Đề tài Châu Á đương đầu với Bộ ba bất khả thi

MỤC LỤCContents MỤC LỤC 1 LỜI NÓI ĐẦU 2 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 I.1. Thuyết bộ ba bất khả thi của GS. Robert Mundell 4 I.2. Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian. 5 I.3. Thuyết Tứ Diện (A tetrahedron Hypothesis) 7 II. CHÂU Á ĐỐI ĐẦU VỚI “BỘ BA BẤT KHẢ THI”. 11 II.1. Đặc điểm các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á: 11 II.2. Kiểm soát vốn và chính sách tỷ giá ở Châu Á: 11 II.2.2. Tỷ giá hối đoái 17 II.2. Phân tích chính sách. 19 II.3. Lựa chọn của Chính phủ. 21 III. TÁC ĐỘNG CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI TẠI VIỆT NAM 23 III.1 Thu hút dòng vốn ngoại và chính sách kiểm soát vốn ở Việt Nam 23 III.2 Chính sách tiền tệ và điều hành tỷ giá hối đoái 28 IV. Khuyến nghị cho Việt Nam 30 LỜI NÓI ĐẦUToàn cầu hóa một mặt mang lại nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển, nhưng mặt khác cũng đặt các quốc gia vào những thử thách lớn trong việc thực thi chính sách vĩ mô. Một trong số ấy là “Bộ ba bất khả thi” Trên quan điểm của Bộ ba bất khả thi, một quốc gia chỉ có thể đạt được hai điều sau tại bất kỳ thời gian nhất định: Một tài khoản vốn mở, tỷ giá hối đoái cố định, và một chính sách tiền tệ độc lập. Đây thật sự là một thách thức với các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á, khi việc hội nhập sâu ngày càng mạnh mẽ, các nước này dường như buộc phải để luồng vốn chu chuyển tự do nhằm phục vụ nhu cầu thu hút vốn để phát triển, tuy nhiên các nước này cũng muốn thực thi chính sách tỷ giá cố định nhằm đảm bảo chính sách ngoại thương. Hai điều trên chắc chắn sẽ khiến quốc gia gặp khó khăn trong việc thu thi chính sách tiền tệ độc lập Loạt tài liệu “Châu Á đương đầu với bộ ba bất khả thi” - “Asia Confronts the Impossible Trinity” được viết bởi Ila Patnaik và Ajay Shah - Giáo sư của Viện Nghiên cứu Tài chính & Chính sách công Quốc gia ở New Delhi. Nghiên cứu được thực hiện dưới sự bảo trợ của Chương trình nghiên cứu NIPFP-DEA. Bối cảnh của bài nghiên cứu có thể sơ lược như sau: Ngoại trừ các nước Châu Âu, các nước phát triển nhất có một tài khoản vốn mở, tỷ giá hối đoái thả nổi, và một chính sách tiền tệ độc lập. Ở châu Á, ví dụ như Hồng Kông, Trung Quốc có một tỷ giá hối đoái cố định, vốn một tài khoản mở, và chính sách tiền tệ không độc lập. Tuy nhiên, nhìn chung các nền kinh tế châu Á không có khung chính sách tiền tệ xác định , với hầu hết là sự kết hợp giữ kiểm soát vốn và tỷ giá hối đoái thiếu linh hoạt. Điều này đặt ra câu hỏi thú vị về sự điều hành của Nhà nước hiện tại về một chính sách tiền tệ khả thi ở Châu Á, và nhấn mạnh sự cần thiết của một khung chính sách tiền tệ phù hợp. Theo bài viết, tác giả tập trung vào 11 nền kinh tế lớn ở Châu Á: Ấn Độ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC), Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Bắc, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Hàn Quốc. Đây là một nhóm rất không đồng nhất, từ thành phố đến quốc gia như Singapore đến gã khổng lồ Trung Quốc, và các nền kinh tế nghèo như Ấn Độ tới các nền kinh tế giàu có như Đài Bắc, Trung Quốc hay Hàn Quốc. Tác giả quan sát và kiểm tra khu vực châu Á-11 nổi bật với 3 góc của bộ ba bất khả thi: kiểm soát vốn, tỷ giá hối đoái kiểm soát, và chính sách tiền tệ độc lập. Tác được số liệu thống kê tóm tắt cho từng nền kinh tế , và cũng tập trung vào số liệu cho ba nền kinh tế lớn nhất: Ấn Độ, Trung Quốc, và Hàn Quốc. Kể từ khi các quốc gia thất bại vì không làm được những gì mình nói, bài viết này tập trung vào thực tế hơn là kiểm soát vốn, chế độ tỷ giá có kiểm soát, và các khuôn khổ chính sách tiền tệ. Cụ thể hơn, tác giả tập trung vào thực tế điều kiện cho tài khoản vốn mở và tỷ giá hối đoái linh hoạt, và những ảnh hưởng của chúng đối với chính sách tiền tệ được đo lường bằng lãi suất thực ngắn hạn. Tác giả thấy rằng trong khi châu Á-11 đã trải qua một số mức độ tự do hóa tài khoản vốn, trong hầu hết các nền kinh tế hạn chế về dòng vốn vẫn “giẫm chân tại chỗ”. Tuy nhiên, điều này không cản trở hội nhập dần dần tài khoản vốn trên thực tế, mà nó được hỗ trợ bởi sự phát triển của hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, châu Á đặc trưng bởi tỷ giá hối đoái thiếu linh hoạt. Mặc dù sự linh hoạt của tỷ giá tăng sau năm 2000, điều này vẫn còn thấp so với tiêu chuẩn thế giới. Ngay cả tỷ giá hối đoái linh hoạt cao của Hàn Quốc vẫn tụt hậu so tỷ giá hối đoái thả nổi. Tác giả lập luận rằng có những khó khăn tiềm ẩn phải đối mặt với nền kinh tế mà điều này đã làm chuyển hướng đáng kể tới hội nhập và làm hạn chế tỷ giá hối đoái linh hoạt. Điều này đặc biệt là mối quan tâm đối với Malaysia và Đài Bắc, Trung Quốc, trong đó kết hợp (i) hệ thống tài chính tinh vi làm xói mòn hiệu quả của kiểm soát vốn, (ii) tình trạng mở cửa đáng kể; và (iii) sự cứng nhắc trong tỷ giá hối đoái. Kể từ khi theo đuổi chính sách tiền tệ “đi ngược với chu kỳ kinh tế” trở nên khó khăn hơn khi nền kinh tế với tỷ giá hối đoái cố định và dòng vốn linh hoạt, bài viết này tạo một trường hợp cho một khung chính sách tiền tệ phù hợp. Chính sách tiền tệ “đi ngược với chu kỳ kinh tế” là một trong những chiến lược mà chính phủ đạt được mục tiêu ổn định lạm phát và đầu ra. Tác giả tập trung vào mục tiêu này trong bối cảnh mâu thuẫn phát sinh từ Bộ ba bất khả thi. Ngày nay, hầu hết các khu vực châu Á có đặc điểm là phát triển trên thực tế tài khoản vốn mở và tỷ giá hối đoái không linh hoạt. Trong phạm vi mà các dòng vốn linh hoạt, các giao dịch tiền tệ của các ngân hàng trung ương sẽ biến đổi theo hướng doành vốn linh hoạt trong chính sách tiền tệ linh hoạt. Trung Quốc và Ấn Độ là trường hợp thử nghiệm thú vị của hiện tượng này, với mức độ hạn chế trên tài khoản vốn mở ở cả hai nước và tương đối yếu của hệ thống tài chính. Tuy nhiên, ngay cả ở hai nước này, tác giả cho rằng chính sách tiền tệ khá linh hoạt.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3083 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Châu Á đương đầu với Bộ ba bất khả thi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoản vốn mở cửa hoàn toàn tự do và một cơ chế tỷ giá cố định hoàn toàn thì phải từ bỏ mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập. Tại một số chế độ điển hình ở châu Á, trên thực tế việc tăng cường mở cửa diễn ra thông qua các quy định tự do hóa, kết hợp với sự phát triển hệ thống tài chính nội địa, và sự tránh né việc kiểm soát vốn là hoàn toàn có thể với một tài khoản vãng lai lớn. Với những điều kiện này, cơ chế tỷ giá hối đoái cố định có thể dẫn đến làm sai lệch chính sách tiền tệ. Mặc dù một đất nước có thể cố gắng để lấy lại quyền tự chủ về chính sách tiền tệ thông qua áp chế tài chính, áp đặt kiểm soát vốn, hoặc chính sách vô hiệu hóa nhưng l‎ập luận của bộ ba bất khả thi cho thấy rằng muốn đạt mục tiêu tỷ giá hối đoái cố định thì phải hi sinh quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ. Bảng 8: Châu Á và bộ ba bất khả thi Bảng này tóm tắt kết quả chính của 11 quốc gia khu vực châu Á đã thảo luận trong phần trên, với dữ liệu trên mỗi nền kinh tế cho năm quan sát gần đây nhất bao gồm: dữ liệu về tỷ giá hối đoái cố định, mức độ mở cửa tài khoản vốn theo tuyên bố và trên thực tế. Tỷ giá hối đoái Tài khoản vốn mở Country Cố định (2009) Theo luật (2007) Trên thực tế (2007) Trung Quốc 0.98 -1.13 1.13 Hong Kong 1.00 2.53 23.91 India 0.81 -1.13 0.71 Korea, Republic of 0.65 0.18 1.35 Malaysia 0.92 -0.09 2.22 Philippines 0.78 0.14 1.32 Taipei,China 0.90 N.A. 3.37 Viet Nam 0.87 -1.13 1.30 Mean 0.85 0.20 4.08 Median 0.87 0.03 1.58 Nguồn: Chinn và Ito (2008), Lane và Milesi-Feretti (2007) và các tính toán của tác giả Trong các thị trường mới nổi, tính đồng chu kỳ của các dòng vốn là đặc biệt quan trọng. Khi xoay vòng kinh doanh tốt và điều kiện chu kỳ kinh doanh có tăng trưởng mạnh, vốn có xu hướng di chuyển vào trong nước. Để ngăn chặn tỷ giá hối đoái lên cao, các ngân hàng trung ương sẽ mua đô la, một động thái mà cuối cùng sẽ làm giảm lãi suất trong nước. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong suy thoái, vốn có xu hướng di chuyển ra khỏi đất nước. Các ngân hàng trung ương chống lại bằng cách bán đôla, dần dần làm tăng lãi suất trong nước. Các dòng vốn đồng chu kỳ kết hợp với tỷ giá cố định để đưa ra chính sách tiền tệ độc lập. Đây là điều có ý nghĩa đối với các chính sách tiền tệ bị biến dạng trên một thị trường mới nổi. Sự phản ứng của 11 quốc gia Châu Á đối với bộ ba bất khả thi khá đa dạng; chẳng hạn một vài nền kinh tế như Singapore và Hồng Kông, Trung Quốc đã chọn mở cửa tài khoản vốn mạnh và hạ thấp hoặc giữ tỷ giá hối đoái cố định, trong khi các nền kinh tế như Ấn Độ và Trung Quốc đã chọn lựa mở cửa tài khoản vốn thấp và không linh hoạt tỷ giá hối đoái. Giai đoạn những năm 2000 – 2008, nền kinh tế của 11 quốc gia Châu Á trên thực tế đã chuyển hướng ngày càng mở cửa tài khoản vốn, ngoại trừ Malaysia, Philippines, và Indonesia. Trong khi đó, tỷ giá hối đoái linh hoạt vẫn không thay đổi trong hầu hết các nền kinh tế, ngoại trừ ở Indonesia thì giảm xuống, và ở các nước Malaysia, Ấn Độ, và Trung Quốc thì tăng lên. Trong khung lý thuyết về bộ ba bất khả thi, một quốc gia có thể có một cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập. Một tài khoản vốn mở cửa tự do kết hợp với một cơ chế tỷ giá hối đoái cố định dẫn đến việc mất tự chủ về chính sách tiền tệ, như đã có kinh nghiệm ở Hồng Kông-Trung Quốc. Các hội đồng tiền tệ của Hồng Kông - Trung Quốc là một khuôn khổ nhất quán chính sách tiền tệ, với lãi suất trong nước biến động mạnh là kết quả của tỷ giá hối đoái cố định. Một tỷ giá thả nổi kết hợp với một tài khoản vốn mở cũng phù hợp với lý thuyết về bộ ba bất khả thi. Các nền kinh tế với tỷ giá hối đoái thả nổi chỉ ra có một R2 trong việc hồi quy tỷ giá từ 0,4 đến 0,5. Các nền kinh tế này có thể đạt được mục tiêu mở cửa tài khoản vốn và chính sách tiền tệ độc lập. Các quốc gia châu Á mà là gần nhất với mô hình này là Hàn Quốc, Ấn Độ, trong khi đó, đã đạt được những tiến bộ lớn nhất đối với việc áp dụng các mô hình tương tự. Có nhiều câu hỏi thú vị liên quan đến các nền kinh tế mở cửa tài khoản vốn thấp và áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái kém linh hoạt. Nếu một nước có tỷ giá hối đoái linh hoạt và một tài khoản vốn thực tế đóng cửa - với tổng các dòng tiền trên BOP thấp hơn 40% GDP - sau đó nó có thể có được tự chủ về chính sách tiền tệ. Ví dụ trong cuối thập niên 1980, Ấn Độ đã có thể có quyền tự chủ chính sách tiền tệ kể từ khi tỷ giá hối đoái kém linh hoạt và kết hợp với tổng các dòng tiền trong GDP khoảng 25%. Không một nền kinh tế nào trong 11 quốc gia Châu Á nằm trong vùng đó trên đồ thị giai đoạn 2000-2008. Các quốc gia gần nhất với mô hình này trong năm 2008 là Trung Quốc, đã và đang phấn đấu để giữ tỷ giá hối đoái ít linh hoạt kết hợp với chính sách mở cửa khá lớn tài khoản vốn. Điều này nhắc chúng ta đặt câu hỏi: Có phải Trung Quốc đã có thể bảo vệ chính sách tiền tệ độc lập? Nhiều tác giả đã xem xét chính sách tiền tệ của Trung Quốc với việc tập trung vào các vấn đề như các chính sách vô hiệu hóa (chính sách bù trừ), các phép đo hệ số bù trừ, và sự tác động qua lại giữa chính sách vô hiệu hóa và hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên những vấn đề này không trực tiếp cần thiết để phân tích tính đồng chu kỳ của chính sách tiền tệ. Trong phân tích của chúng tôi, do đó, chúng tôi xem xét những vấn đề này với yếu tố trung gian có ảnh hưởng đến kết quả của chính sách tiền tệ: lãi suất ngắn hạn trong nước. Chúng tôi tái hiện lại lãi suất ngắn hạn của Trung Quốc trong thực tế, và đặt nó bên cạnh những điều kiện của chu kỳ kinh doanh. Điều này cho phép chúng tôi để đánh giá mức độ mà tỷ lệ lãi suất cao trong một chu kỳ kinh doanh mở rộng và ngược lại, và kiểm tra xem chính sách tiền tệ có tính phản chu kỳ không. Hình 8 xem xét mức độ mà chính sách tiền tệ ở Trung Quốc trở nên đồng chu kỳ trong chu kỳ mở rộng kinh doanh gần đây. Các đồ thị - trong đó sử dụng sự tăng trưởng GDP hàng quý để đánh giá điều kiện chu kỳ kinh doanh - phản ánh một sự bùng nổ to lớn trong giai đoạn 2002 – 2007. Đặt điều này so với lãi suất trái phiếu kho bạc thời hạn 90 ngày (thể hiện trên thực tế), chúng ta thấy rằng từ năm 2002 đến đầu năm 2008, lãi suất thực giảm một lượng lớn 800 điểm cơ sở. Điều này cho thấy chính sách tiền tệ đã được mở rộng trong giai đoạn tăng trưởng. Nó phù hợp với ý tưởng rằng tỷ giá hối đoái cố định chuyển những dòng vốn đồng chu kỳ vào chính sách tiền tệ đồng chu kỳ. Việc sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng trong một chu trình mở rộng kinh doanh chưa từng có trước đây đã thúc đẩy gia tăng lạm phát và bùng nổ giá tài sản. Hình 8: Chính sách tiền tệ và chu kỳ kinh doanh của Trung Quốc Các giai đoạn tăng trưởng GDP hàng quý đã được sử dụng làm thước đo các điều kiện chu kỳ kinh doanh. Để có được các giai đoạn của lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa trong ngắn hạn đã được tái hiện trong điều kiện thực tế có sử dụng tỷ lệ lạm phát hiện tại. Nhìn chung, trong một chu trình mở rộng kinh doanh chưa từng có trước đây, lãi suất thực đạt giá trị thấp. 14 12 10 90 - day real rate 8 6 4 2 0 -2 Jan-03 Jan-04 Jan-05 Jan-06 Jan-07 Jan-08 Jan-09 Nguồn: datastream 15 14 13 12 GDP y/y growth 11 10 9 8 7 6 5 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Nguồn: datastream Việc 800 điểm cơ bản giảm xuống của tỷ lệ lãi suất thực trong suốt chu trình mở rộng kinh doanh chưa từng có trước đây cho rằng Trung Quốc không thể tránh khỏi tác động của bộ ba bất khả thi, cho dù có dùng chính sách vô hiệu hóa hoặc các kỹ thuật can thiệp khác dựa trên kiểm soát vốn hoặc áp chế tài chính. Trong khi cố gắng đưa ra một loạt các biện pháp, họ đã thất bại trong việc ngăn chặn kết quả: cách duy nhất để có được tỷ giá hối đoái cố định là phải giảm tỷ lệ lãi suất rất thấp trong điều kiện thực tế. Một phân tích tương tự đã được thực hiện đối với Ấn Độ cũng cho ta kết quả tương tự. Mặc dù Ấn Độ có chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn Trung Quốc, chính sách tiền tệ cuối cùng cũng buộc phải đầu hàng lãi suất thực trong việc mở rộng và chuyển hướng sang lãi suất thực tích cực trong suy thoái kinh tế Ấn Độ. Ở châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ là những nước đứng đầu về việc duy trì chính sách tiền tệ độc lập mặc dù tỷ giá hối đoái cố định, với việc trên thực tế mở cửa tương đối khiêm tốn và một hệ thống tài chính trong nước kém phát triển. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy rằng ngay cả ở hai nền kinh tế, tỷ giá hối đoái cố định dẫn đến kết quả chính sách tiền tệ có tính đồng chu kỳ. Những hạn chế của bộ ba bất khả thi có vẻ phù hợp hơn tại các nước Malaysia, Đài Loan- Trung Quốc và Thái Lan, mà trên thực tế có mở cửa tài khoản vốn nhiều hơn và hệ thống tài chính phát triển tốt hơn so với Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng tỷ giá hối đoái cũng ít linh hoạt hơn so với Ấn Độ. Trong số các nền kinh tế của 11 quốc gia Châu Á, Hàn Quốc đã có nhiều tiến bộ nhất đối với các mô hình chủ đạo của nền kinh tế công nghiệp. Hàn Quốc mở cửa tài khoản vốn cao, và tỷ giá hối đoái thì gần như linh hoạt nhất ở Châu Á. Họ cũng đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc xây dựng năng lực thể chế của ngân hàng trung ương của quốc gia mình. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá hối đoái của Hàn Quốc, với R2 đạt giá trị 0.65, độ linh hoạt thua so với tỷ giá thả nổi mà tại đó R2 đạt giá trị từ 0.4 đến 0.5. Phát triển hệ thống tài chính và mở cửa thực tế ở Philippines và Indonesia là thấp. Về nguyên tắc, các nền kinh tế có thể lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái cố định với việc độc lập chính sách tiền tệ. Trong 11 nền kinh tế của các quốc gia Châu Á, đây là 2 nền kinh tế có các biến dạng của chính sách tiền tệ liên quan đến tỷ giá hối đoái cố định là thấp nhất. Mặc dù vậy, các nền kinh tế này đã lựa chọn chính sách để có một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt đáng kể. II.3. Lựa chọn của Chính phủ Có rất nhiều lý do để lựa chọn một chế độ tỷ giá cố định thay vì một tỷ giá linh hoạt. Ví dụ, các ngân hàng trung ương có thể muốn tránh mất giá trong bối cảnh tỷ giá dễ bị đẩy lên cao, để kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, nếu một số lượng lớn các công ty có khoản vay USD lớn (vi phạm nguyên tắc cơ bản), các ngân hàng trung ương có thể muốn ngăn chặn sự mất giá trên diện rộng để bảo vệ bảng cân đối kế toán của các công ty này. Trong điều kiện như vậy, các ngân hàng trung ương có thể tùy tình hình khi có áp lực sút giảm tỷ giá hối đoái mà ngăn ngừa mất giá bằng cách bán dự trữ ngoại hối. Ngược lại, ngân hàng trung ương có thể muốn ngăn chặn sự nâng giá đồng tiền. Dòng vốn chảy vào các nền kinh tế mới nổi lên kể từ đầu những năm 2000 đã gây áp lực lên tỷ giá hối đoái để nâng giá đồng tiền. Trong suốt thời kỳ này, nhiều nền kinh tế mới nổi, bao gồm cả một số ở châu Á, đã được theo đuổi chính sách tăng trưởng nhờ xuất khẩu (Rodrik 2007). Cho phép nâng giá đồng tiền có thể đặt chính sách tăng trưởng nhờ xuất khẩu vào rủi ro, không đáng ngạc nhiên, chế độ tỷ giá hối đoái của hầu hết các thị trường mới nổi trong thời kỳ này về mặt luật định đã được quản lý thả nổi, với việc các ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối để ngăn chặn sự lên giá đồng tiền. Ramachandran và Srinivasan (2007) và Pontines và Rajan (2008) đã tìm thấy bằng chứng để ủng hộ giả thuyết rằng các nền kinh tế châu Á đã can thiệp vào thị trường ngoại hối để ngăn chặn sự nâng giá đồng tiền. Lý do có thể là vì xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nền kinh tế này. Từ những phân tích trên, chủ đề chính mà tác giả muốn nhấn mạnh các chính phủ cần đưa ra một khuôn chính sách tiền tệ phù hợp hơn là cố gắng tránh tự do hóa tài khoản vốn. Mặc dù trên lý thuyết châu Á đã cố gắng tránh sự tự do hóa tài khoản vốn nhưng trên thực tế Châu Á vẫn tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Châu Á 11 ngày càng phát triển với xu hướng tự do hóa khu vực tài chính nội địa. Giá trị trung bình của thước đo năng lực hệ thống tài chính nội địa theo Dorrucci, Meyer-Cirkel và Santabarbara (2009) đã tăng từ mức thấp là 0,45 trong năm 2000 lên mức 0,51 vào năm 2006. Hiệu quả của việc kiểm soát vốn giảm sút khi hệ thống tài chính phức tạp, và việc phát triển hệ thống tài khoản thanh toán giúp cho các tác nhân kinh tế có cơ hội tham gia vào các giao dịch chuyển vốn bất hợp pháp. Ngoại trừ Indonesia, Philippines, Malaysia, trên thực tế nền kinh tế Châu Á-11 ngày càng để tài khoản vốn mở từ năm 2000-2008. Sự gia tăng của việc hội nhập trên thực tế đặt ra câu hỏi về sự phát triển hợp lý của chế độ tỷ giá. Nhìn chung, chế độ tỷ giá của các nước châu Á đã thay đổi theo hướng linh hoạt hơn khi so sánh với trạng thái thả nổi – chính sách đã giúp các nước này hồi phục nhanh chóng trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Không có nền kinh tế nào trong Châu Á-11 có cơ chế tỷ giá thả nổi, ngay cả Hàn Quốc, nước có tỷ giá hối đoái linh hoạt nhất ở châu Á. Từ năm 2000 đến năm 2008, Malaysia và Ấn Độ đã hướng đến cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn; tương tự Trung Quốc cũng đã hướng theo cơ chế tỷ giá này. Ngoài ra, Châu Á-11 tuy tăng cường mở cửa tài khoản vốn trên thực tế nhưng lại chậm cải cách chính sách tiền tệ. Sự gia tăng việc mở tài khoản vốn trên thực tế, trong khi duy trì tỷ giá hối đoái cố định dẫn đến hai hậu quả: • Ngân hàng trung ương khi theo đuổi cơ chế tỷ giá cố định có thể phải bóp méo chính sách để đạt được mục tiêu tỷ giá. Trong phạm vi mà các dòng vốn đồng chi kỳ, tỷ giá cố định sẽ tạo ra chính sách tiền tệ đồng chu kỳ. Đặc biệt chính sách đồng chu kỳ ở Trung Quốc và Ấn Độ, nơi có hệ thống tài chính yếu hơn và trên thực tế mở chậm hơn so với hầu hết các nước châu Á khác. Nếu các nền kinh tế này, bất kể vị trí như thế nào, cũng không thể tránh khỏi chính sách tiền tệ đồng chu kỳ trong cơ chế tỷ giá thiếu linh hoạt, trong khi các nền kinh tế châu Á khác có thể gặp đồng chu kỳ đến một mức độ lớn hơn nhiều. • Khủng hoảng hệ thống cũng có thể phát sinh. Các nền kinh tế châu Á tiếp tục chịu sự đối đầu giữa các nhà đầu cơ và các ngân hàng trung ương, vấn đề vay ngoại tệ không được đảm bảo của các tập đoàn, và hậu quả khác của một chính sách tiền tệ không phù hợp. Vấn đề lớn hơn trong tương lai không thể được loại trừ, đặc biệt là ở Malaysia và Đài Bắc - Trung Quốc, nơi có một sự kết hợp vụng về của (i) sự mở cửa đáng kể trên thực tế, (ii) hệ thống tài chính nội địa phức tạp (iii) và chính sách tỷ giá không linh hoạt như Trung Quốc . Từ quan điểm của các cuộc khủng hoảng hệ thống, nguồn gốc chính của vấn đề nằm ở các hộ gia đình, ngân hàng, và các tổng công ty dựa vào tỷ giá hối đoái cố định. Khi sự dao động tỉ giá hối đoái không diễn ra, tỷ giá hối đoái thực sẽ bị phơi bày. Điều này dẫn đến khó khăn khi tỷ giá hối đoái thay đổi trên diện rộng. Do đó, các giai đoạn đầu tiên của cải cách cần nhấn mạnh tính linh hoạt tỷ giá và sự phát triển của thị trường tiền tệ phái sinh. Tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ khuyến khích các tác nhân kinh tế thực hiện quản lý rủi ro, trong khi thị trường phái sinh sẽ cung cấp khả năng để thực hiện các giao dịch mong muốn. Châu Á, bất chấp lời khuyên về trình tự, hướng đến chính sách tài khoản vốn mở không chính thức trước khi thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt. III. TÁC ĐỘNG CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI TẠI VIỆT NAM Trong nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, ba yếu tố gồm: (1) dòng vốn chảy vào và chảy ra; (2) tỷ giá hối đoái; và (3) lạm phát luôn có liên hệ mật thiết với nhau. Khi dòng vốn ra vào (tài khoản vốn) được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẽ phải bán bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều. Trong bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định. Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách tiền tệ độc lập vì mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá khi tài khoản vốn đã được tự do. Như vậy, bộ ba bất khả thi thể hiện ở Việt Nam như thế nào? III.1 Thu hút dòng vốn ngoại và chính sách kiểm soát vốn ở Việt Nam Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Với mục tiêu tăng trưởng GDP cao hơn 8% mỗi năm trong giai đoạn 2006-2010, trong khi tỷ lệ huy động vốn trong nước chỉ đạt 22%, ngoài nguồn vốn ODA, trong thời gian tới Việt Nam phải cần khoảng 9 tỷ USD cho mỗi năm (theo GS-TSKH Nguyễn Mại – Tổ nghiên cứu kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Chính phủ). Nếu xét từ năm 2000 - thời kỳ sau khủng hoảng, đồ thị thể hiện quá trình thu hút vốn FDI vào Việt Nam là một đường cong, điểm thấp nhất là năm 2002, năm 2004 FDI bắt đầu phục hồi, năm 2005 đã tăng trưởng rõ rệt và năm 2006 đạt được nhiều kỷ lục cả về vốn đăng ký mới, vốn đầu tư tăng thêm và vốn thực hiện. Nếu như năm 1997 được coi là đỉnh điểm của thành tích thu hút vốn FDI thì sau 10 năm, đến năm 2006 mới vượt qua được đỉnh điểm đó. Tính đến cuối năm 2006, nước ta đã thu hút được 60,4 tỷ USD vốn FDI đăng ký, trong đó vốn thực hiện là 36 tỷ USD. Biểu đồ: Vốn FDI đầu tư vào Việt Nam qua các năm (Nguồn tổng cục thống kê) Thành quả của việc thu hút vốn FDI ở nước ta do tác động chủ yếu của các nhân tố chủ quan, liên quan đến việc tận dụng thời cơ và tạo lập môi trường đầu tư đủ đảm bảo lợi thế cạnh tranh trong một thế giới vừa hợp tác, vừa cạnh tranh khá gay gắt trong việc thu hút các nguồn vốn quốc tế. Năm 1996, lần thứ ba Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, nhưng không phải theo chiều hướng của hai lần trước đó, năm 1990 và 1992, mà ngược lại, đã giảm bớt khá nhiều ưu đãi gây nên phản cảm đối với nhiều doanh nghiệp FDI và nhà đầu tư mới. Tháng 07/1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, các nước chịu tác động lớn nhất là Thái Lan, Philippines, Indonesia v.v. nhưng nhìn chung nước ta nằm ngoài tâm bão của cuộc khủng hoảng. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng này cũng đã góp phần tạo ra cho Việt Nam một thời cơ mới trong việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi mà các nước trong khu vực đang phải lo đối phó với khủng hoảng. Đáng tiếc là do môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn từ khi sửa Luật Đầu tư năm 1996 và Việt Nam cũng không có được một số đối sách thích hợp để chủ động đối phó với khủng hoảng, nên thời gian này tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như việc thu hút vốn đầu tư FDI của Việt Nam đã giảm sút rõ rệt trong nhiều năm liên tiếp. Mấy năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chủ trương cải thiện môi trường đầu tư, tạo lập cơ sở pháp lý bình đẳng trong kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp, coi trọng hơn việc cải tiến công tác quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành chính trong các hoạt động kinh tế, chủ động trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Năm 2006 với Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh tế với thế giới trên lĩnh vực lập pháp. Chính phủ đã phân cấp cho chính quyền các tỉnh, thành phố việc thẩm định và cấp phép đầu tư cũng như việc quản lý nhà nước các doanh nghiệp FDI, vừa tạo thế chủ động cho chính quyền các địa phương vừa tạo nên phong trào thi đua cải tiến thủ tục hành chính, tạo lập sự hấp dẫn môi trường đầu tư giữa các địa phương. Việc Việt Nam gia nhập WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC đã tạo nên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới. Nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đã hình thành tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo của một nước có dân số hơn 84 triệu người, ngày càng trở thành thị trường tiêu thụ lớn, trở thành thị trường đầy tiềm năng đối với nhiều tập đoàn đa quốc gia. Những tiền đề trên đã thực sự tạo ra cho Việt Nam bước đột phá trong việc thu hút vốn đầu tư FDI. Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy lượng vốn FDI vào Việt Nam càng tăng, năm 2007 vốn đăng ký là 21.348 triệu USD và vốn thực hiện đạt 8.030 triệu USD. Trong năm 2008, có điểm nghịch lý là vốn đăng ký rất cao ( 71.726 triệu USD) nhưng vốn thực hiện chỉ bằng 16% vốn đăng ký. Đây là một vấn đề mà chính phủ cần phải xem xét lại trong việc thu hút nguồn FDI. Doøng vieän trôï vaø voán vay cuûa chính phuû Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức - ODA được xem như là một nguồn vốn với chi phí tương đối thấp, nó được cung cấp với lãi suất ưu đãi, đôi khi còn được cung cấp dưới hình thức viện trợ không hoàn lại. Nguồn vốn ODA đã mang lại cho đất nước và người dân nhiều công trình kinh tế và phúc lợi xã hội quan trọng (đường bộ, cảng biển, nhà máy điện, giao thông nông thôn, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt, bệnh viện, trường học…); đóng góp giá trị gia tăng cho việc nghiên cứu và thực thi các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, du nhập công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến (xây dựng luật, chính sách quản lý…) và đào tạo nguồn nhân lực. Nhìn từ vị trí của nước tiếp nhận viện trợ, nếu ODA được xem như là một nguồn lực và được lồng ghép một cách hợp lý với các nguồn lực khác trong nước trong quá trình phát triển để đạt mục tiêu quốc gia trong từng giai đoạn nhất định, đó chính là “viện trợ đích thực”. Đối với nhà tài trợ, viện trợ có thể trở nên“đích thực” nếu nó được chuyển giao cho nước tiếp nhận để cho nước tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp tạo ra những điều kiện nhằm đạt được mục tiêu phát triển. Với cách nhìn cả từ hai phía như trên, có thể nhận định tổng quát rằng, viện trợ phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là “viện trợ đích thực” và đây là tiền đề cần thiết để sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực quan trọng này. Năm Cam kết Giải ngân 1993 1.860,80 413 1994 1.958,70 725 1995 2.311,50 737 1996 2.430,90 900 1997 2.377,10 1.000 1998 2.192,00 1.242 1999 2.146,00 1.350 2000 2.400,50 1.650 2001 2.399,10 1.500 2002 2.462,00 1.528 2003 2.838,40 1.422 2004 3.440,70 1.650 2005 3.748,00 1.782 2006 4.440,00 1.785 2007 4.450,00 2.180 2008 5.426,00 2.300 2009 5.850,00 3.000 Tổng số 32.565,7 15.899,00 Cam kết ODA năm 2008 là 5,426 tỉ USD. So với năm 2007, mức cam kết này tăng 1 tỉ USD, xấp xỉ 20%.Trong đó cam kết viện trợ song phương đạt hơn 2,6 tỷ USD, cam kết đa phương đạt hơn 2,55 tỷ USD và cam kết của các tổ chức phi chính phủ quốc tế là 250 triệu USD. Ngân hàng phát triển châu Á ADB, Nhật Bản và Ngân hàng thế giới là những nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với hơn 1 tỷ USD tài trợ. Vốn ODA cam kết cho Việt Nam trong năm 2009 trị giá tương đương 5,85 tỷ USD. Giải ngân các nguồn vốn này dự kiến đạt khoảng 3 tỷ USD, trong đó có 300 triệu USD viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, qua 13 năm Việt Nam thực hiện, tiếp nhận nguồn vốn ODA đang nổi lên một hạn chế lớn, đó là tỷ lệ giải ngân còn chậm, nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất mà lợi thế sử dụng nguồn vốn ODA đem lại. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001-2005) vốn ODA giải ngân đạt gần 7,9 tỷ USD, bằng 88% chỉ tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra (9 tỷ USD). Tỷ lệ ODA giải ngân trên GDP nằm trong khoảng từ 3,5 - 4,5%, thấp hơn các nước tiếp nhận ODA khác có cùng trình độ phát triển. Tuy nhiên qua các năm, mức giải ngân cũng chỉ đạt bình quân khoảng 50%. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng giải ngân chậm là do quy trình và thủ tục trong nước chậm trễ, năng lực quản lý và giám sát thực hiện các dự án ODA của các Ban quản lý dự án còn nhiều hạn chế và bất cập v.v. không đáp ứng được các điều kiện khá chặt chẽ do các nhà tài trợ đặt ra. Bên cạnh đó, vốn đối ứng bố trí chưa kịp thời, vấn đề quy hoạch vận động và sử dụng vốn ODA đến thời điểm này vẫn chưa được hoàn chỉnh để định hướng cho các cơ quan, địa phương chủ động thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Có thể thấy rằng, vốn ODA được thu hút chủ yếu từ các nỗ lực ngoại giao và phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ của chính phủ với cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, nguồn vốn này không phải là khoản cho không của nước ngoài, mà đây là vốn vay, có vay ắt phải có trả. Do đó, bên cạnh thu hút được nhiều, thì quan trọng hơn là cần sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn vốn này hơn. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam yêu cầu về nâng cao hiệu quả viện trợ đang là vấn đề “nóng” hơn bao giờ hết. Đó là một thực tế, bởi lẽ viện trợ có nguồn gốc từ tiền đóng thuế của người dân các nước tài trợ, để sử dụng được viện trợ cần có tiền đóng thuế của người dân Việt Nam để làm vốn đối ứng. Hơn nữa, nguồn viện trợ quốc tế có hạn, một nước tiếp nhận sử dụng kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng tới nước tiếp nhận khác nếu xét trên phạm vi toàn cầu. Tính trung bình với mức dân số của Việt Nam hiện nay, mỗi năm mỗi người dân vay nợ nước ngoài khoảng 37,5 USD, trong khi 80% nguồn viện trợ cho Việt Nam là vốn vay ưu đãi. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều thế hệ người Việt Nam sẽ phải trả món nợ này. Theo quy định về quy chế vay và trả nợ nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định 90/1988/NĐ-CP ngày 07/11/1988 của Chính phủ thì : Vay nợ nước ngoài là các khoản vay ngắn, trung hoặc dài hạn (có hoặc không phải trả lãi) do nhà nước Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của Chính phủ, ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. Theo đây thì các khoản vay nợ sau được xếp vào vay nợ nước ngoài : vay ODA, tín dụng thương mại của Chính phủ và doanh nghiệp từ các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ các nước, các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài, phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế. Theo số liệu của Bộ Tài chính , tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vào khoảng 11 - 15 tỷ USD. Cả số nợ tuyệt đối và số nợ/GDP đều đã giảm đi so với năm 2000 vì Chính phủ đã và đang trả nợ dần. Hơn 90% số nợ này là vay ưu đãi ODA, khoản vay thương mại rất nhỏ. Bảng 2.2 : Tỷ trọng nợ/GDP qua các năm (%) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tỷ trọng nợ/GDP 39,0 37,4 34,0 34,0 36,0 35,8 36,6 Nguồn : Bộ tài chính, Thời báo Kinh tế Việt Nam Tính bình quân trong 5 năm 2001-2005 tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam là 35,6%. Nếu so với quy định quốc tế tỷ lệ này trên 50% được xếp vào mức nguy hiểm, thì số nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn đang nằm trong ranh giới an toàn. Song để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển trong 5 năm hiện hành (2006-2010) cần khoảng 140 tỷ USD vốn đầu tư trong và ngoài nước. Nguồn vốn trong nước có hạn, mức tiết kiệm trong nước còn thấp, do vậy ngoài thu hút dòng vốn FDI, FPI Việt Nam cần tiếp tục vay nợ nước ngoài, trong đó có phần lớn vốn ODA. Theo tính toán của các chuyên gia cần phải có vốn ODA cam kết khoảng 19-21 tỷ USD, vốn ODA thực hiện khoảng 11 tỷ USD, bình quân khoảng 2,2 tỷ USD/năm. Điều đó đồng nghĩa với việc dư nợ nước ngoài của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng trong những năm tới, cũng đồng nghĩa sẽ có nhiều rủi ro ẩn chứa kèm theo như sử dụng nợ nhiều sẽ có nguy cơ đe dọa tính bền vững của sự phát triển; việc sử dụng thiếu hiệu quả nguồn vốn vay có thể dẫn tới hậu quả rất nghiêm trọng; tình trạng tham nhũng, thiếu công khai minh bạch trong quản lý, dẫn đến những khoản đầu tư chi phí cao; hiện tượng tư nhân vay vốn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ, và lúc đó khoản nợ tư nhân trên thực tế trở thành nợ nhà nước. Thực tế đó cho thấy việc bảo đảm an toàn nợ quốc gia tiếp tục phải đặt ra ngay cả trong tầm dài hạn và cần thiết phải xây dựng một chính sách thiết thực kiểm soát được nợ có tính đến khả năng đảm bảo trả nợ vay của quốc gia. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI Một điều không thể phủ định được là vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Nếu như nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất thì nguồn vốn nước ngoài gián tiếp FPI lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng cao vai trò quản lý vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt tác động các doanh nghiệp. Vì lợi ích của hội nhập không những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (dòng vào, dòng ra) dễ dàng của dòng hàng hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn. Việc tham gia của các nhà đầu tư FPI sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và có hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động phi thị trường và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…) Tuy nhiên, dòng vốn FPI cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FPI ổn định, tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao năng lực quản trị của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu WTO là vấn đề cần được quan tâm thích đáng. Theo số liệu khảo sát của IMF, hiện có khoảng trên 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên thế giới đang quản lý một khối lượng tài sản khổng lồ, khoảng 300 tỷ USD. Chỉ cần họ chấp nhận đầu tư vào Việt Nam 0,1% là chúng ta đã có khoảng 300 triệu USD. Trong những năm trước, mặc dù đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng chúng ta vẫn chưa quan tâm thích đáng đến nguồn vốn FPI. Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FPI vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với FDI. Một số quỹ đầu tư mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ, nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), vốn FPI chiếm 1,2% vốn FDI, năm 2004 tăng lên 3,7%, tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút vốn FPI/FDI đang vào khoảng 30 - 40%). Kể từ năm 2002 đến nay, dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đã được cải thiện, số lượng và quy mô hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Tính đến tháng 12/2006, đã có khoảng 1.700 tài khoản giao dịch và 23 Quỹ Đầu tư nước ngoài với quy mô vốn ước đạt 2,3 tỷ USD, gần 50 tổ chức Đầu tư nước ngoài mở tài khoản hoặc ủy thác đầu tư trên TTCK, đặc biệt có sự tham gia thị trường của các tổ chức đầu tư nước ngoài có tên tuổi như JP Morgan, Merill Lynch, Citi Group v.v. Một số chuyên gia trong và ngoài nước đã nhận định “làn sóng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thứ ba” đã xuất hiện với quy mô và chất lượng hơn hẳn hai làn sóng trước. Biểu hiện rõ nét là sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa có quy mô lớn, của các ngân hàng nước ngoài vào các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước, mua trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê của Ủy ban Chứng khoán nhà nước, tính đến thời điểm cuối năm 2006, tổng giá trị vốn trên TTCK đạt 221.156 tỷ Việt NamD tương đương 14 tỷ USD, trong đó nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ 25-30% số cổ phiếu niêm yết con số này tương đương 3,5 - 4,2 tỷ USD. Vốn đầu tư FPI vào Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, năm 2006 đã xuất hiện thêm nhiều quỹ đầu tư mới, cũng như sự cam kết tăng vốn của các quỹ hiện hữu. Quỹ Việt Nam Opportunity Fund (VOF) vừa thông báo tăng thêm 76 triệu USD nữa, nâng quy mô vốn đến thời điểm cuối năm 2006 là 171 triệu USD. Phía Vina Capital - đơn vị quản lý quỹ VOF, kỳ vọng sẽ đầu tư hết khoản vốn tăng thêm này trong vòng 6 đến 9 tháng; sau đó sẽ tiếp tục gọi vốn để tăng quy mô của Quỹ VOF lên 250 triệu USD. Theo bản báo cáo của Citigroup ngày 27/09/2006, nhóm nghiên cứu của Citigroup nhận định Việt Nam là thế lực mới nổi lên “powerhouse” của khu vực Đông Nam Á, và cho rằng đô thị hóa là một thách thức đối với Việt Nam. Do vậy, Chính phủ sẽ có những ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp cũng như gián tiếp vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đặt ra mục tiêu tổng sản phẩm quốc nội năm 2010 tăng gấp đôi so với năm 2000, giai đoạn 2006 - 2010 còn phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7,5% - 8,0%. Tỷ lệ huy động vốn cho đầu tư là 40% GDP, tỷ lệ huy động vốn trong nước chiếm 65 - 67%, nước ngoài là 33 - 35% trong tổng vốn đầu tư. Với mục tiêu của chiến lược trên, tỷ lệ thu hút vốn đầu tư FPI/FDI giai đoạn hiện nay đang ở mức 2-3% là một con số còn quá khiêm tốn. Nguyên nhân của việc chưa đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư FPI phần lớn đến từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là từ sự vận hành của TTCK. - Phải thừa nhận rằng, mặc dù đã ra đời đi vào hoạt động từ năm 2000 và có những bước phát triển ngoạn mục vào năm 2006 nhưng mãi đến đầu năm 2007 thì Luật Chứng khoán mới có hiệu lực nhưng chưa thể đi vào vận hành vì thiếu hệ thống nghị định, thông tư hướng dẫn, đối tượng công ty đại chúng được mở rộng nhưng chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính, chất lượng quản trị công ty đại chúng vẫn còn nhiều bất cập. Do vẫn có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài còn e dè khi đọc các báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán trong nước thực hiện. Việc phát triển và mở rộng quy mô của thị trường trái phiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Dịch vụ định mức tín nhiệm và thống kê dữ liệu hầu như không có. Trong khi định mức tín nhiệm được xem là một trong những yếu tố then chốt giúp lấp đầy những khoảng trống thông tin và cho biết giá trị của một công ty hoặc một quốc gia là như thế nào trong con mắt của các tổ chức đầu tư quốc tế – những người nắm giữ luồng vốn lớn nhất. - Sự kết nối giữa nhà đầu tư và cơ hội đầu tư còn nhiều hạn chế. Hiện nay số lượng công ty chứng khoán có khả năng cung cấp thông tin bằng các ngôn ngữ chính như Anh, Pháp, Trung, Nhật v.v. không nhiều. Các rào cản về ngôn ngữ và thông tin đã hạn chế các dòng vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào TTCK Việt Nam. - Việt Nam chưa có chính sách thu hút vào quản lý đầu tư gián tiếp nước ngoài hiệu quả. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, các tác động tiêu cực của dòng vốn FPI chưa được phân tích, đánh giá đúng vai trò, tiềm năng của nó. Do đó, các nhà hoạch định chính sách còn khá e ngại trước dòng vốn FPI biểu hiện thông qua sự phân biệt đối xử, các quy định nhằm hạn chế ngành nghề và tỷ lệ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam. Quy mô và chất lượng các sản phẩm thị trường tài chính Việt Nam còn hạn chế, các công cụ như giao dịch tương lai, kỳ hạn, quyền chọn về tiền tệ v.v. chưa phát triển. Đây cũng là một nguyên nhân cơ bản khiến các Quỹ Đầu tư tham gia đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường. * Dòng ngoại hối chuyển từ các khoản thu nhập cá nhân ở nước ngoài Kiều hối, hiểu nôm na là tiền từ nước ngoài được gửi về cho người trong nước, và thông thường là tiền của Việt kiều ở nước ngoài gởi về cho thân nhân, người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài. Điều quan trọng là kiều hối đang ngày càng thể hiện giá trị ở chiều sâu đời sống xã hội, thay vì được dùng để cải thiện đời sống của người tiếp nhận như trong giai đoạn trước đây, thì nay kiều hối đang thực sự khẳng định xu hướng đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Hiện nay mức tiết kiệm trong nước còn thấp, chỉ đạt khoảng 30,1% GDP, trong khi nhu cầu đầu tư đang ngày càng cao, với mục tiêu đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 – giai đoạn cất cánh và tăng trưởng cao hay nói cách khác là giai đoạn tạo đà cho công nghiệp hóa với lượng vốn đầu tư hàng năm trung bình gấp đôi so với hiện tại để đảm bảo mức độ tăng trưởng trên 7,5%, thì dòng vốn kiều hối sẽ đóng vai trò không nhỏ góp phần vào tổng dòng vốn đầu tư toàn xã hội. Ngoài ra, nguồn ngoại hối từ dòng vốn này cũng là nguồn bổ sung đáng kể vào nguồn dự trữ ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá và giảm thâm hụt cán cân thanh toán. Thật vậy, dòng vốn kiều hối là kênh ngoại tệ mạnh cho đất nước mà không một kênh thu hút nào có thể sánh nổi. Ở một giác độ nào đó có thể thấy rằng xuất khẩu thì phải mất chi phí để sản xuất hàng hóa, chi phí tiếp thị, vận chuyển.. ; dòng FDI thì vốn của nhà đầu tư nước ngoài, vốn sẽ được thu hồi lại, lợi nhuận đầu tư sẽ chuyển cho chủ đầu tư nước ngoài; dòng vốn ODA phần lớn vẫn là vốn vay, việc giải ngân không đơn giản, nếu không được sử dụng hiệu quả thì trở thành gánh nặng nợ nần cho quốc gia. Còn dòng vốn kiều hối mang về hàng tỷ USD mà hầu như người thụ hưởng hầu như không mất một đồng chi phí nào, nó được xem như là “lãi ròng” vì không có chi phí đầu tư. Bảng 2.3 : Lượng kiều hối vào Việt Nam giai đoạn 1999-2006 (triệu USD) Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Lượng kiều hối 1.200 1.757 1.820 2.100 2.700 3.200 3.800 4.200 Nguồn : Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005-2006 Có thể thấy rằng, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trên 1 tỷ USD vào cuối thập niên 90, tăng dần qua các năm và đến năm 2006 đạt con số kỷ lục là 4,2 tỷ USD. Đạt được mức tăng trưởng này qua các năm là do nước ta thực hiện hàng loạt chính sách mang tính khuyến khích, thậm chí đột phá để tạo sự thông thoáng và tin tưởng của bà con Việt kiều lẫn người thân trong nước. Các quy định về quản lý ngoại hối của pháp luật Việt Nam hiện hành đã từng bước tự do hóa các giao dịch vãng lai, đặc biệt là chính sách kiều hối ngày càng thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Người nhận kiều hối không phải đóng thuế thu nhập, giá trị kiều hối chuyển về không hạn chế, các đơn vị chi trả kiều hối đưa tiền đến tận nhà cho người thụ hưởng với mạng lưới trên khắp đất nước. Hiện có khoảng 80 tổ chức kinh tế ở nước ngoài tham gia chuyển tiền về Việt Nam, tập trung ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp v.v. mạng lưới chi trả trong nước ngoài hệ thống ngân hàng còn có khoảng 25 tổ chức kinh tế được cấp phép thực hiện nhận, chi trả kiều hối. Ngoài ra, theo xu thế hội nhập kinh tế, Việt Nam đã có những chính sách, quy định thu hút được sự quan tâm, kích thích đầu tư của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào trong nước như : - Nhà nước mở ra cho người dân trong và ngoài nước giao dịch vốn với nhau, tiền được chuyển vào qua các kênh chính thức sẽ được pháp luật bảo vệ quyền lợi cho người vay, các giao dịch vay mượn này được thực hiện trên cơ sở pháp luật. - Việc ra đời Nghị định 81/2001/NĐ-CP về việc cho phép Việt kiều mua nhà ở tại Việt Nam cũng tạo sự quan tâm, thu hút lượng kiều hối đáng kể. Chính phủ Việt Nam thực thi nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam đoàn tụ với gia đình (nếu được gia đình bảo lãnh) cũng như cho Việt kiều về nước thăm thân nhân, quê hương đất nước v.v. - Cuối tháng 09/2005, Chính phủ cũng đã ban hành quyết định nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần trong các công ty cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có Việt kiều) lên 49%, thay vì mức 30% như trước. Đây là một cơ chế mới được nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư Việt kiều đánh giá cao sau nhiều kiến nghị và thời gian chờ đợi. Kết luận: Qua việc tìm hiểu tình hình nguồn vốn vào Việt Nam, ta có thể kết luận là Việt Nam đang lựa chọn hướng kiểm soát dòng vốn nhằm ổn định kinh tế vĩ mô. III.2 Chính sách tiền tệ và điều hành tỷ giá hối đoái Chế độ tỷ giá 1990 - 97 là chế độ tỷ giá linh hoạt có điều tiết của nhà nước, phát huy được nhiều mặt tích cực; tuy nhiên, chế độ tỷ giá này vẫn ổn định quá lâu, không khuyến khích xuất và nhập khẩu. Năm 1999, tỷ giá hối đoái chính thức được NHNN công bố hàng ngày, được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày trước đó. Đây có thể được coi là bước đi đột phá trong điều hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam. Việc xác lập cơ chế tỷ giá mới này nhằm thay đổi cơ chế tỷ giá cố định với biên độ rộng được áp dụng ở thời kỳ trước, theo đó tỷ giá mới được được xác định dựa trên tỷ giá bình quân liên ngân hàng và là cơ sở để các ngân hàng thương mại (NHTM) xác định tỷ giá giao dịch với biên độ +/(-) %. NHNN sẽ điều chỉnh cung hoặc cầu ngoại hối bằng cách mua hoặc bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng nhằm điều chỉnh và ổn định tỷ giá. Chính sách tỷ giá này tỏ ra thích hợp đối với quốc gia luôn trong tình trạng nhập siêu và cán cân thanh toán thường trong tình trạng thâm hụt, dự trữ ngoại tệ không lớn và tình trạng lạm phát chưa thực sự được kiểm soát tốt. Trong 10 năm qua (đến cuối năm 1999), NHNN đã 8 lần ban hành quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá (hình 1). NHNN đã 2 lần điều chỉnh nhẹ biên độ vào năm 2007, 3 lần điều chỉnh vào năm 2008 và 2 lần vào năm 2009. Theo đó, tỷ giá ngày càng được nới lỏng, điều chỉnh theo định hướng thị trường. Trong bối cảnh dư cung ngoại tệ năm 2007 (chủ yếu từ giao dịch vốn), trước sức ép lên giá Việt NamD, gây ảnh hưởng xuất khẩu, NHNN, một mặt, vừa tranh thủ mua ngoại tệ vào để tăng dự trữ ngoại hối vừa chủ động hút Việt NamD khỏi lưu thông qua kênh thị trường mở và bán tín phiếu của NHNN do nhận thức được tác động của việc mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Quyết định mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối năm 2007 là hoàn toàn hợp lý vì thị trường dư cung ngoại tệ giai đoạn này chỉ là ngắn hạn và không bền vững do ngoại tệ dư thừa là từ nguồn ngoại tệ các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam là luồng tiền nóng có thể chảy ra bất cứ lúc nào, không bắt nguồn từ xuất khẩu như trường hợp của Trung Quốc. Đồng thời, để giảm áp lực tăng lạm phát, khi đã mua được một lượng ngoại tệ tương đối, NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng và điều chỉnh biên độ tỷ giá đầu năm 2008 theo hướng sát hơn với tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường, giảm áp lực bán ngoại tệ cho NHNN. Thời điểm điều chỉnh biên độ tỷ giá cũng được NHNN cân nhắc trên cơ sở thống nhất với Bộ Công thương, tránh thời điểm thanh toán nợ nước ngoài phổ biến, nhằm giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp và Chính phủ. Năm 2009 và quí I/2010 là một giai đoạn đầy sóng gió với NHNN trong điều hành tỷ giá, khi mà tình trạng dư cung ngoại tệ đã đảo chiều thành khan hiếm ngoại tệ. Cán cân thanh toán tổng thể năm 2009 đã thâm hụt lớn, ở mức trên 8 tỷ USD. Tình hình khan hiếm ngoại tệ càng trầm trọng hơn khi mà tình hình găm giữ ngoại tệ trong tổ chức và dân cư trở nên phổ biến. Lượng ngoại tệ của Bộ Tài chính bán cho NHNN sụt giảm mạnh. Trước tình hình đó, NHNN đã liên tục phải đưa ra các quyết sách đầy khó khăn như: (i) nới lỏng biên độ từ 3% lên 5% vào những tháng đầu năm 2009; (ii) bán ngoại tệ cho các NHTM để phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu trong quí II, III/2009 và đặc biệt là can thiệp bán với quy mô lớn trên diện rộng vào cuối năm 2009 và đầu năm 2010 kết hợp điều chỉnh tăng 2 lần với mức tăng khá lớn (trên 8%); (iii) đồng thời triển khai việc yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHTM; (iv) đưa ra qui định về trần huy động ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế là 1% (là đối tượng có số dư ngoại tệ lớn); (v) điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngoại tệ; (vi) tăng lãi suất cơ bản Việt NamD nhằm tăng sức hấp dẫn Việt NamD, góp phần hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của tổ chức và kéo theo là cá nhân. Ngoài ra, NHNN tăng cường đàm phán, giải ngân hàng loạt các khoản vay song phương và đa phương như các khoản vay với Chính phủ Nhật Bản, các khoản vay của WB, ADB cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin như thông tin về dự trữ ngoại hối. Nhờ sự quyết liệt trong điều hành cũng như các giải pháp được ban hành đồng bộ và triển khai triệt để, thị trường ngoại hối đã chuyển dịch từ trạng thái thiếu hụt sang dư cung nhẹ, tỉ giá USD/Việt NamD trên thị trường tự do đã được bình ổn từ mức xấp xỉ 20.000 xuống còn gần 19.000, thấp hơn mức giao dịch của các NHTM. Từ quí II/2010, NHNN đã bắt đầu mua được ngoại tệ từ các NHTM bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, trạng thái ngoại tệ của các NHTM được duy trì ở trạng thái dương. Bên cạnh đó, do nhận thức được các thách thức trong điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá trong bối cảnh hội nhập, những bất cập trong Luật NHNN năm 1997, để giảm thiểu sự biến động quá lớn trên hai thị trường, NHNN đã mạnh dạn sửa đổi Luật NHNN 1997 theo hướng: (i) xác định rõ hơn mục tiêu quản lý và thứ tự ưu tiên mục tiêu, theo đó xác định mục tiêu hàng đầu của NHNN là kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền; (ii) đồng thời đưa vào Luật các qui định kiểm soát tốt hơn các giao dịch vốn nhằm kiểm soát chặt chẽ các giao dịch vốn ngắn hạn, có các qui định kiểm soát các luồng vốn đầu tư ra nước ngoài, nhất là các luồng vốn đầu tư gián tiếp. Luật NHNN 2010 đã được thông qua và sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2011. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần bình ổn thị trường tiền tệ nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng. Chỉ số CPI trong 7 tháng năm 2010 được kiểm soát chỉ ở mức 4,84% so với đầu năm, trong đó riêng tháng 7/2010 chỉ tăng 0,06% so với tháng trước và là mức tăng thấp nhất kể từ tháng 4/2009 và dự báo CPI của tháng 8/2010 chỉ tăng ở mức 0,2% và lạm phát có thể được kiểm soát ở mức 8% năm 2010. Nhưng nhập siêu trong 7 tháng đầu năm ở mức 7,355 tỷ USD và vẫn đang có xu hướng tiếp tục tăng, tạo sức ép về cầu ngoại tệ. Trước tình hình đó, ngày 17/8/2010, NHNN thông báo điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và Việt NamD áp dụng từ ngày 18/3/2010 là 1USD = 18.932 Việt NamD. So với tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 17/3 tăng thêm 388 đồng/USD (tương ứng tăng +2,09%). Quyết định điều chỉnh tỷ giá trong bối cảnh lạm phát đang được kiểm soát là một bước đi nhạy bén nhằm hạn chế hiệu ứng tăng giá do điều chỉnh tỷ giá gây ra. Chỉ số CPI từ tháng 3 (sau khi điều chỉnh tỷ giá vào tháng 2 với mức tăng +3,36%) đến nay cho thấy hiệu ứng tăng giá do điều chỉnh tỷ giá là không lớn, do vậy, việc điều chỉnh tỷ giá lần này sẽ không tác động lớn tới CPI. Điều chỉnh tỷ giá 2 lần trong năm 2010 cho thấy NHNN đã điều hành chính sách tỷ giá dựa vào “tín hiệu thị trường”, đây là cách tiếp cận linh hoạt trong một lộ trình tiến tới sử dụng các công cụ thị trường trong điều hành chính sách tiền tệ. Với 2 lần điều chỉnh tỷ giá +5,39% trong năm 2010, Việt NamD đã dần tiếp cận gần tới sức mua thực so với USD, điều này cũng có nghĩa sẽ tạo động lực khuyến khích xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước vào những tháng cuối năm, khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp và dòng kiều hối chuyển về Việt Nam trong thời gian tới. Những dòng tiền này sẽ đóng góp một phần không nhỏ vào cân đối ngoại tệ của Việt Nam. Kết luận: Sự thường xuyên biến động trên thị trường ngoại hối trong bối cảnh nới lỏng các quy định về giao dịch vốn là điều dễ hiểu bởi quy luật bộ ba bất khả thi cho thấy không thể đồng thời đạt được 3 mục tiêu: (i) tự do hoá giao dịch vốn; (ii) điều hành chính sách tiền tệ độc lập; và (iii) ổn định tỷ giá. Trong khi đó, Luật NHNN năm 1997 và Luật NHNN sửa đổi đều quy định mục tiêu điều hành của NHNN là tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại đồng tiền, khuyến khích xuất khẩu. Điều này cho thấy NHNN phải đạt được cùng một lúc rất nhiều mục tiêu và đôi khi các mục là xung đột, không thể đạt được cùng một lúc, đặc biệt khi hội nhập kinh tế toàn cầu và nới lỏng dần các qui định về giao dịch vốn. Thực ra đây chính là nghịch lý mà Ngân hàng Nhà nước đã tạo ra. Khi làm như vậy, như đã phân tích ở trên, đồng tiền chảy vào không được đưa vào đầu tư mà lại cất trong két không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế và theo thời gian sẽ không lấy gì trả được cho các nhà đầu tư nước ngoài. Về dài hạn chính sách như vậy sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. IV. Khuyến nghị cho Việt Nam Dựa vào thực tế Việt Nam hiện nay cũng như triển vọng của kinh tế Việt Nam, chúng tôi đưa ra 3 kịch bản cho kinh tế Việt Nam: Thứ nhất, Việt Nam sẽ theo hướng của Trung Quốc, tức là kiểm soát chặt chẽ tài khoản vốn để tránh những rủi ro vốn có của những nước có thị trường mới nổi. Đây là kịch bản có lẽ nhiều người cho rằng khả thi nhất, khi mà Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng về chính trị cũng như tình hình kinh tế hiện nay. Có lẽ, Việt Nam cũng sẽ chọn con đường này. Tuy nhiên, về lâu dài, xu hướng tự do hóa tài khoản vốn là một xu hướng của thế giới. Khi mà một quốc gia khả năng sản xuất là giới hạn và họ cần nguồn vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế đất nước. Ngay cả những nước đã phát triển như Hoa Kỳ, họ cũng cần đầu tư từ bên ngoài để bù đắp cho khoản thâm hụt khổng lồ cán cân thương mại của họ. Đó là ngắn hạn, như đã nói, nhưng về lâu dài, Việt Nam cần có hướng đi riêng cho mình, khi mà tương quan kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc là quá chênh lệch về dân số, thị trường lẫn tiếng nói trên trường quốc tế. Kịch bản 2: Việt Nam sẽ làm như Nhật. Tức là, Việt Nam sẽ để tỷ giá thả nổi. Sau 2 chế độ tỷ giá cố định là Gold Standard và hệ thống Bretton Woods sụp đổ, xu hướng chung của thế giới là để cho tỷ giá linh hoạt, tùy vào từng quốc gia sẽ có những mức độ linh hoạt khác nhau. Hiện nay, việc Việt Nam chọn tỷ giá "thả nổi có quản lý" (mà thực chất là ổn định tỷ giá trong một biên độ dao động cho phép so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng) là nhằm tạo sự ổn định cho xuất nhập khẩu. Nhưng XNK của chúng ta có quá nhiều điều rủi ro nếu chịu áp lực tỷ giá, nếu nhìn vào cơ cấu hàng XNK như hiện nay. Giải pháp lâu dài là tăng trưởng Việt Nam đừng quá dựa vào XK hàng nông sản và nguyên liệu thô như hiện nay mà hãy cơ cấu lại sản phẩm XNK. Khi đó, việc dòng vốn FPI ồ ạt đổ vào thì tình hình biến động tỷ giá cũng không làm ảnh hưởng đến XNK quá nhiều. Một quốc gia có sự ổn định về chính sách tiền tệ, luồng vốn đầu tư nhiều để phát triển kinh tế và không sợ rủi ro về biến động tỷ giá, đó là hướng đi tích cực cho Việt Nam. Kịch bản 3: hướng theo Hong Kong. Đây là kịch bản được đánh giá ít xảy ra nhất. Điều đó chỉ thành hiện thực khi Đông Nam Á trở thành một Liên minh châu Âu thứ hai. Đó chỉ là những suy nghĩ chủ quan của chúng tôi. Việc Việt Nam theo hướng nào là tùy vào các nhà hoạch định chính sách. Một ý kiến nữa về việc Việt Nam sẽ theo hướng Trung Quốc đó là do cùng hệ tư tưởng (chúng tôi đồng ý kinh tế và chính trị cũng có những mối liên hệ lẫn nhau). Song nếu tìm giải pháp tích cực hơn cho kinh tế Việt Nam, thì chúng tôi nghĩ Việt Nam nên đi theo con đường Nhật Bản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChâu Á đương đầu với Bộ ba bất khả thi.doc
Luận văn liên quan