tổ chức cán bộ và hoạt động của VKS cấp huyện; đổi mới bộ máy tổ chức cán bộ của VKS cấp huyện; quán triệt và nắm vững các đường lối chính sách và yêu cầu đổi mới trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên cấp huyện; nâng cao trách nhiệm và năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện; đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện; tăng cường sự phối hợp giữa VKS cấp huyện với các phòng ban, đơn vị khác trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; hoàn thiện hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS và tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho VKS cấp huyện và hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, KSV cấp huyện. Đồng thời tác giả cũng đề xuất kiến nghị về kiện toàn tổ chức bộ máy và chú trọng đặc biệt nhân tố con người, sớm xây dựng các văn bản pháp luật để tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS với các cơ quan chức năng trong giải quyết án hình sự nhằm ngày một nâng cao chất lượng của công tác kiểm sát trong đó có thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước,VKSND được giao cho chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là một nhiệm vụ rất vinh dự nhưng cũng rất nặng nề mà VKSND được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho gánh vác. Đến nay, công tác kiểm sát đã đạt được những kết quả tốt góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đổi mới của đất nước song cũng vẫn còn những hạn chế tồn tại mà toàn ngành kiểm sát phải xác định để có hướng phấn đấu khắc phục nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; công tác kiểm sát được tạo nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng còn gặp không ít những khó nhăn, vướng mắc trên các phương diện cả về lý luận và thực tiễn. Để góp phần vào việc tháo gỡ những khó khăn đó, tác giả đã cố gắng đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát điều tra, khái niệm, đối tượng, nội dung, phạm vi và mối quan hệ giữa các vấn đề đó, coi đó là những nền tảng cho việc nhận thức và thực hiện các chức năng nhiệm vụ của VKSND, phân tích và làm rõ thực hành quyền công tố và và kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS trong giai đoạn điều tra đồng thời trên cơ sở sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… đánh giá các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội, các ảnh hưởng của chúng đến công tác thực hiện chức năng nói chung, đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nói riêng của VKS cấp huyện thành phố Hà Nội nói riêng; đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, các kết quả đã đạt được cần phát huy, các vấn đề thiếu sót yếu kém tồn tại cũng như nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp và có một số kiến nghị cần thực hiện nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của VKS cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn cải cách tư pháp và hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ, xứng đáng với vai trò của Viện kiểm sát Thủ đô.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2003 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Cảm (2001), "Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3 về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/ TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội.
Đào Hữu Dân (2005), "Những đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự", Công an nhân dân, (2).
Nguyễn Tấn Dũng (2003), "Bài phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2002 và triển khai công tác năm 2003 của ngành Kiểm sát nhân dân, ngày 07/01/2003", Kiểm sát, (2).
Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2001), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ Chính trị (khóa IX) về một số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/01 của Bộ Chính trị (khóa IX) về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo kết quả 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/ TW, Hà Nội.
Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Đỗ Văn Đương (1999), "Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Phạm Hồng Hải (1999), "Bàn về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp", Kiểm sát, (8), tr. 7 -11.
Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Thị Tuyết Hoa (2001), "Bàn về quyền công tố", Nhà nước và pháp luật, (10).
Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Phạm Tuấn Khải (1999), "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Dương Xuân Khính (2002), "Những yêu cầu và biện pháp để nâng cao trình độ và chất lượng cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân", Kiểm sát, (2).
Trần Đức Lương (2002), Bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công tác năm 2002 của ngành kiểm sát nhân dân ngày 2002, Hà Nội.
Nguyễn Đức Lương (2002), "Bàn về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002", Kiểm sát, (8).
Nguyễn Đức Lương (2002), "Nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002", Kiểm sát, (8).
Nguyễn Đức Mai (1999), "Một số ý kiến về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trần Văn Nam (2004), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Võ Quang Nhạn (1984), "Bàn về quyền công tố", Kiểm sát, (2).
Nguyễn Thái Phúc (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát", Kỷ yếu đề tài khoa học: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
Quốc hội (2002), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội
Rouseau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Trịnh Duy Tám (2005), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Lê Hữu Thể (chủ biên) và các đồng tác giả (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Trương Vĩnh Trọng (2002), Bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công tác 6 tháng cuối năm 2001 của ngành Kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình Công tác kiểm sát, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa X (2002), Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) (số 729/ UBPL ngày 14/3), Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/ NQ/ UBTVQH 10 ngày 17/3về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.
Nguyễn Tất Viễn (2002), "Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Kỷ yếu đề tài cấp bộ", Kỷ yếu đề tài khoa học: Những giải pháp nâng cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội (2003 - 2006), Báo cáo thống kê hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội (2006), 45 năm xây dựng và trưởng thành, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Quyết định số 53/1998/QĐ-KSĐT ngày 21/9 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế kiểm sát điều tra, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Quy chế công tác kiểm sát điều tra, Hà Nội
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), "Tờ trình số 07/VKH ngày 11/3 về dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)", Kiểm sát, (4).
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Thông tin khoa học pháp lý, Số chuyên đề, (1).
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Quyết định số 120/2004/QĐ-VKSNDTC ngày 14/9 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Sổ tay Kiểm sát viên, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai (2005- 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân (2003 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác hàng năm, Hà Nội.
Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- Bia - ThS1.doc